Chim Việt Cành Nam [ Trở Về ]
* Phần Hai Bàn về " Thiên Long Bát Bộ " hay "Lục Mạch Thần Kiếm" * Thích Chơn thiện |
|
|
21.1.
Lược truyện
- Kiều Phong và A Châu hóa trang thành hai nam tử hán bình thường để đi gặp từ trưởng lão. Đến nơi thì Cái Bang đang tổ chức lễ tang cho người; các cao thủ lần lượt đến tiễn đưa hương hồn trưởng lão. Lại thiên hạ tung tin: Kiều Phong đã hạ sát trưởng lão (thật ra vẫn do một bàn tay kỳ bí ở trong bóng tối). - Kiều Phong thiết tha cầu Đàm Công, Đàm bà và Triệu Tiền Tôn cho chàng biết danh tánh "Thủ lĩnh đại ca". Cả ba đều giữ câm lặng. Triệu Tiền Tôn và Đàm bà liền bị "bàn tay bí mật" đánh chết; Đàm công tự vẫn chết theo. Tin đồn lại phao vu Kiều Phong là thủ phạm. Tiếp tục nhẫn nại tìm đến nhà Đơn Chính, Kiều Phong và A Châu liền thấy ngay trước mắt toàn trang viện và người, vật đang bị thiêu cháy bởi một ngọn lửa dữ dội. Tin đồn Kiều Phong gây ra vụ án mạng, hỏa hoạn này lại được tung ra. - Chỉ còn hai người, cho đến giờ phút này, biết rõ "thủ lãnh đại ca", đó là sư Trí Quang và Mã Phu Nhân. Kiều Phong cầu gặp đại sư Trí Quang. Biết trước, sư Trí Quang đã sai người đi đón Kiều Phong từ xa về chùa. Đại sư trao cho Kiều Phong tấm vải in trọn di ngôn để lại ở Nhạn Môn Quan. Sư không tiết lộ danh tánh "Thủ lãnh đại ca", mà chỉ nói lên một lời Pháp ngắn rằng: "Vạn vật nhất bàn, chúng sinh bình đẳng; Thánh Hiền súc sinh nhất thị đồng nhân; Hán nhân, Khất nhân diệc huyễn diệc chân; ân oán vinh nhục, câu tại khôi trần" (tr.tập V) (Vạn vật là một, chúng sinh ngang nhau; Thánh Hiền động vật, có khác gì nhau; người Hán, người Khất, như giả như chân; Ân oán vinh nhục như đám bụi trần.) - Người bí mật đã đưa tin đến đại sư Trí Quang rằng Kiều Phong sẽ đến tìm sư để rửa hận, nên vừa nói xong lời Pháp sư liền vào trong liêu, tỉnh tọa dùng độc dược mà hóa". Kiều Phong cứ ngỡ là sư đại ngộ ắt là tự hóa, nên đảnh lễ ra đi. - Kiều Phong và A Châu lại đến gặp Mã phu nhân, người sau cùng biết danh tánh "thủ lãnh đại ca". Nếu bà ta không chịu tiết lộ thì hai người sẽ ra Nhạn Môn Quan sống cuộc đời chăn nuôi, săn bắn lặng lẽ. - A châu hóa trang thành Bạch trưởng lão để dễ khai thác. Thoạt đầu A Châu bảo Kiều Phong đã biết rõ thủ phạm ám sát Mã phó bang Chủ, khiến bà giật mình té xỉu. Sau đó, bà kịp trấn tỉnh tản lờ nghe chuyện và khám phá ra kỹ thuật hóa trang của A Châu qua lời thoại, bởi bà vốn có "dan díu" với Bạch trưởng lão - đây là điểm A Châu không biết nên để lộ thân phận. Mã phu nhân, độc ác tương kế tựu kế gián tiếp ám chỉ "Thủ lãnh đại ca" là Đoàn Chính Thuần, người tình mà bà ta rất hận, hầu để Kiều Phong và Đoàn Chính Thuần thanh toán nhau. A Châu nghĩ: Đối đầu với Đoàn Chính Thuần thì mối nguy hiểm duy nhất là Nhất Dương chỉ mà chỉ có Dịch Cân Kinh mới có thể khắc chế, nàng bèn tặng Kiều Phong bản Dịch Cân Kinh nàng đã đánh trộm ở Thiếu Lâm. 21.2. Ý kiến - Qua hai mươi mốt hồi truyện, kể từ đầu, đặc biệt là ở hồi 21, tác giả đã cho thấy: - Người ác thì luôn nghĩ ác và làm ác; chỉ biết làm theo dục vọng và sân hận của mình, mà không quan tâm gì đến hạnh phúc và khổ đau của tha nhân. - Người thiện thì mãi nghĩ thiện và làm thiện tùy theo quan niệm của nguồn văn hóa tiếp thu; luôn cân nhắc đến hậu quả của việc làm, và tránh các việc làm gây hại mình, hại người. Điển hình nhân vật thiện như Kiều Phong, nhân vật ác như Mã phu nhân và Toàn Quán Thanh. - Đại sư Trí Quang chỉ có hai lần sai lầm đáng nhớ: một lần vội vàng nghe theo tin đồn thất thiệt gây ra vụ án Nhạn Môn Quan; lần khác và là lần cuối đời cũng do tin đồn thất thiệt và tinh tế khiến đại sư không thấy rõ sự thật thiện tâm của Kiều Phong, đã đi đến quyết định tự xử: tự vẫn. - Dù có lầm lẫn ở bên ngoài, nhưng tâm hành thì đại sư là người có lòng đại bi cứu nhân độ thế, đã thương mến Kiều Phong nói pháp giúp Kiều Phong sớm thoát khỏi cái tâm lý hận thù vốn luôn đem nhiều phiền não cho mình và cho đời. - Bài pháp ngắn ngủi của đại sư Trí Quang đại để là: ... Người Hán, người Khất Đan đều là người cả, bình đẳng; cả hai đều là thật, mà cũng đều là mộng; ân oán ở đời lại càng mộng mị hơn. Quý hồ là sự giác tỉnh, lòng đại bi, tình người, và sự an lạc của mọi người... Đại hiệp nên dừng lại chuyện hận thù, thị phi để phúc cho mình và người... Nếp sống và ngôn ngữ rất hiền triết của đại sư vốn đã khiến Kiều Phong khâm phục, nên lời lẽ trên đã thực sự thức tỉnh Kiều Phong gác kiếm giang hồ, xóa bỏ hận thù để sống một cuộc sống an nhàn ở Nhạn Môn Quan, nếu chàng và A Châu không trở lại gặp Mã phu nhân để bị kế hiểm độc của bà ta đẩy chàng đến chổ đối đầu với Đoàn Chính Thuần và vương vào các rối rắm về sau. Triết lý (hay giáo nghĩa) của đạo Phật mà đại sư Trí Quang giới thiệu đến Kiều Phong chứa đựng một cái nhìn cao vời hơn, vượt qua khỏi biên giới chủng tộc, quốc gia, đi thẳng vào sự thật của con người vật lý và tâm lý. Giáo nghĩa ấy là tiếng nói của trí tuệ giúp con người sống đón nhận hạnh phúc trong tâm lý xả kỷ, xả tham, xả hận, rất từ bi và rất an tịnh. Nó như là một sức mạnh vô hạn làm thanh sạch văn hóa và cuộc đời, đặt con người vào một giá trị sống rất người và rất cao thượng. Chỉ một đoạn văn ngắn qua lời lẽ phát biểu của nhà sư Trí Quang đã mang chất lượng rất văn hóa rồi vậy - Thật đáng giá! |
|
22.1.
