Rời bỏ uế trược, khéo nghiêm trì giới luật, sống khắc kỷ và chân thật, người như thế mới xứng đáng mặc áo cà-sa.Kinh Pháp cú (Kệ số 10)
Dễ thay thấy lỗi người, lỗi mình thấy mới khó.Kinh Pháp cú (Kệ số 252)
Dầu nói ra ngàn câu nhưng không lợi ích gì, tốt hơn nói một câu có nghĩa, nghe xong tâm ý được an tịnh vui thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 101)
Việc đánh giá một con người qua những câu hỏi của người ấy dễ dàng hơn là qua những câu trả lời người ấy đưa ra. (It is easier to judge the mind of a man by his questions rather than his answers.)Pierre-Marc-Gaston de Lévis
Không trên trời, giữa biển, không lánh vào động núi, không chỗ nào trên đời, trốn được quả ác nghiệp.Kinh Pháp cú (Kệ số 127)
Như ngôi nhà khéo lợp, mưa không xâm nhập vào. Cũng vậy tâm khéo tu, tham dục không xâm nhập.Kinh Pháp cú (Kệ số 14)
Sống trong đời cũng giống như việc đi xe đạp. Để giữ được thăng bằng bạn phải luôn đi tới. (Life is like riding a bicycle. To keep your balance you must keep moving. )Albert Einstein
Cách tốt nhất để tiêu diệt một kẻ thù là làm cho kẻ ấy trở thành một người bạn. (The best way to destroy an enemy is to make him a friend.)Abraham Lincoln
Chỉ có hai thời điểm mà ta không bị ràng buộc bởi bất cứ điều gì. Đó là lúc ta sinh ra đời và lúc ta nhắm mắt xuôi tay.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Nhiệm vụ của con người chúng ta là phải tự giải thoát chính mình bằng cách mở rộng tình thương đến với muôn loài cũng như toàn bộ thiên nhiên tươi đẹp. (Our task must be to free ourselves by widening our circle of compassion to embrace all living creatures and the whole of nature and its beauty.)Albert Einstein

Trang chủ »» Danh mục »» TỦ SÁCH RỘNG MỞ TÂM HỒN »» Tư tưởng Tịnh Độ Tông »» I. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một Đức Phật lịch sử »»

Tư tưởng Tịnh Độ Tông
»» I. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một Đức Phật lịch sử

Donate

(Lượt xem: 3.762)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       

Tư tưởng Tịnh Độ Tông - I. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một Đức Phật lịch sử

Font chữ:


Diễn đọc: Giang Ngọc

SÁCH AMAZON



Mua bản sách in

Sử có nghĩa là sự biên chép, ghi lại những việc đã xảy ra trong một thời đại. Đây gọi là lịch sử hay quốc sử. Lịch sử nghĩa là trải qua một thời gian có một nhân vật như thế ra đời và nếu là Vua thì vị đó trị vì trong khoảng thời gian nào đó, nên gọi là sử nhà Nguyên, sử nhà Minh v.v... Lịch sử đa phần là những chuyện có thật và những việc xảy ra từng ngày, từng giờ, năm, tháng do các vị sử gia biên lại theo từng triều đại như thế.

Tuy vậy sử cũng có nhiều loại như: huyền sử, giả sử, chánh sử, ngụy sử và lịch sử.

Huyền sử là những chuyện kể về một thời cổ đại xa xưa, nhằm tôn vinh Ông bà, Tổ tiên của một dân tộc. Huyền nghĩa là huyền bí, huyền hoặc. Điều ấy có nghĩa là câu chuyện có thể có nhiều chi tiết huyền hoặc, không cụ thể rõ ràng như logic thông thường. Nhưng đời xưa không có chữ viết, nên người đời nay muốn viết lại sử đời xưa cũng phải dựa theo những câu chuyện được kể đi kể lại nhiều lần qua nhiều thế hệ và một lúc nào đó đã trở thành huyền sử.

Giả sử là những điều được viết ra nhưng không có thật mà chỉ là giả định dựa theo suy luận, giả thiết của người viết, có thể được một số người chấp nhận và do đó được truyền tụng, kể lại nhiều lần, khiến người ta cảm thấy quen thuộc. Đôi khi, do tính chất hợp lý của nó, giả sử cũng có thể dần dần biến thành chánh sử hay lịch sử. Điều này cũng thường xảy ra trong lịch sử thế giới.

Chánh sử là những gì mà sử gia ghi lại những việc đúng đắn của một triều đại, có ngày tháng và dữ kiện v.v… nhưng chánh sử này cũng chỉ có thể đúng với triều đại đó, chứ không hoàn toàn đúng với những triều đại trước hoặc sau đó. Nếu những sử gia đương thời, viết sai những gì chế độ quân chủ hay chế độ độc tài mong muốn thì sử gia ấy khó tồn tại. Do vậy, chánh sử cũng chỉ có tính cách thời gian, chứ không là miên viễn.

Riêng lịch sử thì có thể đáng tin hơn là ngụy sử. Vì ngụy sử chỉ tô son trét phấn vào mỗi nhân vật huyền thoại để đánh bóng cho nhân vật đó, mà lịch sử đời sau thì không muốn ghi lại những nhân vật của ngụy sử này. Đã là ngụy thì không chân mà chẳng lịch. Vì sự hiện hữu của nhân vật ấy và thời đại ấy so với sự kiện lịch sử của một dân tộc nó không phù hợp.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một nhân vật lịch sử, chứ không phải huyền thoại. Vì Ngài có cha là vua Tịnh Phạn, có mẹ là Hoàng hậu Ma Ya. Sinh ra 7 ngày thì mẹ mất, được dì là bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề nuôi nấng Ngài đến lúc trưởng thành. Ngài đã lập gia đình với Công chúa Da Du Đà La con vua Thiện Giác và hạ sanh một người con, đặt tên là La Hầu La. Đến năm 19 tuổi (theo thuyết của Đại Thừa) hoặc năm 29 tuổi (theo thuyết của Tiểu Thừa) Ngài đã rời khỏi cung thành Ca Tỳ La Vệ, băng rừng vượt suối đi vào dãy núi Hy Mã Lạp Sơn để xuất gia học đạo.

Cho đến năm nay (2011) tất cả các nước theo Phật Giáo trên thế giới và kể cả Liên Hiệp Quốc cũng đều gọi là năm của Phật lịch 2555. Nghĩa là từ khi nhập Niết Bàn của Đức Phật cho đến nay là 2.555 năm. Nếu tính năm sinh của Ngài thì phải cộng thêm 80 năm nữa. Nghĩa là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã đản sanh tại Ấn Độ cách đây 2.635 năm (2.555 + 80 = 2.635 năm). Nếu trừ đi 2.011 năm thì Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sinh ra trước Tây lịch là 624 năm, nghĩa là thế kỷ 7 trước khi lịch Tây phương thành hình. Thế nhưng những nhà sử học ngày nay vẫn còn nghi vấn là Đức Phật sinh ra không phải ở thế kỷ 7 trước Tây lịch mà là thế kỷ 6 và có nhiều người còn cho rằng ngài sinh ra tại Ấn Độ vào thế kỷ 5 trước Tây lịch.

