|
Phẩm V
-ooOoo-
Ðại xa
1. (51) Chuyện Thứ
Nhất - Lâu Ðài Tiên Nhái (Mandukadevaputta-Vimàna)
Bấy giờ, đức Thế Tôn
ở tại Campà (Chiêm-bà) trên
bờ ao sen Gaggarà. Từ rạng đông,
vừa xuất định Ðại bi, Ngài
quán sát: 'Hôm nay về buổi chiều lúc Ta
thuyết pháp, một con nhái nghe giọng Ta và mải
mê theo dõi, liền bị một kẻ nào đó
sát hại, sẽ phải chết. Nó sẽ được
tái sanh lên thiên giới và sẽ trở
lại trong khi hội chúng đang chăm chú
nghe, do vậy sẽ có sự thông hiểu Giáo
pháp rộng rãi'.
Khi mọi việc trong ngày xong xuôi,
Ngài bắt đầu thuyết giảng cho tứ
chúng đệ tử tại bờ ao. Lúc ấy
một con nhái suy nghĩ: 'Ðây được
gọi là pháp', nó liền ra khỏi ao và
ngồi ở cuối đám thính chúng.
Một kẻ chăn bò thấy
bậc Ðạo Sư thuyết giảng và hội
chúng đang yên lặng lắng nghe, bèn
đứng dựa vào cây gậy cong và
đạp nhằm con nhái. Con nhái được
tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba trong
một Lâu đài bằng vàng rộng mười
hai do-tuần và được một đám
tiên nữ hầu cận.
Khi suy nghĩ lại nghiệp nào
đã khiến cho mình được tái
sanh ở đó, vị Thiên tử thấy
không có gì ngoài sự chăm chú
nghe lời đức Thế Tôn.
Ngay lập tức chàng cùng
Lâu đài ấy giáng trần, bước
ra ngoài vừa thấy đức Thế Tôn,
liền đến yết kiến và cung kính đảnh lễ
Ngài. Ðức Thế Tôn muốn thị hiện
oai nghi của Ngài bèn hỏi kệ:
1. Chàng Thiên tử
sắc đẹp siêu phàm,
Tiên chúng vây quanh đủ
lực thần,
Ðang chiếu khắp mười
phương sáng chói,
Là ai, chàng đảnh
lễ ta chăng?
Vị Thiên tử bèn ngâm
kệ giải thích tiền thân của chàng:
2. Con là một nhái
bén ngày xưa,
Loài vật sinh ra ở nước
hồ,
Trong lúc con nghe Ngài thuyết
pháp,
Bỗng con chết bởi chú chăn
bò.
3. Ai muốn trong chốc lát
tịnh tâm,
Hãy nhìn uy lực đủ
thần thông,
Oai nghi, dung sắc, đoàn
hầu cận,
Và ánh hào quang của
chính con.
4. Những vị chuyên nghe
pháp đã lâu,
Bạch Cồ-đàm Phật,
đấng ly sầu,
Những người ấy đạt
tâm không động,
Ði đến nơi không
có khổ đau.
Sau đó đức Thế Tôn,
nhìn thấy rõ các khả năng mà
hội chúng ấy đã đạt được,
bèn thuyết pháp đầy đủ chi tiết.
Vào lúc Ngài kết thúc bài giảng,
chàng Thiên tử nhái đã được
an trú vào quả Dự Lưu. Sau khi cung kính
đảnh lễ đức Thế Tôn, chàng
trở về cõi trời.
2. (52) Chuyện thứ
hai - Lâu Ðài Của Revatì (Revatì-Vimàna)
Bấy giờ, đức Thế Tôn
trú gần Bàrànasi, (Ba-la-nại)
tại Isipatana (Trú xứ chư Tiên),
trong Lộc Uyển. Thời ấy có một đệ tử
cư sĩ, bố thí rất hào phóng
và phụng sự Tăng chúng tên Nandiya,
Cha mẹ chàng muốn chàng cưới cô
em họ Revatì, nhưng nàng không mộ
đạo, không sẵn lòng bố thí,
nên Nandiya không thích lấy nàng.
Sau đó bà mẹ bảo chàng:
- Nàng ấy sẽ theo lời
khuyên của ta.
Thế là chàng bằng lòng
và họ kết hôn với nhai, sinh được hai
con trai.
Sau đó Nandiya chuyên
tâm bố thí rộng rãi, chàng xây
một sảnh đường tại tinh xá ở
Isipatana và dâng lên đức Như
Lai cùng rảy nước cúng dường vào
tay Ngài. Ðồng thời, tại cõi trời
Ba mươi ba xuất hiện một Lâu đài
rộng mười hai do-tuần với cả đoàn
tiên nữ hầu cận.
Tôn giả Mahà-Moggallàna
du hành lên thiên giới, trông thấy
Lâu đài bèn hỏi đức Thế
Tôn Lâu đài ấy được dành
cho ai. Ðức Thế Tôn ngâm kệ:
1. Một người lữ
khách tha phương
An toàn lui gót cố hương
trở về,
Thân nhân, quyến thuộc,
bạn bè
Ân cần chào đón
tràn trề hân hoan.
2. Cũng như thiện nghiệp đã
làm
Sẽ luôn chào đón
sẵn sàng thiện nhân,
Một khi từ giã cõi
trần,
Khác gì quyến thuộc đón
mừng đời sau.
(Pháp Cú 219-220)
Nghe điều này, Nandiya càng
hân hoan bố thí và thực hành phước
đức. Sau đó chàng đi làm
công việc xa nhà và dặn Revatì tiếp
tục thi hành thiện sự với lòng tinh cần.
Nàng chấp thuận, nhưng trong khi xa nhà,
chàng vẫn tiếp tục cúng dường Tăng
chúng và bố thí cho kẻ nghèo
khổ, thì nàng chỉ vài ngày sau đã
ngưng bố thí cho kẻ nghèo khổ, đem
cúng dường thực phẩm loại xấu
lên chư Tăng và rải số cá thịt
vụn khắp nơi để chư Tăng bị khiển
trách.
Khi Nandiya trở về nghe mọi chuyện,
liền giao trả Revatì lại cho nhà cha mẹ
nàng nhưng vẫn cấp dưỡng nàng
nhiều hơn. Một thời gian sau chàng từ trần
và được tái sanh vào cõi trời
Ba mươi ba trong Lâu đài đã
được dành cho chàng.
Phần nàng đã ngưng
mọi việc bố thí cúng dường và vẫn
còn nhục mạ chư Tăng:
- Chính vì họ mà tất
cả tài sản và lợi lộc của ta đều
giảm sút.
Lúc ấy Thiên vương
Vessavana (Tỳ-sa-môn) truyền bảo hai quỷ Yakkha
(Dạ-xoa) đến Bàrànasi thông
báo rằng Revatì sẽ bị ném vào
địa ngục vào ngày thứ bảy
kể từ hôm ấy. Dân chúng nghe chuyện này
đều kinh hoàng, nhưng Revatì đi
lên thượng lầu khóa cửa lại và
ngồi xuống.
Sau một tuần, hai quỷ Yakkha thật
dễ sợ với bộ râu tóc sáng lòa,
răng nhọn hoắc và mắt đỏ ngầu
như máu bước vào bảo:
- Này Revatì tính
tình độc ác kia hãy dậy đi.
Chúng chụp cổ nàng lôi
kéo khắp phố phường để mọi người
trông thấy, rồi đưa nàng lên
không gian đến cõi trời Ba mươi ba,
xong lại dẫn xuống địa ngục đầy
tội nhân mặc cho nàng than khóc thê
thảm.
Bọn ngục tốt của thần
Yama (Diêm Vương) thả nàng vào
địa ngục đầy tội nhân ấy.
Chuyện được kể như vầy:
3. Này đứng
lên, Re-va-tì ác tánh,
Cửa đưa vào địa
ngục đã mở toang,
Hỡi nữ nhân đủ
các thói xan tham,
Ta sẽ dẫn ngươi vào
miền ác thú,
Nơi kẻ đến phải khóc
than sầu khổ,
Kẻ bị giam vào ngục
chịu đau buồn.
Chư vị kết tập Kinh tạng
kể tiếp chuyện này:
4. Nói vậy xong hai quỷ dữ
mắt hồng,
Thân đồ sộ, là
Diêm vương sứ giả,
Re-va-tì, mỗi tay cầm một
gã,
Khởi hành lên hội
chúng của chư Thiên.