Lược truyện
- Tứ đại ác nhân vượt qua tứ đại hộ vệ Đại Lý đến Tiểu Kính Hồ để truy sát Đoàn Chính Thuần và gia đình của ông ta. Phó và Cổ hộ vệ bị thương tích. - Chữ hộ vệ thì bị A Tử, con gái của Nguyễn Tinh Trúc và Đoàn Chính Thuần bó trong một tấm lưới mỏng, danh dự hảo hán bị tổn thương. - Cả tập đoàn của Đoàn hoàng gia tập họp ở Tiểu Kính Hồ, có mặt cả A Châu và Kiều Phong vừa đến theo yêu cầu của hảo hán họ Phó. Bấy giờ Aùc Quán mãn Doanh Đoàn Diên Khánh xuất hiện trước Đoàn Chính Thuần. Chữ hộ vệ liều mạng đánh nhau với Đoàn Diên Khánh; sau 50 chiêu thì vong mạng. Đoàn Chính Thuần ra mặt sử dụng Nhất Dương chỉ để đối chiêu. - Thấy Đoàn Chính Thuần núng thế sắp nguy, Kiều Phong ứng cứu. Thấy chiêu thức của Kiều Phong quá mãnh liệt, không thể đối phó, bốn đại ác nhân liền thu chưởng rút êm. - Quan sát thấy bà Tinh Trúc và Đoàn hoàng gia nhìn xâu chuỗi vàng nơi cổ A Tử mà nhận ra là con đẻ, A Châu rất xúc động biết rằng chính nàng là con gái của hai người, và A Tử là em gái của nàng. A Châu xót xa nghĩ đến lời "phịa" của Mã phu nhân bảo cha nàng (Đoàn hoàng gia) là Thủ lãnh đại ca" và là kẻ thù không đội trời chung với Kiều Phong, vị hôn phu của nàng, nàng không dám tiết lộ thân phận, âm thầm tìm giải pháp vừa cứu cha vừa giúp Kiều Phong. - Nam Hải Ngạc Thần chưa rõ thần võ của Kiều Phong, trước khi đi còn dở thói vung vít, bị Kiều Phong xuất chưởng nhẹ nhàng đẩy ông ta xuống hồ nước và nhận chìm mấy lượt. Nam hải Ngạc Thần tâm phục ra đi... 21.2. Ý kiến Tác giả đã dựng nên nhân vật Đoàn Chính Thuần rất đặc biệt, với các nét đặc thù đáng được suy gẫm như: - Ông ta là một Hoàng thân Đại Lý có ảnh hưởng rất lớn đối với Hoàng gia và nhân dân Đại lý. - Ông vừa là một cao thủ của giang hồ, thường xử sự theo lề luật giang hồ. - Ông giao dịch rộng rãi khắp toàn cõi trung Quốc, mối quan hệ giao dịch như là mối quan hệ Quốc tế ngày nay. - Ông vừa là một nhà lãnh đạo có năng lực, vừa là nhà ngoại giao có mối liên hệ tốt đẹp với Cái Bang và Thiếu Lâm tự ở Trung Nguyên, với Thiên Long tự ở Đại Lý, và với quần hào khắp chốn giang hồ. - Ông là người đa tình, có nhiều mối liên hệ tình cảm khắp nơi để lại nhiều rối rắm về sau, nhiều ân oán giang hồ. Những gì xảy đến với ông như là biểu hiện mối tương quan nhân duyên trùng trùng của vạn hữu. Rối rắm nhất là mối tình cảm giữa ông và Mã phu nhân (thời con gái). Ông không lường trước được những phiền phức đến từ các mối liên hệ đó. Mà cũng không thể có ai có thể tính được cái liên hệ của một hiện hữu. Ai có thể ngờ được chính sự hỡi hờ tình cảm của ông đối với Mã phu nhân đã đẩy phu nhân (thời con gái) đến quyết định làm vợ Mã phó bang Chủ Cái Bang? Và ai có thể ngờ được chỉ vì sự hờn ghen, căm tức của Mã phu nhân trước thái độ tự chủ của Kiều Phong trước các nhan sắc lại có thể là một nguyên nhân lớn quấy động cả Cái Bang và toàn cõi giang hồ? Câu chuyện tình cảm, tính khí của Mã phu nhân chỉ là một câu chuyện đời bình thường, vậy mà tác giả thuật lại như là đang giới thiệu về sự thật trùng trùng Duyên Khởi của giáo lý nhà Phật. Thật là ý vị và bất ngờ ! |
|
23.1.
Lược truyện
- Tiêu phong cứu Đoàn Chính Thuần, các hộ vệ đại thần đi theo hoàng thân, và toàn gia quyến khỏi sự truy sát của tứ đại ác nhân. Đoàn Chính Thuần trân trọng bày tỏ lòng biết ơn. - Sau lời phịa của Mã phu nhân về Thủ lĩnh đại ca, Tiêu Phong vì lịch sự đã đặt ra các câu hỏi không rõ ràng về việc làm lỗi lầm trong quá khứ của ông ta (ý Tiêu Phong ám chỉ vụ án Nhạn Môn Quan), Đoàn Chính Thuần đã chân thành nhận lỗi (ý của Đoàn Chính Thuần là chỉ về lỗi không quan tâm đến các người yêu và các người con riêng của ông) điều này khiến Tiêu Phong biết chắc Đoàn Chính Thuần là Thủ lĩnh đại ca, nên dù lòng cảm mến nhân cách của Đoàn Chính Thuần cũng khó có thể bỏ qua mối thù nhà, Tiêu Phong đã hẹn gặp riêng (chỉ cá nhân ông với Tiêu Phong) ông vào giữa đêm ở chiếc cầu đá ở Tiểu Kính Hồ, Đoàn Chính Thuần vui vẻ nhận lời. - A Châu biết rõ là Tiêu Phong sẽ đòi đối chiêu để giải quyết mối huyết thù, và cha nàng sẽ chết mất. Nàng đau buồn tránh mặt Tiêu Phong trong một lúc hóa trang thành chàng, thân hành đến hủy hẹn với Đoàn Chính Thuần. Mặt khác, nàng hóa trang thành Đoàn Chính Thuần đến cầu đá đúng canh ba để chết thay cha nàng. - Tiêu phong bảo: nếu Đoàn hoàng gia chịu được ba chưởng của chàng thì sẽ xóa đi hận cũ, bởi lòng chàng cũng quý mến tính cách anh hùng của họ Đoàn. Vừa xuất chưởng thì A Châu đã ngã ra bất tỉnh, Tiêu Phong kinh ngạc nhìn kỷ mới biết là người yêu của chàng. Bấy giờ A Châu nói rõ sự tình và cầu mong chàng tha chết cho thân phụ nàng, rồi trút hơi thở sau cùng... - Tiêu Phong quá bàng hoàng, đau đớn bồng A Châu trở lại nhà bà Tinh Trúc để xin Đoàn hoàng gia đánh chết chàng. Tất cả đã ra đi... Nhìn nét bút của Đoàn Chính Thuần đề trên bức tranh còn để lại trên vách, Tiêu Phong nhớ rõ hoàn toàn khác với nét bút của Thủ lĩnh đại ca mà chàng đã xem trong bức thư gửi đến Uông bang chủ. Tiêu Phong ngồi lặng yên bên thi thể A Châu, đau buồn khôn tả... - Tinh Trúc và A Tử trở lại để lấy bức tranh quên bỏ sót lại, vừa lúc Tần Hồng Miên và Mộc Uyển Thanh đến tính sổ với bà. - Tiêu Phong điểm huyệt Tần Hồng Miên và Mộc Uyển Thanh để tránh sự quấy nhiễu chàng; chàng mai táng A Châu... - Sau một hồi lời qua tiếng lại, Tinh Trúc và Tần Hồng Miên bỗng trở thành bạn, cùng tính chuyện đối phó với Khang Mẫn (tức Mã phu nhân, tình địch). - Chu Đan Thần mật báo cho Tinh Trúc hay rằng Đoàn hoàng gia bận theo dõi hành tung của Mộ Dung Phục, sẽ trở lại muộn hơn... - Tất cả, gồm Tiêu Phong, mỗi người có ý đồ riêng, theo sát dấu Chu Đan Thần để biết nơi ở của Đoàn Chính Thuần. Họ gặp nhau ở nhà Mã phu nhân, đứng ngoài nghe ngóng cuộc chuyện trò giữa họ Đoàn và Mã phu nhân. Tiêu Phong điểm huyệt tất cả, tự mình đến cạnh cửa sổ để nghe ngóng, theo dõi các diễn biến, bí mật của Mã phu nhân... 23.2. Ý kiến Tiêu Phong và sự khác biệt văn hóa đối với Đoàn Dự: - Hai người kết nghĩa huynh đệ này đều là anh hùng, hảo hán, rất nhân ái, trung chính và hiệp nghĩa. - Tiêu Phong thì chịu ảnh hưởng rất ít giáo lý nhà Phật, chỉ học võ công từ các đại sư; lòng còn phân biệt thị, phi và chịu ảnh hưởng của Nho học Trung Nguyên: anh hùng, quân tử có hận thì phải rửa hận. - Đoàn Dự thì nặng tâm từ bi, lấy từ bi xóa bỏ hận thù; chàng chịu ảnh hưởng rất đậm văn hóa Phật giáo. - Tiêu Phong vì thế đã trải qua nhiều ngày tháng đau khổ vì thù nhà, nợ nước, dù tánh tình rất hào sảng. Đoàn Dự thì thênh thang tiếu ngạo, chỉ giúp đời mà không chuốc hận. Qua cuộc đời của hai hảo hán ấy, độc giả có thể dễ dàng nhận ra nét tích cực xây dựng cuộc đời của giáo lý, văn hóa nhà Phật, một nét tích cực đáng được xiễn dương mà tác giả Kim Dung nhằm giới thiệu. |
|
24.1.
