Kẻ làm điều ác là tự chuốc lấy việc dữ cho mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Cái hại của sự nóng giận là phá hoại các pháp lành, làm mất danh tiếng tốt, khiến cho đời này và đời sau chẳng ai muốn gặp gỡ mình.Kinh Lời dạy cuối cùng
Người ta trói buộc với vợ con, nhà cửa còn hơn cả sự giam cầm nơi lao ngục. Lao ngục còn có hạn kỳ được thả ra, vợ con chẳng thể có lấy một chốc lát xa lìa.Kinh Bốn mươi hai chương
Giữ tâm thanh tịnh, ý chí vững bền thì có thể hiểu thấu lẽ đạo, như lau chùi tấm gương sạch hết dơ bẩn, tự nhiên được sáng trong.Kinh Bốn mươi hai chương
Dầu giữa bãi chiến trường, thắng ngàn ngàn quân địch, không bằng tự thắng mình, thật chiến thắng tối thượng.Kinh Pháp cú (Kệ số 103)
Dễ thay thấy lỗi người, lỗi mình thấy mới khó.Kinh Pháp cú (Kệ số 252)
Vui thay, chúng ta sống, Không hận, giữa hận thù! Giữa những người thù hận, Ta sống, không hận thù!Kinh Pháp Cú (Kệ số 197)
Do ái sinh sầu ưu,do ái sinh sợ hãi; ai thoát khỏi tham ái, không sầu, đâu sợ hãi?Kinh Pháp Cú (Kệ số 212)
"Nó mắng tôi, đánh tôi,
Nó thắng tôi, cướp tôi."
Ai ôm hiềm hận ấy, hận thù không thể nguôi.Kinh Pháp cú (Kệ số 3)
Nên biết rằng tâm nóng giận còn hơn cả lửa dữ, phải thường phòng hộ không để cho nhập vào. Giặc cướp công đức không gì hơn tâm nóng giận.Kinh Lời dạy cuối cùng
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
- Nhĩ Căn Viên Thông
- Nhiếp Tâm Là Giới
Lúc bấy giờ, đức Bồ Tát Quán Thế Âm(161) từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, bạch rằng:
– Bạch đức Thế Tôn! Con nhớ trong vô số hằng sa kiếp về trước, có đức Phật ra đời hiệu là Quán Thế Âm. Ở trước đức Phật ấy, con đã phát tâm bồ đề. Ngài dạy con do từ văn, tư, tu mà nhập tam-ma-địa. Ban đầu, con ở trong tánh nghe mà được vào dòng, mất tướng sở-văn. Chỗ vào đã vắng lặng, hai tướng động và tĩnh rõ ràng không sinh. Cứ như thế mà tăng tiến dần, cả năng-văn và sở-văn đều mất hết. Ngay chỗ này con vẫn không dừng lại, mà tiến lên thêm nữa, đến chỗ năng-giác và sở-giác cũng đều không. Rồi cả hai ý niệm “năng- giác - sở-giác” và “năng-giác, sở-giác đều không” đều bị dứt trừ trọn vẹn; năng-không và sở-không hoàn toàn tiêu mất. Sinh diệt đã tiêu vong thì cảnh giới tịch diệt hiện rõ trước mắt. Bỗng nhiên con vượt khỏi cả thế và xuất thế gian, mười phương sáng rỡ. Con được hai điều thù thắng: Một là, trên hợp với bản giác diệu tâm của chư Phật mười phương, cùng với chư Phật đồng một từ lực; hai là, dưới hợp với tất cả chúng sinh trong sáu nẻo mười phương, cùng với chúng sinh đồng một bi ngưỡng.
Bạch đức Thế Tôn! Do con cúng dường đức Quán Thế Âm Như Lai, được Ngài trao truyền cho pháp tu “văn-huân văn-tu như-huyễn”; con tu pháp ấy mà chứng Kim-cang tam-muội, cùng với chư Phật đồng một sức từ, khiến cho thân con thành tựu được 32 thân ứng hóa vào khắp các quốc độ.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu các vị Bồ-tát vào tam-ma-địa, tiến tu pháp vô lậu, thắng giải viên mãn, thì con hiện ra thân Phật, vì quí vị ấy mà nói pháp, khiến được giải thoát.
Nếu các hàng Hữu-học(162) thích ở một mình nơi tịch tĩnh, cầu trí tuệ nhiệm mầu, khi trí tuệ thắng diệu sắp phát hiện viên mãn, con liền ở trước quí vị ấy, hiện thân Độc-giác(163), vì họ mà nói pháp, khiến được giải thoát.
Nếu các hàng Hữu-học đoạn dứt mười hai nhân duyên(164), hiển lộ lí tánh vô sinh, khi trí tuệ thắng diệu sắp phát hiện viên mãn, con liền ở trước quí vị ấy, hiện thân Duyên-giác(165), vì họ mà nói pháp, khiến được giải thoát.
Nếu các hàng Hữu-học thể hội được pháp Tứ Đế không(166), bước lên địa vị Tu-đạo(167), chứng nhập từng phần trạch diệt vô vi(168), khi thắng tánh sắp hiển hiện viên mãn, con liền ở trước quí vị ấy, hiện thân Thanh-văn(169), vì họ mà nói pháp, khiến được giải thoát.
Nếu có các chúng sinh muốn tâm được tỏ ngộ, không bị vướng vào dục trần, muốn thân thanh tịnh, con liền ở trước họ, hiện thân Phạm Vương(170) mà vì họ nói pháp, khiến được giải thoát.
Nếu có các chúng sinh muốn làm thiên chủ(171) để thống lãnh thiên chúng, con liền ở trước họ, hiện thân Đế Thích(172) mà vì họ nói pháp, khiến được thành tựu như ý.
Nếu có các chúng sinh muốn thân được tự tại, du hành khắp mười phương, con liền ở trước họ, hiện thân trời Tự Tại(173) mà vì họ nói pháp, khiến được thành tựu như ý.
Nếu có các chúng sinh muốn thân được tự tại, có thể bay đi trên hư không, con liền ở trước họ, hiện thân trời Đại Tự Tại(174) mà vì họ nói pháp, khiến được thành tựu như ý.
Nếu có các chúng sinh muốn thống lãnh quỉ thần, cứu hộ các cõi nước, con liền ở trước họ, hiện thân thiên đại tướng quân(175) mà vì họ nói pháp, khiến được thành tựu như ý.
Nếu có các chúng sinh muốn thống lãnh thế giới, bảo hộ chúng sinh, con liền ở trước họ, hiện thân trời Tứ-vương(176) mà vì họ nói pháp, khiến được thành tựu như ý.
Nếu có các chúng sinh muốn sinh nơi thiên cung, sai khiến quỉ thần, con liền ở trước họ, hiện thân thái tử của bốn vị Thiên vương mà vì họ nói pháp, khiến được thành tựu như ý.
Nếu có các chúng sinh muốn làm vua cõi người(177), con liền ở trước họ, hiện thân vua mà vì họ nói pháp, khiến được thành tựu như ý.
Nếu có các chúng sinh muốn làm chủ gia tộc danh tiếng, được thế gian kính nể, con liền ở trước họ, hiện thân trưởng giả(178) mà vì họ nói pháp, khiến được thành tựu như ý.
Nếu có các chúng sinh muốn đàm luận về danh ngôn kim cổ để giữ mình trong nếp sống trong sạch, con liền ở trước họ, hiện thân cư sĩ(179) mà vì họ nói pháp, khiến được thành tựu như ý.
Nếu có các chúng sinh muốn trị lí quốc gia, xét đoán phân minh các việc tỉnh, quận, con liền ở trước họ, hiện thân tể quan(180) mà vì họ nói pháp, khiến được thành tựu như ý.
Nếu có các chúng sinh thích dùng bói toán bùa chú để giữ thân tâm an ổn, con liền ở trước họ, hiện thân bà la môn(181) mà vì họ nói pháp, khiến được thành tựu như ý.
Nếu có kẻ thiện nam muốn tu học Phật pháp, bỏ tục xuất gia, hành trì giới luật, con liền ở trước người ấy, hiện thân tì kheo để nói pháp, khiến người ấy được thành tựu như ý.
Nếu có người tín nữ muốn tu học Phật pháp, bỏ tục xuất gia, hành trì giới luật, con liền ở trước người ấy, hiện thân tì kheo ni để nói pháp, khiến người ấy được thành tựu như ý.
Nếu có kẻ thiện nam muốn giữ gìn năm giới, con liền ở trước người ấy, hiện thân cận sự nam để nói pháp, khiến người ấy được thành tựu như ý.
Nếu có người tín nữ muốn giữ gìn năm giới, con liền ở trước người ấy, hiện thân cận sự nữ để nói pháp, khiến người ấy được thành tựu như ý.
Nếu có người đàn bà quyết chí lập thân nội chính(182) để tu thân, cảm hóa gia đình và yên trị quốc gia, con liền ở trước người ấy, hiện thân hoàng hậu, phu nhân, hoặc mệnh phụ, đại cô(183) để nói pháp, khiến người ấy được thành tựu như ý.
Nếu có người con trai không muốn nhiễm dục trần(184), con liền ở trước người ấy, hiện thân đồng nam(185) để nói pháp, khiến người ấy được thành tựu như ý.
Nếu có người con gái muốn giữ thân trinh thục, sống đời xử nữ(186), không muốn lập gia đình, con liền ở trước người ấy, hiện thân đồng nữ(187) để nói pháp, khiến người ấy được thành tựu như ý.
Nếu có thiên chúng nào muốn ra khỏi loài trời(188), con liền hiện thân trời mà vì nói pháp, khiến được thành tựu như ý.
Nếu có loài rồng muốn thoát khỏi loài mình, con liền hiện thân rồng mà vì nói pháp, khiến được thành tựu như ý.
Nếu có quỉ dược xoa(189) muốn thoát khỏi loài mình, con liền ở trước họ, hiện thân dược xoa mà vì nói pháp, khiến được thành tựu như ý.
Nếu có thần càn thát bà(190) muốn thoát khỏi loài mình, con liền ở trước họ, hiện thân càn thát bà mà vì nói pháp, khiến được thành tựu như ý.
Nếu có thần a tu la(191) muốn thoát khỏi loài mình, con liền ở trước họ, hiện thân a tu la mà vì nói pháp, khiến được thành tựu như ý.
Nếu có thần khẩn na la(192) muốn thoát khỏi loài mình, con liền ở trước họ, hiện thân khẩn na la mà vì nói pháp, khiến được thành tựu như ý.
Nếu có loài ma hô la già(193) muốn thoát khỏi loài mình, con liền ở trước họ, hiện thân ma hô la già mà vì nói pháp, khiến được thành tựu như ý.
Nếu có các chúng sinh muốn sinh làm người và tu trì để đời đời được thân người, con liền hiện thân người mà vì họ nói pháp, khiến được thành tựu như ý.
Nếu có loài phi nhân(194), hoặc có hình sắc, hoặc không có hình sắc, hoặc có tư tưởng, hoặc không có tư tưởng, muốn thoát khỏi loài mình, con liền ở trước họ, hiện thân họ mà vì nói pháp, khiến được thành tựu như ý.
Đó là 32 ứng thân nhiệm mầu không nhiễm trước, hiện vào các cõi nước mười phương. Những thân đó đều do diệu lực vô tác của văn-huân văn-tu tam-muội mà thành tựu một cách tự tại.
Bạch đức Thế Tôn! Con lại do diệu lực vô tác của văn huân văn tu kim cang tam muội ấy, mà cùng với tất cả chúng sinh trong sáu đường khắp mười phương ba đời, đồng một lòng bi ngưỡng, khiến cho tất cả chúng sinh, ở nơi thân tâm con, được mười bốn thứ công đức vô úy:
Một là, do con không quán âm thanh đối tượng, mà quán cái tâm năng quán của mình, khiến cho chúng sinh khổ não khắp mười phương, quán âm thanh như vậy thì được giải thoát.
Hai là, con xoay tri kiến trở lại soi chiếu nội tâm, khiến cho chúng sinh dù vào đống lửa lớn, cũng không bị lửa đốt cháy.
