|
Phẩm IV
-ooOoo-
Ðỏ sẫm
1. (39) Chuyện thứ
nhất - Lâu Ðài Ðỏ Sẫm (Manjetthaka-Vimàna)
Bấy giờ, đức Thế Tôn
đang trú tại Sàvatthi, trong Kỳ
Viên. Lúc Ngài đang được cúng
dường thực phẩm theo cách được
miêu tả trong Lâu đài trước, một
nữ tỳ của nhà nọ đã lượm
hoa từ cây Sàla đang nở rộ
trong Hắc Lâm, xâu từng chuỗi thành những
bó hoa nhỏ, rồi lượm rất nhiều hoa
quý, những hoa đã rụng, và nàng
đi vào thành.
Nàng thấy đức Thế
Tôn đang an tọa trong ngôi đình, và
với tín tâm, nàng trân trọng cúng
dâng các bó hoa ấy đặt chung quanh
tọa cụ của Ngài, rải thêm các hoa
kia, rồi cung kính đảnh lễ Ngài,
đi vòng quanh Ngài ba lần theo đúng
nghi thức và ra đi.
Về sau nàng từ trần, và
được tái sanh vào cõi trời Ba
mươi ba. Tại đây, một Lâu đài
dành cho nàng được làm bằng pha
lê đỏ, và trước đó là
một rừng Sàla hùng vĩ với mặt đất
được rải cát vàng. Khi Thiên nữ
bước ra khỏi Lâu đài và đi
vào rừng Sàla, các cây hoa rạp
mình xuống và rắc hoa trên thân
nàng.
Tôn giả Mahà Moggallàna
đến gần nàng như đã tả ở
trên, và hỏi nàng:
1. Ðỏ sẫm lầu
cao trải cát vàng,
Kìa nàng Thiên nữ
thật vinh quang,
Nàng đang thưởng
thức đàn hòa tấu,
Năm thứ âm thanh tuyệt
dịu dàng.
2. Nàng bước xuống
lầu lộng lẫy kia
Làm bằng châu ngọc trải
kim sa,
Vào rừng song thọ Sà-la
ấy,
Diễm lệ muôn đời
nở rộ hoa.
3. Dưới từng gốc đại
thọ Sà-la,
Nàng đứng dừng
chân, Thiên nữ kia,
Hùng vĩ cây nghiêng
mình cúi rạp
Trước nàng, rải rắc
cả muôn hoa.
4. Mùi hương của đại
thọ Sà-la,
Lay động theo làn gió
nhẹ đưa,
Chim chóc dập dìu bay
mọi hướng,
Khác nào cây mạn-thù-sa-ka.
5. Nàng thở làn hương
thanh tịnh thay,
Nàng nhìn vẻ đẹp
quý cao này,
Hỡi nàng Thiên nữ,
khi nghe hỏi,
Hãy nói nghiệp gì tạo
quả đây.
Khi được nghe Trưởng lão
hỏi, nàng Thiên nữ ngâm các vần
kệ đáp lời:
6. Thuở được
làm người giữa thế nhân,
Con là nô lệ của nhà
chồng,
Khi nhìn đức Phật
đang an tọa,
Con rải Sa-la để cúng
dâng.
7. Thời ấy tâm đầy
đủ tín thành,
Con dâng lên với chính
tay mình
Phật-đà một chiếc
vòng hoa đẹp
Bằng đám Sà-la
kết thật tinh.
8. Khi đã thực hành
thiện nghiệp xong,
Nghiệp lành đức Phật
tuyên dương,
Nay con thọ hưởng nhiều ân
phước,
Vô bệnh, sô sầu, mãi
lạc an.
2. (40) Chuyện thứ
hai - Lâu Ðài Sáng Chói (Pabhassara-Vimàna)
Bấy giờ, đức Thế Tôn
trú tại Ràjagaha. Thời ấy ở
Ràjagaha có một đệ tử cư sĩ
đầy tín thành đối với Trưởng
lão Mahà-Moggallàna. Một trong hai cô
con gái vị này là một tín nữ
có lòng thành kính đối với
bậc Trưởng lão ấy.
Một hôm Tôn giả Mahà-Moggallàna
đi khất thực trong thành Ràjagaha,
đến tận nhà ấy. Cô gái thấy
Tôn giả, lòng đầy hoan hỷ, bảo sửa
soạn chỗ ngồi, và khi Tôn giả đã
an tọa tại đó, nàng cúng dường
một tràng hoa lài và đổ đầy
mật mía vào bình bát của Trưởng
lão. Tôn giả vẫn ngồi yên vì
muốn nói lời tùy hỷ công đức.
Cô gái tỏ ý rằng nàng không có
thì giờ để nghe Tôn giả vì đang
bận nhiều công việc nhà, và nói:
- Con sẽ xin nghe Pháp vào
một ngày khác.
Rồi nàng cung kính đảnh
lễ vị Trưởng lão và giã từ,
ngay hôm ấy nàng từ trần và tái
sanh vào cõi trời Ba mươi ba. Tôn giả
Mahà Moggallàna đến gần nàng
và hỏi nàng qua các vần kệ này:
1. Thiên nữ dung nhan
đẹp rỡ ràng,
Xiêm y lấp lánh tỏa
hào quang,
Tứ chi bóng loáng chiên-đàn
phấn,
Vĩ đại thay thần
lực của nàng,
Thiên nữ là ai đầy
diễm lệ,
Thấy ta, nàng đảnh
lễ nghiêm trang?
2. Sàng tọa cao sang dát bảo
châu,
Sáng ngời nàng ngự
ở trên lầu,
Hào quang tỏa chiếu như
Thiên chủ
Trong Hỷ lạc Viên chẳng
khác đâu.
3. Ngày trước nàng
tu thiện hạnh nào,
Nghiệp gì, nàng hưởng
quả trời cao,
Hỡi nàng Thiên nữ,
khi nghe hỏi,
Hãy nói quả này
bởi cớ sao?
Ðược Trưởng lão
hỏi như vầy, nàng Thiên nữ giải
thích qua các vần kệ:
4. Tôn giả đi xin
vật cúng dường,
Con dâng mật mía với
hoa tràng,
Ðây là kết quả hành
vi ấy,
Con hưởng thọ thiên giới
lạc an.
5. Song con ân hận mãi
trong tâm,
Vì đã trót gây
việc lỗi lầm,
Tôn giả, con không nghe
Chánh pháp,
Pháp Vương khéo giảng
ở trên trần.
6. Vậy con xin chúc: 'Phước
phần ngài'.
Lân mẫn phần con, bất
cứ ai
Khích lệ con vào trong đạo
lý,
Pháp Vương khéo gỉảng
ở trên đời.
7. Bất cứ ai đầy
đủ tín tâm,
Tin vào đức Phật,
Pháp, Tăng đoàn,
Ðều hơn con hẳn về dung
sắc,
Thọ mạng, hào quang, danh vọng
vang,
Thiên chúng này hơn
con các mặt
Hiển vinh thần lực đại
huy hoàng.
3. (41) Chuyện thứ
ba - Lâu Ðài Trên Con Voi (Nàga-Vimàna)
Bấy giờ, đức Thế Tôn
trú tại Ba-la-nại ở Isipatana (Trú
xứ chư Tiên) trong Vườn Nai. Thời ấy
một đệ tử tại gia, sống ở Ba-la-nại,
là kẻ mộ đạo, đầy tín
tâm, thực hành giới đức, nhờ
người khác dệt một bộ y và giặt thật
sạch để cúng dường đức Thế
Tôn.
Bà đi đến đặt
bộ y dưới chân Ngài và nói như
vầy:
- Bạch Thế Tôn, mong đức
Thế Tôn từ bi nhận bộ y này để con
được hạnh phúc an lạc lâu dài.
Ðức Thế Tôn nhận bộ
y và nhìn thấy các đức tính
đầy đủ của bà, bèn thuyết
pháp cho bà. Lúc kết thúc, bà đắc
quả Dự Lưu, cung kính đảnh lễ
Thế Tôn, đi quanh Ngài một vòng đúng
nghi thức, rồi về nhà.
Chẳng bao lâu sau, bà từ
trần và được tái sanh vào cõi
trời Ba mươi ba, và được Sakka
Thiên chủ sủng ái, đặt danh hiệu
Yasuttarà.