Vì sao có những sự việc này? Vì lịch của Ấn Độ không rõ ràng bằng lịch âm dương của Trung Hoa. Do vậy những sử gia về sau này có quyền nghi ngờ về những dữ kiện lịch sử ấy. Tuy nhiêu dẫu cho niên đại sinh ra, xuất gia và sự thành đạo của Đức Phật có chưa được thống nhất, thì Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vẫn là một Đức Phật lịch sử, không phải là một nhân vật tượng trưng hay một Đức Phật siêu việt, không có lịch sử hiện hữu trong thế gian này như Đức Phật A Di Đà, Đức Phật Dược Sư v.v…

Trong 49 năm thuyết pháp (theo Đại Thừa) hay 45 năm (theo Tiểu Thừa) kể từ sau khi thành đạo, Đức Phật đã thuyết pháp giáo hóa khắp nơi tại Ấn Độ và sau này các nhà nghiên cứu Đại Thừa chia ra làm 12 loại kinh điển mà Đức Phật đã thuyết giảng gồm những loại như sau:

Một là Khế Kinh (tiếng Phạn là Sùtra, Hán dịch là Tu Đa La) cũng còn gọi là Trường hàng. Tức là thể văn xuôi, trực tiếp ghi lại những lời giảng dạy của Đức Phật.

Hai là Ứng Tụng (tiếng Phạn là Geya, Hán dịch âm là Kỳ Dạ) cũng gọi là Trùng tụng. Tức là phần kệ tụng giải thích lại cho rõ những giáo thuyết mà khế kinh đã nói ra.

Ba là Ký biệt (tiếng Phạn là Vyàkarana, Hán dịch âm là Hòa già la na) cũng gọi là Thọ Ký. Vốn là thể loại giải thích về giáo nghĩa, đời sau đặc biệt chỉ cho những lời ấn chứng trước của Phật về các việc làm trong vị lai của các đệ tử.

Bốn là Phúng tụng (tiếng Phạn là Gàtha, Hán dịch âm là Già Đà), cũng gọi là Cô Khởi. Tức là thể loại tụng độc lập, trực tiếp ghi chép giáo thuyết của Phật, chứ không lặp lại ý nghĩa trong phần văn Trường Hàng đã nói trước đó như vai trò của Trùng Tụng.

Năm là Tự thuyết (tiếng Phạn là Udanà, Hán dịch âm là Ưu Đà Na). Nghĩa là Đức Phật không đợi người khác thưa hỏi, mà Ngài tự khai thị chỉ bày.

Sáu là Nhân Duyên (tiếng Phạn là Nidàna, Hán dịch âm là Ni Đà Na). Ghi chép nhân duyên (nguyên do) thuyết pháp giáo hóa của Phật, như phẩm Tựa của các kinh.

Bảy là Thí Dụ (tiếng Phạn là Avadàna, Hán dịch âm là A Ba Đà Na). Dùng thí dụ để nói pháp nghĩa.

Tám là Bản Sự (tiếng Phạn là Itivrttaka, Hán dịch âm là Y Đế Mục Đa Già). Thể loại ghi chép về hành trạng của Phật và các đệ tử ở đời quá khứ, ngoài bản sinh đàm. Hoặc những kinh mở đầu bằng câu “Phật nói như vậy” cũng thuộc thể loại này.

Chín là Bản Sanh (tiếng Phạn là Jàtaka, Hán dịch âm là Xà Đà Già). Thể loại ghi chép hạnh đại bi mà Đức Phật tu hành trong các đời quá khứ.

Mười là Phương Quảng (tiếng Phạn là Vaipulya, Hán dịch âm là Tỳ Phật lược). Các kinh giảng nói giáo nghĩa sâu xa rộng lớn.

Mười một là Hy Pháp (tiếng Phạn là Adbhutadharma, Hán dịch âm là A Phù Đà Đạt Ma) cũng gọi là Vị Tằng Hữu Pháp. Tức thể loại hình ghi chép những việc hiếm có của Phật và các đệ tử.

Mười hai là Luận Nghị (tiếng Phạn là Upadesa, Hán dịch âm là Ưu Ba Đề Xá). Thể loại kinh ghi chép việc Đức Phật nghị luận về thể tính các pháp, phân biệt rõ ràng ý nghĩa.

Mười hai thể loại trên đây, Đại Thừa, Tiểu Thừa đều có. Nhưng có chỗ cho rằng Phương Quảng là các kinh mà chỉ Đại Thừa mới có, lại có thuyết chủ trương ngoài ký biệt, tự thuyết và Phương Quảng ra, 9 thể loại còn lại đều thuộc kinh Tiểu Thừa. Hoặc có thuyết cho rằng ngoài Nhân Duyên, Thí Dụ và Nghị Luận ra, 9 thể loại kia đều thuộc kinh Đại Thừa. Hoặc có thuyết cho rằng 9 thể loại trừ Thí Dụ, Bản Sanh và Nghị Luận, là 9 bộ kinh, hoặc trừ Tự Thuyết, Thí Dụ và Nghị Luận là 9 bộ kinh (Trích Phật Quang Đại Từ Điển của Hòa Thượng Thích Quảng Độ dịch trang 5.506).

Kể từ khi Đức Phật thuyết pháp cho đến năm 85 trước Tây lịch, Ba Tạng Kinh Luật Luận bằng tiếng Pali mới hình thành bằng chữ viết đã trải qua hơn 500 năm như thế bằng cách khẩu truyền qua 4 kỳ Đại Kết tập bởi các vị A La Hán. Dĩ nhiên là chúng ta có quyền tin tưởng trọn vẹn nơi chư vị Thánh Giả này, nhưng vấn đề tư tưởng và bộ phái đã phân chia rõ ràng sau thời kỳ kết tập thứ 2 dưới triều vua A Dục (trước Tây lịch) tại thành Tỳ Xá Ly. Kỳ kết tập lần đầu tại động Thất Diệp sau khi Đức Phật nhập diệt 100 ngày do Ngài Ca Diếp chủ tọa. Kỳ kết tập này chỉ tuyên đọc lại kinh, luật và những gì Đức Phật đã dạy. Thời kỳ kết tập thứ hai sau 100 năm tại thành Hoa Thị (Patna ngày nay) đã có sự phân biệt trong giáo đoàn Tỳ Kheo về vấn đề giới luật và kỳ kết tập lần thứ 3 thì đã phân chia rõ tính cách bộ phái của Thượng Tọa Bộ và Đại chúng bộ. Đến kỳ kết tập lần thứ 4 trước Tây lịch gần 100 năm là thời kỳ phân chia tư tưởng Đại Thừa, Tiểu Thừa một cách rõ ràng nhất.

Các nhà nghiên cứu Phật Giáo bộ phái hay Nguyên Thủy và Tiểu Thừa thì cho rằng Phật Giáo Đại Thừa đã đi quá xa tư tưởng Nguyên Thủy thời Đức Phật, nhưng các vị Đại Luận Sư nổi tiếng của Tiểu Thừa như Ngài Vô Trước, Thế Thân, Mã Minh và Long Thọ của Ấn Độ vẫn căn cứ vào tư tưởng và những lời dạy của Đức Phật trong các kinh điển Tiểu Thừa để xiển dương Đại Thừa, như vậy cũng không thể gọi là sai. Vì lẽ tư tưởng cần phải phát triển và khế hợp với từng thời đại cũng như hoàn cảnh của đất nước mà Phật Giáo du nhập vào đó. Ví dụ như những nước phương Bắc Á Châu hay Âu Mỹ ngày nay thì thích hợp với tinh thần Đại Thừa duy tân, cởi mở, sửa đổi nhiều hơn là tư tưởng của Tiểu Thừa. Trong khi đó các nước Phật Giáo Nam Á Châu thì khế hợp với tinh thần Nam Tông hơn là Bắc Tông. Do vậy chúng ta không thể nói là cái nào đúng, cái nào sai, mà ở đây chỉ nói về tinh thần khế hợp cũng như phát triển giáo lý ấy mà thôi.

