|
Chương
XVII
-ooOoo-
Phẩm Ba Mươi
Kệ
(CCLVIII) Phussa
(Thera. 87)
Trong thời đức Phật
hiện tại, ngài sanh làm con một vị vua trị
vì một tỉnh, được đặt tên
là Phussa, và được giáo dục
trong mọi tài năng của thanh niên hoàng
tộc. Nhưng ngài có tâm hướng khác
thường, không thiên về thế tục, nên
khi nghe một vị Trưởng lão thuyết pháp,
ngài khởi lòng tin và xuất gia. Tu tập
thiền định, ngài phát triển thiền quán
và sau một thời gian, chứng được
sáu thắng trí.
Một hôm, một ẩn sĩ
tên Pandara-gotta nghe ngài thuyết pháp, thấy
xung quanh có một số Tỷ-kheo giới đức
nghiêm minh, tu tập, chế ngự thân và tâm,
vị ẩn sĩ suy nghĩ: 'Hệ thống này thật
đáng tin tưởng, mong rằng hệ thống
này được tồn tại!'. Rồi vị
ấy hỏi ngài về tương lai sự tiến
bộ các Tỷ-kheo như thế nào? Ngài trả
lời với những bài kệ như sau, riêng bài
kệ 949 do các nhà kiết tập đặt thêm
vào:
949. ẩn sĩ Pan-đa-ra,
Thấy nhiều vị thành tín,
Tự ngã có tu tập,
Khéo hộ trì chế ngự
Ngài mới đặt câu
hỏi,
Với vị tên Phussa.
950. Trong thời gian tương
lai,
Sẽ có ước muốn
gì?
Sẽ có chí nguyện gì?
Sẽ có cử chỉ gì?
Mong ngài hãy trả lời,
Câu hỏi của chúng
tôi.
951. ẩn sĩ Pan-đa-ra,
Hãy nghe lời ta nói,
Hãy thọ trì cẩn thận,
Ta sẽ nói tương lai.
952. Phẫn nộ và hiềm hận,
Che đậy và cứng
đầu,
Nhiều lừa đảo ganh tị,
Tương lai nhiều loại vậy,
953. Họ tự cho có trí,
Pháp sâu, chỉ đến
bờ,
Họ khinh nhờn Chánh pháp,
Họ không kính trọng nhau.
954. Nhiều nguy hiểm ở đời,
Sẽ xảy ra tương lai,
Pháp được khéo
giảng này,
Kẻ ngu làm uế nhiễm.
955. Trong Tăng chúng, những
vị,
Có đức hạnh hạ
liệt,
Họ thường hay tuyên bố,
Có tự tín, không
sợ,
Kẻ không học, lắm lời,
Sẽ đứng vào thế
mạnh.
956. Trong Tăng chúng, những
vị,
Có giới hạnh tốt
đẹp,
Khi họ có tuyên bố,
Tuyên bố đúng
sự thật,
Họ thường ở thể yếu,
Hổ thẹn thiếu nhiệt thành.
957. Bạc, vàng và đồng
ruộng,,
Ðất đai, dê và
cừu,
Nô tỳ nữ và trai,
Kẻ ngu si vô trí,
Sẽ thâu nhận tất
cả,
Trong tương lai là vậy.
958. Kẻ ngu dễ nóng giận,
Không định tĩnh trong
giới,
Kiêu ngạo, đi đó
đây,
Như thú ưa đánh
nhau.
959. Họ trở thành tháo
động,
Thường đắp y màu
xanh,
Lừa đảo và ngoan
cố,
Lắm mồm, ăn nói
giả,
Họ bắt chước giả bộ,
Như bậc Thánh thời
xưa.
960. Với tóc bôi dầu
láng,
Dao động, mắt vẽ xanh,
Ðắp y màu trắng
ngà,
Họ qua lại trên đường.
961. Y vàng được khéo
nhuộm,
Lá cờ bậc La-hán,
Ðược các bậc
giải thoát,
Ðắp mang không nhàm
chán,
Còn họ chán y vàng,
Ái luyến đắp màu
trắng.
962. Họ trở thành tham lợi,
Biếng nhác, ít tinh cần,
Khó sống rừng hoang
vu,
Thích sống gần xóm
làng.
963. Những ai sợ được
lợi,
Luôn luôn ưa tà mạng,
Họ học đòi người
ấy,
Thân cận, không tự
chế.
964. Những ai không được
lợi,
Họ không trọng không kính,
Bậc khả kính, Hiền trí,
Họ không có thân cận.
965. Khinh cờ hiệu của mình,
Ưa thích màu ngoại
sắc,
Có kẻ mang y trắng,
Lá cờ hiệu ngoại đạo.
966. Không kính y màu
vàng,
Thời ấy họ là vậy,
Chờ đợi màu y vàng,
Không phải của Tỷ-kheo.
967. Bị đau khổ chinh phục,
Bị quặn đau tên đâm,
Chờ đợi đại
khủng bố.
Voi ta không nghĩ nghì.
968. Khi bậc sáu ngà thấy,
Cờ La-hán khéo nhuộm,
Voi nói lên những kệ,
Liên hệ đến mục đích.
969. Ai sẽ mặc cà-sa,
Tâm chưa rời uế trược,
Không tự chế, không thực,
Không xứng áo cà-sa.
970. Ai rời bỏ uế trược,
Khéo định trong giới
luật,
Tự nhiếp phục chơn thực,
Thật xứng áo cà-sa.