Do uy lực công đức
của Thiên nữ này, một con voi cao quý xuất
hiện được phủ trong tấm lưới bằng
vàng: rồi một chiếc đình bằng bảo
ngọc hiện ra trên lưng voi, bên trong có bảo
tọa bằng ngọc trang hoàng lộng lẫy. Trong đôi
ngà voi có hai hồ sen diễm lệ, rực rỡ
với hoa sen, hoa súng, đồng thời hiện ra.
Tại đó, trên các đài sen,
các tiên nữ cầm năm loại nhạc
cụ đàn ca múa hát.
Ðức Thế Tôn, sau khi đã
ở tại Ba-la-nại một thời gian như ý, liền
khởi hành về phía Sàvatthi. Ðến đó,
Ngài trú trong Kỳ Viên. Bấy giờ Thiên
nữ ấy suy ngẫm về cảnh cực lạc của
nàng và duyên cớ việc kia, liền nhận thấy:
'Việc này là do nhân duyên cúng dường
bậc Ðạo Sư'.
Lòng đầy hoan hỷ, tín
thành và cung kính đối với Ngài,
nàng phi hành qua không gian trên lưng bảo
tượng huy hoàng của nàng khi đêm
đã về khuya, rồi giáng hạ từ lưng
voi, đến đảnh lễ đức Thế Tôn,
vươn đôi tay ra chắp lại và đứng
gần đó.
Tôn giả Vangìsa được
sự đồng ý của Thế Tôn, bèn hỏi
nàng như vầy:
1. Ngự trên thiên
tượng thật huy hoàng,
Bao phủ toàn châu báu
ngọc vàng,
Ðại tượng oai hùng
kim võng phủ,
Cân đai đẹp lộng
lẫy muôn phần,
Hỡi nàng Thiên nữ
đầy trân bảo,
Ðã đến đây
qua giữa cõi không.
2. Phía trên của mỗi chiếc
ngà voi
Xuất hiện hồ sen nở đẹp
tươi,
Trong tựa pha lê, làn
nước mát,
Từng đoàn nữ nhạc
bước ra ngoài
Giữa hồ sen khiến lòng
mê mẩn,
Tiên chúng này đang
múa tuyệt vời.
3. Hỡi nàng Thiên nữ
đại huy hoàng,
Nàng đã đạt
bao đại lực thần,
Công đức gì xưa
nàng đã tạo,
Khi tái sanh làm một thế
nhân?
Vì sao thần lực nàng
ngời sáng,
Dung quang chiếu tỏa khắp mười
phương?
Ðược vị Trưởng lão
hỏi như vậy, Thiên nữ đáp lại
qua các vần kệ này:
4. Khi đến Ba-la-nại
thuở xưa,
Con dâng đức Phật
bộ cà-sa,
Bái chân Ngài, kế con
ngồi xuống,
Hoan hỷ chấp tay lễ Phật-đà.
5. Ðức Phật màu
da sáng tựa vàng,
Dạy con Khổ, Tập, ấy
vô thường,
Niết-bàn, Khổ diệt là trường
cửu,
Ngài dạy con dần biết
đúng Ðường.
6. Ðời con ngắn ngủi
vội lìa trần,
Từ đó mạng chung
được hóa thân,
Uy danh ở giữa đoàn
Thiên chúng
Tam thập tam thiên thật
lẫy lừng,
Ái hậu Sak-ka cùng mỹ
hiệu
Ya-sut-ta hiển hách mười
phương.
4. (42) Chuyện thứ
tư - Lâu Ðài Alomà (Alomà-Vimàna)
Trong lúc đức Thế Tôn
trú gần Ba-la-nại tại Isipatana (Trú
xứ chư Tiên) trong Lộc Uyển, Ngài vào
thành Ba-la-nại để khất thực. Tại
đó một nữ nhân nghèo khó tên
Alomà thấy Ngài, với tâm đầy
thành tín, nhưng không có gì khác
để cúng dường, bèn suy nghĩ: 'Một
vật như thế này được cúng dường
đức Thế Tôn sẽ có kết quả vĩ
đại cho ta'.
Rồi bà đem dâng Ngài
chiếc bánh kummàsa bằng bột gạo khô
cứng, không có muối và bể vụn.
Do việc cúng dường này, tâm bà cảm
thấy hoan hỷ.
Ðức Thế Tôn nhận bánh.
Về sau bà từ trần và
được tái sanh vào cõi trời Ba
mươi ba. Tôn giả Mahà-Moggallàna
hỏi nàng:
1. Nàng Thiên nữ
sắc đẹp siêu phàm
Ðang chiếu mười phương
với ánh quang,
Nàng đứng toàn
thân đều tỏa sáng
Như vì sao cứu hộ
trần gian.
2. Vì sao nàng được
sắc như vầy,
Vì cớ gì nàng vinh
hiển đây,
Những lạc thú nào
nàng mến chuộng
Trong tâm, đều xuất hiện
ra ngay?
3. Hỡi nàng Thiên nữ
đại oai thần,
Nàng tạo đức gì
giữa thế nhân,
Vì cớ gì oai nghi rực
rỡ,
Dung quang tỏa sáng khắp
mười phương?
4. Nàng Thiên nữ ấy
hỷ tâm tràn,
Ðược Mục-liên
Tôn giả hỏi han,
Nàng giải đáp ngay
phần hạnh nghiệp,
Và đây là kết
quả cho nàng:
5. Ở Ba-la-nại ấy ngày
xưa,
Con có lòng tin tưởng
Phật-đà,
Thân tộc mặt trời đầy
ánh sáng,
Tay con dâng bánh kum-mà-sa.
6. Hãy nhìn phước
báo kum-mà-sa,
Miếng bánh không nêm muối
cứng khô,
Ai chẳng thực hành nhiều
thiện sự,
Khi nhìn hạnh phúc A-lo-mà?
7. Vì thế sắc con đẹp
thế này,
Và con vinh hiển ở nơi đây,
Bất kỳ lạc thú nào
trong dạ
Yêu chuộng, tức thì
xuất hiện ngay.
8. Xin trình Tôn giả đại
oai thần
Công đức con làm
giữa thế nhân,
Vì thế oai nghi con rực rỡ,
Dung quang tỏa sáng khắp
mười phương.
5. (43) Chuyện thứ
năm - Lâu Ðài Của Người Cúng
Cháo Gạo (Kanjikadàyika-Vimàna)
Bấy giờ, đức Thế Tôn
trú tại Andhakavinda. Thời ấy một
cơn bệnh do trúng gió phát sinh trong bụng
Thế Tôn.
Ðức Thế Tôn bảo Tôn
giả Ananda:
- Này Ananda, khi ông đi
khất thực hãy đem về một ít cháo
chua để làm thuốc trị bệnh cho Ta.
- Bạch Thế Tôn, con sẽ làm
như vậy.
Tôn giả hứa xong, cầm
bình bát do Tứ Ðại Thiên vương
tặng, đến đứng trước cửa nhà
vị y sĩ cận sự của Tôn giả.
Bà vợ của y sĩ thấy
Tôn giả, liền đảnh lễ, cầm bình
bát và bảo vị Trưởng lão:
- Bạch Tôn giả, Tôn giả
cần loại thuốc gì?
Ta thấy rõ bà ấy
là người thông minh nên đã nhận
ra: 'Trưởng lão này đến đây
khi cần dược liệu, chứ không phải thực
phẩm'.
Và khi Tôn giả bảo:
- Xin cho một ít cháo gạo.
Bà suy nghĩ: 'Thuốc này
không phải dành cho Sư phụ ta, quả thật
chiếc bình bát này không phải của
ai khác ngoài chiếc bình của đức
Thế Tôn. Nào, ta hãy tìm cho được
loại cháo gạo thích hợp với vị
cứu nhân độ thế'.
Lòng tràn ngập hân
hoan cung kính, bà nấu món cháo với
nước trái táo, đổ đầy
bình bát và để dùng chung với món
cháo, bà sửa soạn thêm vài thực
phẩm khác nữa.