Lược truyện
- Khang Mẫn cùng Đoàn Chính Thuần nhắp rượu trao tình. Vốn đã chuẩn bị kỷ cho lần "đón tiếp đặc biệt" nầy, Khang Mẫn đã pha Thập Hương Mê Hồn Tán vào rượu, chỉ cần cạn 5 chung thì Đoàn Chính Thuần sẽ tiêu sạch nội lực, Khang Mẫn sẽ tự do làm tội làm tình. Nàng kéo dài câu chuyện cho rượu độc thấm vào lòng để họ Đoàn nhận ra rằng đây là lần gặp gỡ cuối cùng. Không có ai có thể chiếm hữu chàng nữa. - Thoạt đầu Đoàn Chính Thuần ngỡ là hai người đã bị một người thứ ba đánh độc, dần dà ít phút sau ngấm độc ông mới vỡ lẽ là chính Khang Mẫn hạ độc. - Khang Mẫn lấy dây gân bò trói gô họ Đoàn vào ghế. Nàng nhắc lại lời thề độc xưa của họ Đoàn rồi cắn đứt một miếng thịt bả vai; đến miếng cắn thứ hai thì Kiều Phong truyền nội lực qua cho họ Đoàn và bứt hộ các giây gân bò. Đoàn Chính Thuần biết có quý nhân hỗ trợ, liền xuất Nhất Dương chỉ đánh Khang Mẫn lăn quay trên sàn nhà. Vừa lúc ấy Bạch Thế Kính bước vào định đánh gục Đoàn Chính Thuần để cứu Khang Mẫn nhưng vì ông ta ganh tỵ tình cảm của Khang Mẫn dành cho họ Đoàn biểu lộ qua giọng nói, ông ta quay sang tác tai Khang Mẫn trước. Bỗng có một luồng nội lực lạ thổi tắt đèn, một bóng đen xuất hiện sử dụng chiêu Tỏa Hầu Cầm Nã Thủ bóp chặt dần yết hầu ông ta khiến ông ta tưởng là hồn ma Mã Đại Nguyên hiện về trừng phạt, nên thành thật thú nhận tội lỗi ông đã làm: ông bảo là do Khang Mẫn ép ông ta hành thích Mã Phó bang chủ. Chờ cho đến khi Bạch Thế Kính nói hết sự thật, bóng đen bóp mạnh tay chấm dứt mạng sống họ Bạch. Sự thật về vụ án Mã phó bang chủ đã được nói rõ: - Khang Mẫn thấy Kiều Phong không chút rung động trước nhan sắc của nàng, nàng căm tức nghĩ ra cách hại Kiều Phong. - Bắt gặp di thư của Uông Bang Chủ, Khang Mẫn xem trộm biết được lai lịch Kiều Phong, bà giục Mã Đại Nguyên hạ bệ Kiều Phong, bị Mã Đại Nguyên mắng cho. Khang Mẫn quay qua quyến rũ Bạch Thế Kính háo sắc rồi ép ông ta ám hại Mã Đại Nguyên. - Thấy Bạch Thế Kính không chịu hành sự, Khang Mẫn lại quyến rũ Toàn Quán Thanh háo sắc và háo danh, cùng ông ta bày mưu truất phế Kiều bang chủ... - Tiêu Phong rượt theo bóng đen khá lâu mà không thể bắt kịp... - Các hộ vệ đại thần Đại Lý kịp đến cứu Đoàn hoàng gia. - Sau khi huyệt đạo tự giải (do Kiều Phong điểm huyệt), A Tử liền hành hạ Khang Mẫn, phá hỏng dung sắc bà đến sống dở chết dở, để bà cho kiến vùi... - Sáng hôm sau Kiều Phong trở lại nhà Khang Mẫn. Bà cầu xin chàng giúp bà chết nhanh. Kiều Phong lại yêu cầu bà nói tên của "Thủ lĩnh đại ca". Bà chưa chịu nói thì A Tử đưa cho bà tấm gương soi để thấy rõ mặt mình; bà kinh sợ mà chết luôn. - Bấy giờ Kiều Phong không nghĩ đến việc tìm kiếm kẻ thù nữa, lại ra đi... 24.2. Ý kiến - Khang Mẫn sống với dục vọng mãnh liệt, không thỏa mãn trên đường tình duyên, đã trở nên thù hận, ác độc dẫn đến kết cục rất bi thảm! - Bạch Thế Kính có nhiều công trạng đối với Cái Bang và Trung Nguyên, chỉ vì đắm say nhan sắc Khang Mẫn mà đi vào ngỏ cụt của cuộc đời mình, không kịp hối! - Toàn Quán Thanh thì tâm địa xấu ác: mê sắc, mê danh, mê quyền, và mê lợi, hẳn là sẽ khó thoát lưới trời khổ lụy! Ba mẫu người ác trên đã nói lên rất nhiều về giá trị tốt đẹp của một nền văn hóa ly dục, ly sân và ly si của nhà Phật. |
|
25.1.