Vậy ở đây xin xác nhận lại một lần nữa là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một Đức Phật lịch sử chứ không phải là Đức Phật biểu tượng và giáo lý của Ngài đã thuyết giảng là giáo lý chơn thật, bao gồm cả Đại Thừa và Tiểu Thừa như 12 thể loại kinh tiêu biểu đã trình bày trên đây.

Như vậy Kinh A Di Đà, Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Quán Vô Lượng Thọ thuộc về loại do đức Phật tự ý nói ra (Vô vấn tự thuyết). Những kinh này chính do kim khẩu của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói ra và chúng ta, qua trí tuệ cũng như sự chứng thật của Ngài, tin rằng lời Phật không bao giờ hư dối, nên phát huy pháp môn Tịnh Độ cũng là cách để làm rõ lời dạy của Đức Phật qua một phương pháp tu trong nhiều pháp tu khác để được thoát ly sanh tử luân hồi.

A. Tư tưởng Kinh A-di-đà

Trong 49 mùa an cư kiết hạ (theo Đại Thừa) hoặc 45 mùa (theo Tiểu Thừa) thì Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã an cư tại nước Xá Vệ, nơi vườn cây của Trưởng Giả Cấp Cô Độc và Thái Tử Kỳ Đà hơn 25 mùa như thế. Mỗi năm 3 tháng và Kinh A Di Đà Đức Phật đã nói tại đây cho Ngài Xá Lợi Phất nghe trực tiếp. Kinh này được gọi là Kinh Tiểu Phẩm A Di Đà, hiện vẫn còn bản chữ Phạn cũng như chữ Hán.

Đây là bản kinh có sau kinh Vô Lượng Thọ cũng như Quán Vô Lượng Thọ, nhưng xin nêu danh kinh này lên đầu, vì các nước Phật Giáo theo Tông Tịnh Độ đều trì tụng kinh này hằng ngày tại chùa hay tại tư gia, như ở Trung Hoa, Đại Hàn, Việt Nam, Nhật Bản v.v… Đây là một kinh ngắn, dễ đọc tụng và thâm hiểu nghĩa lý cho mọi tầng lớp những người tin theo pháp môn này.

Mở đầu kinh văn nói: “Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ, Tịnh Xá Kỳ Hoàn, trong khu vườn của Thái Tử Kỳ Đà và Cấp Cô Độc. Ngài cùng với số đông một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ Kheo câu hội lại một chỗ. Chư Tỳ Kheo này đều là những vị Đại A La Hán, được nhiều người biết đến…”

Tôi ở đây là Ngài A Nan. Ngài A Nan làm Thị giả cho Đức Phật trong 25 năm sau cùng, trước khi Phật thị tịch Niết Bàn. Ở đây muốn xác định là ai nghe cùng với ai và tại nơi chốn nào đã rõ ràng, nhưng đứng về phương diện thời gian thì kinh văn chỉ cho biết rằng: Một thời Đức Phật… một thời ấy chính là lúc Đức Phật còn tại thế và là lúc mà Đức Phật đang an cư tại xứ Xá Vệ. Ngày xưa đối với lịch sử của Ấn Độ không nói rõ như lịch Trung Hoa hay lịch Âu Mỹ. Các nhà nghiên cứu cũng có thể tìm hiểu tất cả những bộ kinh và ghi chú vào đó những niên đại, mà chắc rằng trong phạm vi kinh điển của Tiểu Thừa thì không có ghi những bộ kinh “vô vấn tự thuyết” như thế này. Ở đây không muốn phân biệt Nam, Bắc - Đại, Tiểu, nhưng nêu ra như vậy để thấy rằng cái nào chấp nhận được thì chấp nhận. Ai không chấp nhận thì quyền của người đó. Vì người xưa đã không nêu rõ ràng, thì người đời nay chỉ nên y theo pháp môn truyền thừa để tu học, không nên y theo lối lập luận nhị nguyên để bị kẹt vào chỗ đối xử, tính toán v.v…

Đức Phật đầu tiên giải thích về cõi Cực Lạc cho chúng đệ tử biết. Cực Lạc chỉ có một mà Tịnh Độ thì có nhiều. Tiếng Phạn gọi Cực Lạc là Sukkhavati, còn Tịnh Độ là cõi Thanh Tịnh, ngược lại với uế độ là nơi mà chúng sanh còn đang sinh sống tu học. Tịnh Độ theo các nhà nghiên cứu thì có 4 loại. Đó là:

- Thường tịch quang Tịnh Độ
- Thật báo trang nghiêm Tịnh Độ
- Phương Tiện Hữu Dư Tịnh Độ
- Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ

Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanh ở thế giới Ta Bà này là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ. Vì sao vậy? Vì chúng sanh đang ở trong cõi Ta Bà, ngũ trược ác thế này đầy phiền não, khổ đau, cho nên Đức Phật giới thiệu cho chúng sanh ở đây một cõi giới khác, chỉ thuần có vui và không bị khổ sanh tử chi phối để biết mà thác sanh về đó.

Tiếp đến Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giới thiệu phong cảnh của thế giới Cực Lạc. Tất cả toàn bằng bốn hay bảy chất báu. Nào là đất cát, cây cối, ao hồ, hoa sen v.v… tất cả đều đẹp đẽ khác xa với thế giới Ta Bà nơi chúng ta đang sinh sống. Đức Phật xác định với Ngài Xá Lợi Phất rằng: Đó là do những công đức mà thành tựu được để trang nghiêm thế giới Cực Lạc như vậy. Nào là nhạc trời, mưa hoa, nào là chim chóc khác lạ. Những chim này biết nói pháp, khiến cho người nghe đều nghĩ đến Phật, Pháp, Tăng. Đức Phật cũng tự giải thích cho Ngài Xá Lợi Phất nghe rằng: Những con chim ấy đều do Đức Phật A Di Đà hóa hiện ra cả. Ngay cả gió ở cõi này cũng làm cho cây cối tại đó vang lên những thứ nhạc nhiệm mầu, khiến cho người nghe tự nhiên nhớ nghĩ đến ba ngôi báu.

Bấy giờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giải thích cho Ngài Xá Lợi Phất và chúng hội đang ngồi nghe Ngài giảng pháp vì sao gọi Đức Phật này là A Di Đà? - Do vì ánh sáng của Ngài không có hạn lượng và tuổi thọ của Ngài dài, lâu đến vô số lượng, vô biên a-tăng-kỳ kiếp, nên gọi là A Di Đà và vị Phật ấy đã thành Phật, cho đến nay là 10 đại kiếp rồi (mỗi kiếp như vậy tương đương với một ngày ở cõi trời Đại Phạm, hoặc 1.000 thời (Phạn: Yuga), tức là 243.000.000 năm ở nhân gian). Đây là con số thời gian không thể tính đếm được theo chủ trương của Ấn Độ giáo. Ngài có vô số đệ tử toàn là những bậc A La Hán.

Những chúng sanh nào sanh về đây rồi đều không bị thối chuyển và toàn là những vị Bồ Tát nhứt sanh bổ xứ. Khi nghe được như vậy, nên phát tâm sanh về đây. Vì sao vậy? - Vì để gần gũi với các bậc Thánh ở đấy.

Rõ ràng là cõi ấy không còn luân hồi sanh tử và sanh, già, bệnh, chết như cõi của chúng ta nữa. Ở cõi người nếu không biết tu còn phải bị trầm luân trong sanh tử và vào ra các cõi khổ đau như: Địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh hay khá hơn như chư thiên hay Thiên Thần, nhưng tất cả đều phải bị chi phối bởi nghiệp lực của mỗi người.