Như vậy được hai quỷ
Yakkha đưa lên cõi trời Ba mươi
ba, Revatì được đặt gần
Lâu đài của Nandiya và nhìn
thấy ánh sáng của Lâu đài
tỏa ra như mặt trời, nàng hỏi hai quỷ
này:
5. Lâu đài ai
tấp nập cả bầy tiên,
Ðang lấp lánh như
mặt trời sáng chói,
Cõi Thiên cung được
bao vây bằng lưới
Dệt vàng đang chiếu tựa
ánh chiêu dương.
6. Ðoàn tiên nương
tẩm đệ nhất chiên-đàn,
Tô điểm đẹp cho
tiên cung mọi mặt,
Vẻ tráng lệ, Lâu đài
như vầng nhật,
Ai sanh Thiên, đang hưởng
cảnh Lâu đài?
Bọn chúng bảo nàng:
7. Xưa ở thành Ba-la-nại
một người
Có tên gọi Nan-di-ya cư
sĩ,
Không xan tham, chàng cúng
dường hậu hỉ,
Ðây Lâu đài
chàng,thị nữ cả đoàn,
Ðang sáng bừng như
ánh mặt trời quang.
8. Ðàn tiên nữ tẩm
chiên-đàn đẹp nhất,
Ðang làm đẹp cho
Lâu đài mọi mặt,
Vẻ diễm kiều không khác
ánh mặt trời,
Chàng sanh Thiên đang
hưởng cảnh Lâu đài.
Nàng đáp lại:
9. Ta là vợ Nan-di-ya
thuở trước,
Nữ chủ nhân nắm quyền
khắp gia tộc,
Nay muốn cùng chàng
hưởng cảnh Lâu đài,
Ta chẳng mong nhìn địa
ngục trần ai.
Song bọn chúng bảo:
- Ngươi có mong muốn
hay không thì có liên quan gì đến
ta?
Và chúng ngâm kệ:
10. Ðây địa
ngục dành cho ngươi độc dữ
Trong thế gian nơi loài người
cư trú,
Phước đức không
hề được chính ngươi làm,
Những kẻ nào đầy
sân hận xan tham,
Tính ác độc không
thể nào đạt tới
Cảnh đồng cư với
người lên thiên giới.
Nói vậy xong hai quỷ Yakkha biến
mất ngay tại đó. Nhưng khi nhìn
thấy hai ngục tốt tương tự sắp
kéo nàng và thả vào Phẩn nị
địa ngục (địa ngục đầy
phân dơ) tên là Samsavaka, nàng lại
hỏi:
11. Cái gì đây
để lộ đám phân dơ,
Cái gì đây mùi
xú uế bốc ra,
Phân gì đó đang
bồng bềnh trôi chảy?
12. Sam-sa-ka bách trượng
sâu là đấy.
Re-va-tì sẽ cháy mấy
ngàn năm.
Nàng hỏi thêm:
13. Những ác hành
nào về khẩu, ý, thân,
Khiến ta đến Sam-sa-ka bách
trượng?
Chúng đáp:
14. Ðám lữ hành,
Bà-la-môn, Trưởng thượng,
Ngươi đều đem lời
dối trá phỉnh lừa,
Ðây chính là ác
nghiệp tạo ngày xưa.
15. Vậy ngục Sam-sa-ka sâu
bách trượng
Chính là nơi Re-va-tì
được hưởng,
Và bị thiêu đốt
cả mấy ngàn năm.
Sau đó chúng kể cho
nàng nghe các khổ hình:
16. Ngục tốt đem chặt
đứt cả tay chân,
Chúng cắt cả đôi
tai cùng chiếc mũi,
Và sau đó bầy
quạ diều ùa tới,
Xâu xé người đang
giãy giụa đằng kia.
Nàng lại kêu gào van xin
chúng đưa nàng trở lại cõi
người:
17. Tốt lành thay nếu
ta được đưa về,
Ta sẽ tạo phước nhiều
nhờ bố thí,
Sống chế ngự, tự điều
thân, hoan hỷ,
Những người làm như
vậy hạnh phúc tràn,
Và ngày sau không hối
hận ăn năn.
Bọn ngục tốt đáp lời:
18. Ngày xưa ngươi
sống buông lung phóng dật,
Nên ngày nay phải khổ
đau than khóc,
Phải chịu bao nghiệp quả
chính ngươi làm.
Và nàng lại nói:
19. Ai từ trên thiên
giới xuống trần gian
Phải nói vậy cùng
ta khi được hỏi:
'Nên cúng dường cho
những người giữ giới
Thức uống ăn, y phục
với tọa sàng'.
20. Còn kẻ nào đầy
sân hận xan tham,
Và ác tánh không
thể nào cộng trú
Với những người lên
cõi trời, thiện thú.
21. Ví từ đây ta
trở lại làm người,
Giữ giới và hào
phóng, sống trong đời,
Ta sẽ thực hiện biết bao thiện
sự
Do bố thí, công bằng,
tâm chế ngự.
22. Lòng tín thành, ta
sẽ lập vườn hoa,
Và đắp đường
trong khoảng đất hoang sơ,
Xây hồ nước, giếng
đào cho dân chúng.
23. Ngày mười bốn,
ngày rằm và mồng tám,
Ðặc biệt ngày nửa
tháng có liên quan
Bát quan trai là giới
luật tám phần.
24. Bố-tát giới, ta sẽ
luôn phòng hộ,
Không phóng dật và
giữ gìn đức độ,
Chuyên cúng dường,
việc ta thấy thật lòng.
Các vị kết tập Kinh điển
kể tiếp chuyện này.
25. Trong khi nàng giãy giụa,
hét đau thương,
Chúng liền thả chân nàng,
đầu lộn xuống,
Vào địa ngục kinh
hoàng sâu trăm trượng.
Và nàng ngâm câu kệ cuối
cùng:
26. Ngày xưa ta vốn
biển lận, xan tham,
Phỉ báng nhiều ẩn sĩ,
Bà-la-môn,
Và lừa phỉnh chồng
ta bằng lời dối,
Nay cháy trong ngục kinh hoàng
u tối.
Các vị kết tâp Kinh điển
kết luận bằng câu này:
'Bấy giờ không có Thiên
nữ nào trong Lâu đài của Revatì,
nhưng vì chuyện có liên quan đến việc Nandiya
Thiên tử đạt được Lâu đài,
nên nó cũng xếp vào phẩm Lâu đài
Nam giới'.
3. (53) Chuyện thứ
ba - Lâu Ðài Của Chatta, Nam tử Bà-la-môn
(Chattamànava-Vimàna)
Bấy giờ, đức Thế Tôn
đang trú tại Sàvatthi trong Kỳ Viên.
Thời ấy có một nam tử Bà-la-môn
tên Chatta đã học tập xong dưới
sự hướng dẫn của một Bà-la-môn
ở Setavyà và đã đi về nhà
xin được một ngàn đồng tiền kahàpana
của cha mẹ để làm học phí, rồi
khởi hành trở lại Setavyà đem
trả cho thầy. Bọn cướp nghe được
tin này bèn lập mưu để giết chàng
và cướp của trên đường.
Lúc ấy bậc Ðạo
Sư vừa xuất định Ðại bi liền
khởi hành từ sáng sớm đến ngồi
dưới gốc cây trên con đường
chàng sắp đi qua.
Khi chàng trai đi qua, Ngài
hỏi thăm công việc của chàng và
sau đó hỏi chàng đã biết Tam
quy y và Ngũ giới chưa. Chàng trả lời
chưa, và đức Thế Tôn dạy chàng
học Tam quy Ngũ giới.
1. Giữa thế nhân, Ngài
biện tài đệ nhất,
Ðức Thế Tôn, đại
trí, tộc Thích-ca,
Phận sự xong, Ngài đã
đến bờ kia,
Ngài đầy đủ
lực hùng và cương nghị.
2. Hãy đi đến quy y Ngài
Thiện Thệ,
Ðạo pháp này ly
ái dục, vô phiền,
Pháp không do tạo tác,
thật diệu huyền,
Thật êm ái, khéo
giải bày phân tích.
3. Ðời thường nói:
quả đem nhiều lợi ích
Khi cúng dường lên
Tám vị tịnh tâm
Trong Bốn đôi gồm
Giác giả chân nhân,
Hãy đi đến quy y vào
Thánh chúng.