Lược truyện
- Trên đường ra Nhạn Môn Quan, Tiêu Phong dừng chân tại thành Trường Đài Quan, vào một tửu điếm. A Tử theo chân chàng đến. Nàng mở ngón đùa tinh nghịch và quái gỡ của phái Tinh Tú lão quái. - Một gã đồ đệ của Tinh Tú lão quái đi tìm bắt nàng để đoạt lại Thần Mộc Vương Đỉnh (Đỉnh dùng để luyện Hóa Công đại pháp). Võ công của gã này cao hơn A Tử, A Tử phải cầu cứu Tiêu Phong cứu mạng. Tiêu Phong vừa uống rượu vừa chống đỡ độc chưởng của gã; gã suýt vong mạng, hoảng hốt phóng chạy... - A Tử lại theo chân Tiêu Phong đi Nhạn Môn Quan. Một toán môn nhân khác của lão quái Tinh Tú lại đón đường A Tử để đòi lại Thần Mộc Vương Đỉnh. Tiêu Phong hàng phục toàn toán người ấy rồi tiếp vào nghỉ tại Chu Vương Điếm. A Tử đi chậm ở phía sau chàng, lại gặp một toán môn nhân khác của lão quái bao vây Chu Vương điếm, trói gô A Tử đứng cạnh một đống lửa. Một tên trẻ tuổi có tài nghệ cực kỳ lợi hại, là đại ca của toàn nhóm, đang lần lượt trừng phạt các huynh đệ đắc tội với Tinh Tú bằng hình phạt quái ác: bắn lửa thiêu cháy từng người. Tiêu Phong đứng núp cạnh chỗ đứng của A Tử, sau một tảng đá để theo dõi chúng. Chàng truyền nội lực qua A Tử đánh bại tên đại ca, thiêu cháy anh ta. A Tử trở thành đại tỉ của nhóm môn nhân nọ... - Tiêu Phong không cho A Tử đi theo ra Nhạn Môn Quan, nàng giả chết, rồi bất thần phun mũi Kim độc để chọc mù đôi mắt của Tiêu Phong, hầu có lý do để săn sóc chàng. Tiêu Phong vội vàng phóng chưởng đẩy lệch độc châm, khiến A Tử chết ngất... 25.2. Ý kiến - Hai dòng văn hóa: - Tinh Tú lão quái vốn là người tàn độc mưu giết sư phụ và các huynh đệ để làm chưởng môn phái Tiêu Dao. A Tử là môn đồ, hấp thụ văn hóa tàn độc ấy và trở nên tàn độc một cách tự nhiên. - A Châu thì hấp thụ văn hóa của nhà Mộ Dung, giữ lễ, nghĩa nghiêm túc. A Châu và A Tử là hai chị em ruột, con đẻ của Đoàn Chính Thuần và Nguyễn Tinh Trúc, lớn lên từ hai dòng văn hóa khác nhau nên tánh tình và thái độ sống khác nhau. Điều này gợi ý cho người đọc về vài quan điểm triết học của văn hóa Trung Nguyên: - Mạnh Tử thì cho rằng: "Nhân chi sơ tánh bản thiện" (tánh người vốn là thiện từ khi được sinh ra ở đời). - Tuân Tử thì chủ trương ngược lại: "Nhân chi sơ tánh bản ác" (người vốn sinh ra đã ác). A Châu và A Tử thì nói với độc giả rằng: "Nhân chi sơ tánh vô ký" (con người sinh ra tánh không thiện, không ác; sau đó tánh trở nên thiện hay ác là do ảnh hưởng của giáo dục, môi trường sống - hay gọi là ảnh hưởng do văn hóa). Đây là chủ trương của Phật Giáo, của các nhà Phật học: Tánh tình, tâm thức mỗi người do huấn luyện, tu tập mà chuyển đổi rất mạnh. Đây là lý do tại sao con người có thể tu tập phát triển tâm thức đến trí tuệ, giải thoát vô minh và giải thoát nghiệp chướng. Tác giả Kim Dung hầu như đã lồng quan điểm triết lý của người vào hai nhân vật trên (A Châu, A Tử) một cách rất võ hiệp giang hồ đầy lý thú để nhẹ nhàng đối thoại với hai quan điểm triết lý xưa cổ. |
|
26.1.
Lược truyện
- Tiêu Phong liên tục truyền nội lực để duy trì mạng sống A Tử trên đường đến một thị trấn lớn để chữa trị. Uống được một chén nhân sâm, A Tử liền hồi tỉnh. - Nghe vùng giá rét Trường Bạch có nhiều nhân sâm, Tiêu Phong liền đưa A Tử đến đó. Dọc đường gặp một thợ săn đang rượt đuổi hai con cọp, Tiêu Phong tay không hạ gục một cọp; thợ săn Hoàng Nhan A Cốt Đã hạ con cọp kia với cung, kiếm. - Tiêu Phong cho A Tử uống máu cọp để tăng lực đề kháng; rồi cùng Hoàng Nhan A Cốt Đã trở về bộ tộc Nữ Chân ra mắt tộc trưởng. Tộc trưởng mở tiệc lớn đón mừng Tiêu Phong. - Từ đây, hằng ngày A Tử được điều trị bằng nhân sâm. Tiêu Phong đi săn với A Cốt Đã... - Một hôm, một toán thợ săn Khất Đan khá đông, do Gia Luật Hồng Cơ dẫn đầu tấn công nhóm nhỏ thợ săn Nữ Chân. Tiêu Phong can thiệp để hạn chế thiệt hại nhân mạng, bắt sống Gia Luật Hồng Cơ, cứu nguy nhóm thợ săn Nữ Chân. Cảm khái hạo khí anh hùng của Gia Luật Hồng Cơ, Tiêu Phong không đòi tiền chuộc (theo lệ của bộ tộc Nữ Chân) mà còn kết nghĩa đệ huynh với Gia Luật Hồng Cơ, và trả tự do cho toàn nhóm săn bắn Khất Đan. - Gia Luật Hồng Cơ sai đem tặng bộ tộc Nữ Chân rất nhiều vàng bạc, vải, ngựa và bò. - Thời gian khá lâu về sau, khi sức khỏe của A Tử tương đối phục hồi, Tiêu Phong dẫn nàng đi ngoạn cảnh nơi xa xăm về hướng Tây thì gặp Gia Luật Hồng Cơ đang chỉ đạo một đoàn quân luyện tập chuẩn bị cho đấu trường chọn nhân tài đảm đương việc quân: quân Khất Đan có tổ chức và kỹ luật cao. 26.2. Ý kiến - Tại hồi 26, từ một ý niệm trẻ con của A Tử vì thương mến Tiêu Phong, muốn mãi mãi được ở bên cạnh để chăm sóc chàng, A Tử bèn phun độc châm có ý hại chàng để cần đến sự chăm sóc của A Tử, dẫn đến sự kiện Tiêu Phong phải chăm sóc sức khỏe cho nàng, đưa đến vùng nhân sâm, kết thân bộ tộc Nữ Chân rồi gặp Gia Luật Hồng Cơ, Vua của Khất Đan, đánh nhau rồi cảm mến nhau mà kết nghĩa huynh đệ; rồi tiếp gặp gỡ nhau trong một cuộc tập quân để tổ chức võ đài tuyển chọn nhân tài, rồi đến hồi 27 tiếp theo, Tiêu Phong cứu nguy nhà vua khỏi một cuộc nội biến lớn, dẫn chàng đến địa vị Nam Viện đại vương Khất Đan... Mọi sự xảy ra vừa theo tâm ý của con người, vừa phụ thuộc vào ngoại duyên khách quan; vừa ở trong tầm kiểm soát, vừa ở ngoài tầm kiểm soát; vừa tự do, vừa ràng buộc...Tất cả xảy ra không hẳn theo một quy luật rõ ràng nào, nhưng nói lên rõ ràng mối liên hệ trùng trùng các nhân và duyên của mọi sự hiện hữu; cái đúng, cái sai; cái tốt, cái xấu; quá khứ, hiện tại, vị lai kết chặt với nhau, đan xen mà không thật sự có khởi đầu, không thật sự có kết thúc. Đây là cái nhìn về sự thật tương quan trùng trùng "duyên khởi" của mọi hiện hữu của Kim Dung tiên sinh. Đây cũng là cái nhìn Duyên Khởi về thế giới của nhà Phật. Cái nhìn có vẻ rất nhẹ nhàng ở bề ngoài, nhưng lại mãnh liệt ở bên trong, xô ngã hết thảy các lý thuyết nhị nguyên (Dualism) cho rằng thế giới có nguyên nhân đầu tiên, có sự khởi đầu hay có đấng sáng thế. Nó rất thông tục nhưng rất trí tuệ và trang nghiêm! * * |
KHẤT CÁI HÓA ĐẠI VƯƠNG |
27.1.