Đức Phật Thích Ca cũng nhấn mạnh rằng: Chẳng phải dùng một nhân duyên, phước đức, căn lành nhỏ ít mà được sanh về nước ấy. Nếu người nào khi nghe danh hiệu của Đức Phật A Di Đà rồi, liền trong 1 cho đến 7 ngày phải một lòng chẳng loạn động trì niệm danh hiệu cho đến lúc sắp lâm chung thì Đức A Di Đà và các vị Thánh Chúng sẽ hiện ra trước mặt người ấy và nếu kẻ mất ấy lòng chẳng điên đảo, liền được sanh về cõi nước Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà.

Tư tưởng này không phải là tư tưởng cứu rỗi như những Tôn giáo hữu thần khác, mà đây là do bổn nguyện của Đức Phật A Di Đà đã phát ra 48 lời nguyện khi còn là một Pháp Tạng Tỳ Kheo ở thời Đức Thế Tự Tại Vương Như Lai. Việc trì niệm danh hiệu nhứt tâm chỉ là cái nhân và nhờ đó, qua tha lực của Ngài cũng như công đức của người sắp lâm chung mà được sanh về ở thế giới Cực Lạc tùy theo từng nơi chốn và phẩm vị khác nhau. Đây chính là do phước đức nhơn duyên vậy.

Sau khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giảng những lời như thế rồi, liền bảo Ngài Xá Lợi Phất rằng: Nếu có chúng sanh nào nghe được lời nói này, thì nên phát nguyện sanh về cõi ấy. Đây là một công đức thật khó nghĩ bàn.

Sau đó Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giới thiệu cho Ngài Xá Lợi Phất và hội chúng về các cõi Phật ở phía Đông của Ngài A Súc Bệ, phía Nam của Ngài Nhật Nguyệt Đăng, phía Tây của Phật Vô Lượng Thọ, phía Bắc của Phật Diệm Kiên, phía dưới có Phật Sư Tử, phía trên có Phật Phạm Âm và hằng hà sa số các vị Phật khác nữa, vị Phật nào cũng ở cõi nước của mình và đưa tướng lưỡi rộng dài che khắp toàn cõi đại thiên để nói lên lời thành thật rằng: Hỡi các chúng sanh! Nên tin công đức chẳng thể nghĩ bàn của lời khen ngợi về bản kinh mà tất cả chư Phật đều cùng hộ niệm.

Như vậy có nhiều cõi Tịnh Độ khác nhau, mỗi cõi như vậy có một vị Phật đang giáo hóa chúng sanh và thuyết pháp tại đó. Cõi Tịnh Độ ấy toàn là ánh sáng, không chen lẫn những màu sắc khác, không có ngày đêm, không có sự khổ, không có nam nữ giao hội với nhau, không có sanh tử luân hồi, nên cõi ấy cũng còn gọi là cõi thanh tịnh của Đức Tỳ Lô Giá Na Phật nữa. Những cõi ấy là y báo và chánh báo đều trang nghiêm, cho nên gọi là báo độ chơn thật. Ngoài ra cũng còn có những cõi Tịnh Độ do chư Phật vì Phương Tiện mà hiện ra. Riêng chỉ có cõi Tây Phương Cực Lạc là cõi Phàm Thánh đồng cư Tịnh Độ thật dễ để tái sanh, cho nên Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã giới thiệu cho chúng sanh ở cõi Ta Bà này nên phát nguyện cầu sanh về đó.

Khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tán thán xưng dương những vị Phật ở các cõi khác như thế, thì các vị Phật này cũng nói rằng: Đức Phật Thích Ca Mâu Ni làm việc khó làm. Vì chúng sanh trong cõi Ta Bà ở đời năm trược này, sau khi chứng đạo đã vì chúng sanh mà nói ra pháp môn này thật là khó tin và chính Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng đã xác nhận điều này lại một lần nữa như vậy.

Vì sao thế? - Vì lẽ chúng sanh trong đời ác năm trược không dùng trí tuệ để tin sâu, nguyện thiết mà dùng sự ngu si, độn căn để phán đoán việc làm của chư Phật. Do vậy nói ra giáo pháp như thế là điều rất khó.

Sau khi Đức Phật nói kinh Tiểu Phẩm A Di Đà này xong rồi thì Ngài Xá Lợi Phất và các vị Tỳ Kheo và tất cả thế gian, Trời, người, A Tu La nghe lời Phật dạy, mọi người đều vui mừng tin nhận lời Phật, làm lễ rồi lui ra.

Đức Phật A Di Đà (theo kinh Vô Lượng Thọ, trang 63) cho biết Ngài có tất cả 12 danh hiệu. Đó là:

1.- Vô Lượng Quang
2.- Vô Biên Quang
3.- Vô Ngại Quang
4.- Vô Đối Quang
5.- Diệm Vương Quang
6.- Thanh Tịnh Quang
7.- Hoan Hỷ Quang
8.- Trí Tuệ Quang
9.- Nan Tư Quang
10.- Bất Đoạn Quang
11.- Vô Xưng Quang
12.- Siêu Nhật Nguyệt Quang

Chữ Amitabha có nghĩa là Vô Lượng Quang. Nghĩa là Đức Phật có hào quang vô lượng. Chữ Amitayus có nghĩa là Vô Lượng Thọ. Đức Phật ấy có tuổi thọ không lường được. Chữ hào quang hay ánh sáng ấy đi kèm với tên của Ngài trong 12 danh hiệu trên nhằm nhấn mạnh cho chúng sanh biết rõ về cuộc đời và bổn nguyện của Ngài.

Ánh sáng ấy như thế nào? - Dĩ nhiên không phải là ánh sáng bình thường của mặt trời, mặt trăng ở thế gian này. Ánh sáng ấy vô lượng, có thể chiếu tỏa khắp mười phương vô biên thế giới, chiếu suốt qua tất cả chúng sanh nào có nhân duyên để được Ngài và chư vị Thánh Chúng đón nhận về cõi Cực Lạc của Ngài.

Một cây trồng trong bóng tối, khi lớn lên cây ấy vươn ra phía có ánh sáng mặt trời để tiếp nhận ánh sáng bình thường ấy, tạo nên diệp lục tố, nuôi sống cho thân cây. Đây là một bản năng tự nhiên, cây cỏ tự tìm đến ánh sáng để sinh tồn, vì không có ánh sáng mặt trời cây sẽ chết. Trong khi đó một chúng sanh ở cõi Ta Bà này khởi lên tâm niệm nhớ đến Đức Phật A Di Đà và niệm danh hiệu của Ngài thì tự động với tha lực của Đức Phật A Di Đà sẽ chiếu rọi, bao bọc, cứu vớt chúng sanh ấy về với cõi của Ngài. Sự sanh về đó là do tha lực và bổn nguyện lực của Ngài mà thành tựu. Lực ấy to lớn như chiếc thuyền chở tảng đá lớn qua bên kia sông. Đến được bờ rồi thì tảng đá vẫn là tảng đá, hòn sỏi vẫn là hòn sỏi, chứ tảng đá không thể biến thành hòn sỏi và hòn sỏi không biến thành hạt cát được. Nếu chúng sanh ấy không tự tu niệm. Đức Phật không thể xóa bỏ tội lỗi cho chúng sanh, chỉ dùng lòng từ bi và trí tuệ để hướng dẫn chúng sanh mà thôi. Do vậy tinh thần và tư tưởng của kinh A Di Đà hay của Đức Phật A Di Đà khác với những Tôn giáo hữu thần khác ở điểm căn bản này.

