長 老 部; S: sthaviravāda; P: theravāda; cũng có nghĩa là Thượng tọa bộ nhưng được dịch như trên để phân biệt với Thượng tọa bộ (p: theravāda), trường phái Tích Lan tuyệt đối theo kinh sách văn hệ Pā-li sau này;
Một trong hai trường phái Tiểu thừa phát sinh trong lần Kết tập thứ ba tại Hoa Thị thành (s: pāṭaliputra). Sự phân chia này bắt nguồn chỉ từ định nghĩa thể tính của A-la-hán. Trong lần kết tập đó, một vi tăng tên là Ðại Thiên (s, p: mahādeva) cho rằng A-la-hán còn có những giới hạn như sau:
1. A-la-hán còn có thể bị quyến rũ, xuất tinh trong khi ngủ; 2. A-la-hán vẫn còn một số Vô minh (s: avidyā); 3. A-la-hán còn nghi ngờ về pháp; 4. A-la-hán có thể cần hỗ trợ bên ngoài để giác ngộ; 5. A-la-hán cần những thanh âm đặc biệt mới đạt giải thoát.
Các vị trong nhóm trưởng lão phản đối ý kiến này và ngược lại các vị trong Ðại chúng bộ (s: mahāsāṅghika) đồng ý như thế. Từ đó sinh ra nhiều tông phái khác nhau. Sau đó Trưởng lão bộ lại tiếp tục bị chia chẻ trong năm 240 sau Công nguyên ra các nhóm Ðộc Tử bộ (s: vātsīputrīya), Nhất thiết hữu bộ (s: sarvāstivāda), Phân biệt bộ (s: vibhajyavāda).