Lược truyện
- Đội trưởng Thất Lý đón Tiêu Phong đến nghỉ trong một khách trại sang trọng chờ yết kiến nhà vua Gia Luật Hồng Cơ, lúc ba quân đang duyệt trận. - Gia Luật Hồng cơ mở đại yến đón chàng với đông đủ tướng lãnh như đón một đại anh hùng. - Nam Viện đại vương Gia Luật Niết Lổ Cổ cùng Gia Luật Trọng Nguyên Hoàng thái thúc trong thời gian ấy nổi dậy chiếm hoàng cung, bắt giữ Hoàng thái hậu, Hoàng hậu, Vương tử, Công chúa cùng gia quyến các đại thần, tướng lĩnh theo Chân Gia Luật Hồng Cơ. Họ dẫn đại quân bao vây đoàn quân của Gia Luật Hồng Cơ. - Trong lúc nguy khốn, quân tình sắp rối loạn, Tiêu Phong hiến kế để Gia Luật Hồng Cơ đối đáp giữa trận, kéo dài thời gian và thu hút sự chú ý, Tiêu Phong phi ngựa đi bọc hậu và bắn chết Niết Lổ Cổ; rồi bất thần tấn công chớp nhoáng bắt sống Hoàng thái thúc Gia Luật Trọng Nguyên uy hiếp buộc các tướng sĩ nổi loạn buông Khí giới. Tiêu Phong truyền chỉ dụ của vua Gia Luật Hồng Cơ tha tội cho tất cả: các quan được giữ nguyên tước vị phẩm hàm. Nhờ vậy, chỉ trong vài khắc đồng hồ, tình thế được vãn hồi, chấm dứt cuộc nội biến. - Thái hậu và Hoàng hậu ban thưởng rất hậu các vàng, bạc, áo mũ cho Tiêu Phong. Tất cả hồi triều. Gia Luật Hồng Cơ khao thưởng xứng đáng cho các tướng sĩ và quân sĩ theo phò vua. Phong Tiêu Phong làm Nam Viện đại vương, điều hành Nam Viện... - Một thoáng sau, Gia Luật Hồng Cơ ngỏ ý với Tiêu Phong rằng trong tương lai gần, quân Khất Đan sẽ tiến vào Trung Nguyên... - Một hôm Tiêu Phong và A Tử dẫn một toán quân nhỏ đi săn cho khuây khỏa. Chàng đau buồn chứng kiến cảnh quân Khất Đan đánh cướp và hành hạ dân Trung Nguyên. Chàng ra lệnh thả toán người Hán bị bắt, và tha chết cho Du Thản Chi (con của Du Thị Song Hùng) về tội cố sát hại chàng... 27.2. Ý kiến - Hồi tưởng lại các biến cố đến với mình, Tiêu Phong buông lời cảm thán rằng: "Than ôi, lúc ở Trung Nguyên ta hết sức làm điều tốt vậy mà lại bị chê trách là kẻ đại gian, đại ác đệ nhất giang hồ; qua đến Bắc quốc, vô tình lại thành cứu tinh cho trăm họ. Chuyện thị, phi, thiện, ác thực khó mà phân biệt được". (tr 89, tập 6) Lời cảm khái của Tiêu Phong, người đã tự thân chứng nghiệm sự thật của sự vu oan, giáng họa muôn phần đắng cay, và của sự tôn vinh rạng rỡ của cùng một con người với cùng một con tim và khối óc, cũng là lời phát biểu của tác giả về giá trị mà người đời gán ghép; qua đó, tác giả muốn nói lên quan điểm rằng: Giá trị chân thật của một hành động là nằm ở cái tâm tác động lên hành động ấy. Chỉ có trí tuệ của người hành động mới nhận rõ cái giá trị của hành động. Từ quan điểm nầy, một thái độ sống rất nhân bản và trí tuệ phát sinh: Mỗi người hãy chịu trách nhiệm đối với tự thân về các hành động thân, miệng, ý của mình. Việc đánh giá hành động của người khác, về mặt tâm thức, thì là thiếu cơ sở; cần nên tự chủ, mà không để bị nô lệ bởi cái nhìn của người khác. Đây cũng là thái độ sống hướng nội ( hay tâm linh) của người Phật tử chân chính theo giáo lý của nhà Phật. - Tiêu Phong lại cảm Khái, hồi 27, một lần khác rằng: "Giả tỉ thân thế mình không bị tiết lộ thì đến bây giờ ta vẫn nghĩ mình là dân Đại Tống. Ta cùng những người này cùng nói một thứ tiếng, cùng ăn một thứ cơm, có khác chỗ nào đâu? Vì sao đã là người, lại phải phân chia ra Khất Đan, Đại Tống, Nữ Chân, Cao Ly gì gì để làm chi? Ngươi sang đất ta thu hoạch, ta sang đất ngươi đốt nhà. Ngươi chửi ta là Liêu Cẩu, ta mắng ngươi là Tống trư". (tr 101, tập VI) Tư duy của người đời là tư duy ngã tính thiết lập sự hiện hữu của các ngã tướng: cá nhân, gia đình, khóm, làng, xã, huyện, tỉnh, miền, quốc gia; sự khác biệt, khu biệt được xác định như giữa cá nhân với cá nhân, giữa xã hội này với xã hội khác, giữa con người và con vật,. Giữa con người và môi sinh v.v... Sự khác biệt chưa có vấn đề gì nẩy sinh; nhưng lòng tham ái, chấp thủ các ngã tướng thì làm nẩy sinh ra nhiều vấn đề phiền não, khổ đau, như nổi khổ đau thâm trầm đang đè nặng tâm Tiêu Phong: mình là Khất Đan! Mình là Đại Tống! Hầu như đối với chàng, cái gọi là Khất Đan, Đại Tống, Nữ Chân, Cao Ly.v.v... đã làm cho lòng chàng chết đi một ít? (!). Đây là một vấn đề lớn của con người, của văn hóa mà các nhà văn hóa, tư tưởng, xã hội cần quan tâm. Điều mà nhà trách nhiệm xã hội có thể làm là thiết lập công bằng và xây dựng lòng nhân ái để hạn chế bớt các rối ren, phiền não. Vấn đề mà tác giả nêu ra không phải là dừng lại ở xây dựng công bằøng và nhân ái, mà còn đi xa hơn nữa, đi đến cái tâm tham ái, chấp thủ của con người để nói chuyện về khổ đau và hạnh phúc, phải chăng? *
|
|
28.1.
Lược truyện
- A Tử lo ngại Du Thản Chi sẽ lợi dụng lòng tốt của Tiêu Phong để ám hại Tiêu Phong, nàng sai vài tên quân Khất Đan lặng lẽ trở lui bắt Du Thản Chi và hành khổ chàng. - Tiêu Phong vô ý đánh rơi cuốn Dịch Cân Kinh; Du Thản Chi nhặt được cất giữ kín trong mình vì xem đó là bí pháp. - A Tử mật giam Du Thản Chi, rồi sai quân lính thỉnh thoảng hành hạ khiến chàng suýt vong mạng. Để che mặt Tiêu Phong, A Tử cho gắn vào đầu Du Thản Chi một chiếc mặt nạ sắt. Đêm đêm A Tử đem chàng đi dã ngoại cùng nàng để nâng luyện Hóa Công Đại Pháp. - Một lần nọ đi bắt trùng độc để luyện công, A Tử bắt gặp một con tằm trắng cực độc vừa làm chết một con Trăn lớn trong nháy mắt, rồi chui vào mang tai để hút hết nọc độc. Sau đó, con tằm lướt nhanh về chùa Sắc Kiến Mẫn Trung, nơi ở của nó. - Sư làm vườn Tuệ Tịnh là chủ nhân của con tằm dùng một loại thuốc kỵ tằm vạch thành một vòng lớn và giữ yên con tằm trong vòng tròn đó. Du Thản Chi theo vết cỏ cháy đi tìm con tằm, dần đến chùa Mẫn Trung lúc nhà sư Tuệ Tịnh đang trò chuyện với tằm thừa lúc nhà sư Tịnh Tuệ vào chùa công phu, Du Thản Chi dùng chiếc hồ lô đựng rượu cho tằm chui vào, đậy kín nắp lại và xách hồ lô tằm về cho A Tử. - Con tằm là loại côn trùng đặc lạ ở Côn Luân, tiết ra khí cực lạnh. Du Thản Chi đã dùng dây buộc vào eo bình để xách mà vẫn nghe lạnh cóng cả người... 28.2. Ý kiến - Trước đây, Đoàn Dự nuốt phải Mãng Cổ Chu Cáp, loại độc trùng phát nhiệt cao, thì nay Du Thản Chi lại xúc tiếp với con tằm độc ở Côn Luân tiết ra khí cực hàn. Lẽ đời thường có các cặp hiện hữu đối lập: có xấu thì hẳn có tốt; có khổ thì phải có sướng; có nhiệt thì phải có hàn; v.v..;, có võ công thượng thừa luyện từ nhiệt, thì ắt là võ công thượng thừa luyện từ hàn khí, Đạo lý nầy được giới thiệu là tác giả muốn nói đến một sự thật đầy lạc quan khác là: nếu khổ đau đã có mặt ở đời do tham, sân, si gây ra, thì ắt ở đời phải có mặt sự chấm dứt khổ đau (hay hạnh phúc) do ly tham, ly sân, ly si mà có. Ly tham, đó là vô dục, vị tha; ly sân, đó là từ bi; ly si, đó là trí tuệ. Đây là phạm trù mà các nhà văn hóa, tư tưởng nhân bản hướng đến! |
|
29.1.