Tư tưởng cứu độ ấy vượt qua khỏi tâm nguyện bình thường của chúng sanh, nhưng không có nghĩa là xóa tội cho chúng sanh. Tư tưởng ấy khiến cho chúng sanh bước lên thêm một nấc thang cao hơn nữa để nhập vào quả vị Thánh, qua sự dìu dắt, chỉ bảo của Đức Phật A Di Đà và các vị Thánh Chúng Quán Thế Âm và Đại Thế Chí tại đó. Nếu một hạt cát (ví dụ cho tội nhẹ) mà bỏ vào sông biển, thì cát ấy vẫn chìm sâu vào đáy sông, đáy biển, nhưng nếu hạt cát ấy hay lớn hơn như hòn đá (ví dụ cho ngũ nghịch trọng tội) mà được chở trên chiếc thuyền lớn thì đá kia sẽ nổi. Đây là tư tưởng cứu độ, là lời thệ nguyện, là bổn nguyện lực của Đức Phật A Di Đà vậy.

Ở vào thời điểm của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi mà khoa học chưa phát triển cách đây hơn 2.500 năm về trước, nhân loại đa phần còn sống đời sống du mục rày đây mai đó, săn thú rừng để xẻ thịt, lấy đá làm lửa v.v… mà nói đến cảnh giới này hay cảnh giới kia, quả là một điều quá xa vời, khó tưởng tượng nổi và ngay cả thời nay, nhiều người trí thức, có thành tựu bằng cấp Đại Học, nhưng vẫn khó tin như thường, mặc dầu khoa học đã chứng minh cho thấy rằng: Ngoài hành tinh chúng ta đang ở, còn vô số hành tinh khác nữa, nơi ấy có sự sống của nhiều chúng sanh. Khoa học ngày nay đã đặt chân lên cung trăng và các vì sao khác, nhưng khoa học vẫn chưa tìm ra được điểm khởi đầu và điểm cuối cùng của vũ trụ này, nhưng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã nói rõ trong những lời dạy rằng: “Vũ trụ và con người có từ vô thủy và kết cuộc bằng vô chung.” Nghĩa là không có cái ban đầu và chẳng có cái cuối cùng. Tất cả đều do nhân duyên sanh và tất cả đều do nhân duyên diệt. Cái này sanh thì cái kia diệt. Cái này tồn tại thì choán chỗ của cái kia và cái kia phải tự động di dời đi chỗ khác. Đây chính là pháp nhân duyên sanh của Đạo Phật vậy.

Có nhiều người cho rằng thấy được mới tin, còn chưa thấy thì không tin, nhưng niềm tin của Tôn giáo là để tin, chứ không phải để thấy được hay chứng minh như toán học. Chúng ta tin rằng có một thế giới Cực Lạc như vậy qua kinh A Di Đà là do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giới thiệu. Chúng ta tin rằng có một cảnh giới như thế. Vì Đức Phật nói toàn là những lời chơn thật, chưa bao giờ các Ngài dối trá với chúng sanh làm gì. Điều ấy liệu có lợi gì trong phương pháp độ sanh của các Ngài chăng?

Có những vật chúng ta không thấy như không khí mà chúng ta vẫn tin rằng: Nếu không có không khí thì chúng ta sẽ chết. Không ai chối cãi điều này. Không khí sờ sờ trước mắt, trong hơi thở, trong từng thớ thịt, làn da của chúng ta nhưng ai có thấy được bao giờ đâu, mà đòi thấy mới tin. Một ví dụ khác để chứng minh cho việc không thấy mà vẫn tin như thường. Đó là sự hiện hữu của chúng ta ngày hôm nay trong cõi đời này. Có ai trong chúng ta thấy được mặt mũi của ông Tằng, ông Tổ thuộc tộc họ của mình đâu, mà ai trong chúng ta cũng phải tin chắc một điều là: Nếu không có họ thì làm sao có chúng ta ngày hôm nay được!

Chỉ hai ví dụ điển hình ấy để chứng minh cho những người muốn thấy rồi mới tin. Đa phần những người tin thì không cần thấy. Ví dụ như chúng ta tin rằng: Ăn cơm lâu ngày thì cơm sẽ nuôi thân thể này lớn. Có khi nào ngồi vào bàn ăn chúng ta hỏi rằng: Cơm là gì chăng? Thế mà chúng ta đã lớn lên, rồi già đi và chết chóc. Nếu không có cơm thì cái gì nuôi sống thân này? Những việc chứng minh được, tiếp xúc được, sờ mó được, mà chúng ta vẫn không tin thì làm sao dễ tin được ở một cảnh giới xa xôi cách đây hằng trăm, hằng ngàn thế giới? Chỉ có trí tuệ của chư Phật mới cảm nhận được việc này rồi đem giới thiệu cho chúng ta. Còn với trí tuệ giới hạn bởi những con số và sự tính toán của loài người thì làm sao có thể hiểu được.

Đến thế kỷ 20, có nhà Bác học Albert Einstein người Đức gốc Do Thái sinh ra tại Neu Ulm thuộc miền Nam nước Đức. Ông ấy sau Đệ nhị thế chiến (1945) đã sang Hoa Kỳ tỵ nạn và được lãnh giải thưởng Nobel thế giới về Vật Lý và Toán Học. Ông là cha đẻ của thuyết tương đối và mới đây Liên Hiệp Quốc bình chọn ông là người của thế kỷ 20, đại diện cho 6 tỷ người khác đang hiện diện trên quả địa cầu này. Ông đã phát biểu nhiều điều, nhưng có một điều rất quan trọng đối với Phật Tử chúng ta là:

“Phật Giáo không cần phải chứng minh những lời dạy của Đức Phật hợp với khoa học. Vì tất cả những lời dạy của Đức Phật đã vượt ra khỏi và lên trên cả khoa học nữa.”

Đây là một tư tưởng của siêu nhân được chứng minh qua vai trò, chỗ đứng của ông trong xã hội loài người. Vậy thì tư tưởng của kinh A Di Đà do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói ra cách đây hơn 2.500 năm trước tại nước Xá Vệ cho Ngài Xá Lợi Phất và chúng hội nghe, không có điều gì để cho chúng ta nghi vấn nữa, mà nên tin những lời dạy của Đức Phật là đúng đắn và có thật.

Từ trước đến nay chúng ta đã thấy về nội dung của kinh cũng như mục đích của Đức Phật đã giới thiệu, chúng ta vững tin vào pháp môn Tịnh Độ để được vãng sanh khi lâm chung qua lời giới thiệu của Đức Bổn Sư. Chúng ta hoan hỷ đón nhận pháp môn này là một pháp môn thù thắng, bất khả tư nghì. Chính Đức Phật Thích Ca cũng đã xác nhận điều này vào cuối bản kinh văn A Di Đà.

Ai tin tưởng và nguyện sanh về thì người ấy sẽ được vãng sanh, lợi lạc cho đời sau và mãi mãi ở những kiếp về sau nữa. Ai không tin mà còn nghi ngờ thì đó là quyền của người ấy, chúng ta không có quyền ép buộc và điều này cho thấy rằng: Những người ấy thiếu nhơn duyên với Tịnh Độ mà thôi. Ngay cả đối với Đức Phật Thích Ca và Đức Phật A Di Đà cũng chỉ có thể độ cho những người hữu duyên, còn những người thiếu nhân duyên với chư Phật và nhất là nhân duyên Tịnh Độ thì các Ngài cũng chẳng có cách gì hơn. Hy vọng rằng chúng ta không phải là những người thiếu phước như vậy.