Nhờ dùng món này, bệnh
của đức Thế Tôn được thuyên
giảm. Về sau, bà ấy từ trần, tái
sanh vào cõi trời Ba mươi ba, thọ hưởng
đại thiên lạc.
Tôn giả Mahà-Moggallàna
hỏi bà như vầy:
1. Nàng Thiên nữ
sắc đẹp siêu phàm
Ðang chiếu mười phương
với ánh quang,
Nàng đứng toàn
thân đều tỏa sáng
Như vì sao cứu hộ
trần gian.
2. Vì sao nàng được
sắc như vầy,
Vì cớ gì nàng vinh
hiển đây,
Những lạc thú nào
nàng mến chuộng
Trong tâm, đều xuất hiện
ra ngay?
3. Hỡi nàng Thiên nữ
đại oai thần,
Nàng tạo đức gì
giữa thế nhân,
Vì cớ gì oai nghi rực
rỡ,
Dung quang tỏa sáng khắp
mười phương?
4. Nàng Thiên nữ ấy
hỷ tâm tràn,
Ðược Mục-liên
Tôn giả hỏi han,
Nàng giải đáp ngay
phần hạnh nghiệp,
Và đây là kết
quả cho nàng:
5. Kiếp xưa con ở An-dha-ka,
Con cúng cháo dâng đức
Phật-đà,
Ðấng có hào quang
dùng món cháo
Nấu cùng trái táo
với dầu pha.
6. Trộn chút hồ tiêu,
với tỏi ta,
Cho thêm vào ít nước
là-ma,
Với lòng thành tín
con dâng cúng
Lên đấng chánh
nhân, đức Phật-đà.
7. Nữ hoàng chánh hậu
Chuyển luân vương,
Khả ái toàn thân
đẹp vẹn toàn,
Yểu điệu dưới mắt
nhìn Thánh chúa,
Cũng không có giá
trị ngang bằng
Một phần mười sáu
người thành tín
Ðem món cháo hoa ấy
cúng dường.
8. Một trăm con ngựa, trăm
cân vàng,
Xa giá do la kéo, một
trăm,
Kiều nữ trăm ngàn trang
điểm ngọc,
Hoa tai, giá trị cũng
không bằng
Một phần mười sáu
người thành tín
Ðem món cháo hoa ấy
cúng dường.
9. Một trăm voi ở Tuyết Cao
Sơn
Ngà giống càng xe, thật
tráng cường,
Vương tượng oai hùng
mang áo giáp,
Cân đai vàng ngọc cũng
không bằng
Một phần mười sáu
người thành tín
Ðem món cháo hoa ấy
cúng dường.
10. Dù người nắm giữ
mọi quyền năng,
Khắp bốn đại châu
cũng chẳng bằng
Chỉ một phần mười
sáu lễ vật
Người đem món cháo
ấy cung dâng.
6. (44) Câu chuyện
thứ sáu - Lâu Ðài Tịnh Xá
(Vihàra-Vimàna)
Bấy giờ, đức Thế Tôn
đang trú tại Sàvatthi, trong Kỳ
Viên tinh xá. Thời ấy Visàkhà,
vị đại đệ tử nữ cư sĩ, đã
được các bạn hữu và người
hầu cận thúc giục đi chơi một
vòng trong hoa viên nhân một ngày lễ
hội. Ðược tắm rửa và xoa dầu
thơm cẩn thận, bà ăn một bữa thịnh
soạn xong, tự trang điểm với 'bộ nữ
trang đại quý giá', rồi được
một đám bạn đồng hành năm
trăm người hầu cận, bà rời nhà
ra đi với đoàn người hộ tống
linh đình.
Trong khi tiến về hoa viên, bà suy
nghĩ: 'Cuộc vui chơi nhàn nhã như thuở
còn thiếu nữ đối với ta giờ đây
có nghĩa gì? Nào, ta hãy đi đến
tinh xá, đảnh lễ đức Thế Tôn
cùng chư Tôn giả làm phát khởi
tín tâm, và ta sẽ nghe pháp'.
Bà liền đi đến tinh xá,
dừng lại bên đường cởi bộ
trang sức đại quý báu ấy ra, trao vào
tay một nữ tỳ, kính lễ đức
Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên.
Bà nghe pháp xong, cung kính đảnh lễ
đức Thế Tôn, đi vòng quanh Ngài
theo đúng nghi thức, và rời tinh xá.
Vừa đi một chặng đường ngắn,
bà liền bảo nữ tỳ:
- Nào, ta muốn đeo bộ
nữ trang.
Trước đây cô gái
ấy đã buộc nó thành một gói,
đặt trong tinh xá, rồi đi quanh quẩn
một lúc, đến giờ ra về lại quên bẵng
việc kia. Nàng thú nhận:
- Con quên mất, chắc nó
còn ở đó. Con sẽ đi kiếm về đây.
Và nàng liền quay lại. Visàkhà
lại bảo:
- Ðược rồi, nếu nó
đã được cất trong tinh xá và
quên mất, thì vì lợi ích của
tinh xá, ta sẽ cúng dường bộ trang sức
ấy.
Rồi bà trở lại tinh
xá, đến gần đức Thế Tôn, cung
kính đảnh lễ Ngài, trình lên
Ngài ý định của bà và thưa:
- Bạch Thế Tôn, con muốn xây
một tinh xá, ước mong đức Thế Tôn
từ bi cho phép con.
Ðức Thế Tôn chấp thuận
bằng cách im lặng.
Khi Visàkhà đã
dâng lễ cúng dường bộ nữ trang
đặc biệt ấy trị giá chín trăm
triệu đồng tiền vàng, Tôn giả Trưởng
lão Moggallàna giám sát công trình
xây cất ấy.
Ngôi tinh xá được
hoàn tất trong vòng chín tháng, dành
cho đức Phật Thế Tôn và Tăng chúng
một tòa Lâu đài thích hợp để
an trú, trang bị đủ một ngàn phòng.
Năm trăm phòng ở tầng dưới và
năm trăm phòng ở tầng trên, tương
truyền đó là một lâu đài
như ở trên Thiên giới, sàn được
xây như một bức tranh bằng châu báu
cẩn hình những vòng hoa được phát
họa tuyệt mỹ. Những bức tranh trên da thú,
trát thạch cao trắng đẹp mắt, những
đồ gỗ đánh bóng tinh xảo mỹ
thuật và các phần nội thất cân
xứng hài hòa như tường, cột, kèo,
đòn tay, tấm trang trí góc tường,
trụ cửa lớn, cửa sổ, cầu thang v.v...
khéo thiết kế khả ái; và các gian nhà
phụ, tư thất, mái đình, mái
hiên, đại loại như thế, đều được
dựng lên.
Khi tinh xá đã xong và
bà sắp cử hành lễ cúng đường
tặng vật trị giá chín trăm triệu đồng
tiền vàng, bà nhìn thấy vẻ huy hoàng
của Lâu đài trong lúc bà bước
lên thượng lầu cùng năm trăm bạn
đồng hành và hoan hỷ nói với họ:
- Bất cứ công đức
gì ta nhận được nhờ xây cất
Lâu đài này, xin chư vị đồng
hưởng, ta xin phân phát đều công đức
đến chư vị đã dự phần vào
đây'.
- Quả thật, mong được
như vậy, quả thật.
Chư vị ấy đồng
thanh nói với lòng tín thành và
tất cả đều hoan hỷ.
Vào dịp ấy, có một
tín nữ dự phần vào việc đồng
hưởng công đức này với một
tâm tư đặc biệt. Chẳng bao lâu sau đó,
nàng từ trần và được tái
sanh vào cõi trời Ba mươi ba. Do uy lực
công đức của nàng, một Lâu
đài vĩ đại xuất hiện cho nàng,
có thể du hành qua không gian, tráng lệ với
nhiều nhà có nóc nhọn, hoa viên, hồ sen
v.v... dài mười sáu do-tuần và rộng
tám do-tuần, tỏa sáng một trăm do-tuần
nhờ hào quang của chính nó. Khi Thiên
nữ đi đâu, nàng cùng đi
với Lâu đài ấy và một đoàn
hộ tống gồm cả ngàn tiên nữ.