971. Phá giới, trí hạ
liệt,
Không tự chế, tham dục,
Tâm loạn, thiếu phấn chấn,
Không xứng áo cà-sa.
972. Ai đầy đủ
giới hạnh,
Ly tham, có định tĩnh,
Tâm tư thật trinh bạch,
Vị ấy xứng áo
cà-sa.
973. Ai kiêu ngạo phóng
đảng,
Ngu si, không giới hạnh,
Xứng đáng mặc áo
trắng,
Làm gì có cà-sa.
974. Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ni,
Tâm uế, không tin kính,
Tương lai sẽ ức hiếp,
Ðối vị có tâm
từ.
975. Kẻ ngu mang y áo,
Dầu được Trưởng
lão dạy,
Liệt trí sẽ không nghe,
Không tự chế, tham dục.
976. Kẻ ngu dầu dạy vậy,
Không có kính trọng nhau,
Sẽ không có vâng
lời,
Lời dạy giáo thọ sư,
Giống như ngựa bất
kham,
Ðối với người
đánh xe.
977. Như vậy, thời tương
lai,
Hành tung sẽ là vậy.
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ni,
Khí thời tối hậu
đến,
Hãy ôn hòa thân
ái,
Hãy cung kính lẫn nhau.
978. Ðại nạn ấy
chưa đến,
Trước khi đại nạn
đến,
Hãy ôn hòa thân
ái,
Hãy cung kính lẫn nhau.
979. Hãy có tâm từ
bi,
Khéo chế ngự trong giới,
Chuyên tinh tấn nỗ lực,
Thường kiên trì phấn
chấn.
980. Thấy nguy hiểm phóng dật,
Không phóng dật an ổn,
Hãy tu Tám Thánh đạo,
Giác chứng đạo
bất tử.
Như vậy vị Trưởng lão
nói với Tăng chúng của mình. Các
bài kệ này là lời nói chánh trí
của ngài.
(CCLIX) Sàriputta
(Thera. 89)
Ðời của ngài và
đời của Moggallàna gắn liền với
nhau. Trong thời đức Phật tại thế, Sàriputta
sanh tại thành Upatissa, không xa Vương
Xá (Ràjagaha) bao nhiêu, mẹ là Rùpasàri;
còn Moggallàna sanh ở thành Kolita,
không xa thành Vương Xá (Ràjagaha)
bao nhiêu, mẹ là Moggali. Vì cả hai
là con của vị gia trưởng nên được
đặt tên là Upatissa và Kolita.
Cả hai đứa trẻ được nuôi
dưỡng trong giàu sang và thiện xảo mọi khả
năng.Trong một hội chợ lớn ở Vương
Xá (Ràjagaha) vì tâm tư thuần
thục, cả hai đều thấy tất cả quần
chúng hội một trăm năm sau, sẽ bị
thần chết mang đi, nên cả hai lo âu đi
tìm con đường giải thoát. Cả hai
xuất gia dưới sự chỉ đạo của
Sanjaya, hẹn nhau ai chứng quả bất tử
trước, sẽ nói cho người kia biết.
Dưới sự chỉ đạo
của Sanjaya, cả hai không tìm được
đạo giải thoát, và sau khi tìm hỏi
các Sa-môn, Bà-la-môn gặp được
Assajì và nhờ Assajì, gặp được
Thế Tôn, cả hai đều xin xuất gia và được
đức Phật độ cho làm Tỷ-kheo với
câu: 'Thiện lai Tỷ-kheo'.
Chứng được quả Dự
lưu nhờ Assajì tóm tắt câu kệ,
Moggallàna, bảy ngày sau khi xuất gia,
tại làng Kallavàla ở Magadha, sau
khi nhiếp phục được hôn trầm thụy
miên, nhờ lời Thế Tôn khích lệ, sau khi nghe
lời dạy về tu các giới, chứng được
quả A-la-hán. Còn Sàriputta, nửa
tháng sau khi xuất gia khi ở cùng đức
Bổn Sư tại hang Sukarakhata ở Vương
Xá (Ràjagaha) cũng được chứng
quả A-la-hán. Về sau, tại Jetavana Thế Tôn
xác chứng Sàriputta là đệ tử
đệ nhất về trí tuệ và thiền quán, và
Sàriputta sau khi được tôn làm
nguyên soái Chánh pháp, một hôm nói
lên chánh trí của mình, trước
các đệ tử:
981. Ai tùy theo năng
lực,
Có giới, tịnh, chánh
niệm
Không phóng dật hành
trì,
Sở hành đúng tư
duy,
Thích hướng nội, khéo
định,
Ðơn độc, biết tri
túc,
Với sở hành như vậy,
Vị ấy gọi Tỷ-kheo.
982. Ăn đồ ướt hay
khô,
Không ăn quá thỏa
mãn,
Bụng trống, ăn tiết độ,
Tỷ-kheo trú chánh niệm.
983. Ăn bốn, năm miếng xong,
Rồi hãy uống nước
uống,
Thật đủ trú thoải
mái,
Với Tỷ-kheo tinh cần.
984. Nhận lấy đồ
hợp pháp,
Y áo đáp nhu cầu,
Thật đủ trú thoải
mái,
Với Tỷ-kheo tinh cần.
985. Khi ngồi thế kiết-già,
Ðầu gối phải mưa
ướt,
Thật đủ trú thoải
mái,
Với Tỷ-kheo tinh cần.
986. Ai xem lạc là khổ,
Ai xem khổ như tên,
Ðứng chặn giữa cả
hai,
Do đâu, đời nắm
được?