Trong khi chàng đi đường,
ghi nhớ các điều trên vào lòng,
bọn cướp tấn công và giết chàng, lấy
hết tiền bạc. Song chàng được tái sanh
vào cõi trời Ba mươi ba cùng một
Lâu đài rộng ba mươi do-tuần
và tỏa ánh sáng hai mươi do-tuần.
Dân chúng ở Setavyà
tìm thấy xác chàng liền báo tin
cho cha mẹ chàng, còn những người từ
Ukkattha đến kể chuyện cho vị giáo sư và
đám tang được cử hành.
Rồi bậc Ðạo Sư
đi đến, để Chatta có cơ hội
giáng trần và nói rõ cho nhiều người
biết những nghiệp chàng đã làm. Chatta
cũng nghĩ như vậy nên chàng xuất
hiện cùng với Lâu đài của chàng.
Khi quần chúng tự hỏi:
'Ðây là Thiên thần hay Phạm Thiên?',
bậc Ðạo Sư liền hỏi kệ để làm
sáng tỏ phước nghiệp mà vị Thiên
tử này đã tạo:
4. Mặt trời không
sáng bừng lên như vậy,
Sao Phussa, vầng nguyệt cũng
không bằng
Ðại hào quang này
quả thực vô song,
Ai là vị giáng trần
từ thiên giới?
5. Ánh hào quang tràn
lan khắp một cõi
Hai chục do-tuần che ánh
mặt trời,
Mỹ cung này thanh tịnh,
sáng tuyệt vời
Thậm chí khiến màn đêm
như ánh nắng.
6. Với hoa sen đủ màu
cùng hoa súng
Trải khắp nơi tô điểm
đẹp vô ngần,
Bao phủ bằng màn lưới
dệt vàng ròng,
Lâu đài chiếu giữa
trời như vầng nhật.
7. Khoác xiêm y đỏ
hồng hay vàng rực,
Ngát mùi hương thạch
huệ với chiên-đàn,
Bầy tiên da láng mướt,
ánh như vàng,
Ðông đúc tựa
ngàn sao trời rực rỡ.
8. Ðây nhiều loại tiên
đồng và ngọc nữ
Ðeo đầy hoa, và
các món trang hoàng,
Theo gió đưa hương
phảng phất nhẹ nhàng,
Ðược bao phủ với
kim hoàn thất bảo.
9. Phép tu thân nào đây
là phước báo?
Nhờ nghiệp quả gì chàng
hóa sanh đây,
Làm thế nào chàng đến
mỹ lâu này?
Khi được hỏi, hãy
giải bày thứ tự.
Vị Thiên tử giải thích
qua các vần kệ này:
10. Khi Ðạo Sư đã
gặp chàng nam tử
Bà-la-môn trên đại
lộ vùng này,
Với từ bi, Ngài giáo
giới giảng bày,
Chat-ta đã được
nghe Ngài thuyết pháp,
Ðấng Phật Bảo, 'Xin
phụng hành', chàng đáp.
11. Con đến gần người
Chiến thắng huy hoàng
Ðể quy y Giáo pháp với
Tăng đoàn,
Bạch Thế Tôn, con nói
'không' trước nhất,
Sau đó con hành trì
theo giới luật.
12. Không sống theo tà
hạnh tạo đau thương,
Vì các trí nhân
không thể tán dương
Sự buông thả đối
với loài sinh vật,
Bạch Thế Tôn, con nói
'không' trước nhất,
Rồi về sau con giữ đúng
luật Ngài.
13. Không lấy vật gì,
sở hữu của ai,
Không thể nghĩ: của không
cho mà lấy,
Bạch Thế Tôn, con nói
'không' trước đấy,
Rồi về sau con giữ đúng
luật Ngài.
14. Tà hạnh là đi
đến vợ của ai,
Những phụ nữ được
người nhà che chở.
Bạch Thế Tôn, con nói
'không' trước đó,
Rồi về sau con giữ đúng
luật Ngài.
15. Ðừng nói điều
dối trá hoặc sai lời,
Vì bậc trí không
tán dương dối trá,
Bạch Thế Tôn, con nói
'không' trước đó,
Rồi về sau con giữ đúng
luật Ngài.
16. Chất rượu nồng
làm lý trí xa rời
Con người - Vậy hãy
tránh luôn tất cả.
Bạch Thế Tôn, con nói
'không' trước đó,
Rồi về sau con giữ đúng
luật Ngài.
17. Quả thực con hành Ngũ
giới trên đời,
Ði đúng hướng
theo Như Lai Chánh pháp,
Trên con đường, giữa
hai làng, gặp cướp,
Chúng giết con vì của
cải gia tài.
18. Con thi hành thiện sự đúng
mức này,
Vượt mức ấy không
thể làm công đức,
Nhờ thiện hạnh, hóa sanh
theo nghiệp lực,
Lên cõi trời, hưởng
lạc thú thỏa lòng.
19. Hãy nhìn đây
do lối sống tương đồng
Với Chánh pháp, và
thực hành giới luật.
Khi lắm kẻ ít niềm vui
ao ước
Hạnh phúc con đang sáng
chói huy hoàng.
20. Hãy xem nhờ tiểu pháp
ấy gọn gàng,
Ðến thiện thú, con đạt
niềm an lạc;
Vậy con nghĩ những ai thường
nghe Pháp,
Sẽ đạt thành Bất
tử, tối an bình.
21. Theo Giáo pháp Như
lai, việc thực hành
Dù ít, quả vẫn được
nhiều lợi lớn.
Nhìn Chat-ta nhờ thiện hành,
chiếu sáng
Cõi đất này chẳng
khác mặt trời kia.
22. Vậy thiện hành, ta có
thể làm gì?
Một số kẻ vẫn cùng
nhau thảo luận.
Nếu ta muốn lại làm người,
hãy sống,
Bước trên đời
theo giới luật thực hành.
23. Ðạo Sư vì lợi
ích, xót quần sanh,
Sáng sớm gặp ta trong tình
cảnh ấy.
Ta đến gần Ngài xứng
danh như vậy,
'Xin từ bi cho học Pháp Thế
Tôn'.
24. Những ai đây dứt
luyến ái dục tham,
Hữu ái tùy miên,
si mê tận diệt,
Những người nào không
nhập thai kế tiếp,
Sẽ đạt thành tịch
tịnh, chứng Niết-bàn'.
Khi bậc Ðạo sư đã
thuyết giảng cho hội chúng xong, vị Thiên
tử được an trú vào quả Dự
Lưu, đảnh lễ đức Thế Tôn và
từ biệt song thân, trở về thiên giới.
4. (54) Chuyện thứ
tư - Lâu Ðài Của Người Cúng
Cháo (Kakkatakarasadàyaka-Vimàma)
Bấy giờ, đức Thế Tôn
trú tại Ràjagaha trong Trúc Lâm.
Thời ấy một Tỷ-kheo đang thực hành
thiền quán bỗng ngã bệnh vì chứng đau
tai rất trầm trọng. Thuốc chữa của y sĩ
chẳng công hiệu gì. Vị ấy trình
với đức Thế Tôn, Ngài biết cháo
cua là thứ thuốc chữa bệnh ấy, bèn
dặn vị Tỷ-kheo đến khất thực ở vùng
đồng ruộng nước Ma-kiệt-đà.
Vị ấy đến đó
và đứng khất thực tại cửa
lều người giữ ruộng. Người này, sau
khi nấu món cháo cua làm thức ăn,
liền mời vị ấy ngồi và cúng một
ít cháo.
Vị Tỷ-kheo vừa nếm món cháo
thì trở nên khoẻ mạnh như thể được
tắm với cả trăm gàu nước mát.
Tâm trí thanh thản nhờ thức ăn thích
hợp, vị ấy hướng tâm trở về thiền
quán và chứng đắc quả A-la-hán
ngay cả trước khi ăn xong bữa. Vị ấy
bảo người giữ ruộng:
- Này cư sĩ, nhờ phước
quả công đức này, Hiền hữu sẽ
không còn bị thân bệnh và tâm bệnh
nữa.
Chúc phước xong, vị ấy
ra đi. Về sau người giữ ruộng từ trần,
được tái sanh vào cõi trời Ba
mươi ba trong một căn phòng làm bằng
ngọc bích, giữa một tòa Lâu đài
bằng vàng rộng mười hai do-tuần, trụ
bằng ngọc được trang hoàng uy nghiêm
với bảy trăm sảnh đường có
nóc nhọn cao vút. Trước cửa lâu đài,
một con cua bằng vàng được treo trên
một chuỗi ngọc trai. Tôn giả Mahà-Moggallàna
du hành lên thiên giới, thấy cảnh
này, liền hỏi:
1. Lầu các trụ
cao bằng ngọc bích,
Mười hai dặm trải rộng
chung quanh,
Bảy trăm nóc nhọn huy hoàng
quá,
Trụ ngọc, nền vàng thật
hiển vinh.