Ba là, con quán cái nghe xoay vào nội tâm, khiến cho chúng sinh dù bị nước lớn cuốn trôi, cũng không bị nước nhận chìm.
Bốn là, con đoạn diệt hết vọng tưởng, không còn tâm sát hại, khiến cho chúng sinh dù phải vào trong các nước quỉ, cũng không bị chúng quỉ làm hại.
Năm là, con huân tập cái nghe mà thành tựu tánh nghe chân thật; cả sáu căn đều tiêu huyễn vọng mà trở về chân tánh, đồng như cái tiếng, cái nghe; khiến cho chúng sinh lúc sắp phải bị hại, dao gãy từng khúc, binh khí chạm thân dường như chém nước, như gió thổi ánh sáng, tánh không giao động.
Sáu là, con huân tập tánh nghe tinh thuần, sáng khắp pháp giới, thì những gì đen tối không thể tồn tại, khiến cho chúng sinh, dù các loài ác quỉ như dược xoa, la sát(195), cưu bàn trà(196), tì xá già(197), phú đơn na(198), vân vân..., nếu có đứng gần cũng không thể nhìn thấy.
Bảy là, hai tánh động, tĩnh của âm thanh đều tiêu diệt hoàn toàn, con quán chiếu tánh năng văn xoay ngược vào trong, xa lìa hết các trần cảnh hư vọng, khiến cho chúng sinh, tất cả những thứ gông cùm xiềng xích đều không dính đến thân thể.
Tám là, con dứt tuyệt âm thanh, tròn vẹn tánh nghe, từ lực phát sinh cùng khắp, khiến cho chúng sinh, dù đi qua con đường nguy hiểm, cũng không bị giặc cướp làm hại.
Chín là, con huân tu tánh nghe thanh tịnh, xa lìa các trần tướng, sắc dục không thể quyến rũ, khiến cho các chúng sinh đa dâm rời xa tham dục.
Mười là, con lưu lại thuần một thật tướng của âm thanh, không còn mảy may đối tượng thanh trần, căn cảnh viên dung, không có năng sở đối đãi, khiến cho các chúng sinh nhiều nóng giận dứt bỏ sân hận.
Mười một là, con tiêu trừ vọng trần đối tượng, xoay cái nghe về tự tánh sáng suốt, từ ngoài pháp giới đến trong thân tâm trong sáng như ngọc lưu li, rỗng suốt không có gì chướng ngại, khiến cho tất cả chúng sinh ngu ngốc đần độn vĩnh viễn xa lìa si mê tăm tối.
Mười hai là, tiêu trừ hết huyễn hình tứ đại, con xoay tánh nghe trở về nơi tịch diệt bất động, hòa nhập vào thế gian mà không hủy hoại thế gian; cúng dường chư Phật nhiều như vi trần trong khắp mười phương, mỗi mỗi đức Phật con đều ở bên cạnh làm pháp vương tử, khiến cho tất cả những kẻ không có con trong khắp pháp giới, muốn cầu có con trai thì sinh được con trai phúc đức trí tuệ.
Mười ba là, sáu căn con viên thông, chiếu sáng không hai, bao trùm mười phương pháp giới, thành chiếc kính lớn tròn đầy, thành không như lai tạng, vâng lãnh các pháp môn bí mật của chư Phật nhiều như vi trần trong khắp mười phương, lãnh nhận không thiếu sót; khiến cho những kẻ không có con trong thế gian, muốn cầu có con gái, thì sinh được con gái xinh đẹp, đoan chính, phúc đức, dịu hiền, mọi người yêu kính.
Mười bốn là, trong ba ngàn đại thiên thế giới này có trăm ức mặt trời mặt trăng, các vị pháp vương tử hiện trú ở thế gian nhiều đến 62 lần số cát sông Hằng, đều tu Phật pháp, làm mô phạm, giáo hóa và tùy thuận chúng sinh, trí tuệ và phương tiện mỗi ngài mỗi khác. Vậy mà, do con đã được nhĩ căn viên thông, phát ra diệu tánh của nhĩ căn, sau đó thì thân tâm trở nên vi diệu, bao trùm cùng khắp pháp giới, cho nên có thể khiến cho người chấp trì danh hiệu của con, so với người chấp trì danh hiệu của 62 lần số cát sông Hằng các vị pháp vương tử nói trên, phước đức của hai người này ngang bằng nhau, không có gì sai khác. Bạch đức Thế Tôn! Sở dĩ một danh hiệu của con cùng với rất nhiều danh hiệu kia không khác, là do con đã tu tập và chứng được tánh viên thông chân thật.
Đó gọi là mười bốn sức vô úy thí, đem phúc lành đến khắp chúng sinh.
Bạch đức Thế Tôn! Con lại do chứng được đạo viên thông vô thượng đó, cho nên cũng có được bốn diệu đức vô tác không thể nghĩ bàn:
Một là, do ban đầu con đạt được tánh nghe chí diệu, thoát khỏi năng văn sở văn, chỉ còn cái tâm tinh thuần; bấy giờ thì các sự thấy, nghe, hay, biết của sáu căn không còn cách biệt, mà thành một tánh biết viên dung thanh tịnh. Cho nên con có thể hiện ra rất nhiều hình dạng mầu nhiệm, có thể nói ra vô biên thần chú bí mật: hoặc con hiện ra một đầu, ba đầu, năm đầu, hay bảy đầu, chín đầu, mười một đầu, cho đến một trăm lẻ tám đầu, một ngàn đầu, một vạn đầu, hay tám vạn bốn ngàn đầu kim cang bất hoại; hoặc hiện ra hai tay, bốn tay, sáu tay, tám tay, mười tay, mười hai tay, hay mười bốn, mười sáu, mười tám, hai mươi, hăm bốn, cho đến một trăm lẻ tám tay, một ngàn tay, một vạn tay, hay tám vạn bốn ngàn tay bắt ấn; hoặc hiện ra hai mắt, ba mắt, bốn mắt, chín mắt, cho đến một trăm lẻ tám mắt, một ngàn mắt, một vạn mắt, hay tám vạn bốn ngàn mắt thanh tịnh; hoặc hiện tướng từ bi, hoặc hiện tướng uy dũng, hoặc hiện tướng định tĩnh, hoặc hiện tướng trí tuệ, nhằm cứu độ chúng sinh được đại tự tại.
Hai là, do cái nghe, cái nghĩ của con đã thoát ra khỏi sáu trần, như âm thanh đi qua bức tường mà không bị ngăn ngại, cho nên diệu dụng của con có thể hiện ra nhiều hình tướng, tụng nhiều thần chú. Hình tướng ấy, thần chú ấy đều có thể đem sức vô úy bố thí cho chúng sinh. Vì vậy, các cõi nước nhiều như vi trần trong khắp mười phương đều gọi con là người “bố thí vô úy”.
Ba là, do con tu tập tánh viên thông mầu nhiệm vốn có mà được nhĩ căn thanh tịnh, nên đi du hóa đến thế giới nào cũng khiến cho chúng sinh xả bỏ tất cả những trân châu bảo vật của tự thân để cầu được con thương xót.
Bốn là, con có được tâm Phật, chứng đến chỗ rốt ráo, cho nên có thể đem các thứ trân bảo cúng dường chư Phật mười phương. Mặt khác, chúng sinh trong sáu đường khắp cùng pháp giới, ai cầu vợ được vợ, cầu con được con, cầu tam muội được tam muội, cầu sống lâu được sống lâu, cho đến cầu đại niết bàn cũng được đại niết bàn.
Nay đức Thế Tôn hỏi về nhân duyên và phương tiện chứng ngộ viên thông, con do từ cánh cửa nhĩ căn, quán chiếu tánh nghe và âm thanh đến chỗ tột cùng viên mãn mà chứng được tam-muội, tùy duyên ứng hóa, tâm được tự tại. Con đã do nơi nhĩ căn mà nhập vào dòng niết bàn, được tam-ma-địa, thành tựu đạo quả bồ đề; cho nên đối với con, nhĩ căn là phương tiện ưu việt nhất.
Bạch đức Thế Tôn! Đức Quán Thế Âm Như Lai kia đã khen ngợi con khéo được pháp môn viên thông, cho nên ở giữa hội chúng, Ngài đã thọ kí cho con danh hiệu Quán Thế Âm. Lại do tánh thấy nghe của con tròn sáng chiếu khắp mười phương, nên danh hiệu Quán Thế Âm cũng phổ cập mười phương thế giới.
Lúc bấy giờ đức Thế Tôn ngồi trên tòa sư tử, từ năm vóc phóng ra ánh sáng báu, soi sáng trên đỉnh đầu của chư Phật, chư vị Pháp vương tử và chư Bồ-tát nhiều như vi trần ở khắp mười phương. Chư Phật trong khắp mười phương kia cũng đồng từ năm vóc phóng ra ánh sáng báu soi đến đỉnh đầu đức Thế Tôn, chư vị Bồ-tát và A-la-hán trong pháp hội. Rừng cây, ao hồ đều diễn ra pháp âm. Hào quang của chư Phật giao hòa nhau như lưới tơ báu. Tất cả đại chúng được điều chưa từng có, tất cả đều được Kim-cang tam-muội. Liền khi ấy, trời mưa hoa sen trăm báu, đủ các màu xanh, vàng, đỏ, trắng xen lộn lẫn nhau, cả mười phương hư không hóa thành màu bảy báu. Núi, sông, đất liền của cõi Ta-bà này bỗng nhiên không hiện hữu nữa, chỉ thấy các cõi nước nhiều như vi trần trong mười phương hợp lại thành một thế giới, tiếng ca ngâm tán thán tự nhiên dìu dặt nổi lên.
Bấy giờ, đức Phật bảo Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi rằng:
– Cả hai mươi lăm vị Vô-học vừa là đại Bồ-tát, vừa là A-la-hán, vừa rồi đã trình bày từ thuở ban đầu phát tâm cho đến khi thành đạo, mỗi mỗi đều dùng một căn, một trần, một thức, hoặc một đại mà làm phương tiện tu tập để chứng được viên thông chân thật. Chỗ tu chứng của quí vị ấy thật không hơn kém, mau chậm khác nhau. Nhưng vì muốn cho thầy A Nan khai ngộ, nên giờ đây Như Lai nhờ ông xét kĩ, trong hai mươi lăm pháp môn tu tập kia, pháp tu nào xứng hợp với căn cơ của thầy ấy? Lại nữa, sau khi Như Lai diệt độ, nếu có chúng sinh của thế giới này tu tập theo hạnh Bồ-tát mà cầu đạo Bồ đề Vô thượng, thì họ nên dùng pháp môn phương tiện nào để dễ thành tựu?
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi vâng theo từ ý của Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, nương theo oai thần của Phật mà nói bài kệ bạch Phật rằng:
Biển Giác tánh lắng trong,
Vốn tròn vẹn nhiệm mầu;
Bởi bản minh chiếu soi,
Cho nên có “sở chiếu”;
Do phân biệt “năng, sở”,
Làm mất tánh bản minh.
Mê vọng có hư không,
Rồi nương nơi hư không
Mà hình thành thế giới.
Do vọng tưởng ngưng kết,
Thành vô tình quốc độ;
Do vọng tưởng thấy biết,
Thành hữu tình chúng sinh.
Đại giác sinh hư không,
Như biển sinh bọt nước,
Vô số cõi hữu lậu
Đều do hư không sinh;
Bọt nước rồi bể tan,
Hư không vốn không có,
Ba cõi cũng hoàn không!
Về nguồn tánh không hai;
Phương tiện có nhiều cách,
Quả chứng không trái nhau,
Thuận, nghịch là phương tiện.
Những người sơ phát tâm,
Vì cơ trí không đều,
Tu chứng vào Tam-muội,
Mau chậm chẳng đồng nhau.
Sắc trần được hình thành
Do vọng tưởng ngưng kết,
Hay biết không thể thấu;
Cái không thể thấu suốt,
Thì người sơ phát tâm
Dễ gì nương sắc trần
Để tu chứng viên thông!