Về phần Visàkhà,
nhờ công đức bố thí hào phóng
và tín tâm cao độ, đã được
tái sanh vào cõi trời Hóa Lạc, đạt
đến ngôi vị chánh hậu của Sunimmita
Thiên chủ.
Bấy giờ Tôn giả Anuruddha,
trong lúc du hành lên thiên giới, thấy
bạn của Visàkhà đã được
tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba, bèn
hỏi nàng như vầy:
1. Nàng Thiên nữ
sắc đẹp siêu phàm
Ðang chiếu mười phương
với ánh quang,
Nàng đứng toàn
thân đều tỏa sáng
Như vì sao cứu hộ
trần gian.
2. Trong khi nàng múa với
toàn thân,
Xoay tít tứ chi khắp
mọi phương,
Âm nhạc thiên đình
vang vọng đến
Bên tai nghe quả thật du
dương.
3. Trong khi nàng múa với
toàn thân,
Xoay tít tứ chi khắp
mọi phương,
Nhè nhẹ hương trời
lan tỏa rộng,
Làn hương dịu ngọt
tạo hân hoan.
4. Ðang lúc nàng di chuyển
dáng hình,
Trâm cài bím tóc
kết bên mình,
Âm vang như tiếng tơ hòa
tấu
Năm thứ đàn huyền
diệu hợp thành.
5. Vòng tai được gió
thổi ngang qua,
Lay động theo làn gió
nhẹ đưa,
Âm hưởng các vòng
vàng ngọc ấy
Khác nào năm tiếng nhạc
đồng hòa.
6. Và hương thơm của
các tràng hoa
Khả ái, dịu dàng
cứ tỏa ra
Từ đỉnh đầu
nàng bay mọi hướng
Giống như cây Mạn-thù-sa-ka.
7. Nàng thở làn hương
dịu ngọt sao,
Nàng nhìn vẻ đẹp
thật thanh cao,
Hỡi nàng Thiên nữ
khi nghe hỏi,
Hãy nói quả đây
của nghiệp nào.
Nàng Thiên nữ đáp
lại như vầy:
8. Tôn giả, ở thành
Xá-vệ xưa,
Bạn xây tinh xá cúng
Tăng-già,
Với tâm thành tín,
con hoan hỷ
Khi thấy tòa nhà đẹp
mắt ta.
9. Do hoan hỷ tịnh lạc như
vầy,
Con được Lâu đài
tuyệt diệu đây,
Mười sáu do-tuần
trong mọi phía,
Nhờ thần lực nhẹ
lướt trời mây.
10. Lâu đài có
nóc nhọn nhiều tầng,
Cân xứng, được
quy hoạch mọi phần,
Ánh sáng tỏa tràn
lan rực rỡ
Chung quanh khắp cả trăm
do-tuần.
11. Con có hồ sen ở chốn
này,
Cá pu-thu lội lượn lờ
đây,
Nước trong lấp lánh
đôi bờ mép
Viền với cát vàng ánh
đẹp thay.
12. Mặt hồ đầy đủ
loại hoa sen,
Hoa súng trắng ngần mọc
phủ lên,
Làm đắm say lòng,
cơn gió nhẹ
Ðưa làn hương
dịu tỏa khắp miền.
13. Các khu rừng mọc khóm
hồng đào,
Cùng với dừa, cau, mít,
cọ dầu,
Bao loại cây không trồng
vẫn mọc
Ở bên trong của cả lầu
cao.
14. Vang lên bao tiếng nhạc êm
đềm,
Văng vẳng tiếng cười
nói của tiên,
Nếu kẻ nào mơ nhìn
cảnh ấy,
Cũng thành người hạnh
phúc vô biên!
15. Lâu đài được
tạo dựng như vầy,
Nhìn ngắm thật là
tuyệt diệu thay,
Chiếu sáng khắp nơi nhờ
thiện nghiệp,
Ta cần tạo phước đức
đời này.
Sau đó vị Trưởng lão
muốn nàng nói đến nơi tái sanh
của Visàkhà, bèn ngâm kệ:
16. Rõ ràng nhờ
tịnh lạc hân hoan
Nàng được Lâu
đài tuyệt mỹ quan,
Còn nữ nhân kia dâng
tặng vật,
Ðâu là sanh thú
hóa thân nàng?
Ðể giải thích vấn đề
được vị trưởng lão hỏi, nàng
đáp:
17. Tôn giả, nàng
kia chính bạn hiền,
Nàng xây tinh xá đại
trang nghiêm,
Cúng dường Tăng chúng,
am tường pháp,
Nên đã tái sanh
Hóa Lạc thiên.
18. Su-nim-ta Chánh hậu là
nàng,
Phước quả nghiệp kia khó
nghĩ bàn,
Tôn giả, những điều
ngài muốn hỏi,
Con đã giải thích
thật tinh tường.
19. Bởi vậy, nên khuyên
nhủ thế nhân
Hân hoan bố thí đến
chư Tăng,
Lắng tai nghe pháp, tâm
thành tín,
Sinh được làm người
thật khó khăn.
20. Ngài, bậc Ðạo
Sư dạy bước Ðường,
Giọng Ngài như giọng Phạm
Thiên vương,
Làn da trông giống như
vàng ánh,
Hãy cúng dường hoan
hỷ chúng Tăng,
Thí vật dâng lên
đầy tín ngưỡng
Sẽ đem phước quả
lớn vô lường.
21. Tám người được
bậc trí tuyên dương,
Bốn cặp xứng danh đáng
cúng dường
Là các môn đồ
Ngài Thiện Thệ,
Lễ dâng chư vị quả
vô lường.
22. Bốn vị đi trên
Ðạo thực hành,
Bốn người được
trú quả an lành,
Chư Tăng chánh hạnh
và chuyên chú
Giữ giới luật nhằm
đạt trí minh.
23. Với mọi hữu tình, các
thế nhân
Cúng dường mong phước
báo cầu ân,
Lễ dâng hào phóng
lên Tăng chúng
Ðem phước tái sanh
quả bội phần.
24. Vì Tăng chúng rộng
lớn mênh mang,
Vô lượng vô biên
tựa đại dương,
Ðệ tử bậc Anh hùng
dưới thế,
Là người tối thắng
giữa phàm nhân,
Nơi nào Tăng chúng
đi truyền pháp,
Chư vị đều mang đến
ánh quang.
25. Những người đem
lễ cúng chư Tăng,
Lễ vật cúng dường
thật chánh chân,
Bố thí, hiến dâng theo
Chánh pháp,
Lễ kia đem quả lớn
vô ngần,
Cúng dường lễ vật
lên Tăng chúng
Ðược các Phật-đà
tán thán luôn.
26. Tích đức này
đây chính phước điền,
Những người kia tiến bước
đi lên
Giữa đời, tâm ngập
tràn hoan hỷ,
Khi đã diệt ô nhiễm
thấp hèn
Của thói tham xan cho tận
gốc,
Không còn lầm lỗi, sẽ
sanh Thiên.
Và Tôn giả Anurudha từ
đây trở về nhân giới, trình lên
bậc Ðạo Sư vấn đề này đúng
như Tôn giả đã nghe từ vị Thiên
nữ kia. Ðức Thế Tôn lấy việc này
làm cơ hội để thuyết pháp.
Phẩm Thứ Hai Ðể Phúng
Tụng
7. (45) Chuyện thứ
bảy - Lâu Ðài Bốn Nữ Nhân (Caturitthi-Vimàna)
Trong lúc đức Thế Tôn
trú tại Sàvatthi, Tôn giả Mahà-Moggallàna
du hành thiên giới như đã kể trên,
đến cõi trời Ba mươi ba. Tại đó
trong bốn Lâu đài liên tiếp, Tôn
giả thấy bốn Thiên nữ thọ hưởng
thiên lạc, mỗi nàng có một đoàn
hộ tống cả ngàn tiên nữ.
Tôn giả lần lượt hỏi
các thiện nghiệp mà thuở trước các
nàng đã tạo:
1. Nàng Thiên nữ
sắc đẹp siêu phàm
Ðang chiếu mười phương
với ánh quang,
Nàng đứng toàn
thân đều tỏa sáng
Như vì sao cứu hộ
trần gian.
2. Vì sao nàng được
sắc như vầy,
Vì cớ gì nàng vinh
hiển đây,
Những lạc thú nào
nàng mến chuộng
Trong tâm, đều xuất hiện
ra ngay?