B. Tư Tưởng Kinh Vô Lượng Thọ

Kinh Vô Lượng Thọ là một trong ba kinh quan trọng của những người tu theo pháp môn Tịnh Độ do chính Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói ra. Kinh này trong hiện tại vẫn còn nguyên bản tiếng Phạn và Hán văn, nhờ đó các vị dịch kinh và các vị luận sư có cơ hội tìm hiểu, đối chiếu để phiên dịch và chú giải, diễn giảng v.v…

Kinh này gồm 2 quyển Thượng và Hạ. Quyển Thượng nội dung nói về: Vào một thuở xa xưa có một vị Vua sau khi nghe Đức Phật Thế Tự Tại Vương thuyết pháp, thâm nhập đầy sự vui đẹp, liền bỏ ngôi, xuất gia làm Sa Môn hiệu là Pháp Tạng, từ đó Ngài phát tâm Vô Thượng Bồ Đề và phát ra 48 lời Đại Nguyện (Kinh Vô Lượng Thọ trang 42 đến trang 54). Từ đó Ngài Pháp Tạng Tỳ Kheo thỉnh Đức Như Lai mở bày và diễn giải về hạnh tu Tịnh Độ của các Đức Phật, theo đó mà tu hành để hoàn thành sở nguyện (kinh Vô Lượng Thọ trang 35).

Quyển Hạ, Đức Phật đã dạy cho Ngài A Nan và Ngài Di Lặc cũng như những vị Bồ Tát khác về việc vãng sanh ở cửu phẩm liên hoa nơi các bậc thượng, trung, hạ và đặc biệt nói về đời ác năm trược, chúng sanh lành ít dữ nhiều. Nếu ai có tâm hướng đến danh hiệu của Đức Phật A Di Đà và thực hiện các lời đại nguyện, nhất là các lời nguyện thứ 18, 19, 20 thì sẽ được vãng sanh về thế giới Cực Lạc sau khi lâm chung.

Kinh này cũng thuộc loại kinh xếp hàng thứ 5 trong 12 thể loại kinh. Đó là “vô vấn tự thuyết”. Một hôm nhìn thấy Đức Phật Thích Ca dung mạo khác lạ, vô cùng hoan hỷ, Ngài A Nan mới hỏi Phật: “Hôm nay tại sao dung mạo của Đức Phật lại khác hơn ngày thường?” Phật dạy rằng: “Ngài cảm nhớ Đức Phật A Di Đà, muốn nhắc đến nhân địa của vị Phật ấy, để chỉ dạy cho chúng sanh pháp môn Tịnh Độ.”

Vì Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni nhớ nghĩ đến Đức Phật A Di Đà, nên đã nói ra kinh này cho Ngài A Nan và Ngài Di Lặc nghe về quá khứ cũng như những hạnh nguyện của vị Phật này, nhằm giúp cho chúng sanh thấy rõ 48 lời nguyện cũng như những nhân lành và quả xấu và làm thế nào để được vãng sanh về đó, sau khi lâm chung.

“Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Phật ở tại núi Kỳ Xà Quật thuộc thành Vương Xá, cùng với số đông các vị Đại Tỳ Kheo 12.000 người, toàn là những bậc A La Hán đủ các thần thông…”.

Tôi đây chính là Ngài A Nan, làm Thị giả theo hầu Đức Phật vào những năm Đức Phật từ 55 đến 80 tuổi. Vì khi Ngài A Nan sinh ra thì Đức Phật đã thành đạo (35 tuổi theo Tiểu Thừa và 30 tuổi theo Đại Thừa). Đến năm 20 tuổi Ngài A Nan mới xuất gia. Do vậy Ngài A Nan chỉ làm Thị giả cho Đức Phật trong 25 năm sau cùng. Được một điều là trước khi làm Thị giả, Ngài A Nan đã đưa ra một số yêu cầu nơi Đức Phật, nếu được thì Ngài mới theo hầu. Đó là:

- Ngài A Nan không dùng thức ăn thừa cũng như y, áo cũ của Đức Phật để lại. Vì lẽ tránh sự ganh tị trong Tăng Đoàn cũng như không muốn bị tai tiếng về sau là Đức Phật chỉ ưu đãi Ngài A Nan chứ không ưu đãi những vị Tỳ Kheo già bệnh khác.

- Kế tiếp là Ngài A Nan yêu cầu Đức Thế Tôn tuyên thuyết lại tất cả những kinh điển Đức Phật đã nói mà Ngài A Nan lúc chưa xuất gia chưa được nghe, hoặc giả Đức Phật nói ở cung rồng hay Thiên cung, Ngài A Nan chưa chứng A La Hán, không có thần thông, nên không thể theo hầu Phật ở những nơi ấy. Kính mong Đức Thế Tôn tuyên bày lại tất cả diệu nghĩa của những kinh điển này.

- Bên Hương Thất trên núi Linh Thứu là những động đá, nơi nhập Thiền của Ngài Xá Lợi Phất và Ngài A Nan. Bất cứ, vua, quan, thứ dân, đại thần… nếu ai muốn gặp Đức Phật phải gặp Ngài trước, nếu Ngài thấy chưa đúng thời thì không cho vào.

Mới nghe những điều này thấy hơi lạ, nhưng suy nghĩ cho cùng, tất cả đều đúng đắn với tư cách của một Thị giả, cho nên Đức Phật đã chọn Ngài A Nan. Khi Đức Phật cao tuổi, nhiều vị Đệ Tử lớn của Đức Phật như Ngài Ca Diếp cũng muốn hầu cận bên Ngài, nhưng ý Đức Phật muốn chọn Ngài A Nan, nên sau khi Ngài Mục Kiền Liên dùng thần thông thấy được ý muốn của Phật, chúng hội đã thuận theo ý Phật.

Như vậy tất cả kinh điển đều bắt đầu bằng câu: “Tôi nghe như vầy.” Đó là lời của Ngài A Nan. Đức Phật ở tại núi Kỳ Xá Quật thuộc thành Vương Xá. Nhiều học giả chú thích núi Kỳ Xà Quật là núi Linh Thứu: Nhưng trên thực tế 2 núi này nằm riêng lẻ, cách một con đường gọi là con đường Tần Bà Sa La. Hai núi này bao bọc thành Vương Xá của xứ Ma Kiệt Đà. Lần đầu tiên khi Thái Tử trên đường tìm đạo cũng đã đến nơi này, gặp vua Tần Bà Sa La. Sau khi nhà vua biết Thái Tử là Đông Cung của xứ Ca Tỳ La Vệ, nên muốn nhường ngôi vua và nhà vua thì làm thần dân của nước ấy, nhưng Thái Tử đã thưa rằng: “Chỉ có con đường giải thoát mới là mục đích, chứ ngai vàng không phải là điều Ngài mong ước”. Cuối cùng vua Tần Bà Sa La đã để cho Thái Tử ra đi và bảo rằng: “Nếu sau khi Ngài thành đạo, hãy về lại đây trước để độ cho Trẫm”. Giữ lời hứa ấy, sau khi thành đạo dưới cội Bồ Đề nơi thành Già Da, Đức Phật đã đi bộ về xứ Ma Kiệt Đà, nơi thành Vương Xá này để thăm vua Tần Bà Sa La. Do vậy núi Linh Thứu và núi Kỳ Xà Quật là hai nơi quan trọng đối với Đức Phật cũng như vua Tần Bà Sa La vào lúc ban đầu cũng như trước khi Đức Phật thị tịch Niết Bàn.