987. Không cho ta ác dục,
Biếng nhác tinh cần kém,
Ít nghe, không tín kính,
Do đâu, đời nắm
được?
988. Nghe nhiều, có hiền trí,
Khéo định tĩnh trong
giới,
Chuyên chú an chỉ tâm,
Hãy đứng lên trên
đầu.
989. Ai chuyên tâm hý luận,
Như thú ưa hý luận,
Rơi khỏi, trật Niết-bàn,
Vô thượng, thoát khổ
ách.
990. Ai từ bỏ hý luận,
Thích đạo phi hý luận,
Ði đến được
Niết-bàn,
Vô thượng, thoát khổ
ách.
Rồi vị Trưởng lão,
một hôm thấy được chỗ ở của
người em Revata (XLII, CCXLIV) đang ở, một
khu rừng không nước đầy gai góc,
ngài tán thán người em và nói:
991. Tại làng hay trong
rừng,
Thung lũng hay đồi cao,
Chỗ nào La-hán trú,
Ðất ấy thật khả
ái.
992. Khả ái thay núi rừng,
Chỗ người phàm không
ưa,
Vị ly tham sẽ thích,
Vì không tìm dục
lạc.
Rồi vị Trưởng lão,với
lòng từ mẫn đối với Ràdha
một Bà-la-môn bất hạnh, giúp
Ràdha xuất gia tu hành. Về sau, khi đang
du hành, ngài khích lệ Ràdha, bằng
lòng với cử chỉ khiêm tốn của
Ràdha:
993. Như người chỉ
của chôn,
Cũng vậy, người thấy
lỗi,
Nói điều người trí
trách,
Hãy gần người trí
vậy.
Thân cận người như
vậy,
Chỉ tốt hơn, không
xấu.
Một hôm, bậc Ðạo Sư
không đi đến để giải tán nhóm
Tăng chúng của Assaji-Runabbasu được
tổ chức ở đồi Kità, Sàriputta
được cử đi cùng với Moggallàna
và các đệ tử của mình. Khi lời
khuyên của Sàriputta không được
nghe theo, ngài nói như sau:
994. Cần phải khuyên,
phải dạy,
Phải ngăn chặn bất
thiện,
Làm vậy, người thiện
thương,
Người bất thiện không
ưa.
Khi các Tỷ-kheo nói rằng chính
du sĩ Dìghanakha, được Thế Tôn
giảng dạy, được sửa soạn bởi
hành động quá khứ, có thể làm
nhiệm vụ ấy, Sàriputta can thiệp, nói
rằng không phải:
995. Thế Tôn, bậc có
mắt,
Thuyết pháp cho người khác,
Khi pháp được thuyết
giảng,
Ta lắng tai nhiệt tình.
996. Ta nghe, không uổng phí,
Giải thoát không lậu
hoặc,
Không cần biết đời
trước,
Không cần được
thiên nhãn.
997. Ta không có phát
nguyện,
Chứng được tha tâm
thông,
Biết chúng sanh sống chết,
Hay nhĩ giới thanh tịnh.
Ba câu kệ tiếp được nói
lên về ngài, khi Sàriputta trú ở
tinh xá hang bồ câu, không có bị
thương khi bị quỷ Dạ-xoa đánh:
998. Ngồi dưới một
gốc cây,
Ðầu trọc, đắp
đại y,
Trưởng lão tuệ đệ
nhất,
U-pa-tis tu thiền.
999. Ðầy đủ thiền
vô tầm
Ðệ tử bậc Chánh
giác,
Với im lặng bậc Thánh,
Ngay lúc ấy, đạt
được
1000. Giống như ngọn núi
đá,
Không động, khéo
vững trú,
Cũng vậy, vị Tỷ-kheo,
Ðã đoạn diệt si
ám,
Vị ấy như ngọn núi,
Không có bị dao động.
Một hôm, bậc Trưởng lão
không chú tâm, để tấm y rơi xuống.
Một Sa-di nói: 'Thưa Tôn giả y cần phải
đắp xung quanh thân mình'. Tôn giả
tán thán lời nói của người Sa-di
và đắp lại tấm y trên thân.
Và nói lên điều lỗi của mình, ngài
nói bài kệ:
1001. Người không
có uế nhiễm,
Luôn tầm cầu thanh tịnh,
Ác nhẹ như đầu
lông,
Xem nặng như mây trời.
Rồi ngài nêu rõ sự
xả ly của ngài đối với vấn
đề sống chết.
1002. Ta không hoan hỷ chết,
Ta không hoan hỷ sống,
Ta sẽ bỏ thân này,
Tỉnh giác và chánh
niệm.
1003. Ta không hoan hỷ chết,
Ta không hoan hỷ sống,
Ta sẽ bỏ thân này,
Như thợ làm việc xong.
Rồi khi thuyết pháp, ngài nói
lên những bài kệ:
1004. Cả hai chết, không
chết,
Sau đời hay trước đời,
Hãy dấn thân tiến bước,
Chớ để hư, uổng phí,
Dầu một khắc, sát-na,
Chớ để uổng phí qua.
1005. Như ngôi thành biên
địa,
Ðược bảo vệ trong ngoài,
Như vậy, hộ tự ngã,
Chớ để phí sát-na,
Sát-na qua, sầu muộn,
Chịu khổ trong địa
ngục.
Rồi một hôm, thấy Tôn
giả MahaKotthita, ngài nói lên ba câu
kệ, tán thán khả năng tốt đẹp
của MahàKotthita.