3. Hỡi nàng Thiên nữ
đại oai thần,
Nàng tạo đức gì
giữa thế nhân,
Vì cớ gì oai nghi rực
rỡ,
Dung quang tỏa sáng khắp
mười phương?
Và ngay khi được Tôn
giả hỏi, các Thiên nữ lần lượt
đáp lời. Vần kệ này được
ngâm để diễn tả sự kiện trên:
4. Nàng Thiên nữ
ấy hỷ tâm tràn,
Ðược Mục-liên
Tôn giả hỏi han,
Nàng giải đáp ngay
phần hạnh nghiệp,
Và đây là kết
quả cho nàng.
Tương truyền rằng vào thời
đức Thế Tôn Kassapa, các nữ nhân
này được tái sanh vào một gia
đình lương thiện thành Pannakata,
tại quốc độ có tên Esikà.
Khi đến tuổi trưởng thành, các nàng
về nhà chồng và sống đời hòa
hợp.
Một nàng trong đám
ấy thấy một Tỷ-kheo đi khất thực,
bèn cúng dường một bó hoa súng
xanh với tâm thành kính, một nàng
cúng một bó hoa sen xanh cho một Tỷ-kheo khác,
một nàng nữa cúng một bó sen đỏ,
và một nàng nữa cúng các nụ
hoa lài.
Sau đó từ trần, các
nàng được tái sanh vào cõi
trời Ba mươi ba. Mỗi nàng có một đoàn
hộ tống gồm cả ngàn tiên nữ.
Sau khi thọ hưởng thiên lạc ở đó
đến tròn thọ mạng, các nàng từ
giã cõi ấy và nhờ phước phần
còn lại của nghiệp quả xưa, đã
được tái sanh vào thời đức
Phật Gotama ở cùng cõi trời này
và được Tôn giả Mahà-Moggallàna
hỏi theo cách đã được mô
tả như trên.
Một nàng kể cho Trưởng
lão nghe về hạnh nghiệp kiếp xưa nàng đã
tạo:
5. Con đã cúng
dường bó súng xanh
Một Tỳ-kheo khất thực
trong thành,
E-si-kà quốc, cao hùng
vĩ,
Rực rỡ Pan-na-kat đẹp
xinh.
6. Vì thế sắc con đẹp
thế này,
Và con vinh hiển ở nơi đây,
Bất kỳ lạc thú nào
lòng dạ
Mến chuộng, tức thì xuất
hiện ngay.
7. Xin trình Tôn giả đại
oai thần
Công đức con làm
giữa thế nhân,
Vì thế oai nghi con rực rỡ,
Dung quang chiếu sáng khắp mười
phương.
Tôn giả hỏi lại một
nàng khác:
8. Nàng Thiên nữ
sắc đẹp siêu phàm
Ðang chiếu mười phương
với ánh quang,
Nàng đứng toàn
thân đều tỏa sáng
Như vì sao cứu hộ
trần gian.
9. Vì sao nàng được
sắc như vầy,
Vì cớ gì nàng vinh
hiển đây,
Những lạc thú nào
nàng mến chuộng
Trong tâm, đều xuất hiện
ra ngay?
10. Hỡi nàng Thiên nữ
đại oai thần,
Nàng tạo đức gì
giữa thế nhân,
Vì cớ gì oai nghi rực
rỡ,
Dung quang tỏa sáng khắp
mười phương?
11. Nàng Thiên nữ ấy
hỷ tâm tràn,
Ðược Mục-liên
Tôn giả hỏi han,
Nàng giải đáp ngay
phần hạnh nghiệp,
Và đây là kết
quả cho nàng:
12. Ðem bó sen xanh đến
cúng dường
Một Tỳ-kheo khất thực
trên đường,
E-si-kà quốc, cao hùng
vĩ,
Rực rỡ Pan-na-kat vẻ
vang.
13. Vì thế sắc con đẹp
thế này,
Và con vinh hiển ở nơi đây,
Bất kỳ lạc thú nào
lòng dạ
Mến chuộng, tức thì xuất
hiện ngay.
14. Xin trình Tôn giả đại
oai thần
Công đức con làm
giữa thế nhân,
Vì thế oai nghi con rực rỡ,
Dung quang chiếu sáng khắp mười
phương.
Tôn giả lại hỏi một
nàng khác:
15. Nàng Thiên nữ
sắc đẹp siêu phàm
Ðang chiếu mười phương
với ánh quang,
Nàng đứng toàn
thân đều tỏa sáng
Như vì sao cứu hộ
trần gian.
16. Vì sao nàng được
sắc như vầy,
Vì cớ gì nàng vinh
hiển đây,
Những lạc thú nào
nàng mến chuộng
Trong tâm, đều xuất hiện
ra ngay?
17. Hỡi nàng Thiên nữ
đại oai thần,
Nàng tạo đức gì
giữa thế nhân,
Vì cớ gì oai nghi rực
rỡ,
Dung quang tỏa sáng khắp
mười phương?
18. Nàng Thiên nữ ấy
hỷ tâm tràn,
Ðược Mục-liên
Tôn giả hỏi han,
Nàng giải đáp ngay
phần hạnh nghiệp,
Và đây là kết
quả cho nàng:
19. Trắng ngần là củ,
cánh sen xanh,
Mọc nước hồ, con hái
mấy cành,
Dâng cúng Tỷ-kheo đi
khất thực,
E-si-kà quốc, ở kinh thành
Huy hoàng tên gọi Pan-na-kat,
Diễm lệ cao vời vợi nổi
danh.
20. Vì thế sắc con đẹp
thế này,
Và con vinh hiển ở nơi đây,
Bất kỳ lạc thú nào
lòng dạ
Mến chuộng, tức thì xuất
hiện ngay.
21. Xin trình Tôn giả đại
oai thần
Công đức con làm
giữa thế nhân,
Vì thế oai nghi con rực rỡ,
Dung quang chiếu sáng khắp mười
phương.
Tôn giả lại hỏi một
nàng khác nữa:
22. Nàng Thiên nữ
sắc đẹp siêu phàm,
Ðang chiếu mười phương
với ánh quang,
Nàng đứng toàn
thân đều tỏa sáng
Như vì sao cứu hộ
trần gian.
23. Vì sao nàng được
sắc như vầy,
Vì cớ gì nàng vinh
hiển đây,
Những lạc thú nào
nàng mến chuộng
Trong tâm, đều xuất hiện
ra ngay?
24. Hỡi nàng Thiên nữ
đại oai thần,
Nàng tạo đức gì
giữa thế nhân,
Vì cớ gì oai nghi rực
rỡ,
Dung quang tỏa sáng khắp
mười phương?
25. Nàng Thiên nữ ấy
hỷ tâm tràn,
Ðược Mục-liên
Tôn giả hỏi han,
Nàng giải đáp ngay
phần hạnh nghiệp,
Và đây là kết
quả cho nàng:
Nàng ấy đáp lại:
26. Con là tín nữ
Su-ma-nà,
Hái nụ lài dâng,
sắc trắng ngà
Ðến một người tâm
đầy hỷ lạc,
Tỷ-kheo khất thực ở thành
xưa,
E-si-ka quốc, cao hùng vĩ,
Diễm lệ huy hoàng Pan-kat-ta.
27. Vì thế sắc con đẹp
thế này,
Và con vinh hiển ở nơi đây,
Bất kỳ lạc thú nào
lòng dạ
Mến chuộng, tức thì xuất
hiện ngay.
28. Xin trình Tôn giả đại
oai thần,
Công đức con làm
giữa thế nhân,
Vì thế oai nghi con rực rỡ,
Dung quang chiếu sáng khắp mười
phương.
8. (46) Chuyện thứ
tám - Lâu Ðài Vườn Xoài (Amba-Vimàna)
Bấy giờ, đức Thế Tôn
trú tại Sàvatthi. Thời ấy một
tín nữ tại đó nghe nói về kết quả
vĩ đại và lợi ích vĩ đại
do cúng dường tinh xá, nên lòng đầy
nhiệt thành, nàng cung kính đảnh lễ
đức Thế Tôn và nói như vầy:
- Bạch đức Thế Tôn,
con muốn nhờ người xây một tinh xá.