Núi Kỳ Xà Quật có hình thể như con rắn, nhiều cây cối, nằm thoai thoải phía bên trái con đường Tần Bà Sa La. Từ trên núi này Đề Bà Đạt Đa đã lăn đá hại Phật, mãi cho đến ngày nay trên đường đi này chúng ta vẫn còn thấy được những dấu tích ấy. Rồi một nơi khác đánh dấu chỗ vua Tần Bà Sa La xuống ngựa, đuổi đoàn tùy tùng đi trở về và một mình đi qua một chiếc cầu nhỏ để lên núi Linh Thứu đảnh lễ Đức Thế Tôn. Núi Linh Thứu ở bên dưới có hai động đá của Ngài Xá Lợi Phất và Ngài A Nan. Bên trên là khu Tự viện và trên chót đỉnh là hương thất của Đức Phật. Chính từ hương thất này, Đức Phật đã giảng nhiều bộ kinh quan trọng như Pháp Hoa, Niết Bàn, Bát Nhã v.v…

Riêng kinh Vô Lượng Thọ, Đức Phật nói tại núi Kỳ Xà Quật, ngày nay có lẽ nằm nơi bảo tháp hòa bình của Phật Giáo Nhật Bản. Vì lẽ Đức Phật bao giờ cũng chọn vị trí thoáng mát, cao đẹp để thiền định và dễ bề quán sát nhân sinh cũng như tiếp xúc với các vị Trời cùng các vị Bồ Tát trong khoảng hư không rộng rãi ấy.

Tuy Đức Phật và Tăng chúng ở những nơi hoang vắng như thế để dễ bề thiền định, nhưng đa phần không xa những nơi dân chúng cư ngụ. Vì lẽ mỗi buổi sáng Đức Phật và chư Tăng vẫn hay vào thành khất thực. Nếu không có dân cư ở đó thì cũng là việc khó khăn cho chuyện ăn uống, nên thành Vương Xá nằm cách dưới chân núi cũng không xa lắm, độ chừng 2 đến 3 cây số.

Tư tưởng của 48 lời nguyện là tư tưởng vượt qua khỏi thời gian vô cùng và không gian vô tận. Vì theo nội dung của 48 lời nguyện ấy khi nào chúng sanh không còn khổ sanh tử nữa thì Đức Phật A Di Đà và chư vị Thánh chúng ở cõi Tây phương Cực Lạc mới hoàn nguyện. Do vậy lời thệ nguyện thì vô cùng mà năng lực tự tại của chúng sanh quá giới hạn, nếu không nương vào tha lực của Đức Phật A Di Đà thì khó bề mà vãng sanh được.

Khi còn là một Pháp Tạng Tỳ Kheo, Ngài đã đứng trước Đức Phật Thế Tự Tại Vương Như Lai phát ra 48 lời nguyện như vầy:

Nguyện thứ nhất - Giả sử khi thành Phật, trong cõi nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, tôi không giữ ngôi Chánh đẳng Chánh giác.

Đây là 3 đường khổ trong luân hồi sanh tử. Những chúng sanh này phải bị trầm luân, vì không giữ gìn giới luật và không tin vào tội phước báo ứng, nhưng ở cõi Cực Lạc sẽ không hoàn toàn có những đường ác này.

Nguyện thứ hai - Giả sử khi thành Phật, các hàng trời người trong cõi nước tôi, sau khi mạng chung mà còn sa đọa vào đường ác, tôi không giữ ngôi Chánh đẳng Chánh giác.

Nghĩa là đã sanh về Cực Lạc rồi thì không còn trở lại luân hồi trong 6 cõi nữa. Ở đấy tiếp tục tu hành để đạt được vô thượng bồ đề.

Nguyện thứ ba - Giả sử khi thành Phật, nếu hàng trời người trong cõi nước tôi, thân thể đều chẳng thuần là sắc vàng, tôi không giữ ngôi Chánh đẳng Chánh giác.

Cõi Cực Lạc cũng còn gọi là Tịnh Độ và cõi ấy cũng có thể gọi là Thường tịch quang Tịnh Độ. Vì các vị Bồ Tát ở đó thân thể giống như vàng ròng, sáng chói, chiếu đi trong 10 phương vô biên cõi nước.

Nguyện thứ tư - Giả sử khi thành Phật, nếu hàng trời người trong cõi nước tôi hình sắc chẳng đồng, còn có kẻ tốt và người xấu xí, tôi không giữ ngôi Chánh đẳng Chánh giác.

Ở cõi Cực Lạc, Phật và chư vị Bồ Tát đều có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp. Ai sanh về Tây Phương Tịnh Độ rồi thì sẽ có hình thể đoan chánh, trang nghiêm không còn có kẻ thân hình xấu xa ở đó nữa.

Nguyện thứ năm - Giả sử khi thành Phật, nếu hàng trời người trong cõi nước tôi chẳng biết kiếp trước, ít nữa là biết những việc xảy ra trong trăm ngàn ức na do tha kiếp, tôi không giữ ngôi Chánh đẳng Chánh giác.

Nhớ lại kiếp xưa là do thần lực của chư Phật gia trì để biết mình trong quá khứ làm những gì và đã ở chốn nào sanh về đây. Biết một kiếp đã là khó, mà ở cõi Tây Phương Cực Lạc còn biết được trăm ngàn ức na do tha kiếp nữa. Như vậy nhờ tha lực của Đức Phật A Di Đà mà chúng sanh ở tại Cực Lạc có khả năng nhớ biết dài lâu như vậy.

Nguyện thứ sáu - Giả sử khi thành Phật, nếu hàng trời người trong cõi nước tôi chẳng được thiên nhãn, ít nữa là thấy hàng trăm ngàn ức vô số thế giới của các Đức Phật, tôi không giữ ngôi Chánh đẳng Chánh giác.

Thiên nhãn thông là một trong sáu loại thần thông diệu dụng của chư Phật. Ở cõi Cực Lạc không phải chỉ thấy được một cõi, mà còn có thể thấy được vô lượng thế giới khác nữa. Những thế giới ấy đối với các bậc giác ngộ giống như nằm trong lòng bàn tay của mình vậy.

Nguyện thứ bảy - Giả sử khi thành Phật, nếu hàng trời người trong cõi nước tôi chẳng được thiên nhĩ, ít nữa là nghe và hay thọ trì những lời nói pháp của trăm ngàn ức vô số Đức Phật, tôi sẽ không giữ ngôi Chánh đẳng Chánh giác.

Chúng sanh sanh về đó rồi sẽ tự tại vô ngại của lục căn. Lục căn khi còn phàm phu chỉ có thể nghe, thấy giới hạn, nhưng nếu đã sanh về cõi Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà rồi thì khả năng nghe thấy nhiều vô lượng vô số điều lành từ chư vị Phật ở các cõi khác nữa.

Nguyện thứ tám - Giả sử khi thành Phật, nếu hàng trời người trong cõi nước tôi chẳng được tha tâm trí, ít nữa là biết tâm niệm chúng sanh trong trăm ngàn ức vô số thế giới của các Đức Phật, tôi sẽ không giữ ngôi Chánh đẳng Chánh giác.

Tha tâm trí hay tha tâm thông chỉ có nơi chư vị Phật và Bồ Tát. Còn ở thế giới Tây Phương Cực Lạc, nếu hàng trời người đã được sanh về đó cũng được tha tâm trí để hiểu được tâm niệm của trăm ngàn ức vô số thế giới của các Đức Phật. Tất cả đều do tha lực của Đức Phật A Di Đà mà các chúng sanh tại đó được thành tựu. Nếu không nhờ năng lực bổn nguyện vốn phát ra từ lời nguyện rộng lớn ấy thì các chúng sanh kia ở cõi Cực Lạc cũng không thể thành tựu được những khả năng như vậy.