Âm thanh cùng ngữ ngôn
Kết hợp xen lẫn nhau,
Biểu thị thành ý nghĩa
Của danh ngôn, văn cú;
Nhưng một danh, cú, nghĩa,
Không bao hàm tất cả,
Thì người sơ phát tâm
Dễ gì nương thanh trần
Để tu chứng viên thông!
Mùi hương phải chạm mũi,
Mới biết là có hương,
Nếu cách rời, không có.
Tị căn và hương trần
Không thường hằng xúc hợp,
Thì người sơ phát tâm
Dễ gì nương hương trần
Để tu chứng viên thông!
Vị, phải nếm mới biết,
Không đương nhiên tự có.
Thiệt căn và vị trần
Không thường hằng xúc hợp,
Thì người sơ phát tâm
Dễ gì nương vị trần
Để tu chứng viên thông!
Xúc, có chạm mới biết,
Nếu không vật gì chạm,
Thì không có xúc trần.
Hợp, lìa, không nhất định
Thì người sơ phát tâm
Dễ gì nương xúc trần
Để tu chứng viên thông!
Pháp gọi là “nội trần”,
Là đối tượng “sở tri”,
Năng, sở không dung khắp
Thì người sơ phát tâm
Dễ gì nương pháp trần
Để tu chứng viên thông!
Mắt thấy tuy rỗng suốt,
Nhưng chỉ thấy phía trước,
Không thể thấy phía sau,
Đối với bốn phương góc,
Chỉ thấy được một nửa,
Thì người sơ phát tâm
Dễ gì nương nhãn căn
Để tu chứng viên thông!
Mũi thở ra, thở vào,
Chặng giữa hơi đứt đoạn;
Thở ra thì không vào,
Thở vào thì không ra,
Cách trở, không dung thông,
Thì người sơ phát tâm
Dễ gì nương tị căn
Để tu chứng viên thông!
Lưỡi nếm biết được vị,
Phải xúc chạm vị trần;
Nếu vị trần tiêu vong,
Tánh biết vị không có,
Thì người sơ phát tâm
Dễ gì nương thiệt căn
Để tu chứng viên thông!
Thân thể chạm xúc biết
Thì phải có đối tượng.
Nhưng năng xúc, sở xúc,
Giới hạn, không liên tục,
Thì người sơ phát tâm
Dễ gì nương thân căn
Để tu chứng viên thông!
Ý căn thường loạn tưởng,
Nếu tư duy dừng lại,
Chẳng còn thấy biết gì;
Nhưng niệm tưởng tạp loạn,
Không dễ gì thoát được,
Thì người sơ phát tâm
Dễ gì nương ý căn
Để tu chứng viên thông!
Nhãn thức muốn phát khởi,
Phải nhờ đủ căn, trần,
Xét tận cùng gốc rễ,
Hư vọng, không thật thể.
Tự thể không nhất định
Thì người sơ phát tâm
Dễ gì nương nhãn thức
Để tu chứng viên thông!
Nhĩ thức nghe mười phương,
Do hạnh nguyện rộng lớn.
Hạng người sơ phát tâm
Không thể đạt đến đó,
Nên nếu nương nhĩ thức,
Khó tu chứng viên thông!
Quán điểm trắng chót mũi,
Vốn chỉ là quyền cơ,
Nhằm khiến tâm an trụ;
Không phải là khả năng
Mà tị thức vốn có.
Khi tâm đã an trụ,
Tức điểm trắng chót mũi
Thành chỗ trụ của tâm;
Nhưng chân tâm vô trụ,
Làm sao kẻ sơ tâm
Nương đó chứng viên thông!
Dùng thiệt thức nói pháp,
Chỉ là khéo xếp đặt
Ngôn ngữ cùng âm thanh.
Nhưng nếu được khai ngộ,
Thì chỉ là thành tựu
Sức biện tài nhiều kiếp;
Tất cả mọi danh cú
Đều là pháp hữu vi,
Làm sao chứng viên thông!
Giữ giới không cho phạm,
Chỉ ràng buộc thân thức;
Ngoài phạm vi thân thức,
Không gì bị ràng buộc,
Cho nên không biến khắp.
Kẻ sơ tâm nương vào
Pháp môn không biến khắp,
Làm sao chứng viên thông!
Chứng được sáu thần thông
Do tu nhân đời trước,
Đâu có quan hệ gì
Tới ý thức phân biệt!
Ý thức đối pháp trần
Khởi niệm niệm phân biệt;
Làm sao kẻ sơ tâm
Nương vào vọng thức ấy
Mà chứng được viên thông!
Nếu quán tánh địa đại,
Cứng chắc không thông suốt;
Đó là pháp hữu vi,
Không phải là chân tánh,
Làm sao kẻ sơ tâm
Nương vào pháp hữu vi
Mà chứng được viên thông!
Nếu quán tánh thủy đại
Do niệm tưởng mà thành,
Không phải tánh như thật.
Như như không thể quán,
Làm sao kẻ sơ tâm
Nương vào tâm giác quán
Mà chứng được viên thông!
Nếu quán tánh hỏa đại,
Vì chán có lửa dục
Nên mong cầu lìa dục,
Không phải chân thật lìa;
Chẳng phải là phương tiện
Phù hợp kẻ sơ tâm
Để tu chứng viên thông!
Nếu quán tánh phong đại,
Lúc động, lúc yên lặng,
Thuộc trong vòng đối đãi,
Trái với vô thượng giác.
Làm sao kẻ sơ tâm
Nương vào pháp vô thường
Mà tu chứng viên thông!
Nếu quán tánh không đại,
Trơ trơ, không hay biết,
Khác hẳn tánh bồ đề.
Làm sao kẻ sơ tâm
Nương cái vô tri giác
Mà tu chứng viên thông!
Nếu quán tánh thức đại,
Sinh diệt, không thường trú;
Nếu giữ tâm chẳng động,
Do sức quán trì giữ,
Cũng thuộc về hư vọng.
Làm sao kẻ sơ tâm
Nương vào tâm vô thường
Mà tu chứng viên thông!
Các hành đều vô thường,
Niệm tưởng vốn sinh diệt;
Nhân và quả khác biệt,
Làm sao kẻ sơ tâm
Nương tâm niệm sinh diệt
Mà tu chứng viên thông!
Kính bạch đức Thế Tôn!
Phật ở cõi Ta-bà,
Theo cơ nghi cõi này
Lập giáo thể chân thật,
Thanh tịnh mà châu biến,
Chỉ tại nói và nghe.
Muốn chứng tam-ma-đề,
Thật nên dùng tánh nghe.
Lành thay, Quán Thế Âm!
Đã lìa khổ, giải thoát;
Trải qua hằng sa kiếp,
Vào vô số cõi Phật,
Được sức đại tự tại,
Bố thí đức vô úy
Cho tất cả chúng sinh;
Tiếng nói pháp nhiệm mầu,
Tiếng nói nhìn vào đời,
Tiếng hoàn toàn thanh tịnh,
Tiếng ứng hợp thời cơ;
Thường cứu giúp thế gian
Mọi sự đều an lành,
Chứng đạo xuất thế gian,
Thường trụ, không sinh diệt.
Kính bạch đức Thế Tôn!
Như Quán Âm đã nói,
Ví như có một người
Đang ngồi nơi yên tĩnh,
Mười phương đều đánh trống,
Thì người ấy cùng thời
Nghe trống khắp mười nơi;
Cho nên biết tánh nghe
Bản lai vốn viên mãn,
Không vọng, không hư dối.
Mắt nếu bị ngăn che,
Không thể thấy thông suốt;
Miệng, mũi cũng như vậy;
Thân có chạm mới biết;
Ý niệm luôn lăng xăng,
Ngổn ngang không đầu mối!
Tai, cách tường vẫn nghe,
Xa gần đều nghe được,
Năm căn không sánh bằng;
Cho nên biết tánh nghe
Bản lai vốn thông suốt,
Không vọng, không hư dối.
Tiếng có động, có tĩnh,
Nghe lúc có, lúc không;
Không tiếng, gọi không nghe,
Chẳng phải không tánh nghe.
Trong lúc không có tiếng,
Tánh nghe vẫn không diệt;
Trong lúc đang có tiếng,
Tánh nghe cũng không sinh.
Như thế là tánh nghe
Lìa cả sinh và diệt;
Cho nên biết tánh nghe
Bản lai vốn thường trú,
Không vọng, không hư dối.
Dầu cho trong lúc ngủ,
Ý thức không nghĩ suy,
Nhưng không phải vì vậy
Mà tánh nghe chẳng có;
Cho nên biết tánh nghe
Vượt ngoài sự suy nghĩ,
Thân tâm không sánh bằng.
Nay cõi Ta-bà này,
Nương tiếng nói luận giải,
Nghĩa lí được tuyên dương.
Nhưng chúng sinh mê muội,
Không thấu đạt tánh nghe,
Chỉ bám theo thanh trần,
Cho nên mãi lưu chuyển!
Ngay như thầy A Nan,
Tuy nghe nhiều nhớ kĩ,
Không khỏi vướng niệm tà!
Mê tiếng thì lưu chuyển;
Xoay nghe vào bản tánh,
Thì chứng ngộ chân thường.
Này đây thầy A Nan!
Xin lắng lòng nghe kĩ,
Tôi nương uy lực Phật,
Tuyên nói pháp Tam-muội
Cứng chắc như kim cương:
Như-Huyễn Tam-ma-đề,
Thật không thể nghĩ bàn,
Nơi xuất sinh chư Phật.
Thầy đã từng được nghe
Tất cả pháp bí áo
Của vô lượng chư Phật,
Nhưng dục lậu chưa trừ,
Tuy tích chứa nghe nhiều,
Trở lại thành lầm lỗi!
Thầy đã dùng cái nghe
Để thọ trì Phật Pháp,
Sao không xoay cái nghe
Để nghe cái tánh nghe?
Nghe, không tự nhiên sinh,
Nhân tiếng mà có tên.
Xoay nghe nghe tự tánh,
Thoát li khỏi thanh trần.
Nghe đã thoát thanh trần,
Tên gọi cũng không có.
Một căn đã về nguồn,
Sáu căn đều giải thoát.
Thấy nghe như bệnh lòa,
Ba cõi như không hoa,
Nghe đã xoay về cội,
Bệnh lòa liền dứt trừ,
Trần giới cũng tiêu tan,
Tánh Giác tròn hiển lộ.
Tánh Giác cực thanh tịnh,
Tâm sáng cực viên mãn,
Tịch chiếu trùm hư không.
Xem trở lại thế gian,
Toàn là việc trong mộng.
Ma Đăng Già là mộng,
Thì ai giữ được thầy?
Như ta thấy ở đời,
Người làm trò ảo thuật,
Khéo làm hình trai, gái,
Tuy người xem thấy rõ
Các căn đều cử động,
Nhưng sự thật là do
Một cái máy điều khiển;
Máy ngừng, hình đứng yên,
Trò huyễn trở thành không.
Sáu căn cũng như vậy,
Vốn nương một tinh minh,
Phân thành sáu hòa hợp,
Một căn đã quay về,
Sáu căn đều tịch tĩnh.
Một niệm trần cấu tiêu,
Thành viên minh tịnh diệu.
Còn trần là hữu học,
Sáng tột tức Như Lai.
Thưa Đại Chúng hiện tiền,
Cùng với thầy A Nan!
Hãy trừ bỏ cái nghe
Bám thanh trần điên đảo,
Hãy xoay lại cái nghe
Quay về nghe tự tánh,
Tánh thành Đạo Vô Thượng.
Đó thật là pháp môn
Kẻ sơ tâm nương vào
Để tu chứng viên thông.
Đó là con đường thẳng
Mà chư Phật mười phương
Tiến vào cửa niết bàn.
Chư Phật đời quá khứ
Đã thành tựu pháp này;
Chư Bồ-tát hiện tại
Cũng nương pháp môn này
Nhập cảnh giới viên minh;
Và ở đời vị lai,
Những người tu học Phật
Cũng theo pháp môn ấy.
Chẳng riêng Quán Thế Âm,
Tôi cũng trong pháp ấy
Mà tu chứng viên thông.