Con cầu mong đức Thế Tôn chỉ cho con
một nơi thích hợp.
Ðức Thế Tôn đưa
huấn thị đến chư Tăng. Chư vị
chỉ cho bà một nơi thích hợp. Sau đó
bà sai người xây một tinh xá, chung
quanh có trồng xoài. Tinh xá được
những hàng cây xoài bao bọc đầy
đủ bóng mát và nước ngọt, đất
màu trắng rải rác cát vàng như
những chuỗi ngọc trai, thật hoàn hảo tráng
lệ làm say lòng người.
Tín nữ ấy lại trang
hoàng tinh xá với thảm đủ màu
và tràng hoa, hương liệu chẳng khác
kinh thành thiên giới; bà thắp đèn
dầu và phủ lên các cây xoài
một lớp khăn vải mới, rồi cúng
dường tinh xá lên chư Tăng.
Về sau bà từ trần và
được tái sanh vào cõi trời Ba
mươi ba.
Tại đấy xuất hiện
cho Thiên nữ một Lâu đài vĩ đại
có vườn xoài bao bọc. Nàng được
đoàn tiên nữ vây quanh hộ tống
và hưởng thọ thiên lạc.
Tôn giả Mahà-Moggallàna
đến gần nàng và hỏi:
1. Nàng có vườn
xoài giống cảnh tiên,
Mê hồn, cung điện thật
trang nghiêm,
Ngân vang bao tiếng đàn
hòa tấu,
Tiên chúng reo ca văng
vẳng lên.
2. Một cây đèn vĩ
đại vàng ròng
Mãi mãi chiếu lan tỏa
ánh hồng,
Bao bọc chung quanh, cây cối
mọc
Với khăn che phủ trái
bên trong.
3. Vì sao nàng được
cảnh vườn xoài,
Cung điện uy nghi đẹp
tuyệt vời,
Vì cớ nào dung sắc
diễm lệ,
Tại sao nàng hiển hách
trên trời,
Bất kỳ lạc thú nào
lòng dạ
Yêu chuộng, liền xuất hiện
tức thời?
4. Hỡi nàng Thiên nữ
đại oai thần,
Nàng tạo đức gì
giữa thế nhân,
Vì cớ gì oai nghi rực
rỡ,
Dung quang tỏa sáng khắp
mười phương?
5. Nàng Thiên nữ ấy
hỷ tâm tràn,
Ðược Mục-liên
Tôn giả hỏi han,
Nàng giải đáp ngay
phần hạnh nghiệp,
Và đây là kết
quả cho nàng:
6. Kiếp trước sinh làm một
thế nhân,
Ở cõi người trong chốn
phàm trần,
Con xây tinh xá, xoài
bao bọc,
Ðem cúng dường lên
cả chúng Tăng.
7. Khi ngôi tinh xá ấy
vừa xong,
Con sẵn sàng làm lễ
cúng dâng,
Bao phủ vườn xoài
bằng vải mới
Ðể nâng đỡ trái
ở bên trong.
8. Khi đã thắp cao một
ngọn đèn,
Tự tay con thực phẩm đưa
lên
Chư Tăng của Phật-đà
vô thượng,
Thành tín, con dâng cúng
Thánh hiền.
9. Vì thế vườn con đẹp
tuyệt vời,
Lâu đài tráng
lệ thật hùng oai,
Ngân nga bao tiếng đàn
hòa tấu,
Tiên chúng ca vang vọng khắp
nơi.
10. Một cây đèn vĩ
đại vàng ròng
Mãi mãi chiếu lan tỏa
ánh hồng,
Bao bọc chung quanh, cây cối
mọc
Với khăn che phủ trái
bên trong.
11. Vì vậy sắc con đẹp
thế này,
Và con vinh hiển ở nơi đây,
Bất kỳ lạc thú nào
trong dạ
Yêu chuộng, tức thì
xuất hiện ngay.
12. Xin trình Tôn giả đại
oai thần
Công đức con làm
giữa thế nhân,
Vì thế oai nghi con rực rỡ,
Dung quang tỏa sáng khắp
mười phương.
9. (47) Chuyện thứ
chín - Lâu Ðài Hoàng Kim (Pìta-Vimàna)
Sau khi đức Thế Tôn diệt
độ, và khi Ðại vương Ajàtasattu
(A-xà-thế) đã dựng đại Tháp
ở Ràjagaha để thờ phần xá-lợi
của đức Thế Tôn và cử hành
lễ cúng dường xong, một tín nữ
đem bốn đóa hoa leo kosàtakì
đến dâng bảo Tháp, bất kể các
mối hiểm nguy dọc đường.
Ngay lúc ấy, một con bò
cái cùng với một con bê con hung hăng
xông tới tấn công bà bằng đôi
sừng, giết bà tại chỗ. Bà được
tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba, xuất
hiện ngay khi Sakka Thiên chủ đang ngự
trên thiên xa đến du ngoạn vườn thiên
lạc, ngài bèn ngâm kệ hỏi:
1. Nàng Thiên nữ
sắc phục kim hoàng,
Trang điểm bao châu báu
ngọc vàng,
Thoa phấn chiên-đàn
vàng óng ả,
Hoa sen vàng rực rỡ từng
tràng.
2. Lâu đài nàng
cũng sắc kim hoàng,
Thực phẩm, kim đôn
lẫn tọa sàng,
Cùng chiếc lọng che vàng óng
ánh,
Quạt, xe, bầy ngựa thảy
bằng vàng.
3. Hạnh nghiệp gì nàng
tạo trước đây,
Thuở nàng sinh ở cõi
người vầy?
Hỡi nàng Thiên nữ
khi nghe hỏi,
Hãy nói nghiệp xưa kết
quả này.
Nàng giải thích qua các
vần kệ:
4. Tấu trình Thiên đế,
có cây kia,
Vị đắng, tên là
Ko-sát-ta,
Con hái bốn hoa từ nhánh
ấy,
Ðem dâng bảo Tháp
đức Tôn Sư.
5. Con đủ tín thành
tâm hướng lên
Ðạo Sư bảo tích,
Tháp linh thiêng,
Trí con chuyên chú vào
điều ấy,
Con chẳng quan tâm để
ý nhìn.
6. Vì thế bò kia đã
giết con,
Ước mong con chẳng được
vuông tròn,
Nếu con tích đức nhiều
như ý,
Kết quả ắt là phải
lớn hơn.
7. Như vậy là do nghiệp
ở đời,
Tấu Mà-gha, chúa tể
trên trời,
Khi con bỏ xác thân phàm
tục,
Con được lên đây
phụng sự ngài.
8. Nghe vậy Thiên vương
Mà-gha-va,
Ngọc hoàng của cõi Ba
mươi ba,
Muốn làm hoan hỷ toàn
thiên giới,
Liền bảo Mà-ta-li quản xa:
9. Này xem đây, hỡi
Mà-ta-li,
Kết quả diệu kỳ, vĩ đại
kia,
Dầu vật nhỏ dâng
người đức độ,
Vẫn đem công đức
lớn nhiều bề.
10. Khi thành tâm cúng
vật tầm thường
Lên đức Như Lai,
đấng Pháp Vương,
Bậc Giác Ngộ hay chư
đệ tử,
Vật kia có giá trị
khôn lường.
11. Mà-ta-li, vậy hãy
nhanh chân,
Thiên chúng hãy tôn
kính cúng dường,
Công đức tăng nhiều
là phước lạc,
Như Lai bảo Tháp ấy
mang phần.
12. Dầu Phật ở đời
hoặc xả thân,
Quả đều bình đẳng
với an tâm,
Vì do kết quả tâm kiên
định,
Thiện thú dành cho các
thiện nhân.
13. Chính đức Như
Lai hiện giữa đời
Là vì lợi ích của
muôn loài,
Sau khi phục vụ người
hành thiện,
Bố thí đi lên
đến cõi trời.