1006. Ðạt tịch
tịnh, chỉ tức,
Ðọc chú, không cống
cao,
Quét sạch các ác
pháp,
Như gió quét lá
cây.
1007. Ðạt tịch tịnh,
chỉ tức,
Ðọc chú, không cống
cao,
Gạt ngoài các ác
pháp,
Như gió quét lá
cây.
1008. Ðạt tịch tịnh
an lặng,
Ý trong sáng không nhiễm,
Bậc trì giới trọn lành,
Có thể dứt đau khổ.
Câu kệ tiếp nói về các Tỷ-kheo
xứ Vajjì tin tưởng ở Devadatta và
chấp nhận giáo lý của Devadatta:
1009. Có người không
ai tin,
Tại gia hay xuất gia,
Những ai trước là tốt,
Về sau trở thành xấu,
Hoặc trước là người
xấu.
Sau trở thành người tốt.
1010. Hạng Tỷ-kheo tham dục,
Sống hôn trầm thụy
miên,
Trạo cử và nghi ngờ,
Tâm đủ năm phiền não.
1011.Với ai, đối cả
hai,
Ðược trọng, không được
trọng,
Thiền định, không dao động,
An trú không phóng dật.
1012. Thiền tư luôn kiên trì,
Tuệ quán, kiến tế nhị,
Ưa thích chấp thủ diệt,
Vị ấy gọi chân nhân.
Ðể phân biệt sự sai khác,
lấy Bổn Sư và mình làm thí
dụ, ngài nói lên những bài kệ như
sau:
1013. Biển lớn và đất
lớn,
Núi và các phương
trời,
Không ví dụ sánh
được,
Phật, giải thoát thù
thắng.
1014. Trưởng lão chuyển pháp
luân,
Bậc đại trí, thiền
định,
Như đất, nước
và lửa,
Không tham không ghét
bỏ.
1015. Ðạt được
tuệ tối thắng,
Ðại giác, đại
Mâu-ni,
Không chậm, tỏ chậm
chạp
Thường sống thật thanh
lương.
Ðể nêu rõ bổn phận
của ngài đã làm xong, ngài nói:
1016. Ta hầu hạ Bổn
Sư,
Lời Phật dạy làm
xong,
Gánh nặng đã đặt
xuống,
Gốc sanh hữu nhổ sạch.
Và khi ngài sắp nhận Niết-bàn,
ngài giảng dạy các Tỷ-kheo đang họp xung
quanh ngài như sau:
1017. Tinh cần, chớ phóng
dật,
Ðây lời giáo huấn
ta!
Ta sẽ nhập Niết-bàn,
Ta thoát mọi sanh y.
(XXLX) Ananda
(Thera. 91)
Trong thời đức Phật
tại thế, ngài sanh trong gia đình Thích-ca
Amitedana. Vì các bà con nói ngài
sanh đem hoan hỷ cho gia đình, nên được
đặt tên là Ananda (Khánh Hỷ). Khi
lớn lên, các sự kiện xuất gia, giác
ngộ, chuyển Pháp luân được diễn
ra, và sau khi Thế Tôn viếng thăm Kapilavatthu,
ngài xuất gia với Bhaddiya và các
người khác và được Thế Tôn
thế độ cho. Sau khi nghe bài thuyết pháp của
Punna Mantàni, ngài chứng được
Sơ quả.
Trong hai mươi năm đầu,
Thế Tôn không có thị giả riêng, khi
thì Nàgasamàla, khi thì Nàgita,
khi thì Upavàna, Sunakkhatta, Sa-di Cunda,
Sàgata, Meghiya. Thế Tôn không có lựa
chọn ai làm thị giả đặc biệt. Sau Thế Tôn
khi đã năm mươi sáu tuổi, gợi
ý muốn có một thị giả thường trực,
có Tỷ-kheo đề nghị Ananda và Ananda
chỉ nhận lời nếu Thế Tôn chịu từ
chối bốn việc và chấp nhận bốn
việc. Từ chối không cho Ananda, y, đồ
ăn, một phòng riêng và mời ăn,
vì nếu không từ chối thời Ananda bị
hiểu lầm là hầu hạ Thế Tôn để được
y, đồ ăn khất thực, phòng xá
và mời ăn. Chấp nhận cho Ananda bốn
việc là nếu Ananda được mời ăn,
Thế Tôn bằng lòng đi dự; Thế Tôn
bằng lòng gặp những người từ xa
đi đến và do Ananda giới thiệu; Thế Tôn
chấp nhận cho Ananda yết kiến nếu Ananda gặp
phân vân khó xử; Thế Tôn sẽ giảng
lại những giáo lý ngài dạy khi Ananda
vắng mặt. Nếu Thế Tôn không chấp nhận
bốn điều này, thời sự hầu hạ
của Ananda không đem lại thiện quả
gì. Thế Tôn chấp nhận điều Ananda yêu
cầu.