Thật như lời Thế Tôn
Hỏi con các phương tiện
Dùng để cứu chúng sinh
Ở thời kì mạt pháp,
Người muốn cầu xuất thế,
Thành tựu tâm niết bàn,
Thì phương tiện “nhĩ căn”
Của Bồ Tát Quán Âm
Là siêu việt hơn hết;
Còn các phương tiện khác,
Đều nhờ oai thần Phật,
Khiến gặp được cơ duyên
Mà thoát bỏ trần lao,
Không phải là pháp tu
Lâu dài cho mọi người,
Cũng không thể cùng lúc
Nói cho người căn cơ
Sâu, cạn không đồng nhau.
Đảnh lễ Như Lai Tạng
Vô lậu, không nghĩ bàn,
Gia hộ đời vị lai
Người tu pháp môn này
Tỏ ngộ, không mê hoặc.
Phương tiện kẻ sơ tâm
Tu dễ dàng thành tựu!
Đây quả là pháp môn
Hợp cơ thầy A Nan
Cùng chúng sinh đời sau,
Chỉ cần tu “nhĩ căn”,
Mau chứng được Viên Thông,
Hơn các pháp môn khác.
Yếu quyết tu Chân Tâm,
Chỉ như vậy mà thôi!
Lúc bấy giờ, đại đức A Nan cùng cả đại chúng, nhận được sự khai thị quí báu của Bồ Tát Văn Thù, thân tâm hoát nhiên rỗng suốt, thấy rõ quả Bồ Đề và cảnh giới Đại Niết Bàn của Phật, cũng giống như có người có việc đi xa, chưa đến lúc trở về, mà con đường dẫn về nhà thì đã biết rõ. Tất cả chúng hội, trong đó có tám bộ Trời Rồng, hàng Nhị-thừa hữu học, và tất cả các vị Bồ-tát mới phát tâm, số lượng nhiều bằng mười lần số cát sông Hằng, đều chứng ngộ chân tâm vốn có, xa lìa hết trần cấu, đạt được pháp nhãn thanh tịnh. Tì kheo ni Ma Đăng Già vừa nghe xong bài kệ trên, liền chứng quả A-la-hán. Vô lượng chúng sinh đều phát tâm vô thượng bồ đề.
Đại đức A Nan sửa áo chỉnh tề, ở trong đại chúng, chắp tay đảnh lễ Phật. Chân tâm sáng tỏ, buồn vui lẫn lộn, vì muốn lợi ích cho chúng sinh đời vị lai, đại đức cúi đầu bạch Phật:
– Bạch đức Thế Tôn đại bi! Con nay đã tỏ ngộ pháp môn thành Phật, nương theo đó mà tu hành, không còn nghi hoặc. Con thường nghe đức Thế Tôn dạy rằng: “Tự mình chưa được độ mà trước đã độ người, đó là sự phát tâm của chư vị Bồ-tát; tự mình đã giác ngộ viên mãn, rồi độ cho chúng sinh giác ngộ, đó là sự ứng thế của các đức Như Lai.” Con tuy chưa được độ, nhưng nguyện cứu độ tất cả chúng sinh đời mạt pháp. Bạch đức Thế Tôn! Các chúng sinh ấy cách Phật ngày càng xa, tà sư thuyết pháp nhiều như cát sông Hằng. Vậy, nếu muốn những kẻ sơ tâm tu học nhiếp tâm vào tam-ma-địa, thì làm sao khiến họ an lập đạo tràng, xa lìa ma sự, tâm bồ đề không bị thối chuyển?
Lúc bấy giờ, ở giữa chúng hội, đức Phật khen ngợi đại đức A Nan rằng:
– Lành thay! Lành thay! Như thầy vừa hỏi về việc an lập đạo tràng, cứu hộ chúng sinh trầm luân trong đời mạt pháp, thì đây, thầy hãy lắng nghe, Như Lai sẽ nói rõ.
Đại đức A Nan và đại chúng đồng vâng dạ. Phật dạy:
– A Nan! Thầy thường nghe trong giới luật, Như Lai từng tuyên nói ba nghĩa quyết định của sự tu hành, đó là: Nhiếp tâm gọi là GIỚI, nhân Giới mà sinh ĐỊNH, nhân Định mà phát TUỆ; ấy gọi là “ba pháp học vô lậu”.
Thầy A Nan! Vì sao nhiếp tâm mà gọi là “Giới”?
Chúng sinh trong sáu đường ở khắp các thế giới, nếu tâm họ không dâm dục, thì họ không còn tiếp tục trôi lăn trong sinh tử. Thầy tu pháp tam muội cốt để thoát khỏi trần lao, nếu tâm dâm dục không đoạn trừ thì không thể thoát khỏi trần lao được. Dù có nhiều trí, thiền định hiện tiền, nhưng tâm dâm dục không đoạn dứt, chắc chắn sẽ lạc vào ma đạo: hạng cao thì thành ma vương; hạng vừa thì thành ma dân; hạng thấp thì thành ma nữ. Các loại ma kia cũng có đồ chúng, và đều tự xưng mình là thành đạo vô thượng! Sau khi Như Lai diệt độ, ở trong đời mạt pháp, những loài ma này vô cùng đông đúc, uy thế lừng lẫy thế gian, đầy dẫy những hành vi tham dâm, lại giả làm thiện tri thức, khiến cho chúng sinh sa xuống hố ái nhiễm, bỏ mất con đường bồ đề.
Thầy dạy người đời tu pháp chánh định, trước hết phải dứt bỏ tâm dâm dục. Đó là lời dạy sáng rõ, thanh tịnh, quyết định thứ nhất của Như Lai và chư Phật quá khứ.
Vì vậy cho nên, này A Nan! Người tu thiền định mà không đoạn tuyệt lòng dâm dục, thì cũng giống như nấu cát đá mà muốn thành cơm, trải qua trăm nghìn kiếp, vẫn chỉ là cát đá nóng mà thôi. Vì sao vậy? Vì giống gốc của nó là cát đá, không phải là cơm. Thầy dùng cái thân dâm dục mà cầu quả Phật vi diệu, giả sử trải qua nhiều kiếp tu tập mà được khai ngộ, cũng chỉ là gốc dâm dục. Giống gốc đã là dâm dục thì chắc chắn phải trôi lăn trong ba ác đạo, không thể thoát ra khỏi; đâu có con đường nào để tu chứng niết bàn của chư Phật? Chắc chắn là phải làm cho cái nguồn gốc phát động dâm dục, ở cả tâm lẫn thân, đều bị đoạn trừ; cho đến chính cái tánh đoạn trừ cũng không còn nữa, thì mới trông mong chứng quả Bồ đề của Phật. Đúng như lời Như Lai nói đây, tức là lời của Phật; không đúng như lời nói này, tức là lời của ma Ba-tuần.
Lại nữa, này A Nan! Chúng sinh trong sáu đường ở khắp các thế giới, nếu tâm họ không giết hại, thì họ không còn tiếp tục trôi lăn trong sinh tử. Thầy tu pháp tam muội cốt để thoát khỏi trần lao, nếu tâm giết hại không đoạn trừ thì không thể thoát khỏi trần lao được. Dù có nhiều trí, thiền định hiện tiền, nhưng tâm giết hại không đoạn dứt, chắc chắn sẽ lạc vào thần đạo: hạng cao thì thành quỉ đại lực; hạng vừa thì thành dạ xoa phi hành hoặc quỉ thống soái; hạng thấp thì thành quỉ la sát đi trên mặt đất. Các loại quỉ thần kia cũng có đồ chúng, và đều tự xưng mình là thành đạo vô thượng! Sau khi Như Lai diệt độ, ở trong đời mạt pháp, những loài quỉ thần này vô cùng đông đúc, uy thế lừng lẫy thế gian. Chúng tự nói rằng, ăn thịt cũng đạt được đạo bồ đề.
Này A Nan! Như Lai bảo các thầy tì kheo ăn năm thứ tịnh nhục(199), thịt ấy đều do thần lực của Như Lai hóa sinh, vốn không có mạng căn(200). Xứ sở của bà-la-môn, đất đai phần nhiều nóng ẩm, lại thêm nhiều cát đá, rau cỏ không sinh sản được. Như Lai dùng sức đại bi gia bị; nhân tâm đại từ bi mà giả gọi là thịt, và quí thầy cũng cảm nhận được cái vị “như thịt” ấy. Làm sao sau khi Như Lai diệt độ, những người thật sự ăn thịt chúng sinh mà gọi là Phật tử! Quí thầy nên biết, những người ăn thịt, dù tâm có được khai ngộ, cũng chẳng qua chỉ tương tự như chánh định mà thôi, thực sự đều là đại la sát, sau khi hết báo thân ấy, chắc chắn sẽ chìm đắm trong biển khổ sinh tử, chẳng phải là đệ tử Phật. Những người như thế, giết nhau, ăn nhau không dứt, thì làm sao thoát ra khỏi ba cõi!
Thầy dạy người đời tu pháp chánh định, trước hết phải dứt bỏ tâm dâm dục; thứ đến là phải dứt bỏ tâm sát sinh. Đó là lời dạy sáng rõ, thanh tịnh, quyết định thứ nhì của Như Lai và chư Phật quá khứ.
Vì vậy cho nên, này A Nan! Người tu thiền định mà không đoạn tuyệt tâm giết hại, thì cũng giống như người tự bịt tai mình, cất tiếng kêu lớn mà mong người khác đừng nghe; đó gọi là càng muốn ẩn thì càng lộ. Hàng tì kheo thanh tịnh và các vị Bồ-tát, đi trên đường mòn còn không dẫm cỏ non, huống nữa là lấy tay nhổ cỏ! Làm sao người có tâm đại bi mà lại lấy máu thịt của chúng sinh làm thức ăn? Nếu các thầy tì kheo không mặc các thứ vải bằng tơ lụa lượt là, không dùng các thứ giày da áo lông của phương Đông, cũng như không ăn các thứ sữa, bơ, phó-mát, những thầy tì kheo ấy đối với thế gian thật là giải thoát, đã trả hết oan trái đời trước, không còn trở lại trong ba cõi nữa. Vì sao thế? Dùng các bộ phận của thân thể chúng sinh thì phải kết duyên nợ với chúng sinh; như con người ăn trăm thứ mễ cốc lấy từ đất, thì chân không rời khỏi đất. Những người nhất quyết làm cho cả thân và tâm mình, không ăn các thứ làm từ xương thịt chúng sinh, không dùng các thứ làm bằng các bộ phận của thân thể chúng sinh, Như Lai nói đó là những người chân thật giải thoát. Đúng như lời Như Lai nói đây, tức là lời của Phật; không đúng như lời nói này, tức là lời của ma Ba-tuần.
Lại nữa, này A Nan! Chúng sinh trong sáu đường ở khắp các thế giới, nếu tâm họ không trộm cắp, thì họ không còn tiếp tục trôi lăn trong sinh tử. Thầy tu pháp tam muội cốt để thoát khỏi trần lao, nếu tâm trộm cắp không đoạn trừ thì không thể thoát khỏi trần lao được. Dù có nhiều trí, thiền định hiện tiền, nhưng tâm trộm cắp không đoạn dứt, chắc chắn sẽ lạc vào tà đạo: hạng cao thì thành tinh linh; hạng vừa thì thành yêu mị; hạng thấp thì thành người tà, bị các loài yêu mị nhập vào mê hoặc. Các loại tà mị kia cũng có đồ chúng, và đều tự xưng mình là thành đạo vô thượng! Sau khi Như Lai diệt độ, ở trong đời mạt pháp, những loài tà mị này vô cùng đông đúc, uy thế lừng lẫy thế gian, núp lén gian dối, xưng là thiện tri thức, tự nói mình là bậc đã đạt được đạo pháp cao siêu, lừa bịp người không biết, dọa dẫm khiến cho người mất tâm chánh tín, theo cung phụng chúng đến nỗi cửa nhà hao tán.