2. Chàng uống ăn, và
trú lạc an,
Khi đàn tiên trổi
khúc du dương,
Ðây là thiên lạc
đầy năm thứ,
Tiên nữ múa, trang điểm
ngọc vàng.
3. Vì sao chàng được
sắc như vầy,
Vì cớ gì chàng
vinh hiển đây,
Những lạc thú nào
chàng mến chuộng
Trong tâm, đều xuất hiện
ra ngay?
4. Hỡi chàng Thiên tử
đại oai thần,
Chàng tạo đức
gì giữa thế nhân,
Thần lực chàng vì
sao rực rỡ,
Dung quang tỏa sáng khắp
mười phương?
5. Chàng Thiên tử ấy
hỷ tâm tràn,
Ðược Mục-liên
Tôn giả hỏi han,
Chàng giải đáp
ngay phần hạnh nghiệp,
Và đây là kết
quả cho chàng:
6. 'Kìa trên cửa nọ có
cua vàng
Ðứng để nhắc con
nhớ rõ ràng
Những hạnh nghiệp làm
trong quá khứ,
Cua này sáng chói cả
mười càng.
7. Vì vậy sắc con đẹp
thế này,
Và con vinh hiển ở nơi đây,
Bất lỳ lạc thú nào
trong dạ
Yêu chuộng, tức thì
xuất hiện ngay.
8. Xin trình Tôn giả đại
oai thần
Công đức con làm
giữa thế nhân,
Nhờ thế oai nghi con rực rỡ,
Dung quang tỏa sáng khắp
mười phương'.
5. (55) Chuyện thứ
năm - Lâu Ðài Của Người Giữ
Cửa (Dvàrapàlaka-Vimàna)
Bấy giờ, đức Thế Tôn
đang trú tại Ràjagaha trong Trúc
Lâm. Thời ấy, một đệ tử cư sĩ
chuẩn bị bốn buổi ngọ trai vĩnh viễn
cúng dường Tăng chúng. Song lo sợ trộm
cướp, vị ấy thường khóa cửa
nhà vì nhà vị ấy tọa lạc ở
ranh giới tận cùng của kinh thành.
Bởi thế chư Tỷ-kheo đến theo
lời mời thọ thực đôi khi phải chịu
đói trở về. Vị ấy nghe vợ kể lại
chuyện này, bèn chỉ định một người
giữ cửa đón chư Tỷ-kheo đến đó
và phục vụ chu đáo.
Khi vị thí chủ từ trần,
vị ấy được tái sanh vào cõi
Dạ-ma thiên, còn người giữ cửa,
khi từ trần, được tái sanh vào
cõi trời Ba mươi ba trong một Lâu đài
bằng vàng rộng mười hai do-tuần, giống
như trong truyện trước.
Khi được Tôn giả Mahà-Moggallàna
hỏi như trên, vị ấy đáp lại:
Các câu kệ từ 1 đến
5 giống chuyện 54.
6. 'Cõi thiên thọ mạng
cả ngàn năm,
Thiện nghiệp con là đã
tán xưng,
Ðảnh lễ thành tâm
và bởi vậy,
Người hành công đức
sẽ trường tồn,
Ðược cung cấp với
nhiều thiên lạc
Trên cõi trời cao hưởng
phước phần.
7. Vì vậy sắc con đẹp
thế này,
Và con vinh hiển ở nơi đây,
Bất kỳ lạc thú nào
trong dạ
Yêu chuộng, tức thì
xuất hiện ngay.
8. Xin trình Tôn giả đại
oai thần
Công đức con làm
giữa thế nhân,
Nhờ thế oai nghi con rực rỡ,
Dung quang tỏa sáng khắp
mười phương'.
6. (56) Chuyện thứ
sáu - Lâu Ðài Do Công Ðức
Thiện Sự (Karanìya-Vimàna)
Bấy giờ, đức Thế Tôn
đang trú tại Sàvatthi trong Kỳ Viên.
Một đệ tử tại gia, sau khi đi tắm về
từ sông Aciravati, đến yết kiến và thỉnh
cầu đức Thế Tôn thọ trai tại nhà
mình rồi tiếp đãi Ngài rất long
trọng. Phần còn lại cũng giống như
chuyện trước.
Vị Thiên tử đáp
lời như sau:
Các kệ từ 1 đến 5 giống
chuyện 54.
6. Phước nghiệp phải
làm bởi trí nhân,
Là người có trí
tuệ tinh thông,
Cho nên những vật đem
dâng cúng
Chư Phật chánh chân
quả bội phần.
7. Phật-đà quả thật
đã xuất hành
Vì muốn cho an lạc chúng
sanh,
Ngài đã từ rừng
vào xóm ấy,
Con lên Ðao-lợi bởi
tâm thành.
8. Vì vậy sắc con đẹp
thế này,
Và con vinh hiển ở nơi đây,
Bất kỳ lạc thú nào
trong dạ
Yêu chuộng, tức thì
xuất hiện ngay.
9. Xin trình Tôn giả đại
oai thần,
Công đức con làm
giữa thế nhân,
Nhờ đó oai nghi con rực
rỡ,
Dung quang tỏa sáng khắp
mười phương.
7. (57) Chuyện thứ
bảy - Lâu Ðài Thứ Hai Do Công Ðúc
Thiện Sự (Dutiyakaraniya-Vimàna)
Chuyện này cũng giống chuyện
thứ sáu, trừ điểm ở chuyện trước,
thực phẩm cúng dường đức Thế
Tôn, còn ở đây dâng một Trưởng
lão.
Các kệ từ 1 đến 5 giống
chuyện 54.
6. Công đức phải
làm bởi trí nhân,
Là người có trí
tuệ tinh thông,
Cho nên những vật đem
dâng cúng
Trưởng lão chánh
chân quả bội phần.
7. Chính Tỳ-kheo nọ đã
đi ra
Vì muốn cho con lợi lạc
mà,
Ngài đã vào rừng
từ xóm ấy,
Tâm thành, con đạt
cõi Băm-ba.
8.Vì vậy sắc con đẹp
thế này,
Và con vinh hiển ở nơi đây,
Bất kỳ lạc thú nào
trong dạ
Yêu chuộng, tức thì
xuất hiện ngay.
9. Xin trình Tôn giả đại
oai thần
Công đức con làm
giữa thế nhân,
Nhờ đó oai nghi con rực
rỡ,
Dung quang tỏa sáng khắp
mười phương.
8. (58) Chuyện thứ
tám - Lâu Ðài Do Cúng Cây Kim (Sùci-Vimàna)
Bấy giờ, đức Thế Tôn
đang trú tại Ràjagaha trong Trúc
Lâm. Thời ấy có việc may y cho Tôn giả
Sàriputta nên cần một cây kim.
Khi đến khất thực tại
nhà một thợ rèn và được hỏi
Tôn giả cần thứ gì, Tôn giả
liền nói về nhu cầu kia. Người thợ rèn
có tâm thành tín cúng dường
Tôn giả hai cây kim và dặn Tôn giả
phải nói nếu còn cần thêm nữa.
Sau khi từ trần, người
thợ rèn được tái sanh vào cõi
trời Ba mươi ba và Tôn giả Mahà-Moggallàna
hỏi vị Thiên tử:
(Các kệ từ 1 đến 5 giống
chuyện 54)
6. Những gì ban tặng,
vật đem cho,
Riêng kết quả không giống
thế kia,
Những vật gì cần
đem cúng cấp,
Chính riêng điều ấy
tốt hơn xa,
Một cây kim được
con dâng cúng,
Ðối với con, kim lợi
lạc to.
7. Vì vậy sắc con đẹp
thế này,
Và con vinh hiển ở nơi đây,
Bất kỳ lạc thú nào
trong dạ
Yêu chuộng, tức thì
xuất hiện ngay.
8. Xin trình Tôn giả đại
oai thần
Công đức con làm
giữa thế nhân,
Nhờ đó oai nghi con rực
rỡ,
Dung quang tỏa sáng khắp
mười phương.