Từ hôm ấy, Ananda hầu
hạ Thế Tôn, đem nước, đem tăm
xỉa răng, rửa chân, đi theo Thế Tôn,
quét phòng cho Thế Tôn. Ban ngày, Ananda
ở một bên đức Phật, nhắc
nhở những điều cần làm; ban đêm
cầm đèn và gậy. Ananda đi
xung quanh phòng đức Phật sẵn sàng
đáp ứng nếu Thế Tôn có gọi. Thế Tôn
tại Jetavana, xác chứng Ananda là
vị Tỷ-kheo đệ nhất về năm phương diện:
Ða văn, tâm tư cảnh giác, sức
mạnh đi bộ, lòng kiên trì và
sự hầu hạ chu đáo. Như vậy,
Ananda sau khi Thế Tôn nhập diệt vẫn chưa
chứng quả A-la-hán, và đêm trước
khi kỳ kiết tập thứ nhất được
tổ chức, ngài phát tâm tinh cần tinh
tấn, thiền quán suốt đêm, trong mái
hiên nhưng chưa có hiệu quả. Rồi ngài
vào phòng ngồi trên giường, muốn
nằm xuống và khi đầu chưa đụng
chiếc gối, chân chưa rời khỏi đất,
trong khoảng thời gian ấy, ngài chứng được
quả A-la-hán. Rồi ngài bước vào
phòng kiết tập.
Các câu kệ của ngài
được góp thâu lại và để
vào trong tập Trưởng lão Tăng Kệ, khi
Khuddaka Nikàya (Tiểu bộ kinh) được
tụng đọc.
Những bài kệ đầu được
nói lên, khi ngài khuyên các Tỷ-kheo thường
thân cận với kẻ theo Devadatta:
1018. Hai lưỡi và
phẫn nộ,
Xan tham, thích phá hoại,
Bậc trí không giao du,
Kẻ ác bạn kẻ xấu.
1019. Với bậc tin, dễ thương,
Vói bậc trí, nghe nhiều,
Bậc Hiền trí, giao du,
Kẻ thiện bạn chân nhân.
Các bài kệ sau được
nói lên khi nữ cư sĩ Uttarà,
vì nàng đẹp nên thiên về dục
vọng và được nói lên để nàng
thấy sự mỏng manh của thân nàng.
Có người nói các bài kệ này
nói lên cho những ai đắm say Ambapàli:
1020. Hãy xem bóng
trang sức,
Nhóm vết thương tích
tụ,
Bệnh hoạn nhiều tham tưởng,
Nhưng không gì trường
cửu.
1021. Hãy nhìn sắc trang
sức,
Với châu báu vòng
tai,
Bộ xương, da bao phủ
Sáng chói nhờ y phục.
Hai câu kệ tiếp được vị
Trưởng lão nói lên khi chứng quả
A-la-hán, đêm ấy trên giường
của mình:
1022. Nghe nhiều, diễn thuyết
giỏi,
Thị giả bậc Giác
giả,
Gánh nặng đã đặt
xuống,
Ràng buộc được
thoát ly,
Bậc họ Gotama,
Ðặt lưng nằm xuống
nghỉ.
1023. Các lậu hoặc đoạn
tận,
Ràng buộc được
thoát ly,
Mọi chấp trước vượt
qua,
Khéo đạt được
thanh lương,
Gánh vác thân cuối
cùng,
Ðến bờ kia sanh tử.
1024. Pháp an trú trong ấy,
Phật bà con mặt trời,
Trên đường đến
Niết-bàn
Gotama an trú.
Một hôm Moggallàna người
chăn bò, hỏi ngài lời dạy của
đức Phật là gì, có bao nhiêu
giáo lý tất cả. Vị Trưởng lão
trả lời:
1025. Ta nhận từ đức
Phật,
Tám mươi hai ngàn
pháp,
Còn nhận từ Tỷ-kheo,
Thêm hai ngàn pháp nữa,
Tổng cộng tám tư ngàn,
Là pháp ta chuyển vận.
Một hôm, vị Trưởng lão
nói cho một người sống bê tha phóng
đãng sự nguy hiểm của một đời
sống không giáo dục văn hóa:
1026. Người ít nghe
ít học,
Lớn già như con bò,
Những thịt nó lớn
lên,
Trí tuệ nó không lớn.
Những bài kệ tiếp nói cho vị
Tỷ-kheo khinh khi những người ít học thua mình:
1027. Người học nhiều khinh
miệt,
Kẻ học ít về học,
Như người mù mang đèn,
Ta có ý là vậy.
1028. Hãy kính người
nghe nhiều,
Chớ hại điều sở học,
Ðấy cội gốc Phạm
hạnh,
Do vậy, hãy trì pháp.
1029. Biết câu trước câu
sau,
Biết nghĩa, giỏi từ cú,
Nắm giữ điều khéo
nắm,
Suy tìm trên nghĩa lý.
1030. Chính nhờ đức
kham nhẫn,
Sở nguyện được tác
thành,
Sau khi đã tinh tấn,
Vị ấy lại cân nhắc,
Ðúng thời, ra nỗ lực,
Nội tâm khéo định
tĩnh.
1031. Nghe nhiều, thọ trì pháp
Có tuệ, đệ tử Phật,
Chờ đợi thức tri pháp,
Nên thân cận vị ấy.
1032. Nghe nhiều thọ trì pháp,
Hộ tạng Ðại ẩn
sĩ,
Cặp mắt, toàn thế giới,
Hãy lễ vị nghe nhiều.
1033. Ưa pháp, vui thích
pháp,
Luôn suy tư Chánh pháp,
Tỷ-kheo nhớ niệm pháp,
Diệu pháp không tổn giảm.
Một hôm, ngài đốc
thúc vị Tỷ-kheo dao động, biếng nhác như
sau:
1034. Thân ích kỷ nặng
chăng,
Không có ưa hoạt
động,
Thời gian mòn mỏi qua,
Không thể đứng dậy
sao?
Tham đắm theo thân lạc,
Từ đâu, Sa-môn
lạc?