Lược truyện
- A Tử sai bắt nhiều loại trùng độc, rắn độc để làm mồi cho con tằm độc (để trong chiếc hủ sành) hút hết huyết dịch để tiết ra nhiều hàn khí đến độ khiến nước để gần nó đều đóng băng. - A Tử lại cho tằm hút máu Du Thản Chi: Du Thản Chi thì vô hại, còn tằm độc thì chết. A Tử dùng huyết dịch của tằm để luyện độc chưởng, và luyện công cho hàn độc thấm vào người nàng. Du Thản Chi đứng cạnh nên bị đóng băng. A Tử sai Thất Lý đem chôn Du Thản Chi. - Thất Lý lười biếng bèn ném Du Thản Chi xuống suối. Du Thản Chi trôi đi chừng hai mươi dặm thì bị ngán lại khiến vùng nước chung quanh chàng đóng băng; rồi lớp băng tan ra dần; chàng tỉnh lại, trong người cất chứa hàn độc cực mạnh. Du Thản Chi không dám trở về cạnh A Tử trong lúc này. - Du Thản Chi lật từng trang Dịch Cân Kinh, nhìn kỷ đồ hình và vận khí theo dấu hiệu chỉ dẫn của đồ hình, với trạng thái tâm lý rỗng rang, vô cầu. Du Thản Chi bỗng dưng thành tựu công phu Dịch Cân Kinh. Chàng nhận ra đôi bàn tay chàng có kình lực rất mạnh có thể dễ dàng đánh chết dã thú... - Du Thản Chi một mình âm thầm trở lại Trung Nguyên. Dọc đường nghe tin Cái Bang mở hội để bầu tân bang chủ trong vài ngày tới. Toàn Quán Thanh đà chủ thì mưu tính phục hồi chức vị cũ của ông ta ở Cái Bang trước ngày hội để ông ta có thể dành chức Bang chủ. - Đoàn Dự đem thư của Đoàn Chính Thuần đến các trưởng lão Cái Bang để xác nhận thủ phạm vụ án Mã phó bang chủ không phải là Kiều Phong. Toàn Quán Thanh nhận thư, đọc trộm, rồi hủy đi... - Tại phân đà đại trí của Toàn Quán Thanh, Đoàn Dự nhận thư mời của Tô Tinh Hà đến họp mặt trong kỳ hội các kỳ thủ trong thiên hạ tại núi Lôi Cổ, tỉnh Hà Nam. - Môn hạ của Tinh Tú lão quái hạ sát người đưa thư mời các kỳ thủ, rồi uy hiếp đòi Cái Bang nộp trùng độc, rắn độc... - Tinh Tú lão quái xuất hiện liền ở Cái Bang đòi bang chúng Cái Bang ra nghênh tiếp. Tiếp có tiếng hô: Cung thỉnh Tinh Tú Lão Tiên thi triển đại pháp hàng phục bọn tiểu quỷ Cái Bang". - Tinh Tú đi đến đâu bang chúng Cái Bang bỗng nhiên ngã lăn ra chết đến đó. Toàn Quán Thanh liền thổi tiêu gọi rắn độc và trăn bao vây lão quái cùng các môn nhân của ông ta. Nhiều môn nhân tử nạn. Lão quái thì bị trăn tấn công... - Toàn Quán Thanh và toàn bang chúng đều bị tê liệt, hôn mê... - Du Thản Chi đốt lửa lên để xua đuổi rắn và trăn cứu nguy cho Tinh Tú lão quái cùng các môn hạ của ông. Lão quái thấy rõ Du Thản Chi có chất kịch độc ở đôi cánh tay, và có sức mạnh kỳ lạ chỉ trong một thoáng đã hất văng một cao thủ của ông ta chết ngay. Ông bèn dùng Hóa Công Đại Pháp để thâu phục Du Thản Chi, không ngờ lực âm hàn cực mạnh của chàng hút cả nội lực của lão quái. Lão bèn trồng cây chuối để ngưng tụ nội lực, rồi dùng võ công khống chế Du Thản Chi. Chàng ta rất tâm phục võ công của lão quái. Lão quái ép chàng bái ông ta làm sư phụ mới chịu tha chết chàng. - Đinh Xuân Thu lão quái tinh quái tìm hiểu lai lịch Du Thản Chi và võ công của chàng. Du Thản Chi chỉ kể lại chuyện gặp A Tử và con độc tằm, mà dấu kín chuyện chàng luyện Dịch Cân Kinh. - Đinh Xuân Thu dẫn Du Thản Chi và đám đệ tử đi tìm nhà sư Tuệ Tịnh để đến Côn Luân, kiếm độc tằm. - Cùng thời gian trên, Hư Trúc - một tiểu Tăng Thiếu Lâm - đem thiệp mời đi mời các anh hùng đến dự yến 9/9, tiết Trùng dương, ở Thiếu Lâm tự để bàn luận về tuyệt kỷ "Gậy ông đập lưng ông". Hư trúc gặp Phong Ba Ác ở trà quán và trao thiệp mời Mộ Dung công tử, đồng thời nói rõ Thiếu Lâm không cho rằng Mộ Dung là thủ phạm của các vụ án "Gậy ông đập lưng ông". Đặng Bách Xuyên, Công Dã Càn, Bao Bất Đồng và Phong Ba Ác nghe Hư Trúc nói vậy, bèn đổi thái độ định gây hấn sang bắt chuyện thân hữu. Bấy giờ Đinh Xuân Thu và Du Thản Chi cũng bước vào trà quán; các nhà sư Huyền Nạn, Huyền Thông cũng tiếp đến trà quán, đem theo thiệp mời Mộ Dung công tử... - Đi theo hai nhà sư ấy có sư Tuệ Tịnh đang nằm trên cáng khiêng. Tất cả, sau một lúc mới nhận ra sự có mặt của lão quái Đinh Xuân Thu, giật mình kinh nghi... - Đinh Xuân Thu chăm chú theo dõi nhà sự Tuệ Tịnh. Bao Bất Đồng thì tinh nghịch đòi cất cái mặt nạ sắt của Du Thản Chi đi. Du Thản Chi xuất chưởng khiến Bao Bất Đồng và các sư đều bị nhiễm hàn độc, cóng lạnh toàn thân vô phương trục độc. Tất cả đều đến Tiết thần y đang ở Lạc Dương để chữa trị. - Biết Đinh Xuân Thu sắp xuất hiện, Tiết thần y giả dựng nên cảnh đám tang ông ta, và núp sâu vào nhà ở dưới địa đạo. - Giữa lúc mọi người đang phân vân về cái chết của thần y thì có pháo lửa báo hiệu sắp có đại địch... 29.2. Ý kiến - Tại hồi 29, tác giả viết: "Pho Dịch Cân Kinh đúng là một bảo điển tối cao, vô thượng trong võ học, nhưng tu tập không dễ dàng chút nào, phải phế bỏ được ý niệm về nhân tướng, ngã tướng mới mong thành tựu được. Những vị Tăng lữ tu học môn võ công thượng thừa này đều phải