Như lai dạy các thầy tì kheo pháp khất thực theo thứ lớp để dứt bỏ lòng tham, thành đạo Bồ đề. Các thầy tì kheo không tự nấu ăn, gửi kiếp sống thừa tạm nương nơi ba cõi, thị hiện chỉ một phen đi về, đi rồi thì không bao giờ trở lại nữa. Làm sao bọn giặc lại mượn y phục Như Lai để buôn bán Như Lai, tạo đủ thứ tội nghiệp mà cứ nói là Phật Pháp! Lại còn hủy báng các vị xuất gia chân chánh, giữ tròn giới luật tì kheo, nói đó là đạo tiểu thừa! Do sự hủy báng này làm cho vô lượng chúng sinh mê lầm, nên bọn chúng phải đọa vào địa ngục vô gián.
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có tì kheo phát tâm quyết định tu pháp chánh định như huyễn, có thể ở trước hình tượng Như Lai, dùng thân thắp một ngọn đèn, đốt một lóng ngón tay, hay ở trên thân đốt một nén hương, Như Lai nói thầy tì kheo ấy, túc trái từ vô thỉ, chỉ trong một lúc là đã trả hết, vĩnh viễn từ bỏ thế gian, thoát hết các lậu hoặc. Tuy chưa thấy rõ ngay lập tức con đường vô thượng giác, nhưng vị ấy đối với Phật Pháp thì tâm đã quyết định. Nếu không làm được cái nhân xả thân nhỏ mọn như thế, dù có thành được cái đạo vô vi, cũng phải sinh lại làm người để trả hết nợ cũ, như chuyện ăn cám ngựa của Như Lai(201), chẳng khác tí nào.
Thầy dạy người đời tu pháp chánh định, sau khi đã dứt bỏ tâm dâm dục, tâm giết hại, còn phải dứt bỏ tâm trộm cắp. Đó là lời dạy sáng rõ, thanh tịnh, quyết định thứ ba của Như Lai và chư Phật quá khứ.
Vì vậy cho nên, này A Nan! Người tu thiền định mà không đoạn tuyệt tâm trộm cắp, thì cũng giống như người rót nước vào cái chén lủng đáy mà mong cho chén đầy, thì dù trải qua số kiếp nhiều như vi trần, chén ấy cũng không bao giờ đầy nước được. Nếu các thầy tì kheo, ngoài ba y một bát ra, một mảy may gì cũng không chứa giữ; xin ăn có chút dư thừa thì bố thí cho chúng sinh đói khát; đến nơi đại chúng tập họp thì chắp tay vái chào; có ai mắng chửi thì hoan hỉ coi như lời khen ngợi; cả thân và tâm đều quyết buông bỏ, coi thân xác máu thịt là sở hữu chung của chúng sinh; không đem những lời dạy phương tiện của Như Lai làm chỗ hiểu biết của riêng mình, khiến cho kẻ sơ học phải lầm lạc; thì các vị ấy sẽ được Như Lai ấn chứng là người thật sự đạt được chân chánh tam muội. Đúng như lời Như Lai nói đây, tức là lời của Phật; không đúng như lời nói này, tức là lời của ma Ba-tuần.
Này A Nan! Chúng sinh trong sáu đường ở khắp các thế giới như thế, tuy cả thân và tâm đều đoạn dứt trọn vẹn các nghiệp giết hại, trộm cắp, dâm dục, nhưng nếu còn phạm lỗi đại vọng ngữ, thì chánh định vẫn không thanh tịnh, thành ma ái kiến(202), mất hạt giống Phật. Đó là những người chưa được mà nói là đã được, chưa chứng mà nói là đã chứng; hoặc có người muốn được mọi người tôn mình là bậc nhất thế gian, bèn bảo rằng: “Ta nay đã chứng quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán, quả Bích-chi Phật, Bồ-tát Địa-tiền hay Địa-thượng”, nói thế để mong cho người ta lễ bái, cúng dường. Đó là những kẻ đoạn thiện căn, tiêu diệt hạt giống Phật; như người dùng dao chặt cây đa-la(203). Như Lai nói người ấy đã mất hẳn căn lành, vĩnh viễn không còn chánh tri kiến, chìm đắm mãi trong biển khổ, không bao giờ thành tựu chánh định.
Như Lai bảo các hàng Bồ-tát và A-la-hán, sau khi Như Lai diệt độ, hãy ứng thân dưới mọi hình tướng, sinh vào đời mạt pháp để hóa độ cho chúng sinh chìm đắm; hoặc làm sa môn, hoặc làm cư sĩ, vua chúa, quan lại, đồng nam, đồng nữ, thậm chí cùng đồng sự với các hạng dâm nữ, quả phụ, gian dối, trộm cắp, đồ tể, thương buôn, để khen ngợi Phật thừa, khiến cho thân tâm họ được vào tam-ma-địa. Nhưng, trong lúc làm như vậy, tuyệt nhiên không được nói rằng: “Ta chính thật là Bồ-tát, ta chính thật là A-la-hán”; không được khinh suất tiết lộ lời dạy bí mật của Như Lai cho những người chưa tu học Phật; chỉ trừ đến lúc lâm chung, có thể âm thầm phó chúc. Làm sao hạng người ma ái kiến kia lại dối gạt chúng sinh để mang tội đại vọng ngữ!
Thầy dạy người đời tu pháp chánh định, sau khi đã dứt bỏ tâm dâm dục, tâm giết hại, tâm trộm cắp, còn phải dứt bỏ tâm đại vọng ngữ. Đó là lời dạy sáng rõ, thanh tịnh, quyết định thứ tư của Như Lai và chư Phật quá khứ.
Vì vậy cho nên, này A Nan! Nếu không đoạn trừ tâm đại vọng ngữ thì cũng giống như lấy phân người đắp thành hình cây chiên đàn, rồi mong cho nó có mùi thơm hương chiên đàn, thật không bao giờ có chuyện ấy.
Như Lai dạy hàng tì kheo: Trực tâm chính là đạo tràng. Trong tất cả hành vi, đi đứng ngồi nằm, đều phải giữ tâm chánh trực, không được có chút giả dối, sao lại có thể tự tôn xưng mình đã đạt được diệu pháp của bậc thượng nhân? Người dân thường ngu muội, tự xưng đế vương, còn bị họa tru diệt; huống nữa là ngôi vị Pháp Vương, làm sao dám dối trá xưng càn? Nhân đã không chân thật thì quả tất quanh co. Người như thế mà cầu quả Bồ đề của Phật, thì cũng như dùng miệng cắn rốn, làm sao cắn tới được!
Nếu các thầy tì kheo, tâm như dây đàn căng thẳng, tất cả oai nghi đều chân thật, chắc chắn sẽ trực nhập chánh định, vĩnh viễn không bị ma sự quấy nhiễu; và Như Lai ấn chứng cho các vị ấy, thành tựu Tri giác Vô thượng của hàng Bồ-tát. Đúng như lời Như Lai nói đây, tức là lời của Phật; không đúng như lời nói này, tức là lời của ma Ba-tuần. Chú thích:
(161) Bồ Tát Quán Thế Âm: tức là Bồ Tát Quán Tự Tại; tiếng Phạn là Avalokitesvara, dịch âm ra Hán ngữ là A Phược Lô Chỉ Đê Thấp Phạt La. Với tâm đại bi, ngài dùng tính nghe viên thông để nghe tiếng kêu cứu của chúng sinh đau khổ mà thị hiện cứu độ, cho nên gọi là Quán Thế Âm. Ngài có phát 12 lời nguyện lớn trong việc độ sinh, như: Tôi nguyện có mặt thường xuyên tại biển khơi và một lòng thương nghĩ đến chúng sinh đang đau khổ, không có một trở ngại nào ngăn cản tôi được; Tôi nguyện có mặt ở mọi nơi và mọi hoàn cảnh đen tối trong thế giới khổ đau, tức khắc tìm đến chỗ nào có tiếng kêu cứu để giúp đỡ; Tôi nguyện chèo con thuyền Phật pháp dạo cùng khắp vùng biển khổ đau để cứu độ chúng sinh, cho đến khi kẻ đau khổ cuối cùng được an lạc, giải thoát; v.v... Trong Kinh Đại Bi có ghi lời Phật dạy rằng: “Bồ Tát Quán Thế Âm vốn đã thành Phật từ kiếp xa xưa, có danh hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai, nhưng vì lòng đại bi, muốn thành tựu đạo nghiệp cho tất cả chúng sinh, muốn cho chúng sinh được an vui, ngài đã thị hiện làm thân Bồ-tát...” Trong Kinh Quán Thế Âm Bồ Tát Đắc Đại Thế Bồ Tát Thọ Kí có nói: Trong vô lượng kiếp sau, đức Phật A Di Đà sẽ nhập niết bàn. Sau đó, đức Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ thành Phật, hiệu là Phổ Quang Công Đức Sơn Vương Như Lai, thay thế Phật A Di Đà nhiếp hóa chúng sinh. Quán Thế Âm là một vị Bồ-tát lớn, cùng với Bồ Tát Đại Thế Chí, là hai vị hầu cận và trợ thủ đắc lực nhất của đức Phật A Di Đà trong việc tiếp dẫn chúng sinh về cõi Cực-lạc. Bởi vậy, tông Tịnh Độ đã tôn xưng đức Phật A Di Đà và hai vị Bồ Tát Quán Âm, Thế Chí là “Tây Phương Tam Thánh”.