Những câu kệ sau, Trưởng lão
Ananda đọc lên khi nghe tin Sàriputta mệnh
chung:
1035. Mọi phương đều
mờ mịt,
Pháp không khỏi nơi
ta,
Người bạn tốt đã
đi,
Tối tăm lan tràn khắp.
1036. Người bạn đã
đi qua,
Ðạo Sư đã
đi qua,
Bạn như vậy không
còn,
Như quán thân hành
niệm.
1037. Các vị xưa đã
qua,
Vị mới ta không hạp,
Nay một mình ta thiền,
Như chim, khi mưa đến.
Câu kệ tiếp là của bậc
Ðạo Sư. Câu tiếp là của Ananda,
hoan hỷ làm theo lời vị Ðạo Sư:
1038. Từ các địa
phương khác,
Nhiều người yết kiến Ta,
Chớ ngăn họ nghe pháp,
Nay thời họ gặp Ta.
1039. Từ các địa
phương khác,
Quần chúng đến yết kiến,
Bổn Sư cho họ dịp,
Ðể được yết kiến Ngài;
Bậc có mắt không
có,
Từ chối ngăn chận
ai.
Năm câu kệ tiếp nêu rõ
ngài là bậc thị giả đệ nhất:
1040. Trải hai mươi
lăm năm
Ta chỉ là hữu học,
Dục tưởng không khởi
lên,
Hãy xem pháp, pháp tánh.
1041. Trải hai mươi lăm
năm,
Ta chỉ là hữu học,
Sân tưởng không khởi
lên,
Hãy xem pháp, pháp tánh.
1042. Trải hai mươi lăm
năm,
Ta hầu hạ Thế Tôn,
Với thân nghiệp từ hòa,
Như bóng không rời
hình.
1043. Trải hai mươi lăm
năm
Ta hầu hạ Thế Tôn,
Với khẩu nghiệp từ hòa,
Như bóng không rời
hình.
1044. Trải hai mươi lăm
năm,
Ta hầu hạ Thế Tôn,
Với ý nghiệp từ hòa,
Như bóng không rời
hình.
1045. Khi đức Phật kinh
hành,
Ta đi theo sau lưng,
Khi pháp được thuyết
giảng,
Trí khởi lên nơi ta.
1046. Ta vẫn còn là người,
Có việc cần phải làm,
Ta chỉ là hữu học,
Tâm ý chưa chứng đạt,
Ðạo Sư nhập Niết-bàn,
Ai sẽ từ mẫn ta.
1047. Như vậy thật khủng
khiếp
Như vậy thật kinh hoàng,
Khi bậc toàn tuyệt hảo,
Bậc Giác ngộ Niết-bàn.
Ba câu kệ tiếp, do các vị dự
kỳ kiết tập thêm vào để tán thán
Trưởng lão Ananda:
1048. Nghe nhiều, thọ trì
pháp,
Hộ tạng Ðại ẩn
sĩ,
Cặp mắt toàn thế giới,
Anan nhập Niết-bàn.
1049. Nghe nhiều, thọ trì pháp,
Hộ tạng Ðại ẩn
sĩ,
Cặp mắt toàn thế giới
Ðoạn ám chỗ tối
tăm.
1050. Ngài là bậc ẩn
sĩ,
Với hành vị tuyệt hảo,
Với chánh niệm tuyệt hảo,
Với kiên trì tuyệt hảo,
Thọ trì chân diệu pháp,
Là Trưởng lão A-nan,
Là kho tàng sống động,
Ðầy châu báu ngọc
ngà.
Câu kệ này được Ananda
nói lên khi nằm trên giường, trong
giờ phút cuối cùng:
1051. Ta hầu hạ Bổn
Sư,
Lời Phật dạy làm
xong,
Gánh nặng đã đặt
xuống,
Gốc sanh hữu nhổ sạch.
[ ^ ]
Chương
XVIII
-ooOoo-
Phẩm Bốn Mươi
Kệ
(CCLXI) Mahà-Kassapa
(Thera. 94)
Bậc Ðạo Sư đã
ra đời, đang chuyển pháp luân và
ở tại Ràjagaha (Vương Xá), khi
ấy tại làng Bà-la-môn Mahàtittha
ở Ràjagaha, ngài ra đời tên
Pippali-mànava, con bà vợ chính của
Bà-la-môn Kapila. Pippali-mànava, không
chịu lập gia đình, xin ở nhà để
hầu hạ cha mẹ, sau khi cha mẹ chết, sẽ xuất
gia. Ðể làm cho bà mẹ bằng lòng,
ngài cho làm tượng một thiếu nữ trẻ
đẹp, mặc áo đỏ và đeo
đồng trang sức, và nói với bà
mẹ rằng nếu bà tìm cho được một
thiếu nữ như vậy, ngài sẽ chịu lập
gia đình. Bà mẹ sai các người
Bà-la-môn đem theo tượng ấy và
tìm cho được một thiếu nữ giống
như vậy. Họ đến Sàgala, đặt
tượng trên bờ sông và ngồi xuống
xa bức tượng. Người vú của Bhaddà,
sau khi tắm cho Bhaddà lại xuống sông
tắm cho mình, thấy bức tượng, tưởng
là Bhaddà và nói Bhaddà sao
lại thiếu giáo dục như vậy, đánh
nàng nơi má và biết được đó
không phải là Bhaddà mà chỉ
là một bức tượng bằng vàng. Các
Bà-la-môn được đưa về nhà,
được thấy Bhaddà, nhận Bhaddà
giống như bức tượng và đưa
tin về Kapila. Nhưng cả hai Pippali-mànava và
Bhaddà đều không muốn lập gia đình,
nên cả hai viết thư cho nhau nói rõ quyết
định của mình. Hai người đưa
thư gặp nhau giữa đường, đưa
thư cho nhau coi, đánh tráo hai bức thư
khác, và do vậy đám cưới được
cử hành. Nhưng đêm tân hôn, hai
người nằm cách nhau với một giấy
hoa. Khi cha mẹ mệnh chung, cả hai quyết định cùng
nhau xuất gia.