9. (59) Chuyện thứ
chín - Lâu Ðài Thứ Hai Do Cúng
Cây Kim (Dutiyasùci-Vimàna)
Thời ấy, Ðức Thế Tôn
đang trú tại Ràjagaha trong Trúc
Lâm. Bấy giờ một người thợ may nọ
thấy một Tỷ-kheo vá áo với cây kim
được rèn tại Trúc Lâm, bèn
cúng dường vị ấy vài cây kim
của mình cùng chiếc bao.
Câu hỏi được đặt
cho người thợ may sau khi người ấy được
tái sinh vào cõi trời Ba mươi ba cũng
giống chuyện trước.
(Các kệ từ 1 đến 5 giống
chuyện 54).
6. Kiếp xưa sinh ở chốn
phàm trần,
Con được làm người
giữa thế nhân,
Thấy một Tỷ-kheo vô lậu
hoặc,
An nhiên tâm trí, chẳng
mê lầm,
Với Ngài, con có lòng
thành kính,
Bèn lấy kim, tay tự
cúng dâng.
7. Vì vậy sắc con đẹp
thế này,
Và con vinh hiển ở nơi đây,
Bất kỳ lạc thú nào
trong dạ
Yêu chuộng, tức thì
xuất hiện ngay.
8. Xin trình Tôn giả đại
oai thần
Công đức con làm
giữa thế nhân,
Nhờ đó oai nghi con rực
rỡ,
Dung quang tỏa sáng khắp
mười phương.
10. (60) Chuyện thứ
mười - Lâu Ðài Con Voi (Nàga-Vimàna)
Bấy giờ, đức Thế Tôn
đang trú tại Sàvatthi trong Kỳ Viên.
Lúc ấy Tôn giả Mahà-Moggallàna
du hành lên cõi trời Ba mươi ba,
thấy một Thiên tử cỡi một đại
tượng thuần bạch cùng một đoàn
tùy tùng đông đảo bay qua không
gian tiến về phía Tôn giả.
Vị Thiên tử xuống voi
và đảnh lễ, Tôn giả liền hỏi
vị ấy về hạnh nghiệp đã làm:
1. Ngự trên bạch
tượng sáng toàn thân,
Thuần chủng, phi nhanh, thật
tráng hùng.
Voi báu huy hoàng, khăn
phủ đẹp,
Chàng đến đây
qua giữa cõi không.
2. Bên trên của mỗi chiếc
ngà voi
Xuất hiện hồ sen nở đẹp
tươi,
Trong tựa pha lê làn
nước mát,
Từng đoàn nữ nhạc
bước ra ngoài
Giữa hoa sen khiến lòng mê
mẩn,
Tiên chúng này đang
múa tuyệt vời.
3. Hỡi chàng Thiên tử
đại huy hoàng,
Chàng đã đạt
bao đại lực thần,
Công đức gì xưa
chàng đã tạo
Khi tái sinh làm một thế
nhân,
Vì sao thần lực chàng
ngời sáng,
Dung quang chiếu tỏa khắp mười
phương?
4. Chàng Thiên tử ấy
hỷ tâm tràn,
Ðược Mục-liên
Tôn giả hỏi han,
Chàng giải đáp
ngay phần hạnh nghiệp,
Và đây là kết
quả cho chàng:
5. 'Tự tay con lấy tám
hoa tàn,
Và với thành tâm,
đến cúng dường
Ở tại nơi kia là bảo
Tháp
Phật-đà Ca-diếp đại
vinh quang.
6. Vì vậy sắc con đẹp
thế này
Và con vinh hiển ở nơi đây,
Bất kỳ lạc thú nào
trong dạ
Yêu chuộng, tức thì
xuất hiện ngay.
7. Xin trình Tôn giả đại
oai thần,
Công đức con làm
giữa thế nhân,
Nhờ đó oai nghi con rực
rỡ,
Dung quang tỏa sáng khắp
mười phương.
11. (61) Chuyện thứ
mười một - Lâu Ðài Con Voi Thứ
Hai (Dutiyanàga-Vimàna)
Bấy giờ, đức Thế Tôn
đang trú tại Ràjagaha trong Trúc
Lâm. Thời ấy, một đệ tử tại gia
có lòng tin, sống theo giới luật, hành
trì ngày Bố-tát giới, cúng dường
Tăng chúng và đến nghe pháp tại
tinh xá cùng đem các tặng phẩm, nên
khi từ trần được tái sanh lên
cõi trời Ba mươi ba. Ở đó, một
voi trắng vĩ đại phục vụ vị
ấy cùng một đoàn hầu cận,
vị ấy thường đến du ngoạn trong hoa
viên.
Một hôm, lòng nôn nóng
muốn bày tỏ niềm tri ân, vị ấy
ngồi trên voi lúc nửa đêm từ
thiên giới xuống Trúc Lâm rồi đứng
đó trong dáng điệu sùng kính
trước đức Thế Tôn.
Tôn giả Vangìsa đang
đứng hầu Thế Tôn và được
Thế Tôn cho phép, bèn hỏi vị ấy:
1. Ngự trên bạch
tượng đại hùng cường,
Chàng dạo chơi và
được cả đoàn
Tiên nữ theo hầu quanh
thượng uyển,
Như sao cứu hộ sáng
mười phương.
2. Vì sao chàng được
sắc như vầy,
Vì cớ gì chàng
vinh hiển đây,
Những lạc thú nào
chàng mến chuộng
Trong tâm, đều xuất hiện
ra ngay?
3. Hỡi chàng Thiên tử
đại oai thần,
Chàng tạo đức
gì giữa thế nhân,
Nhờ thế oai nghi chàng rực
rỡ,
Dung quang chiếu sáng khắp mười
phương?
4. Chàng Thiên tử ấy
hỷ tâm tràn,
Ðược Mục-liên
Tôn giả hỏi han,
Liền giải đáp ngay phần
hạnh nghiệp,
Và đây là kết
quả cho chàng:
5. Kiếp xưa sinh giữa chốn
phàm nhân,
Là đệ tử Ngài có
Nhãn quang,
Con bỏ sát sinh loài
thú vật,
Tránh xa thói trộm cắp
tà gian.
6. Con không uống rượu,
chẳng sai lời,
Tri túc, không ham muốn
vợ người,
Thành tín, con cung dâng
thực phẩm
Dồi dào mọi thứ chẳng
hề vơi.
7. Vì vậy sắc con đẹp
thế này,
Và con vinh hiển ở nơi đây,
Bất kỳ lạc thú nào
trong dạ
Yêu chuộng, tức thì
xuất hiện ngay.
8. Xin trình Tôn giả đại
oai thần
Công đức con làm
giữa thế nhân,
Nhờ đó oai nghi con rực
rỡ,
Dung quang tỏa sáng khắp
mười phương.
12. (62) Chuyện thứ
mười hai - Lâu Ðài Con Voi Thứ Ba
(Tatiyanàga-Vimàna)
Bấy giờ, đức Thế Tôn
trú tại Ràjagaha ở Trúc Lâm.
Thời ấy ba vị Trưởng lão A-la-hán
đến một làng để an cư mùa mưa,
sau đó đi vào Ràjagaha đảnh
lễ đức Thế Tôn.
Lúc đi ngang qua đồn
điền mía của một Bà-la-môn có
tà kiến, chư vị hỏi người giữ
vườn:
- Chúng tôi có đến
Ràjagaha kịp hôm nay chăng?
- Thưa Tôn giả, không thể.
Còn một chặng đường dài độ
nửa do-tuần nữa, xin Tôn giả ở lại
đây và ngày mai đi tiếp.
- Ở đây có chỗ nào
chúng tôi có thể ở lại chăng?
- Thưa không, nhưng tôi
sẽ nói cho Tôn giả một chỗ.
Rồi người giữ vườn
ấy dựng gấp các lều tranh bằng thân
mía, khúc cây v.v..., kẻ ấy cúng
dường chư vị món cơm và nước
mía. Sau bữa cơm, kẻ ấy lại tiễn
đưa mỗi vị với một cây mía, vì
cho rằng cái đó lấy từ phần
sản phẩm của mình, nên ra về trong nỗi hân
hoan và đặt hy vọng vào sự an lạc
của mình mai sau.
Nhưng chủ nhân khu vườn
gặp chúng Tăng, hỏi chư vị làm
cách nào lấy được mía, và
khi nghe xong, liền đùng đùng nổi giận
chạy về vườn lấy gậy đánh người
kia chết ngay với một đòn như trời giáng.