(162) Hữu-học: Đối lại với bậc Vô-học là bậc Hữu-học. Đệ tử Phật, tuy đã hiểu biết Phật pháp, nhưng phiền não chưa trừ, cho nên còn phải gắng công tu học các pháp giới, định, tuệ, v.v... để đoạn trừ phiền não, chứng quả lậu tận. Vì còn có pháp môn để tu học và còn phải nỗ lực tu học, cho nên gọi là “hữu học”. Các hành giả chứng nhập bốn hướng bốn quả của Thanh-văn thừa đều đã là thánh nhân, nhưng ở bốn hướng và ba quả đầu vẫn còn là bậc Hữu-học; chỉ có quả A-la-hán mới là bậc Vô-học. Theo kinh Trung A Hàm, bậc Hữu-học có mười tám hạng: 1) Hạng Tùy-tín-hành: chỉ cho các hành giả độn căn ở bậc Kiến-đạo của thừa Thanh-văn. Quí vị này nương vào người khác để được nghe giáo pháp của Phật, nhờ đó mà sinh lòng tin; do có lòng tin mà tu hành. 2) Hạng Tùy-pháp-hành: chỉ cho các hành giả lợi căn ở bậc Kiến-đạo của thừa Thanh-văn. Quí vị này tự mình phát huy trí tuệ, xem kinh giáo, suy nghĩ chín chắn, rồi y theo nghĩa lí mà tu hành. 3) Hạng Tín-giải: “Tín giải” nghĩa là nhờ vào lòng tin thù thắng mà có được trí hiểu biết thù thắng. Đây là các hành giả độn căn ở bậc Kiến-đạo, sau khi viên mãn Tùy-tín-hành thì bước lên bậc Tu-đạo, gọi là “Tín-giải”. 4) Hạng Kiến-chí: cũng gọi là “Kiến-đáo”, nghĩa là do trí tuệ thù thắng mà chứng đạt chân lí. Đây là các hành giả lợi căn ở bậc Kiến-đạo, sau khi viên mãn Tùy-pháp-hành thì bước lên bậc Tu-đạo, gọi là “Kiến-chí”. 5) Hạng Gia-gia: Ở quả vị Nhất-lai (Tư-đà-hàm), khi hành giả chưa chứng quả thì gọi là “Nhất-lai-hướng” (đang hướng đến quả Nhất-lai). Hành giả ở giai đoạn Nhất-lai-hướng này, vì chỉ mới đoạn trừ được ba hay bốn phẩm tư hoặc đầu (của chín phẩm) của Dục giới, nên còn phải sinh đi sinh lại nhiều lần từ cõi người lên cõi trời, và từ cõi trời xuống cõi người, để tu tập cho đến khi chứng quả Vô-sinh (A-la-hán). Bởi vậy, các hành giả này được gọi là “gia-gia” (có nghĩa là từ nhà này sang nhà khác – tức là từ nhà người lên nhà trời, và từ nhà trời xuống nhà người). 6) Hạng Nhất-gián: Hành giả đã chứng đắc quả Nhất-lai, tiếp tục tu tập để đoạn trừ nốt ba phẩm tư hoặc cuối cùng của Dục giới để chứng đạt quả Bất-hoàn (A-na-hàm); khi đang tu tập thì gọi là “Bất-hoàn-hướng” (đang hướng đến quả Bất-hoàn). Trong giai đoạn này, khi hành giả đã đoạn trừ được bảy hay tám phẩm tư hoặc (trong chín phẩm), thì còn một hay hai phẩm nữa phải đoạn trừ. Để hoàn tất viên mãn giai đoạn này, hành giả phải thọ sinh trở lại trong một cõi trời Dục giới để tu tập, cho nên gọi là “Nhất-gián”. (Chữ “gián” nghĩa là gián cách; tức là phải cách một đời mới chứng quả.) 7) Hạng Thân-chứng: Khi chứng đắc quả Bất-hoàn, hành giả nhập vào diệt tận định mà thân chứng được pháp lạc tịch tịnh giống như niết bàn. 8) Hạng Dự-lưu-hướng: Hành giả đã vượt khỏi địa vị phàm phu, tiến vào bậc Kiến-đạo, đang tu tập để tiến đến chứng quả Dự-lưu (Tu-đà-hoàn). 9) Hạng Dự-lưu-quả: Hành giả đã chứng quả Dự-lưu – cũng gọi là “Sơ-quả”. 10) Hạng Nhất-lai-hướng: Hành giả đã chứng quả Dự-lưu, đang tu tập để hướng đến quả Nhất-lai. 11) Hạng Nhất-lai-quả: Hành giả đã chứng đắc quả Nhất-lai. 12) Hạng Bất-hoàn-hướng: Hành giả đã chứng quả Nhất-lai, đang tu tập để tiến đến quả Bất-hoàn. 13) Hạng Bất-hoàn-quả: Hành giả đã chứng đắc quả Bất-hoàn. 14) Hạng Trung-bát: “Trung” là chỉ cho thân “trung hữu”, hay “trung ấm”; “bát” tức là nhập niết bàn. Hành giả đã chứng quả Bất-hoàn, khi viên tịch ở cõi Dục liền sinh lên cõi Sắc; tại đây, thân trung hữu của hành giả liền nhập niết bàn, cho nên gọi là “Trung-bát”. 15) Hạng Sinh-bát: Hành giả đã chứng quả Bất-hoàn và sinh lên cõi Sắc, sau đó không lâu thì phát khởi thánh đạo, đoạn trừ các hoặc của cõi Vô-sắc mà nhập niết bàn, gọi là “Sinh-bát”. 16) Hạng Hữu-hành-bát: Hành giả đã chứng quả Bất-hoàn và sinh lên cõi Sắc, rồi phải trải qua một thời gian dài gắng công tu tập thêm, mới nhập niết bàn, gọi là “Hữu-hành-bát”. 17) Hạng Vô-hành-bát: Hành giả đã chứng quả Bất-hoàn và sinh lên cõi Sắc, nhưng không gắng công tu tập thêm, lần lữa trải qua thời gian rồi nhập niết bàn, gọi là “Vô-hành-bát”. 18) Hạng Thượng-lưu-bát: Hành giả đã chứng quả Bất-hoàn và sinh lên cõi Sắc; trước tiên sinh vào cõi trời Sơ-thiền, sau đó dần dần sinh lên các cõi trời cao hơn của cõi Sắc, cuối cùng, đến cõi Sắc-cứu-cánh (hoặc Hữu-đỉnh) thì nhập niết bàn, gọi là “Thượng-lưu-bát”.
(163) Độc-giác: Tiếng Phạn “Bích-chi-ca Phật-đà”, gọi giản lược là “Bích-chi Phật”, cựu dịch là Duyên-giác, tân dịch là Độc-giác. Nhưng theo giáo nghĩa tông Thiên Thai thì Duyên-giác và Độc-giác có chỗ khác nhau:
- Một loại hành giả nghe Phật dạy nguyên lí mười hai nhân duyên, tu theo đó mà giác ngộ, chứng quả Bích-chi Phật, gọi là “DUYÊN-GIÁC”.
- Một loại hành giả khác, sinh vào thời không có Phật cho nên không có cách nào được nghe pháp, nhưng nhờ có sức tu học từ đời trước, ở trong cảnh diễn biến sinh diệt của vạn pháp mà có thể thấy rõ tính chất vô thường của thế gian, nhân đó mà diệt trừ được tâm thức vô minh; hoặc giả họ ở trong chốn núi rừng, trông thấy cảnh hoa rơi lá rụng, rồi do một niệm tương ưng với trí tuệ mà màn vô minh bỗng chốc bị phá tan, chứng quả Bích-chi Phật; cả hai trường hợp này đều gọi là “ĐỘC-GIÁC”. (Xem thêm chú thích số 7 ở trước.)
(164) Mười hai nhân duyên (thập nhị nhân duyên): 12 nhân duyên là mười hai điều kiện tương liên, là đạo lí căn bản của đạo Phật dùng để giải thích cái “bí ẩn” của hiện tượng sinh tử luân hồi, tức là sự hiện hữu của chúng sinh –mà trực tiếp là con người. Mười hai điều kiện ấy gồm có:
1. Vô minh: là trạng thái vô ý thức, mù quáng, mê lầm, không sáng suốt, không nhận chân được thực tướng của vạn pháp, không thấy rõ được tự tính của chính mình, do đó mà dẫn tới những hành động u tối, sai lầm.
2. Hành: là tác động vô thức của ý chí sinh tồn theo hướng vô minh đã thúc đẩy tạo nghiệp. Nó là khát vọng muốn sống một cách mù quáng. Tất cả những tư tưởng (ý), lời nói (khẩu) và việc làm (thân) thiện hay bất thiện đều nằm trong hành.
3. Thức: Tất cả nghiệp nhân đã tạo ra đều được huân tập vào nghiệp chủng thức (hay nghiệp thức, tức là a-lại-da thức). Thức này đi đầu thai và bắt đầu một sinh mạng mới. Lúc bà mẹ thụ thai, chính đó là lúc nghiệp thức kết hợp với tinh huyết của cha mẹ mà làm nên bào thai. Như vậy, thức chính là yếu tố nối tiếp giữa kiếp quá khứ và kiếp hiện tại, và là giai đoạn đầu tiên của đời sống hiện tại.
4. Danh sắc: Do nghiệp thức phát động mà phát hiện ra các hiện tượng tinh thần (danh) và vật chất (sắc) của bản thân con người. Đây là giai đoạn thứ hai của đời sống hiện tại. Bản thân con người là một “hợp thể ngũ uẩn”, trong đó, bốn uẩn thọ, tưởng, hành, thức chỉ có tên gọi mà không có hình chất, không thể thấy, nghe, ngửi, nếm và chạm xúc được, nên gọi là danh; còn uẩn sắc tức là phần sinh lí của bản thân, do bốn nguyên tố (tứ đại: địa, thủy, hỏa, phong) cấu thành, có hình chất, màu sắc, mùi, vị, có thể thấy, nghe, ngửi, nếm, chạm xúc được, nên gọi là sắc. Trong giây phút đầu tiên khi bà mẹ thụ thai – tức là lúc nghiệp thức kết hợp với tinh huyết của cha mẹ, thì danh chính là nghiệp thức, và sắc chính là tinh huyết. Vậy, nếu hành và thức là hai yếu tố thuộc về hai kiếp quá khứ (hành) và hiện tại (thức) của một chúng sinh, thì thức và danh sắc, trái lại, được xuất hiện cùng lúc trong kiếp hiện tại của chúng sinh đó.
5. Lục nhập: sáu giác quan (lục căn: nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân, ý) dần dần hiện rõ theo sự phát triển của bào thai, từ chỗ thật giản dị lúc mới được tượng hình, trở thành vô cùng phức tạp khi con người đã trưởng thành toàn diện. Chúng hoạt động một cách hoàn toàn tự nhiên, mầu nhiệm, như một guồng máy tinh diệu. Mỗi giác quan đều có những hoạt động và đối tượng riêng biệt. Sáu giác quan là sáu chỗ để cho sáu đối tượng (lục trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) phản ảnh vào, gọi chung là “lục nhập”.
6. Xúc: Sự tiếp xúc giữa các giác quan và đối tượng của chúng, như mắt thấy cảnh vật, tai nghe âm thanh, mũi ngửi mùi v.v...
7. Thọ: Cảm giác gây nên do sự tiếp xúc giữa các giác quan và đối tượng. Có loại cảm giác dễ chịu, vui sướng, hạnh phúc, gọi là “lạc thọ”; có loại cảm giác khó chịu, buồn phiền, khổ đau, gọi là “khổ thọ”; có loại cảm giác trung tính, không khó chịu cũng không dễ chịu, gọi là “xả thọ”.
8. Ái: “Ái” hay “ái dục” là sự ham muốn, khao khát, luyến ái. Do có cảm giác mà sinh ra ái. Đối trước dục vọng trần cảnh (ngũ dục), con người sinh tâm luyến ái. Nếu nói cho chính xác hơn, “ái” chính là sự luyến ái đối với sự sống. Vì vậy, cái gì làm cho ta vui thích thì ta khao khát, muốn có cho bằng được; còn cái gì làm cho ta buồn khổ thì ta chỉ muốn tránh xa, hay hủy diệt nó đi; đó là động cơ chính yếu thúc đẩy thân, miệng, ý tạo nghiệp.
9. Thủ: Khi đã luyến ái thì cố bám giữ lấy đối tượng; hay nói rõ hơn, vì luyến ái sự sống cho nên phải bám giữ lấy sự sống –và từ đó mà phát sinh ra những tư tưởng sai lầm là có “TÔI và những gì THUỘC VỀ TÔI”. Mục đích của mọi hành động trong ba lĩnh vực ý, thân và miệng, dù là thiện hay bất thiện, cũng đều để bảo vệ và củng cố cho cái “TÔI và những gì THUỘC VỀ TÔI” ấy.
10. Hữu: Vì đam mê và cố bám giữ lấy đối tượng cho nên phải vướng mắc vào nghiệp báo do sự sống của chính mình tạo ra. “Hữu” nghĩa là có –có những nghiệp nhân (thiện hay bất thiện) đã tạo ra ở kiếp này, và dĩ nhiên, có những nghiệp quả (vui sướng hay khổ đau, cũng tức là những cảnh giới của các loài chúng sinh khác nhau) sẽ thọ nhận ở kiếp sau.
11. Sinh: Nghiệp đã tạo (hữu) ấy lại được huân tập vào chủng tử thức (a-lại-da), và chính là dẫn lực đưa tới việc ra đời của sinh mạng mới.
12. Lão tử: Khi đã có sinh ra thì tất nhiên lại phải có già và chết.
12 nhân duyên, như vừa thấy, đã trình bày một chuỗi nhân quả kéo dài suốt qua ba đời: quá khứ, hiện tại, và vị lai. Do vô minh và hành nghiệp ở từ quá khứ cho nên đã có đời sống hiện tại. Cuộc sống hiện tại có thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, và những nhân duyên này cũng chính lại là vô minh, làm cho ái, thủ lại tiếp tục tạo nghiệp –tức là hữu. Chính sức mạnh của hữu (nghiệp) đã tạo ra trong cuộc sống hiện tại ấy sẽ là nguyên nhân đưa đến một đời sống mới (sinh và lão tử) ở đời vị lai. Cứ thế, quá khứ làm nguyên nhân cho hiện tại, hiện tại làm nguyên nhân cho vị lai; hiện tại lại trở thành quá khứ, vị lai lại trở thành hiện tại để rồi lại đưa đến một vị lai khác..., vòng luân hồi tiếp diễn không ngừng.