Hai người cùng mặc áo
vàng, cắt tóc, mang bình bát, trước
cùng đi với nhau, sau thấy bất tiện nên
từ giã nhau, Pippali-mànava đi phía
mặt, Bhaddà đi phía đường
bên phía trái. Trước giới đức
như vậy, quả đất rung động, và
Thế Tôn biết được nguyên nhân nên
ra ngồi giữa đường từ Nalandà
đến Ràjagaha. Gặp Thế Tôn Mahà
Kassapa đảnh lễ Thế Tôn, tôn Thế Tôn
là bậc Thầy, tự nhận mình làm
đệ tử. Cả hai về lại Magadha và Mahà
Kassapa tu tập mười ba hạnh đầu
đà. Ðến ngày thứ tám, ngài
chứng quả A-la-hán. Bậc Ðạo Sư
tuyên dương ngài là đầu đà
thứ nhất. Và ngài nói lên kinh
nghiệm của mình để giáo huấn các
vị Tỷ-kheo.
Thấy các Tỷ-kheo ưa sống
với quần chúng, và hay đến các
nhà cư sĩ, ngài nói:
1052. Chớ du hành đi
đầu,
Do quần chúng tôn xưng,
Tâm ý bị loạn động
Thiền định khó tu chứng,
Quần chúng tụ là
khổ,
Thấy vậy, tránh quần
chúng.
1053. Bậc ẩn sĩ không
đi,
Ði đến các gia đình,
Tâm ý bị loạn động,
Thiền định khó tu chứng,
Ai hăng say tham vị,
Bỏ đích đem an
lạc.
1054. Ðảnh lễ cúng
dường này,
Xuất phát từ gia đình
Nên biết họ thực sự,
Là đám bùn sa
lầy.
Như mũi tên tế nhị
Rất khó rút ra khỏi,
Kẻ xấu rất khó
lòng.
Từ bỏ sự cung kính.
II
Một lời khuyên các Tỷ-kheo
hãy biết đủ với bốn vật dụng
cần thiết:
1055. Từ trú xứ
bước xuống,
Ta vào thành khất thực,
Ta cẩn thận đến gần,
Một người cùi đang
ăn.
1056. Với bàn tay lở loét,
Nó bỏ vào một muỗng,
Khi bỏ vào muỗng ấy,
Ngón tay rời rơi vào.
1057. Dựa vào một chân
tường,
Ta ăn miếng ăn ấy,
Ðang ăn và ăn xong,
Ta không cảm ghê tởm.
1058. Miếng ăn đứng nhận
được
Xem như thuốc tiêu hôi,
Chỗ nằm dưới gốc cây,
Và y từ đống
rác,
Ai thọ dụng chúng được,
Ðược gọi người
bốn phương.
III
Về sau, khi được hỏi,
sao ngài già như vậy, lại có thể
hằng ngày leo lên đồi núi, ngài
trả lời:
1059. Khi họ leo núi đá,
Một số bị mạng chung,
Thừa tự bậc Giác
ngộ
Tỉnh giác và chánh
niệm,
Dựa trên sức thần
lực
Kassapa leo núi.
1060. Ði khất thực trở
về
Ca-diếp leo tảng đá,
Ngồi thiền, không chấp
thủ,
Ðoạn sợ hãi kinh
hoàng.
1061. Ði khất thực trở
về,
Ca-diếp leo tảng đá,
Ngồi thiền, không chấp
thủ,
Ðã đốt cháy,
thanh lương.
1062. Ði khất thực trở
về
Ca-diếp leo tảng đá
Ngồi thiền, không chấp
thủ,
Xong việc, không lậu hoặc.
IV
Sau khi được hỏi thêm,
vì sao khi lớn tuổi ngài vẫn ở trên
núi rừng? Trúc Lâm hay các tịnh
xá không làm cho ngài thích ý chăng?
Ngài trả lời:
1063. Khu đất thật
khả ái,
Với những vòng tràng
hoa,
Hoa tên Ka-rê-ri,
Trải rộng ra cùng khắp,
Với voi rú khả ý,
Ðồi núi ấy ta
thích
1064. Những hồ nước
trong mát,
Tuyệt đẹp, màu mây
xanh,
Che kín bởi loài bọ,
Tên 'kẻ chăn In-đa'
Những ngọn núi đá
ấy,
Làm tâm ta thích thú.
1065. Giống đồi mây
xanh biếc,
Ví tháp đẹp lâu
đài,
Với vượn hú khả
ý,
Ðồi núi ấy, ta
thích.
1066. Ðất bằng thật
khả ái,
Ðược mưa ướt
thấm nhuần,
Ðồi núi được
ẩn sĩ,
Làm thành nơi trú
xứ.
Vang lên tiếng chim công,
Ðồi núi ấy ta
thích.