Nhờ công đức trên,
vị ấy được tái sanh vào hội
chúng chư Thiên ở Thiện pháp đường
(Sudhammà), làm chủ một con voi toàn
trắng rất oai hùng.
Cha mẹ và bà con vị
ấy khóc thương khi đến dự đám
tang, nhưng vị ấy giáng trần giữa
mọi người trong cảnh uy nghi, rồi một người
bản chất thông minh đến hỏi thăm
vị ấy về thiện sự đã làm:
1. Từ cung trời ngự
xuống phàm trần,
Ai cỡi trên thiên tượng
trắng ngần,
Âm nhạc thiên đình
êm dịu trổi
Ðón chào ngài
giữa cõi không gian?
2. Có phải là Thiên
tử, Nhạc thần,
Sak-ka Thiên chủ, đại
danh lừng,
Ngày xưa bố thí
rất hào phóng,
Chưa biết ngài, ta muốn
hỏi han?
Vị ấy giải thích
vấn đề:
3. Chẳng phải là Thiên
tử, Nhạc thần,
Sak-ka Thiên chủ đại
danh lừng,
Ngày xưa bố thí
rất hào phóng,
Ta thuộc chư Thiên Thiện
pháp đường.
Người kia lại hỏi:
4. Ta hỏi ngài, này
Thiện pháp thiên,
Chắp tay, ta đảnh lễ
trang nghiêm:
Việc gì ngài tạo trong
nhân giới,
Nay Thiện pháp đường,
đã được lên?
Vị ấy ngâm kệ đáp
lời:
5. Ai cúng dường
lều mía, cỏ khô,
Hoặc lều bằng áo rách
thô sơ,
Cúng dường được
một trong ba thứ,
Lên Thiện pháp đường
ở với ta.
13. (63) Chuyện thứ
mười ba - Lâu Ðài Có Cỗ Xe Nhỏ
(Cùlaratha-Vimàna)
Sau khi đức Thế Tôn diệt
độ, xá-lợi của Ngài được
chia đều và theo sự lãnh đạo của
Tôn giả Ðại Ca-diếp, chư Tăng được
triệu tập để đọc lại Giáo pháp.
Chư vị đệ tử đến an trú mùa
mưa, mỗi vị cùng đi với hội chúng
của mình, sống ở nhiều nơi khác nhau
để quan tâm chăm sóc đám quần
chúng cần được dẫn dắt vào
đạo.
Bấy giờ Tôn giả Mahà-Kaccàna
(Ðại Ca-chiên-diên) trú tại một
khu rừng ở vùng biên địa. Thời
ấy vua Assaka đang ngự trị tại
thành Pota của xứ Assaka. Vương
tử Sujàta, con bà chánh hậu của
vua, bị cha đuổi vì nghe theo lời nài
nỉ của một tiểu thứ phi, nên chàng
phải vào rừng ở.
Vào thời đức cổ
Phật Kassapa, mặc dù chàng đã
làm Tỷ-kheo một dạo, về sau chàng lại từ
trần như một người thế tục, và
giờ đây tái sanh làm vương tử
có tên Sujàta. Khi mẫu hậu chàng
qua đời sớm, bà chánh hậu mới
của vua cha chàng cũng có một hoàng
nam, Nhà vua hài lòng liền ban cho bà một
điều ước.
Khi Sujàta lên mười
sáu tuổi, chánh hậu đòi vua cha ban
điều ước kia, bà yêu cầu nhà
vua phong cho hoàng nam của bà làm người
kế vị. Nhà vua từ chối, vì Thái
tử sẽ là người kế vị vua về sau.
Song bà cứ tiếp tục làm
phiền lòng vua để buộc vua phải giữ lời
hứa, cho đến khi vua cảm thấy phải làm
theo ý bà, đành rơi lệ bảo cho Sujàta
biết sự việc.
Thái tử đau buồn trước
nỗi khổ của vua cha, liền xin phép vào rừng
ở ẩn. Nhà vua đề nghị xây cho chàng
một thành phố khác, song chàng không
thuận, chàng cũng không muốn được
gửi sang ở với các vương tử nước
láng giềng. Nhà vua ôm lấy con từ giã
và cho chàng ra đi với lời dặn là
chàng phải trở về khi vua băng hà để
cai trị vương quốc.
Sống trong rừng với đám
sơn nhân, một hôm chàng đi săn
nai và đuổi theo con nai cho đến khi nó
mất dạng gần túp lều lá của Trưởng
lão Mahà-Kaccàna, Tôn giả bèn
ngâm kệ hỏi chàng như vầy:
1. Chàng đứng
dựa vào một chiếc cung
Làm bằng gỗ tốt thật
oai hùng,
Chàng là quý tộc, là
vương tử,
Hay thợ săn lang bạt giữa
rừng?
Sau đó chàng đáp
lại, giải thích thân thế mình:
2. Con là vương tử As-sa-ka,
Tôn giả, con lang bạt thật
xa
Vào chốn rừng già,
xin nói rõ,
Tên con thường gọi Su-jà-ta.
3. Con thường săn bắn
các nai rừng,
Con dấn sâu vào chốn
đại lâm,
Song chính nai kia, con chẳng
thấy,
Mà con thấy được
đại tôn nhân.
Vị Trưởng lão đáp
lại với lời chào đón ân cần:
4. Xin đón chào chàng,
đại quý nhân,
Thấy chàng trong dạ thật
vui mừng,
Này đây nước
lạnh xin chàng lấy,
Vì thế chàng đi rửa
sạch chân.
5. Nước uống này đây
mát biết bao
Ðem từ trong núi đá
hang sâu,
Uống ngay nước mát,
này vương tử,
Và hãy ngồi trên
thảm cỏ lau.
Và vương tử đáp
lại lời chào đón ân cần của
Trưởng lão:
6. Lời ngài nghe quả
thật êm tai,
Bậc đại trí nhân,
ấy chính ngài,
Vừa nói những lời
hiền dịu quá,
Thiện tâm nhằm chủ đích
cao vời.
7. Ngài thích thú sao
lại ở rừng,
Xin ngài hãy nói, hỡi
Ngưu vương,
Lắng nghe đường lối
ngài khuyên bảo,
Con sẽ hành theo Pháp
đúng đường.
Bấy giờ Trưởng lão
nói đến cách thực hành Ðạo
pháp chánh chân của chính mình
cũng thích hợp với chàng nữa:
8. Không sát hại
sinh vật mọi loài,
Tránh xa trộm cắp ấy
niềm vui,
Lòng không tà dục,
này vương tử,
Và rượu nồng say,
dứt bỏ rồi.
9. Tránh xa ác pháp,
sống công bằng,
Học tập nhiều và biết nhớ
ân,
Những việc này đây
cần tán thán,
Là điều xứng đáng
giữa phàm trần.
10. Vương tử, giờ đây
hãy biết rằng
Trong vòng năm tháng
sắp qua dần,
Có cơ chàng gặp Diêm
vương diện,
Vậy hãy lo mau giải thoát
thân.
Sau đó vương tử hỏi
về phương tiện giải thoát mình:
11. Ðến xứ nào
nay con phải đi,
Con cần thực hiện việc làm
gì,
Hoặc là tri thức nào
cần học
Ðể khỏi thành già
chết thế kia?
Rồi Trưởng lão ngâm
kệ thuyết pháp cho chàng:
12. Chẳng miền nào ở
cõi trần gian
Ðể học gì hay có việc
làm,
Vương tử đến kia mong
có được
Con người không lão,
tử, suy tàn.
13. Những người đại
phú, lắm kho tàng,
Hay võ tướng quyền quý,
quốc vương,
Dầu đủ bạc vàng
và thóc lúa,
Cũng không thoát lão
tử thông thường.
14. Chắc chàng đã
biết các vương tôn
Con của An-dha, thật tráng
cường,
Vô địch, song khi dứt
thọ mạng,
Những người này cũng
phải tan xương.
15. Chẳng ai võ tướng,
Bà-la-môn,
Nô lệ, dân quê, hạng
quét đường,
Hoặc có người nào
nhờ đẳng cấp,
Không già, không chết,
mãi trường tồn.
16. Những người đọc
mật chú thiêng liêng
Từ sáu nguồn kinh của
Phạm Thiên,
Dẫu các người này
nhờ kiến thức,
Cũng không thoát lão
tử triền miên.