dõng mảnh tinh tiến về Phật học mới có kết quả. Nhưng có ai học võ mà không muốn nhanh chóng thành tựu, muốn tâm vô sở trụ thật là thiên nan, vạn nan". (tr 146, tập VI) Pho Dịch Cân Kinh cần được luyện tập với tâm vô sở trụ rời khỏi niệm về ngã tướng, nhân tướng thì công phu mới thành tựu được, theo tác giả. Điều này hệt như nội dung mà kinh Kim Cương chỉ dạy, "Ưng vô sở trụ như sinh kỳ tâm" (nên khởi lên tâm vô sở trụ - không trú trước vào đâu) hay đoạn diệt ác ngã niệm, ngã tưởng (ngã tưởng, nhân tưởng, chúng sinh tưởng, thọ giả tưởng, pháp tưởng, phi pháp tưởng, tưởng và phi tưởng). Luyện Dịch Cân Kinh như thế là công phu tu luyện trí tuệ vô ngã (của Bát Nhã) của Phật Giáo. - Tác giả lại viết: "Lung Á tiên sinh có cố tật, nhưng lại tự xưng là Thông Biện tiên sinh, không chừng ông ta nghe bằng tâm, nói bằng bút còn hơn người thường nghe bằng tai, nói bằng lưỡi". (tr173 - 174, tập VI) - Nghe bằng tai, nói bằng lưỡi: đều là nghe và nói các ngôn ngữ khái niệm. Nghe và nói như vậy là nghe và nói các ngã tướng, ngã tính. Phản ứng tâm lý của nghe và nói ấy sẽ là tham, sân, si, sẽ không thấy rõ sự thật của các hiện hữu, và sẽ đi đến kết cục đem lại phiền não cho mình và người. - Nghe bằng tâm, nói bằng bút; - Nghe bằng tâm là có sự can thiệp của trí tuệ của người nghe và cả từ tâm. Nghe như vậy chỉ rơi vào hạn chế bởi cái tuệ chưa tỏa và cái tâm chưa đại từ của người nghe; nhưng lại tránh được sự ràng buộc của các huyễn tướng và tham, sân, si một cách nặng nề. Nói bằng bút có hai nghĩa: - Nói ra những gì đã nghe bằng tâm và nghĩ bằng tuệ thì dù có diễn tả bằng ngôn ngữ khái niệm vẫn gần với sự thật của các hiện hữu hơn là nói bằng ròng khái niệm. - Cách nói thứ hai bằng bút là không diễn tả bằng ngôn ngữ khái niệm, mà diễn tả bằng họa, bằng tranh, là thứ ngôn ngữ biểu tượng. Diễn tả theo cách này thì phong phú hơn và cũng gần với thực tại hơn. Lung Á tiên sinh được gọi là Thông biện tiên sinh là vì lẽ đó. Cách nói và nghe của tiên sinh thì gần gũi với chủ trương của Thiền tông Trung Quốc hơn là các cách nói và nghe khác. - Chủ trương của Thiền tông T.Q là "Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền". - Tác giả lại viết: "Một hôm Đoàn Dự vào Bạch Mã tự ở Lạc Dương, đang bàn luận về Kinh A Hàm với phương trượng, thảo luận về Thất Bảo của vị vua Chuyển Luân trong Phật học..." (tr 175, tập VI) Đây là nội dung của Kinh Chuẩn Luân Thánh Vương Kiết tập ở Kinh A - Hàm (Hán tạng) và Kinh Bộ NiKàya (Pàli tạng). Thất bảo là: xe báu, ngựa báu, voi báu, ngọc báu, ngọc nữ báu, Tướng quân báu và Cư sĩ báu. Đó là nội dung của một nước rất hùng cường: an ninh, quốc phòng rất vững chắc; kinh tế, tài chánh phú cường. Đặc biệt văn hóa đạo đức của nhân dân tỏa sáng công chính và nhân ái do nhà vua trị dân bằng Chánh pháp của đạo Phật. Đoàn Dự với tâm trạng đương thời, nghĩ đến ngọc nữ báu là một tuyệt sắc giai nhân vừa có một tâm lý tốt đẹp của một mẫu nghi thiên hạ. Với mạch truyện đối thoại, tác giả không cho rằng đấy thật sự là thất bảo. Bởi vì chúng đều vô thường, tan hoại và dẫn đến khổ đau. Đây rõ là cái nhìn trí tuệ của Phật Giáo. Cái nhìn này rọi vào mỹ nữ thì mỹ nữ sẽ là: "...nên nghĩ rằng trong thân mỹ nữ chỉ toàn máu mủ, trăm năm sau biến thành xương trắng..." (tr 177, tập VI) Đây là cái nhìn giúp các hành giả giải thoát đi ra khỏi lòng tham đắm, thức tỉnh để giúp mình và người thoát ly khỏi phiền não, khổ đau: càng say đắm, chấp thủ một đối tượng vô thường, thì càng chuốt lấy sầu bi! Rất Phật Giáo! - Phật Pháp là vậy, nhưng người đời cái nghiệp nặng làm sao có thể hành? Tác giả viết: "Thân thể bên ngoài tàn phế chưa chắc đã hiệu quả. Phải tự mình tu tâm, không nghĩ đến sắc tướng trên thế gian, thì mới tới mức vô sở trụ. Nếu thế thì trở thành đại bồ tát rồi, ta chỉ là phàm phu tục tử, làm sao tu tập tới trình độ đó được? Than ôi! Oán tắng hội, ái biệt ly, cầu bất đắc, đều là cái khổ của nhân sinh". (tr 178, tập VI) - Phần tác giả luận về tâm vô sở trụ là phù hợp với giáo nghĩa Bát Nhã của kinh Kim Cang Bát Nhã (đại thừa Phật giáo) - Ở đây, lời nói nghĩ đến sắc tướng trên thế gian là nói đến sự đắm trước các sắc tướng. - Phần đề cập đến các hình thái của đời sống đem lại khổ đau thì là trọn nghĩa của "Khổ đế" trong giáo lý Tứ Diệu Đế căn bản của Phật giáo. - Lời phát biểu: "Phật nhìn vào một bát nước thấy có 84.000 con trùng, nếu không đọc chú nầy thì khác nào ăn thịt sống". (tr 210, tập VI) là phần Tỳ Ni sử dụng hằng ngày của người xuất gia. Bài kệ là trích từ kinh Hoa Nghiêm, Đại Thừa. Đọc chú là để chế ngự cái tâm lý sát hại, và khởi lên tâm đại từ bi. Đây là một kỹ thuật tu tập. Hồi truyện 29 này liên hệ đến rất nhiều tư tưởng Phật Học rất nền tảng giúp độc giả nắm được các điểm giáo lý Phật Giáo tinh yếu vậy. *
|
|
30.1.