Khi đã nói xong lời này,
Sakka Thiên chủ liền rời Hỷ lạc Viên
và đến đảnh lễ cúng dường
bảo tháp Cùlàmani suốt bảy
ngày. Một thời gian sau, khi Tôn giả Nàrada
du hành lên thiên giới, Thiên chủ
ngâm kệ trình bày sự kiện trên với
Tôn giả. Vị Trưởng lão thuật lại
với chư vị kết tập Kinh điển nên chư
vị này đưa chuyện ấy vào Ðại
Tạng Kinh.
10. (48) Chuyện thứ
mười - Lâu Ðài Do Cúng Mía
(Ucchu-Vimàna)
Chuyện này cũng giống như
chuyện Lâu đài của người dâng
mía trước đây (số 30). Nhưng
ở đây, bà mẹ chồng dùng hòn
đất ném chết con dâu. Vì điểm
này, hai câu chuyện đã được
truyền tụng riêng biệt.
1. Quả đất cùng
chung các vị thần
Ðược làm rạng
rỡ thật vinh quang,
Như vầng nhật nguyệt, nàng
soi sáng
Với ánh huy hoàng, vẻ
mỹ quan,
Như Phạm Thiên siêu
quần bạt chúng
Giữa trời Ðao lợi với
Thiên hoàng.
2. Hỡi nàng mang các chuỗi
thanh liên,
Cùng chuỗi bảo châu ở
trán trên,
Da tựa vàng ròng, trang
điểm đẹp,
Xiêm y tuyệt mỹ của thần
tiên,
Nàng là ai đó,
này Thiên nữ,
Ðảnh lễ ta rồi
đứng một bên?
3. Nghiệp gì nàng đã
tạo trên đòi,
Kiếp trước sinh ra ở cõi
người?
Bố thí vẹn toàn
hay giữ giới?
Nhờ đâu vinh hiển được
lên trời?
Hỡi nàng Thiên nữ,
khi ta hỏi,
Nghiệp quả gì đây,
hãy trả lời.
Sau đó vị Thiên
nữ giải thích:
Các kệ từ 4-11 cũng giống
như kệ 4-11 ở chuyện 30, chỉ trừ chữ 'chiếc
ghế' được thay bằng 'hòn đất'.
11. (49) Chuyện thứ
mười một - Lâu Ðài Do Sự Ðảnh
Lễ (Vandana-Vimàna)
Bấy giờ, đức Thế Tôn
trú tại Sàvatthi. Thời ấy nhiều
Tỷ-kheo, sau khi đã an cư mùa mưa ở
một tinh xá trong làng kia và đã
làm lễ. Tự tứ vào lúc bế mạc
xong, liền du hành qua một làng khác, trên
đường đi đến Sàvatthi để
đảnh lễ đức Thế Tôn. Tại đó
một vị nữ nhân đến đảnh lễ
chư Tăng với tâm đầy thành tín,
kính cẩn và thiện ý. Về sau nàng từ trần
được tái sanh vào cõi trời Ba
mươi ba và Tôn giả Mahà-Moggallàna
hỏi nàng:
1. Nàng Thiên nữ
sắc đẹp siêu phàm
Ðang chiếu mười phương
với ánh quang,
Nàng đứng toàn
thân đều tỏa sáng
Như vì sao cứu hộ
trần gian.
2. Vì sao nàng được
sắc như vầy,
Vì cớ gì nàng vinh
hiển đây,
Những lạc thú nào
nàng mến chuộng
Trong tâm, đều xuất hiện
ra ngay?
3. Hỡi nàng Thiên nữ
đại oai thần,
Nàng tạo đức gì
giữa thế nhân,
Vì cớ gì oai nghi rực
rỡ,
Dung quang tỏa sáng khắp
mười phương?
4. Nàng Thiên nữ ấy
hỷ tâm tràn,
Ðược Mục-liên
Tôn giả hỏi han,
Nàng giải đáp ngay
phần hạnh nghiệp,
Và đây là kết
quả cho nàng:
5. Khi được làm người
giữa thế nhân,
Gặp Tỳ-kheo giới hạnh
chuyên cần,
Với tâm thành tín
và hoan hỷ
Con chắp hai tay lễ dưới
chân.
6.Vì thế sắc con đẹp
thế này,
Và con vinh hiển ở nơi đây,
Bất kỳ lạc thú nào
lòng dạ
Yêu chuộng, tức thì
xuất hiện ngay.
7. Xin trình Tôn giả đại
oai thần
Công đức con làm
giữa thế nhân,
Nhờ đấy oai nghi con rực
rỡ,
Dung quang tỏa sáng khắp
mười phương.
12. (50) Chuyện thứ
mười hai - Lâu Ðài Của Rajjumàlà
(Rajjumàlà-Vimàna)
Thời ấy, đức Thế Tôn
trú tại Sàvatthi, trong Kỳ Viên tinh
xá. Bấy giờ ở một ngôi làng nhỏ
vùng Gayà có một Bà-la-môn
gả con gái cho con trai một Bà-la-môn khác.
Nàng dâu về nắm quyền hành trong nhà ấy,
ngay từ đầu đã sinh lòng ác
cảm với con gái của một nữ tỳ, nên
thường đánh mắng nhục mạ cô
bé.
Khi cô bé lớn dần, nàng
dâu lại đối xử tàn tệ hơn nữa
(tục truyền rằng vào thời đức Phật
Kassapa, hai nàng này đã có mối
liên hệ ngược với hiện tại).
Ðể đề phòng việc cô
chủ kéo tóc mình mỗi khi đánh
đập, cô bé nữ tỳ đến tiệm cắt
tóc nhờ cạo trọc đầu. Sau đó
cô chủ đang cơn giận dữ bảo rằng
cô bé kia chẳng có thể thoát khỏi
tay mình bằng cách cạo đầu, liền
buộc một sợi dây quanh cổ cô bé và
kéo cô ngã xuống, rồi lại không
chịu để cô bé tháo dây ra, từ
đó cô bé có tên Rajjumàlà:
Vòng dây đeo cổ.
Bấy giờ một ngày kia,
bậc Ðạo Sư vừa xuất định
Ðại bi, thấy Rajjumàlà có
đầy đủ khả năng đạt
quả Dự Lưu, bèn đến ngồi dưới
một gốc cây tỏa hào quang rực rỡ.
Lúc ấy cô bé Rajjumàlà
khốn khổ kia chỉ muốn chết, cầm chiếc
ghè đi ra đường giả vờ lấy
nước và tìm một cây để treo cổ.
Khi thấy đức Phật, với tâm hướng
về Ngài, cô suy nghĩ: 'Ví thử đức
Thế Tôn thuyết pháp cho những người như
ta thì sao? Ta có thể được giải thoát
khỏi cuộc đời khốn cùng này'.
Ðức Phật xem xét kỹ,
liền gọi cô:
- Rajjumàlà!
Cô bé như được
tắm nước cam lồ, vội đến gần
đảnh lễ Ngài. Ngài dạy cô
Tứ Ðế và cô đắc quả Dự
Lưu. Kế đó Ngài đi vào làng
và ngồi dưới gốc cây khác.
Bấy giờ cô bé không
thể tự hủy hoại mình nữa, bèn suy
nghĩ với lòng nhẫn nhục, thân thiện
và từ ái: 'Thôi cứ để mặc
cho bà chủ Bà-la-môn này đánh
đập, làm tổn thương ta thế nào
tùy ý'. Rồi cô trở về lấy nước
vào ghè.
Ông chủ nhà đứng
ở cửa bảo:
- Cô đã đi lấy
nước thật lâu và mặt lại rạng
rỡ thế kia. Ta thấy cô có vẻ hoàn
toàn khác hẳn, có việc gì vậy?
Cô bé kể chuyện cho chủ, ông
hài lòng và bước vào bảo cô
dâu:
- Thôi con đừng làm
gì Rajjumàlà nữa.
Rồi ông vội vàng đi
đến yết kiến bậc Ðạo Sư và cung kính
mời Ngài thọ thực. Sau đó, cả ông
cùng dâu con trong nhà đi vào ngồi
cạnh bậc Ðạo Sư. Ngài kể cho họ việc
xảy ra kiếp trước giữa cô dâu và
Rajjumàlà, cùng với một bài
thuyết pháp thích hợp. Sau đó Ngài
trở về Sàvatthi, còn vị Bà-la-môn
nhận Rajjumàlà làm con nuôi và
từ đó nàng dâu ông đối
xử với cô rất tốt đẹp.