1067. Vừa đủ ta chánh
niệm,
Hăng hái muốn tu thiền,
Vừa đủ ta Tỷ-kheo
Hăng hái muốn phước
lợi.
1068. Vừa đủ ta Tỷ-kheo,
Hăng hái muốn an lạc,
Vừa đủ ta Tỷ-kheo,
Hăng hái tu Du-già.
1069. Tràn đầy hoa cây
gai,
Như trời phủ làn mây,
Ðầy mọi loài chim chóc,
Ðồi núi ấy ta
thích.
1070. Không đông chúng
gia chủ
Chỗ trú xứ đoàn
thú,
Ðầy mọi loài chim chóc,
Ðồi núi ấy ta
thích.
1071. Dưới tảng đá,
băng đá,
Có nước suối trong
chảy,
Có khỉ và có
nai,
Lai vãng sống gần bên,
Cỏ cây bao trùm nước,
Ðồi núi ấy ta
thích.
1072. Người vậy không
ưa thích,
Cả năm loại nhạc khí,
Khi đã được
nhất tâm,
Chơn chán thiền quán pháp.
V
Khi khuyên bảo các Tỷ-kheo
thích thú các tục sự, và tham
các vật cúng dường cần thiết cho sự
sống, ngài nói:
1073. Chớ làm quá
nhiều việc,
Tránh quần chúng đua
tranh,
Người siêng tham đắm
vị,
Bỏ đích đem an
lạc.
1074. Chớ làm nhiều công
việc,
Tránh việc không lợi này,
Thân cực nhọc mệt mỏi,
Người khổ không an chỉ.
VI
Các câu kệ sau được
nói lên để khuyên bảo trong một vài
trường hợp:
1075. Chỉ lắp bắp
cái môi,
Không thấy được
tự ngã,
Cổ cứng đờ nó
đi,
Nó nghĩ: ta tốt hơn.
1076. Không hơn nghĩ tốt
hơn,
Kẻ ngu nghĩ tự ngã,
Bậc trí không tán
thán,
Người có trí cứng
đờ.
1077. Ta tốt hơn, hay là
Ta không được tốt
hơn,
Hay ta là dở hơn,
Ta cũng tốt như vậy,
Ai không có dao động
Trong các loại mạn này.
1078. Có tuệ, nói như thật,
Khéo định tĩnh trong
giới,
Ðạt được tâm
an chỉ,
Người ấy kẻ trí
khen.
1079. Ai giữa đồng Phạm
hạnh
Không được có
kính trọng,
Vị ấy xa diệu pháp,
Như đất xa bầu
trời.
1080. Những ai có tàm
quý,
Thường chơn chánh an
trú,
Phạm hạnh được
tăng trưởng,
Họ đoạn được
tái sanh.
1081. Tỷ-kheo cống cao động
Dầu đắp y đống
rác,
Như con khỉ đội lốt,
Với da con sư tử,
Người vậy không có
thể,
Chói sáng nhờ y ấy.
1082. Không cống cao, không
động,
Thận trọng, căn chế ngự,
Chói sáng với tấm
y
Ðược lượm từ
đống rác,
Chẳng khác con sư tử,
Trong hang động núi rừng.
VII
Khi thấy chư Phạm thiên
đảnh lễ ngài Sàriputta, và thấy
Trưởng lão Kappina mỉm cười, ngài
nói:
1083. Rất nhiều chư Thiên
này
Có thần thông, lừng
danh,
Cả mười ngàn chư
Thiên,
Tất cả Phạm hạnh
chúng thiên.
1084. Ðứng đảnh
lễ, chấp tay
Ðối ngài Xá-lợi-phất,
Vị tướng quân Chánh
pháp
Sáng suốt, đại
thiền định.
Ðảnh lễ bậc Thượng
sanh,
Ðảnh lễ bậc Tối
thượng.
1085. Dựa vào gì, thiền
tu,
Chúng tôi không thắng
trí.
1086. Kỳ diệu thay chư Phật,
Hành xứ ngài thâm
sâu,
Chúng con không nghĩ được
Dầu chúng con hội đủ
Tài nghệ người bắn
cung,
Có thể chẻ sợi tóc.
1087. Khi thấy Xá-lợi-phất
Xứng đáng được
đảnh lễ,
Ðược Phạm thiên
chúng ấy,
Ðảnh lễ, kính như
vậy,
Tôn giả Kappina,
Liền mỉm cười vui vẻ.
VIII
Trưởng lão Kassapa rống
lên tiếng rống sư tử của mình:
1088. Trong đám ruộng
đệ tử
Những vị theo đức
Phật,
Ngoại trừ bậc Tối
tôn,
Ðại ẩn sĩ Mâu-ni,
Ta ưu việt Ðầu đà.
Không ai bằng ta được.
1089. Ta hầu hạ Bổn Sư,
Lời Phật dạy làm
xong,
Gánh nặng đã đặt
xuống,
Gốc sanh hữu nhổ sạch.
1090. Không nhiễm dính
y phục
Chỗ nằm và đồ ăn,
Không thể trắc lường
được
Là con bậc Gotama!
Như hoa sen trong sạch,
Không thể dính nước
vào,
Ý thiên về xuất ly,
Thoát ly cả ba giới.
1091. Với bậc Ðại
ẩn sĩ,
Cổ dựng trên niệm xứ,
Tay dựa trên đức
tin,
Với đầu là Trí
tuệ
Bậc Ðại trí luôn
luôn,
Hành trì thật thanh lương.
[Phẩm trước][Mục
lục][Phẩm kế][
^ ]
|