Lược truyện
- Hàm Cốc bát bữu là tám huynh đệ của thần y Tiết mộ Hoa, hàng đệ tử của Thông Biện, hay Lung Á, tiên sinh. Họ cùng đến trú xứ của Tiết Mộ Hoa, là điểm hẹn hội ngộ năm năm một lần của nhóm. Bất thần lần này họ gặp nhà sư Huyền Nạn và bốn huynh đệ hộ vệ của nhà Mộ Dung ở đó. Bao Bất Đồng, vốn nóng nảy và ngang ngược, đã cải vả và xô xát nhẹ với nhóm "Bát hữu", cho đến khi Khang Quảng Lăng (một trong Bát hữu), bạn thâm giao với sư Huyền khổ (sư huynh của Huyền Nạn), xuất hiện thì các bên mới hiểu nhau cùng chung một giới tuyến. - Liền có sự xuất hiện của Tinh Tú Hải lão quái khiến mọi người kinh sợ kéo nhau vào nhà trong để bàn kế đối địch. Nhóm Bát hữu mở đường hầm bí mật để tìm gặp Tiết Mộ Hoa đang trá tử ẩn núp trong địa đạo. Tiết Mộ Hoa thuật lại cho mọi người nghe về bí mật của phái Tiêu Dao: Tinh Tú Hải đã ám sát sư tổ (Thầy của Tinh Tú Hải) và Thông Biện Tiên Sinh - Sư Tổ rơi xuống vực mất tích, Thông Biện thì đuổi tám đệ tử (nhóm Bát hữu) khỏi môn phái và làm người câm điếc ẩn dật từ đó. Phái tiểu tăng Hư Trúc và Tuệ Kính băng về Thiếu Lâm để báo trình cho Huyền Từ phương trượng rõ bí mật ấy và về cuộc tấn công hôm nay của Tinh Tú Hải lão ma. - Biết khó có thể ẩn mãi trong mật thất ở địa đạo, tất cả ra ngoài đối mặt với Tinh Tú Hải Đinh Xuân Thu, ứng chiến một mất một còn. - Huyền nạn xuất tuyệt chiêu tấn công Đinh Xuân Thu vừa quyền vừa cước, đánh trúng vai ông ta khá nặng đòn, nhưng bị nhiễm độc dược quanh người ông ta, Huyền Nạn bị Hóa Công đại pháp của ông ta làm tiêu tán công lực, và làm cơ thể tê liệt...; các anh hùng khác, trừ Tiết Mộ Hoa, bị trúng chưởng của Đinh Xuân Thu và Du Thản Chi, và đều mắc thương thế khá nặêng. - Tiết Mộ Hoa bị Đinh Xuân Thu ép chữa trị cho sư mập Tuệ Tịnh Tiết Mộ Hoa phải nghe lời ông ta để cứu sư phụ Tô Tinh Hà (Thông Biện tiên sinh) và nhóm Bát hữu. - Đinh Xuân Thu dùng xe ngựa chở hết mọi người và dược liệu đi đến nơi mà ông ta muốn... 30.2. Ý kiến - Một người trong nhóm Bát hữu ngâm vịnh: "Có phế bỏ thất tình, mới mong tròn quả phúc Tâm thần tán tụ hoài, chưa thoát vòng trần tục" (Trang. 249-250, Tập VI) Thất tình là mừng (hỷ), giận (nộ), buồn (ai), vui (lạc), yêu (ái), ghét (ố) và ham muốn (dục). Phế bỏ thất tình là loại bỏ các cấu uế của Dục giới tâm để thành tựu tâm thanh tịnh của Dục giới và các tâm Thiền của Sắc giới và vô Sắc giới. Đây là ý nghĩa của lời ngâm: "Có phế bỏ thất tình mới mong tròn quả phúc" Sau khi loại bỏ các cấu uế tâm, hành giả sẽ thành tựu các tâm thiền. Tại đây hành giả cần chế ngự tâm tầm, tứ của Sơ định để dốc niệm phát triển các tâm định cao hơn để an trú ở Tứ định (hay đại định) để phát triển trí tuệ giải thoát. Đây là ý nghĩa của: "Tâm thần tán tụ hoài, chưa thoát vòng trần tục". Lời ngâm trên mang nội dung tu tập giải thoát của Phật giáo. - Lời ngâm tiếp đầy tác dụng cảnh tỉnh: " Thế sự thành không tưởng, Còn vui thú nổi gì?" (trang 250, Tập VI) Mọi hiện hữu đều do vạn duyên mà có. Rời vạn duyên, không có hiện hữu nào có mặt. Nói khác đi, cái gọi là tự ngã (self) của mỗi hiện hữu chỉ là một ảo tưởng (illusion): hiện hữu là rỗng không tự ngã (emptiness). Kẻ trí thấy vậy mà thức tỉnh ra khỏi sự đắm say các ngã tướng. - Sư Huyền Thống vừa múa đao vừa nói: "Hỏi ai người đắc pháp, Nhân giả phải tinh vi" Người ngâm vịnh bật cười ha hả mà tiếp lời: Đúng rồi! Đúng rồi! Đại sư là đệ tử nhà Phật mà cũng nói đến nhân giả là gì? Vậy thì đạo lý trong thiên hạ đều giống nhau hết. Tại hạ khuyên đại sư nên ra khỏi bến mê, quay đầu trở lại, buông đao đồ tể". (trang 250 tập VI). Huyền Thống hốt nhiên đại ngộ, thấu triệt lẽ huyền vi, bèn nói: "Phật Pháp vô biên! Cho tròn thiện quả. Rồi mỉm cười mà hóa". Câu hỏi đắc pháp là gì, người đắc pháp là gì? Bỗng đánh thức sư Huyền Thống bừng tỉnh về cái rỗng không tự ngã của các hiện hữu; hiện hữu đang mãi tròn đầy ra đấy, tự ngã chỉ là một ý niệm đẩy con người đi tìm ý niệm trống không ấy. Câu nói của người ngâm vịnh (trong nhóm Bát hữu) chỉ có tác dụng như một giọt nước cuối cùng làm tràn đầy ly nước công phu của Huyền Thống, lay gọi Huyền Thống buông bỏ ý niệm (như là người đồ tể buông dao đồ tể). Buông bỏ ý niệm chấp thủ tự ngã, chấp thủ các ngã tướng là buông bỏ thất tình, lục dục, thị phi thảy... thế là không còn cái gì để mà công phu nữa, mỉm cười mà hóa. Mọi sự việc ở đời đều có thể thức tỉnh con người ra khỏi cơn mê chấp thủ. Điều này có nghĩa là mọi hiện hữu đều có tác dụng của Phật Pháp, đều là Phật Pháp, điều mà sư Huyền Thống lúc ngộ nói ra "Phật pháp vô biên". Câu chuyện ngâm vịnh đối đáp giữa gã đồ gàn (trong nhóm Bát hữu) và sư Huyền Thống lúc đang động kiếm sát phạt, mà tác giả Kim Dung lồng vào một cuộc động kiếm lầm lẫn sai đối tượng, mang đầy âm hưởng của một cuộc "Pháp đàm" của các Thiền sư Trung Quốc, nghe rất Phật giáo! - Khang Quảng Lăng (cũng là một người trong Bát Hữu) được tin người bạn tri âm là Đại sư Huyền Khổ viên tịch từ lâu, liền khóc bi thiết và than: "Huyền Khổ lão huynh ơi! Sao lão huynh chẳng dặn dò tiểu đệ một câu nào đã bỏ đi ngay? Khúc Phạn Âm Phổ Tấu của tiểu đệ đã có bao nhiêu người nghe mà chẳng ai hiểu gì ráo, chỉ mình lão huynh biết trong khúc đó bao hàm ý tưởng nhà Phật, có thể khiến cho công lực tinh tiến thêm lên, lão huynh nghe đi nghe lại mà không biết chán". (trang 256-257, tập VI.) Khúc Phạn Âm Phổ Tấu, mà đời sau trong văn học thi ca gọi là Khúc Quảng Lăng ở Kê Khang, do Quảng Lăng Phổ ra, là lúc một khúc có tiết tấu khiến người nghe lắng đứng dục vọng, thiền định phát triển trí và tuệ phát triển. Do vậy, khúc nhạc như có chuyên chở lời kinh, ý Phật điều mà tác giả gọi là bao hàm ý tưởng nhà Phật với đạo Phật, nhìn nghe, nói, hành động đưa đến giác tỉnh tiêu trừ dục vọng thì gọi là nhìn, nghe, nói, hành động Phật giáo- Phật giáo là thế, không có tự ngã, không của riêng ai. - Tiết Mộ Hoa ( thuộc nhóm Bát hữu) thần y thì nhận định: "Việc trừ diệt đại họa cho Võ lâm mà không được các Cao Tăng chùa Thiếu Lâm chủ trương đại cuộc thì khó bề thành công được..." (trang 273, tập VI) Phải chăng đó là niềm tin của tác giả Kim Dung đặt vào giáo lý nhà phật. Từ bi và Trí tuệ, và vào các đại thiền sư, các người có thể chuyển tải giá trị của đạo Phật đến với đời? Phải chăng, với tác giả, văn hóa Phật giáo sẽ là văn hóa trừ họa cho Võ Lâm, đem lại hòa bình, an lạc lâu bền? |
|
|
|
|