12 nhân duyên chính là nội dung của giáo lí “Duyên Khởi”, giáo lí căn bản nhất của Phật giáo. Mười hai nhân duyên là mười hai điều kiện cùng nương nhau mà hiện hữu, cùng nối kết mật thiết với nhau, cùng là nhân và là quả của nhau, để tạo thành vòng sinh tử luân hồi. Vòng (hay bánh xe) luân hồi là một vòng tròn không có khởi điểm. Mười hai nhân duyên là mười hai cái khoen của vòng tròn đó, mà không có cái khoen nào là khoen bắt đầu. Bất cứ một nhân duyên nào trong số ấy cũng không thể có một bản chất và sự hiện hữu riêng biệt và độc lập. Vô minh chẳng hạn, không phải chỉ là điều kiện sinh ra hành, mà nó còn có mặt trong hành cũng như trong tất cả các điều kiện khác. Lại nữa, vô minh chỉ là một điều kiện như mười một điều kiện còn lại; tuy nó được đặt ở khoen đầu tiên, nhưng đó chỉ là theo thói quen thông thường, chứ không phải vì nó là nguyên nhân đầu tiên để sinh ra các điều kiện khác. Lí do dễ hiểu, vì đã là nguyên nhân đầu tiên rồi thì nó không còn là một nhân duyên nữa. – Hai ý niệm “nhân duyên” và “nguyên nhân đầu tiên” hoàn toàn chống trái nhau. Phật giáo không bao giờ chấp nhận có một nguyên nhân đầu tiên. Ta chỉ có thể tạm cho rằng, vô minh là điều kiện bao trùm đối với các điều kiện khác, vì chính thực, có vô minh mới có sinh tử luân hồi, nếu diệt được nó thì sinh tử luân hồi cũng không còn. Hơn nữa, các nhân duyên khác như lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ v.v... cũng chính là vô minh, và cũng chính là chất liệu để tạo ra vòng sinh tử luân hồi; nếu một trong các nhân duyên ấy bị diệt thì cái vòng luân hồi tức khắc đứt tung. Cũng vậy, a-lại-da (tức là thức) chính là bản thể của vạn hữu, nhưng không vì thế mà bảo nó là nguyên nhân đầu tiên để từ đó sinh ra những cái khác; bởi vì, a-lại-da là bản thể của vạn hữu ở trạng thái vô minh ô nhiễm, nếu nó đã là nguyên nhân đầu tiên thì sẽ chẳng bao giờ có trí tuệ, và do đó, chẳng bao giờ có thể có chân như; kì thực, chân như (hay đại viên cảnh trí) và a-lại-da thức chỉ là hai trạng thái (thanh tịnh và ô nhiễm, hay mê và ngộ) của bản thân vạn pháp. Cho nên, dù là chân như, dù là thức, hay là gì gì đi nữa, thì cũng không có cái gì gọi là nguyên nhân đầu tiên, không có gì hiện hữu độc lập, mà tất cả đều là nhân duyên của nhau, nương vào nhau mà sinh thành, tồn tại và hủy diệt.
(165) Duyên-giác. (Xem chú thích số 7 và số 163 ở trước.)
(166) Tứ Đế không: Các hành giả Thanh-văn thừa ở địa vị Kiến-đạo, dùng trí tuệ vô lậu đoạn diệt hết kiến hoặc về Tứ Đế trong ba cõi, gọi là thể hội được “Tứ Đế không”, chứng quả Tu-đà-hoàn.
(167) Địa vị Tu-đạo: Đây là địa vị Tu-đạo trong tiến trình tu chứng của Thanh-văn thừa. Sau khi chứng quả Tu-đà-hoàn (Sơ-quả), hành giả tiếp tục tu tập để dứt trừ tư-hoặc trong ba cõi, lần lượt tiến lên từ bậc Tư-đàm-hàm-hướng, Tư-đà-hàm-quả, A-na-hàm-hướng, A-na-hàm-quả, cho đến A-la-hán-hướng; đó là thời gian của địa vị Tu-đạo. Cuối cùng, khi chứng A-la-hán-quả, thì đó là địa vị Vô-học.
(168) Trạch diệt vô vi: Dùng trí vô lậu dứt trừ hết sự trói buộc của tư hoặc ba cõi, đạt cảnh giới niết bàn giải thoát, gọi là “trạch diệt vô vi”. Tư hoặc được phân chia nhiều phần, từ thô trọng đến vi tế; cứ mỗi lần diệt được một phần tư hoặc thì chứng nhập được một phần vô vi, cho nên ở đây nói “chứng nhập từng phần trạch diệt vô vi”.
(169) Thanh-văn: Các vị đệ tử Phật nghe thanh giáo của Phật dạy pháp Tứ Đế mà tỏ ngộ chân lí, dứt kiến tư hoặc trong ba cõi, chứng thánh quả A-la-hán và nhập niết bàn.
(170) Phạm Vương: tức Đại Phạm Thiên Vương, vua của cõi trời Sơ-thiền, Sắc-giới. Chư thiên ở các cõi trời Sắc-giới cũng được gọi chung là Phạm Thiên. Chữ “phạm” có nghĩa là thanh tịnh, trực tiếp chỉ cho đời sống đã dứt lìa hẳn sự dâm dục (cả thân lẫn tâm). Chúng sinh ở cõi Dục tu hành “phạm hạnh”, dứt hẳn ngũ dục, thân tâm thanh tịnh, đó là cái nhân để sinh lên các cõi trời Sắc-giới. Vì không còn đời sống ngũ dục, nên ở Sắc-giới không có “thai sinh”; chúng sinh sinh về đó hoàn toàn bằng “hóa sinh”, thân tướng trang nghiêm thanh tịnh, thoát khỏi mọi nhiễm ô của Dục-giới.
(171) Thiên Chủ: tức là vị trời chúa tể, ở đây là chỉ cho trời Đế Thích, thống lĩnh tất cả thiên chúng ở hai cõi trời thấp nhất của sáu cõi trời Dục-giới, là trời Đao-lợi và trời Tứ-vương.
(172) Đế Thích: cũng gọi là Thích Đề Hoàn Nhân, là tên vị thiên chủ vừa nói ở chú thích số 171 trên. Trong sáu tầng trời cõi Dục (lục Dục thiên), thì trời Tứ-vương là thấp nhất, nằm ở lưng chừng núi Tu-di; kế tiếp lên trên là trời Đao-lợi, nằm ở đỉnh núi Tu-di. Vua trời Đế Thích ngự ở thành Thiện-kiến (trung tâm của cõi trời Đao-lợi), thống lãnh toàn thể thiên chúng không những ở cõi trời Đao-lợi, mà còn gồm cả thiên chúng ở cõi trời Tứ-vương.
(173) Trời Tự Tại: tức chư thiên cõi trời Tha-hóa-tự-tại, là tầng trời cao nhất của Dục-giới, có phước báo thù thắng nhất trong sáu tầng trời Dục-giới.
(174) Trời Đại Tự Tại: cũng gọi là trời Ma Hê Thủ La, là vị trời được đạo Bà-la-môn tôn phụng là chúa tể của vạn vật, cư ngụ ỡ cõi trời tột đỉnh của Sắc-giới, hưởng phước báo thù thắng ở thế gian. Khi được sát nhập vào Phật giáo, vị trời này đã trở thành một vị ủng hộ Phật pháp có nhiều uy lực.
(175) Thiên đại tướng quân: Đây là chỉ cho các vị đại tướng quân ở cõi trời Tứ-vương, thống lãnh các bộ chúng, tuần du khắp các quốc độ thế gian để cứu hộ.
(176) Trời Tứ-vương: (Xem lại chú thích số 69 ở trước.)
(177) Vua cõi người: Vua của loài người gồm có 5 bậc:
1. Kim Luân vương, tức Chuyển-luân thánh vương, có đầy đủ 32 tướng tốt (nhưng không sáng rỡ, mĩ diệu bằng thân Phật), phước báo chỉ dưới chư thiên, thống lãnh cả bốn châu thiên hạ (Bắc Câu-lư, Đông Thắng-thân, Nam Thiệm-bộ, Tây Ngưu-hóa), dùng mười điều lành để hóa trị loài người. Khi vị này lên ngôi vua, tự nhiên có bánh xe báu bằng vàng (kim luân bảo) từ trên không trung bay xuống trước mặt. Ông cỡi bánh xe vàng này và trở thành bậc lãnh đạo tối cao của loài người. Chuyển-luân thánh vương gồm có bốn bậc (Kim Luân vương, Ngân Luân vương, Đồng Luân vương và Thiết Luân vương), mà Kim Luân vương này là vị Luân vương tối cao.
2. Ngân Luân vương, phước báo kém hơn Kim Luân vương, có bánh xe báu bằng bạc (ngân luân bảo), thống lãnh ba châu thiên hạ (Đông, Nam và Tây).
3. Đồng Luân vương, phước báo kém hơn Ngân Luân vương, có bánh xe báu bằng đồng (đồng luân bảo), thống lãnh hai châu thiên hạ (Đông và Nam).
4. Thiết Luân vương, phước báo kém hơn Đồng Luân vương, có bánh xe báu bằng sắt (thiết luân bảo), thống lãnh chỉ một châu thiên hạ, là châu Nam Thiệm-bộ.
5. Túc Tán vương, tức các vị quốc vương cai trị các nước (hoặc lớn, hoặc nhỏ) trong mỗi châu (như châu Nam Thiệm-bộ chẳng hạn), phước báo kém xa bốn vị Luân vương trên. Chữ “túc tán” có nghĩa là rất nhiều, có khắp các nơi, như lúa rải trên mặt đất.
(178) Trưởng giả: Ở Trung-quốc, người tuổi cao đức trọng thì được người tôn kính xưng là trưởng giả. Ở Việt-nam, từ này có hai ý nghĩa: -chỉ cho người tuổi cao đáng kính trong một vùng dân cư; -chỉ cho người giàu có mà kém hiểu biết, sống xa xỉ kiêu mạn, thích khỏe thân, không chịu khó.
Danh xưng “trưởng giả” trong kinh điển, như ở đây chẳng hạn, dùng để chỉ cho hạng trưởng giả ở Ấn-độ thời cổ. Theo đó, muốn được xưng là trưởng giả, hạng người này phải có đầy đủ mười đức: -quí tộc đại gia; -có địa vị cao trong xã hội; -giàu có hơn người; -có uy lực lớn làm cho mọi người đều nể sợ; -có trí tuệ hơn người; -lớn tuổi; -hành vi trong sạch, tư cách mô phạm; -lễ nghĩa nghiêm túc; -trên thì được vua khen phục; -dưới thì được dân chúng qui ngưỡng. Vì có đầy đủ mười đức như vậy, cho nên các vị trưởng giả nhiều khi còn được kính trọng hơn cả các quan chức triều đình.
(179) Cư sĩ: là người sống theo đạo lí; tuy mang thân thế tục nhưng biết nương theo giáo pháp để tu hành; tuy làm việc đời nhưng luôn lấy giáo pháp làm kim chỉ nam, để không bao giờ làm những việc phi pháp. Dù có hay không có địa vị, những người cư sĩ bao giờ cũng là những người có đức độ đáng tôn kính trong xã hội.
(180) Tể quan: là các cấp quan chức chính quyền từ trung ương đến các địa phương nhỏ bé, như thủ tướng, bộ trưởng, tỉnh trưởng, thôn trưởng v.v..., và các quan lại trực thuộc.