17. Dù người giác
ngộ, bậc tu nhân
Ðã đạt tịnh
tâm, chế ngự thân,
Ngay các bậc hiền nhân
khổ hạnh
Ðúng thời cũng bỏ
xác phàm trần.
18. Thậm chí A-la-hán
trí minh,
Vô ưu, phận sự đã
hoàn thành,
Ðến thời cũng đặt
thân này xuống
Vào lúc diệt vong thiện ác
hành.
Bấy giờ nam tử nói đến
những việc chính chàng cần phải làm:
19. Các kệ ngài ngâm
thật khéo thay,
Hiền nhân, mục đích
quý cao vầy.
Nhớ lời vàng ngọc, con an
tịnh,
Xin hãy cho con nương tựa
đây.
Sau đó Trưởng lão
ngâm kệ dạy bảo chàng:
20. Ðừng tìm
nương tựa ở nơi ta,
Hãy hướng đến ngay
đức Phật-đà,
Là bậc Ðại Hùng,
Ngài Thích tử,
Ta từng quy ngưỡng những
ngày qua.
Chàng trai lại hỏi:
21. Ở xứ nào đâu
có Ðạo Sư,
Kính thưa Tôn giả,
tự bây giờ,
Con đi yết kiến Ngài Vô
thượng,
Thắng giả oai hùng của
chúng ta.
Trưởng lão đáp:
22. Trong quốc độ kia ở
phía Ðông,
Ok-kà-ka tộc, chính con
dòng,
Ngài là tối thượng
trong thiên hạ,
Ðã đắc vô
dư Bát Niết-bàn.
Khi vương tử đã nghe
Trưởng lão thuyết pháp, chàng được
an trú vào Tam quy và Ngũ giới, vì
thế chàng nói:
23. Giá đức
Phật-đà, Ðại Ðạo Sư,
Vẫn còn trụ thế đến
bây giờ,
Hẳn con sẽ nguyện đi ngàn
dặm
Ðể yết kiến Ngài, thỏa
ước mơ.
24. Song chính vì nay bậc
Ðạo Sư
Ðã hoàn toàn
tịch diệt vô dư,
Con xin Tôn giả cho an trú,
Vào bậc Ðại Hùng
của chúng ta.
25. Con đến quy y Phật Thế Tôn,
Và con quy ngưỡng Pháp
vô song,
Và con quy ngưỡng toàn
Tăng chúng
Của cả trời, người
ở thế gian.
26. Từ nay con tránh giết muôn
loài,
Không lấy các tài
vật của ai,
Không uống rượu nồng,
không nói dối,
Và tri túc với vợ
mình thôi.
Trưởng lão nói như
vầy:
- Bây giờ chàng hãy
về với vua cha, đời sống của chàng
thật ngắn ngủi, chàng sẽ chết trong vòng
năm tháng nữa thôi, vậy hãy làm
công đức thiện sự.
Chàng trai làm theo lời dạy
và chỉ sau bốn tháng, chàng từ
trần rồi tái sanh vào cõi trời
Ba mươi ba. Nhờ uy lực công đức
của chàng, một cỗ xe được trang hoàng
bảy báu vật xuất hiện dài bảy do-tuần
(dặm). Xe có cả đoàn hộ tống
hàng ngàn tiên nữ.
Khi vua cha đã cử hành
tang lễ cho con và dâng cúng đại
lễ lên chư Tăng xong, vua đến cúng
dường bảo Tháp trong tinh xá. Vị Trưởng
lão cũng đến đó. Còn vị
Thiên tử giáng trần trong
cỗ xe thiên giới
kia, đảnh lễ Trưởng lão và chào
mừng vua cha.
Trưởng lão ngâm kệ hỏi
chàng:
27. Như vạn hào
quang của mặt trời
Xoay vần chiếu sáng khắp
nơi nơi,
Cỗ xe vĩ đại chàng
đang ngự
Giăng trải chung quanh bảy
dặm dài.
28. Bao phủ bên trên các
phiến vàng,
Ngọc trai, ngọc thạch cẩn toàn
thân,
Các khung chạm trổ đầy
vàng bạc
Ngọc bích khéo tô điểm
tuyệt trần.
29. Trang trí mặt tiền, ngọc bích
xanh,
Càng xe, hồng ngọc vẽ
nên hình,
Cân đai bầy ngựa
toàn vàng bạc
Làm đẹp xe lao vút
thật nhanh.
30. Chàng đang đứng
giữa chiếc xe vàng
Vượt hẳn quần tiên
hộ tống chàng,
Trông chàng chẳng khác
ngôi Thiên chủ
Trong chiếc thiên xa, ngựa cả
ngàn,
Thiên tử lừng danh và
đại lực,
Nhờ đâu chàng được
cảnh huy hoàng?
Khi được Trưởng lão
hỏi vậy, Thiên tử giải đáp qua
các vần kệ:
31. Tôn giả, con là
Thái tử xưa,
Tên con thường gọi Su-jà-ta,
Nhờ ngài bi mẫn cho con
được
An trú vào trong giới
tại gia.
32. Vì biết đời con sắp
sửa tàn,
Ngài đem xá-lợi
Ðạo Sư ban,
Bảo: 'Su-jà hãy nghiêng
mình lễ,
Việc ấy cho con lợi lạc
tràn'.
33. Khi con đã kính lễ
nghiêm trang,
Hương liệu, vòng hoa được
cúng dường,
Con bỏ xác thân phàm
tục ấy,
Và lên vườn Hỷ lạc
thiên đường.
34. Trong vườn Hỷ Lạc Nan-da-na,
Nơi lắm bầy chim đến
điểm tô,
Con được cả đàn
tiên hộ tống,
Hân hoan xem vũ nhạc đồng
ca.
Nói vậy xong, vị Thiên
tử đảnh lễ Trưởng lão và
giã từ vua cha, rồi lên xe trở về thiên
giới. Trưởng lão kể lại toàn câu
chuyện đã diễn ra giữa đôi bên
với các Trưởng lão kết tập Kinh điển
vào thời kỳ họp Hội đồng của
chư vị.
14. (64) Chuyện thứ
mười bốn - Lâu Ðài Có Cỗ Xe
Lớn (Mahàratha-Vimàna)
Bấy giờ, đức Thế Tôn
trú ở Savàtthi, trong Kỳ Viên. Và
Tôn giả Mahà-Moggallàna đang du
hành cõi trời Ba mươi ba, thấy một
Thiên tử tên Gopàla vừa rời
Lâu đài bước lên cỗ xe uy nghi của
chàng để nhàn du trong vườn Thiên
lạc. Vị Thiên tử thấy Tôn giả,
liền xuống xe và đứng trước Ngài,
chắp tay đảnh lễ.
Tôn giả Mahà Moggallàna
hỏi chàng:
1. Trên xe tô điểm
biết bao màu,
Tráng lệ với thiên mã
dẫn đầu,
Ðang tiến bước về vườn
Hỷ lạc,
Hình chàng chiếu sáng
giữa trời cao,
Giống như thí chủ
đầy hào phóng,
Thiên chủ Va-sa-va thuở
nào.
2. Càng xe chàng được
đúc bằng vàng,
Cân đối sườn,
vai thật nhịp nhàng,
Trụ đúc tinh vi nhờ
thợ khéo,
Như trăng rằm chiếu ánh
hào quang.
3. Xe này được phủ
lưới bằng vàng,
Rực rỡ nhiều châu ngọc
điểm trang
Lấp lánh, tạo âm
thanh dịu nhẹ
Sáng ngời nhờ lắm
quạt tay mang.
4. Trục xe thiết kế thật cầu
kỳ,
Và được trang hoàng
giữa bánh xe,
Các trục được
tô trăm nét vẽ,
Sáng ngời như chớp
lóe trăm tia.
5. Xe được phủ đầy
các loại tranh,
Khung xe rộng chiếu cả ngàn
hình,
Âm thanh kỳ diệu nghe từ
đó
Chẳng khác đàn
năm thứ hợp thành.
6. Mặt tiền xe ấy được
trang hoàng
Châu ngọc theo hình dáng
mặt trăng,
Thanh tịnh hào quang luôn
chiếu sáng,
Chứa tia vàng óng ánh
tràn lan,
Tỏa ra như thể cùng hòa
lẫn
Tia ngọc xanh xanh thật dịu dàng.