Khi nàng từ trần, Rajjumàlà
được tái sanh vào cõi trời
Ba mươi ba và cũng được Tôn
giả Mahà-Moggallàna hỏi:
1. Nàng Thiên nữ
sắc đẹp siêu phàm
Ðang múa theo âm nhạc
nhịp nhàng,
Toàn thể tứ chi nàng
uyển chuyển
Thiên hình vạn trạng
giữa không gian.
2. Trong khi nàng múa với
toàn thân,
Xoay tít tứ chi khắp
mọi phương,
Âm nhạc Thiên đình
vang vọng đến
Bên tai nghe quả thật du
dương.
3. Trong khi nàng múa với
toàn thân,
Xoay tít tứ chi khắp
mọi phương,
Nhè nhẹ hương trời
lan tỏa rộng,
Làn hương dịu ngọt
tạo hân hoan.
4. Ðang lúc nàng di chuyển
dáng hình,
Trâm cài bím tóc
kết bên mình,
Âm vang như tiếng tơ hòa
tấu
Năm thứ đàn huyền
diệu hợp thành.
5. Vòng tai được gió
thổi ngang qua,
Lay động theo làn gió
nhẹ đưa,
Âm hưởng các vòng
vàng ngọc ấy
Khác nào năm tiéng
nhạc đồng hòa.
6. Và hương thơm của
các tràng hoa
Khả ái, dịu dàng
cứ tỏa ra
Từ đỉnh đầu
nàng bay mọi hướng
Giống như cây Mạn-thù-sa-ka.
7. Nàng thở làn hương
dịu ngọt sao,
Nàng nhìn vẻ đẹp
thật thanh cao,
Hỡi nàng Thiên nữ
khi nghe hỏi,
Hãy nói quả đây
của nghiệp nào?
Khi được vị Trưởng
lão hỏi như vậy, nàng ngâm các
vần kệ giải thích, bắt đầu bằng
câu chuyện tiền thân của nàng:
8. Kiếp trước làm
nô lệ một nhà
Bà-la-môn ở tại Gàya,
Raj-ju-mà chính tên con
đó,
Ðức mỏng, phận
hèn mọn xấu xa.
9. Bị mắng nhiếc đau khổ
ngập tràn,
Cùng đe dọa, đánh
đập hung tàn,
Con cầm ghè lớn đi
tìm nước,
Và định đi luôn
để thoát nàn.
10. Vứt chiếc ghè ra khỏi
mặt đường,
Con đi vào tận chốn
rừng hoang,
Nghĩ rằng đây chính
nơi con chết,
Ích lợi gì đời
sống của con?
11. Khi đã làm thòng
lọng vững vàng,
Buộc dây vào cổ thụ
bên đường,
Con nhìn quanh quẩn và
suy nghĩ:
Ai đó đang cư trú
giữa rừng?
12. Con thấy Phật-đà,
bậc trí nhân,
Từ bi đối với cõi
trần gian,
Ðang ngồi tĩnh tọa, tâm
thiền định,
Vô úy, Ngài không
sợ tứ phương.
13. Bỗng nhiên con rúng động
tâm can,
Kinh ngạc, lòng con thấy
lạ thường,
Ai ở trong rừng này đấy
nhỉ,
Thiên thần hay chỉ một
người phàm?
14. Thanh thản, và làm
khỏi tín tâm,
Ngài từ rừng ái
đạt ly tham,
Cảnh con thấy khiến tâm
an tịnh,
Ðây chẳng ai ngoài
Tối Thượng nhân.
15. Tất cả các căn
khéo hộ phòng,
Hân hoan thiền định, trí
tinh thông,
Ngồi đây ắt hẳn
Ngài Viên Giác
Từ ái hướng tâm
đến cõi trần.
16. Như sư tử trú ẩn
hang rừng,
Khơi dậy niềm lo sợ hãi
hùng,
Vô địch, không loài
nào đánh phá,
Cơ may thật hiếm thấy hoa
sung.
17. Với những lời thân
ái dịu dàng,
Ðức Như Lai dạy
bảo cùng con:
'Raj-ju, hãy đến nơi an
trú
Quy ngưỡng Như Lai, đức
Thế Tôn'.
18. Khi được nghe âm
điệu của Ngài
Nhẹ nhàng, đầy
ý nghĩa, êm tai,
Ngọt ngào, hiền dịu và
thân ái
Xua hết bao sầu não ở
đời.
19. Như Lai từ mẫn khắp
trần gian,
Biết rõ tâm con đã
sẵn sàng,
Ðầy đủ tín
thành và sáng suốt,
Ngài liền cất tiếng dạy
con rằng:
20. Ðây là Khổ Thánh
đế, Ngài khuyên,
Khổ Tập là nguồn
gốc khởi lên,
Khổ Diệt là đây,
Tam Thánh đế,
Ðường vào Bất
tử, Ðạo bình yên.
21. Cương quyết theo lời khuyến
dụ kia
Của Ngài thuần thiện,
đấng Từ bi,
Con liền đạt đến tâm
an tịnh,
Bất tử, Niết-bàn, không
thoái suy.
22. Tâm con kiên định
ngập tình thương,
Tin tưởng vào Tam Bảo
vững vàng,
Bất động trong con niềm
chánh kiến,
Con là đích nữ
bậc Y Vương.
23. Nay con hưởng lạc thú,
vui chơi,
Hoan hỷ, vô ưu, khắp cõi
trời,
Con đội tràng hoa Thiên
nữ đẹp,
Cam lồ con uống tạo niềm
vui.
24. Sáu mươi ngàn
nhạc cụ đàn tơ
Thức tỉnh con từ giấc
ngủ mơ:
Alamba, Gaggara, Bhìma,
Sàdhuvadin và Samsaya.
25. Pokkhara và Suphassa,
Vìnàmokkhà cùng
các nàng kia,
Nandà cũng như Sunandà,
Sonadinà và Sucimhità.
26. Alambusà, Missakesi,
Cùng nàng tiên ác
Pundarikà,
Eniphassà, Suphassà,
Subhaddà và Muduvàdinì.
27. Các nàng Thiên nữ
diễm kiều này
Ðánh thức thần
tiên lúc ngủ say,
Buổi sáng các nàng
thường đến bảo:
'Chúng em múa hát giúp
vui đây'.
28. Nan-da-na, Hỷ lạc Viên này,
Không phải để dành
cho những ai
Chẳng tạo tác nên
nhiều phước nghiệp,
Mà dành riêng biệt để
cho người
Ðã hoàn thành
được nhiều công đức,
Là Ðại Lâm viên
của cõi trời
Tam thập tam thiên đầy
lạc thú,
Không gì phiền não, mãi
vui chơi.
29. Chẳng đời này
hoặc ở đời sau,
Cựu lạc dành cho những
kẻ nào
Không tạo tác nên
nhiều phước nghiệp,
Song đời này lẫn
cõi đời sau
Ðể dành cực lạc
cho bảo kẻ
Làm các thiện hành,
phước nghiệp cao.
30. Với những ai mong chúng
bạn hiền,
Phải làm thiện nghiệp thật
tinh chuyên,
Vì người tạo được
nhiều công đức,
Hưởng lạc thú nhiều
ở cõi thiên.
31. Như Lai xuất hiện ở trên
đời
Là chính vì an lạc
mọi loài,
Xứng đáng cho người
dâng lễ vật,
Phước điền vô thượng
của bao người,
Sau khi dâng lễ, tâm thành
kính,
Các thí chủ vui hưởng
cõi trời.
Tổng Kết
Lâu đài đỏ
sẩm, Lâu đài sáng chói, Lâu
đài trên con voi, Lâu đài Alomà,
Lâu đài của người cúng cháo
gạo, Lâu đài tinh xá, Lâu đài
Bốn nữ nhân, Lâu đài vườn
xoài, Lâu đài hoàng kim, Lâu đài
do cúng mía, Lâu đài do sự đảnh
lễ, Lâu đài Rajjumàlà.
Phẩm này được biết
qua các chuyện trên.
Phẩm Bốn : Lâu Ðài
Nữ Nhân
[Phẩm trước][Mục
lục][Phẩm kế][
^ ]
|