(181) Bà la môn: là một trong bốn chủng tộc (cũng là bốn giai cấp dân chúng) trong xã hội Ấn-độ thời cổ, chuyên phụng thờ Đại Phạm Thiên, tu hạnh trong sạch. Các giáo sĩ Bà-la-môn tự cho rằng, khi Phạm Thiên sinh ra loài người thì chủng tộc của họ đã được sinh ra từ miệng ngài. Chỉ có họ mới có thể tiếp xúc trực tiếp với thần linh, cho nên, chỉ có họ mới thông hiểu được các kinh Phệ Đà; và cũng chỉ có họ mới có quyền cúng tế, xướng tụng và giảng dạy các kinh điển ấy. Họ tự cho mình là giai cấp cao nhất trong bốn giai cấp. Để củng cố địa vị và áp chế các giai cấp khác, họ đã tạo ra bộ luật Mã Nỗ (Manu), tự cho mình là giai cấp trên hết và tôn quí nhất trong xã hội, phải nắm độc quyền về tôn giáo, tư tưởng, học thuật và giáo dục, bắt buộc ba giai cấp dưới phải tuân phục. Một cách cụ thể, họ tự ban cho mình 6 đặc quyền sau đây: -học tập kinh điển Phệ Đà; -giảng dạy kinh điển Phệ Đà; -tự cúng tế cho mình; -cúng tế cho người khác; -thọ nhận của cúng dường; và -bố thí cho người khác. Cuộc đời một người Bà-la-môn được chia làm bốn thời kì, thời kì đầu tiên gọi là “thời kì phạm hạnh”: cậu bé Bà-la-môn lên 8 tuổi thì rời nhà, theo thầy học tập, ròng rã 12 năm, giữ giới bất dâm, học các kinh Phệ Đà và thực tập các lễ nghi tế tự. Thời kì thứ hai gọi là “thời kì gia trú”: cậu bé bây giờ đã 20 tuổi, trưởng thành, được thầy cho trở về nhà, sống đời bình thường, cưới vợ sinh con, làm ăn xây dựng sự nghiệp, thờ phượng tổ tiên. Kế tiếp là “thời kì lâm thê”: người Bà-la-môn này, khi đến tuổi già thì nhường hết gia sản cho các con, vào ở rừng tu khổ hạnh, chuyên tâm tư duy, tham dự các sinh hoạt tôn giáo. Sau hết là “thời kì lánh đời”: bỏ hết những gì dính mắc đến thế tục, mặc áo thô, xách bình nước, đi du hành đây đó.
(182) Lập thân nội chính: Người phụ nữ giữ đúng vai trò của mình trong gia đình (như quán xuyến việc nhà, dạy dỗ con cái, hầu hạ cha mẹ, v.v...), gọi là “nội chính”; nếp sống cao sang nhưng vẫn chuyên cần, tuy giàu có mà vẫn cần kiệm, luôn luôn tu dưỡng các đức tính tốt của một người đàn bà (như kính nhường, điềm đạm, nhã nhặn, từ ái, v.v...), gọi là “lập thân”. Người phụ nữ làm được như vậy tức là “tự tu sửa thân tâm”; và đó cũng là nguồn gốc phát sinh bao an vui, hạnh phúc cho gia đình, gọi là “làm cho gia đình yên ổn”; và điều đó cũng liên quan mật thiết đến sự hưng thịnh, bình trị của quốc gia, gọi là “làm cho thiên hạ thái bình”!
(183) Hoàng hậu, phu nhân, mệnh phụ, đại cô: Theo người Trung-hoa xưa, vợ của vua thiên tử gọi là “hoàng hậu”; vợ của vua các nước chư hầu, phiên thuộc, gọi là “phu nhân”. “Mệnh phụ” là tiếng dùng để chỉ cho các bà vợ của các quan, hoặc các bà trinh thục hiền đức trong dân chúng, được triều đình phong tước, ban thưởng. “Đại cô”: nguyên chữ Hán viết là “đại gia”, nhưng chữ “gia” ở đây phải đọc là “cô”. “Đại cô” là tiếng gọi dành cho người đàn bà tài đức kiêm toàn, được triệu vào cung làm thầy của hoàng hậu.
(184) Không muốn nhiễm dục trần: Nguyên văn chữ Hán trong kinh văn viết là “bất hoại nam căn”, nghĩa là không hư hoại nam căn. Điều này muốn nói rằng, người đàn ông muốn tu phạm hạnh, chí quyết trọn đời không để cho nam căn bị ô nhiễm bởi hành động dâm dục; thuật ngữ gọi là “giữ gìn thiên chân” (bảo thủ thiên chân), hay “đồng chân”, tức là chẳng những không lập gia đình, mà còn không phạm bất cứ một hành động dâm dục nào! Do đây mà có thuật ngữ liên hệ là “đồng chân xuất gia”.
(185) Đồng nam: Liên quan với ý nghĩa từ “đồng chân” trong chú thích số 184 trên, từ “đồng nam” ở đây có nghĩa là người đàn ông suốt đời trong sạch, không nhiễm ái dục, không phạm bất cứ hành động dâm dục nào. Từ “đồng tử” cũng có ý nghĩa như vậy.
(186) Xử nữ: người nữ suốt đời không lập gia đình.
(187) Đồng nữ: Cũng như đồng nam, đồng nữ là người phụ nữ suốt đời trinh thục, không lập gia đình, không phạm bất cứ một hành động dâm dục nào.
(188) Ra khỏi loài trời: Ở đây ý nói rằng: thiên chúng không muốn ỏ cõi trời nữa, mà muốn sinh xuống cõi người. Tại sao vậy? Vì rằng, tuy loài trời hưởng phước báo hơn loài người, nhưng bởi đời sống quá sung sướng nên không chịu tu hành, đến khi hết phước báo thì lại phải tùy nghiệp cũ mà đọa lạc. Chỉ ở cõi người là có nhiều duyên thuận tiện để tu hành. Chư Phật đều xuất hiện ở cõi người để thành Phật và hóa độ khắp các loài chúng sinh; chư Bồ-tát, chư Thánh nhân trong ba thừa đều do thân người tu hành mà chứng quả. Vì vậy, chư thiên không muốn hưởng lạc, chỉ muốn tu hành để được giác ngộ giải thoát, thì không muốn ở cõi trời mà tự nguyện sinh vào cõi người.
(189) Dược xoa: hay dạ xoa, là một loại quỉ có sức mạnh, tính bạo ác, đi rất nhanh; có loại đi trên mặt đất, có loại đi trên hư không, có loại bay trên không. Tuy tính bạo ác, nhưng khi có duyên lành được nghe pháp Phật thì tin tưởng sâu xa, phát tâm hộ trì Phật pháp, chí thành mong cầu giải thoát.
(190) Càn thát bà: là những vị thần âm nhạc của trời Đế Thích. Họ không ăn thịt uống rượu, mà chỉ sống bằng các mùi thơm.
(191) A tu la: là loại thần có cung điện trên núi Tu-di, có phước của trời mà không có đức của trời, nên gọi là loài “phi thiên”. A tu la tính hay sân hận, nóng nảy, hay gây sự đánh nhau với trời Đế Thích. Đàn ông a tu la thân hình xấu xí, nhưng đàn bà rất xinh đẹp. Đó là loại a tu la hóa sinh, thuộc về Thiên đạo. Lại có a tu la thai sinh thuộc về Nhân đạo; a tu la noãn sinh thuộc về quỉ đạo; và a tu la thấp sinh thuộc về súc sinh đạo.
(192) Khẩn na la: là những vị thần xướng ca của trời Đế Thích, có cung điện bằng bảy báu ở núi Tu-di, thân hình giống như loài người, đầu có một chiếc sừng, hình dung xấu xí nhưng tiếng xướng ca tuyệt diệu.
(193) Ma hô la già: cũng gọi là ma hầu la già, là thần rắn lớn, hoặc gọi là rồng đất, thuộc loài bò sát.
(194) Phi nhân: chỉ chung cho tất cả các loài địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh.
(195) La sát: là loài ác ma trong thần thoại Ấn-độ, xuất hiện rất sớm trong kinh Lê Câu Phệ Đà. Tương truyền, La sát nguyên là tên gọi chỉ cho dân bản xứ Ấn-độ từ thời cổ đại. Sau khi giống dân Aryan từ miền Trung-Á tràn xuống chiếm lãnh thổ Ấn-độ (khoảng 1.500 năm trước tây lịch kỉ nguyên) thì “la sát” biến thành một đại danh từ chỉ chung cho những người ác; rồi dần dần lại chuyển biến thành tên của loài ác quỉ. Quỉ la sát cũng là thân người, đàn ông thì da đen, tóc đỏ, mắt xanh, trông dễ sợ; đàn bà thì nhan sắc tuyệt đẹp. Nói chung, quỉ la sát có sức mê hoặc người rất mạnh, chuyên bắt người để ăn thịt uống máu. La sát có sức thần thông, có thể đi rất nhanh trên mặt đất, hoặc bay rất nhanh trên hư không. La sát cũng có loại làm cai ngục ở các địa ngục để hành hạ tội nhân, có nhiều hình dạng khác nhau: hoặc đầu trâu tay người, hoặc đầu nai, đầu dê, đầu thỏ v.v... Đó là loài la sát có tánh hung ác của ma quỉ; nhưng trong kinh điển Phật giáo, la sát cũng biến chuyển thành những vị thiện thần thủ hộ Phật pháp.
Pháp sư Viên Anh nói (trong sách Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh Giảng Nghĩa), dược xoa là quỉ nam, còn la sát là quỉ nữ; cả hai đều là quỉ ăn thịt người.
(196) Cưu bàn trà: là loài quỉ chuyên hút tinh khí người, đi nhanh như gió, biến hóa nhiều hình thù.
(197) Tì xá già: cũng là loài quỉ ăn thịt, uống máu, hút tinh khí của người.
(198) Phú đơn na: là một loài ngạ quỉ, có thân hình giống như heo, rất hôi tanh.
(199) Năm thứ tịnh nhục: Thịt các con vật mình không thấy chúng bị giết; không nghe tiếng kêu khi chúng bị giết; không nghi ngờ vì mình mà chúng bị giết; chúng tự chết; chúng bị chim thú ăn còn sót lại.
(200) Mạng căn: Chúng sinh, do nghiệp đời trước dắt dẫn mà thọ nhận báo thân đời này. Báo thân ấy gồm hai phần sắc và tâm, nhờ có thức, hơi ấm và hơi thở giữ gìn liên tục mà có được một đời sống trong khoảng thời gian từ lúc thọ sinh cho đến lúc chết, gọi là “mạng căn”.
(201) Đức Phật ăn cám ngựa: Năm thứ 12 sau ngày thành đạo, một vị thí chủ Bà-la-môn giàu có, vốn là thôn trưởng của thôn Tì-lan, tên A Kì Đạt, đã thỉnh đức Phật cùng 500 vị tì kheo, về an cư tại thôn Tì-lan (thuộc nước Kiều-tát-la) để ông được cúng dường. Nhưng chỉ được sáu ngày thì ông bị ma vương mê hoặc, làm cho tâm bị mê muội, chỉ biết ở yên trong tư thất để hưởng dục lạc, không còn biết gì đến việc bên ngoài nữa; cả việc cúng dường an cư cũng hoàn toàn quên mất! Vừa lúc ấy thì khắp vùng gặp nạn đói trầm trọng, dân chúng thiếu ăn, quí vị tì kheo đi khất thực thường là không được gì, hoặc chỉ được rất ít, không đủ dùng. Lúc ấy có một người lái buôn ngựa, từ xứ khác đến dừng chân tạm trú tại ấp Tì-lan, mang theo một bầy ngựa 500 con. Ông ta biết tình trạng đói khát của Phật và tăng đoàn, bèn phát tâm, hằng ngày chia bớt phần cám của ngựa để cúng dường. Nhờ đó mà Phật và chư tăng chịu qua được nạn đói ấy. Cuối mùa an cư, vị thôn trưởng Bà-la-môn kia, tâm trí sực tỉnh, biết được Phật và tăng đoàn đã bị đói khát trong ba tháng qua, ông hối hận vô cùng. Ông đến trước Phật và Chư Tăng thành khẩn sám hối, và tha thiết xin cúng dường một bữa trai tăng thật long trọng cuối cùng, trước khi Phật và Chư Tăng rời thôn ấp để lên đường du hóa.
(202) Ma ái kiến: Vì tham cầu lợi dưỡng, tự cho mình là tôn quí để được cúng dường, gọi là “ma ái”; vọng khởi tà kiến, tự cho mình là thánh nhân để được kính trọng, gọi là “ma kiến”. Hai loại ma này lúc nào cũng sóng đôi nhau có mặt để phá hoại người tu hành, nên gộp chung gọi là “ma ái kiến”.
(203) Cây đa-la: tức cây lá bối ở Ấn-độ, lá rộng, dài, dùng để chép kinh sách (trong thời kì chưa có giấy). Cây này, nếu dùng dao chặt đứt thì chết hẳn, không bao giờ sống trở lại.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 13.58.21.119 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.