7. Cả đàn tuấn mã
được trang hoàng
Châu ngọc theo hình dáng
mặt trăng,
Cổ ngựa ngẩng cao đầy
tốc lực,
Thân hình cao lớn, thật
hùng cường,
Phi nhanh khi chúng vừa hay
biết
Ý muốn gì trong trí
của chàng.
8. Tứ chi đàn ngựa
khéo hòa đồng
Phi vút nhanh khi biết ý chàng,
Chúng rước chàng
đi êm ái quá,
Ngựa thuần dễ dạy,
chẳng hung hăng,
Chúng hân hoan kéo xe
tiên ấy,
Tối thượng giữa loài
ngựa bốn chân.
9. Chuyển động quay cuồng
giữa cõi không,
Chúnh cùng nhảy nhót
lại khua rân
Cân đai phát tiếng nghe
kỳ diệu,
Chẳng khác đàn
năm thứ họa đồng.
10. Tiếng xe cùng với tiếng cân
đai,
Tiếng vó câu và ngựa
hí dài,
Âm thanh kỳ diệu nghe từ
đó
Như nhạc vườn Thiên
lạc tuyệt vời.
11. Mắt nhìn e thẹn, dáng
linh dương,
Tiên nữ trong xe đứng
một đàn,
Ðôi mí mắt dày,cười
mỉm miệng,
Làn da láng mướt,
giọng oanh vàng,
Khoác xiêm y kết đầy
lam ngọc,
Ðược các Nhạc
thần kính lễ luôn.
12. Y phục quần tiên sắc
đỏ, vàng,
Mắt to màu đỏ
sẫm, cao sang,
Hình dung yểu điệu, cười
duyên dáng,
Tay chắp trên xe hộ tống
chàng.
13. Xiêm y rực rỡ, chuỗi
vòng vàng,
Khả ái toàn thân,
ngón búp măng,
Diễm lệ dung nhan, tiên chúng
ấy
Trên xe, tay chắp, đứng
hầu chàng.
14. Vài nàng ngọc nữ lại
trang hoàng
Các cuộc tóc tiên
kết gọn gàng,
Rực rỡ, sẵn sàng
làm đẹp ý,
Trên xe, tay chắp, đứng
hầu chàng.
15. Xanh, đỏ, đóa
sen khéo điểm trang,
Vòng hoa đầu đội,
ngát mùi hương,
Chiên-đàn đệ nhất
thơm ngào ngạt,
Làm đẹp lòng, tuân
lệnh sẵn sàng,
Ðang ở trên xe, tay chắp
lại,
Cả đàn tiên nữ
đứng hầu chàng.
16. Ðóa sen xanh, đỏ
khéo trang hoàng,
Cùng các tràng hoa,
hương tỏa lan
Ðệ nhất chiên-đàn
thơm sực nức,
Sẵn sàng tuân lệnh, đẹp
lòng chàng,
Trên xe, đang đứng,
hai tay chắp,
Hộ tống chàng, tiên
nữ cả đàn.
17. Các món trang hoàng
trên cổ vai,
Tay, chân, đầu tóc
lẫn đôi tai,
Làm mười phương
thảy đều bừng sáng,
Như nắng mùa thu chiếu
rạng ngời.
18. Lay động theo làn gió
nhẹ nhàng,
Vòng hoa tay với các kim
hoàn
Phát ra âm hưởng toàn
trong trẻo,
Thánh thót làm mê
mẩn các nàng,
Ðối với mọi người
nào hiểu biết,
Tiếng này êm dịu nhất
trần gian.
19. Trong vườn Thiên lạc
cả hai bên,
Xa, tượng, và dàn
nhạc trổi lên,
Khiến chàng hoan hỷ, này tiên
chúa,
Như phiếm đàn tơ
với lục huyền.
20. Trong khi đang trổi các
huyền cầm,
Mỹ lệ, dáng đàn
đẹp mắt trông,
Khơi dậy trong lòng bao
hỷ lạc,
Các tiên nữ khéo
luyện tinh thông,
Ðứng trên các
đóa hoa sen nở,
Lã lướt tự nhiên,
múa lượn vòng.
21. Và khi vũ điệu đã
hòa đàn,
Cùng được diễn
bày, ca hát vang
Ðây đó trong xe
chàng, hội chúng
Các nàng tiên nữ
thật huy hoàng,
Làm mười phương
thảy đều bừng sáng,
Cùng múa hai bên thật
nhịp nhàng.
22. Chàng hưởng lạc
theo nhạc cả dàn,
Khác nào Thiên chủ
đại vinh quang
Tay cầm bảo trượng thiên
lôi ấy,
Lòng rộn niềm vui với tiếng
đàn.
23. Thiện nghiệp gì chàng đã
thực hành
Ở trong kiếp trước giữa quần
sanh,
Phải chàng giữ giới
hay hoan hỷ
Sống chánh chân, tu tập
pháp lành?
24. Cảnh này vinh hiển đại
oai thần,
Chàng vượt xa Thiên
chúng bội phần,
Không thể phát sinh từ
việc nhỏ,
Hoặc do Trai giới giữ tinh
cần.
25. Hay quả này do việc cúng
dường,
Hay do giữ giới luật thông
thường,
Hoặc do đảnh lễ đầy
cung kính?
Ðược hỏi, xin cho
biết hỡi chàng!
Vị Thiên tử giải thích
vấn đề khi được Ðại Trưởng
lão hỏi:
26. Chàng Thiên tử
ấy kỷ tâm tràn,
Ðược Mục-liên
Tôn giả hỏi han,
Chàng giải đáp
ngay phần hạnh nghiệp,
Và đây là kết
quả cho chàng:
27. Ðiều phục các căn,
đức Phật-đà,
Viên thành trí lực,
Kas-sa-pa,
Là người vô thượng
trên nhân giới,
Cửa Bất tử Ngài đã
mở ra,
Thiên đế tối cao trên
thượng giới,
Mang trăm tướng phước
đức sâu xa.
28. Con thấy Ngài, vương
tượng đại hùng,
Như vòng vàng ánh,
vượt qua dòng,
Thấy Ngài, tâm trí
con an tịnh,
Ngài, vị thiện ngôn thật
lẫy lừng.
29. An tịnh, con đi trải
tọa sàng
Ðầy hoa được
rải rắc trang hoàng,
Dâng Ngài đủ các
thức ăn uống,
Y phục tối ưu để
cúng dường.
30. Sau khi con đã cúng
dường xong
Ngài, bậc tối cao giữa
thế nhân,
Y phục, tọa sàng và
thực phẩm,
Loại mềm, loại cứng đủ
cần dùng,
Con an hưởng tại thành
thiên giới,
Giữa các cõi thiên
mãi chuyển luân.
31. Khi đã dâng lên
lễ cúng Ngài
Dồi dào phẩm vật
cách như vầy,
Ba lần thanh tịnh, con từ
bỏ
Thể xác phàm trần tại
chỗ đây,
Con hưởng an vui thiên lạc
phố
Khác nào Thiên chủ
In-da này.
32. Thọ mạng, dung nhan, lạc,
tráng cường,
Kẻ nào mong muốn tối
cao sang,
Hãy đem thực phẩm
đầy thanh tịnh
Dâng cúng lên người
trí tịnh an.
33. Chẳng phải đời
này hoặc kiếp sau,
Có ai bằng Phật hoặc
hơn đâu,
Với người mong quả nhờ
công đức,
Ngài trở thành hình
tượng tối cao
Giữa những bậc hiền nhân
xứng đáng
Với lời nguyện ước đạt
mong cầu.
Trong khi chàng nói như vậy,
Trưởng lão biết tâm trí chàng đã
sẵn sàng không có gì trở ngại,
liền thuyết giảng các Thánh Ðế và vào
lúc kết thúc, Tôn giả an trú chàng
vào quả Dự Lưu.
Sau đó, khi trở về cõi
người, Trưởng lão trình đức
Thế Tôn câu chuyện giữa Tôn giả và
Thiên tử kia. Bậc Ðạo Sư lấy
đề tài ấy làm cơ hội thuyết pháp
cho hội chúng đang có mặt lúc bấy
giờ.
Tổng Kết
Lâu đài Con nhái,
Revatì, Con cua,
Người giữ cửa, Hai Công
đức thù thắng,
Hai cây kim, Ba con voi, và Hai
cỗ xe,
Phẩm Lâu đài Nam giới
được biết qua các chuyện này.
Phẩm Thứ Ba Ðể Phúng
Tụng
[Phẩm trước][Mục
lục][Phẩm kế][
^ ]
|