Nguyện thứ chín - Giả sử khi thành Phật, nếu hàng trời người trong cõi nước tôi chẳng được sức thần túc, trong khoảng một niệm, ít nữa chẳng thể lướt qua hàng trăm ngàn ức na do tha thế giới của các Đức Phật, tôi không giữ ngôi Chánh đẳng Chánh giác.

Thần túc thông nghĩa là đi như bay. Bình thường con người ở cõi này không có được. Ví dụ như Vô Não gặp Phật. Đức Phật chỉ đi, nhưng Vô Não chạy theo không kịp. Hiện tượng này chỉ có được nơi những vị chứng đạo. Chỉ trong một niệm thôi, mà các chúng sanh nơi cõi Cực Lạc có thể lướt qua hằng trăm ức na do tha thế giới như thế, thật là bất khả tư nghì, bất khả thuyết.

Nguyện thứ mười - Giả sử khi thành Phật, nếu hàng trời người trong cõi nước tôi còn có ý tưởng tham chấp bản thân, tôi không giữ ngôi Chánh đẳng Chánh giác.

Tự kỷ cá nhân, tự kỷ chủ nghĩa chỉ có nơi thế giới tham lam, vị kỷ ở cõi Ta Bà này. Nếu đã được sanh về thế giới Cực Lạc rồi thì ai cũng vì tha nhân, vì Bồ Tát hạnh, chứ không thể vì mình mà phải quên mình, nơi cõi ấy quyết không tồn tại những chúng sanh như thế.

Nguyện thứ mười một - Giả sử khi thành Phật các hàng trời người trong cõi nước tôi, nếu chẳng trụ vào hàng chánh định tụ, mãi cho đến lúc vào quả Niết Bàn, tôi không giữ ngôi Chánh đẳng Chánh giác.

Chánh Định Tụ nghĩa là những bậc Bồ Tát đã dứt hết “Kiến Hoặc” được quả Ly Hệ, rốt ráo chẳng lui, định trong chính tính Niết Bàn trạch diệt. Cho nên gọi là Chánh Định. Cũng có những vị Bồ Tát từ ngôi vị Thập Tín trở lên, cũng gọi là Chánh Định. Đây dùng để chỉ cho những người chắc chắn được chứng ngộ trong số chúng sanh tại cõi Cực Lạc ấy. Nghĩa là đa phần chúng sanh ở cõi này đều là những vị Bồ Tát. Những vị này đều do tha lực của Đức Phật A Di Đà tạo nên.

Nguyện thứ mười hai - Giả sử khi thành Phật, quang minh thân tôi nếu có hạn lượng, ít nữa chẳng soi hàng trăm ngàn ức vô số cõi Phật, tôi không giữ ngôi Chánh đẳng Chánh giác.

Vô lượng quang có nghĩa là ánh sáng vô lượng, không bị ngăn cản bởi một vật gì. Ánh sáng này sẽ chiếu khắp hàng trăm ngàn ức vô số cõi Phật để tiếp dẫn về Tây Phương Cực Lạc. Do vậy Ngài mới có danh hiệu là A Di Đà. Nghĩa là một vị Phật có ánh sáng quang minh vô lượng.

Nguyện thứ mười ba - Giả sử khi thành Phật, thọ mạng của tôi nếu có hạn lượng, ít nữa chẳng đến hàng trăm ngàn ức na do tha kiếp, tôi không giữ ngôi Chánh đẳng Chánh giác.

Chữ Amitayus có nghĩa là Vô Lượng Thọ. Đức Phật ấy có tuổi thọ không lường, hiệu Ngài là A Di Đà Phật, ít nhất sự sống lâu ấy cũng kéo dài đến hàng trăm ngàn ức na do tha kiếp số. Sống ở Ta Bà này 100 năm đã là lâu so với các cõi trời ở Dục Giới như Dạ Ma, Đâu Suất, Đao Lợi, Tứ Thiên Vương v.v… còn so với Đức Phật A Di Đà hay cõi Tây Phương Cực Lạc thì không thể dùng con số tính đếm mà nói được.

Nguyện thứ mười bốn - Giả sử khi thành Phật, số chúng Thanh Văn trong cõi nước tôi không một người nào có thể tính lường, đến như chúng sanh trong toàn một cõi đại thiên thế giới, giả sử đều là Thanh Văn, Duyên Giác, cùng nhau tính đếm trong trăm ngàn kiếp, mà tính biết được số Thanh Văn ấy, tôi không giữ ngôi Chánh đẳng Chánh giác.

Như vậy cư dân ở cõi Cực Lạc này toàn là những bậc Thánh, các Ngài đã chứng quả Tiểu Thừa hoặc Đại Thừa. So ra như vậy với 7 tỷ người trên quả địa cầu này của năm 2011 chẳng là bao. Chúng sanh ở cõi Ta Bà còn thiếu thức ăn, vì quá nhiều nhân khẩu, nhưng chúng Thanh Văn, Duyên Giác ở cõi Cực Lạc nếu muốn ăn, chỉ cần tưởng nhớ đến món ăn là thức ăn hiện ra trước mắt liền. Nguyên thủy chúng sanh ở cõi Ta Bà này cũng không cần làm lụng để có cái ăn cái mặc, nhưng vì chúng sanh tại đây hưởng dục nhiều quá, nên những phép mầu ấy tiêu hủy dần mòn, nên ngày nay chúng sanh tại đây chịu khổ là vì lý do không biết đủ ấy.

Nguyện thứ mười lăm - Giả sử khi thành Phật, các hàng trời người trong cõi nước tôi tuổi thọ lâu dài, không ai có thể tính lường rõ biết, trừ những người nào có bản nguyện riêng, tự do tu hành rút ngắn thọ mạng. Nếu chẳng như thế, tôi không giữ ngôi Chánh đẳng Chánh giác.

Ngôi Chánh đẳng Chánh giác là ngôi vị Phật, Thế Tôn. Nếu không là vậy thì Ngài sẽ không làm Phật. Làm Phật ở cõi có tuổi thọ dài lâu, không bị sanh tử và khổ đau chi phối và tuổi thọ ấy không thể đếm tính được, chỉ trừ những người nào có những lời nguyện căn bản thì có thể rút ngắn tuổi thọ của mình lại. Đoạn này có thể giải thích về “hoàn tướng” của những chúng sanh này. Hoàn tướng có nghĩa là sau khi đã sanh về thế giới Cực Lạc rồi, không muốn trụ ở đó dài lâu, mà muốn quay về ở Ta Bà để sanh thì ở đây có thể rút ngắn tuổi thọ lại để thực hiện hoài bão của mình khi phát nguyện sanh về đây.

Nguyện thứ mười sáu - Giả sử khi thành Phật, các hàng trời người trong cõi nước tôi, nếu còn nghe đến danh từ bất thiện, tôi không giữ ngôi Chánh đẳng Chánh giác.

Ở cõi ấy tiếng khổ còn không nghe thấy, huống hồ nói đến những việc bất thiện. Những việc ấy chỉ xảy ra nơi cõi Ta Bà và các cõi Dục khác, còn nơi đây, ở cõi Cực Lạc này hoàn toàn không có danh từ chẳng lành ấy.

Nguyện thứ mười bảy - Giả sử khi thành Phật, Vô Lượng Đức Phật mười phương thế giới, chẳng cùng tấm tắc khen ngợi, truyền rộng danh hiệu của tôi, tôi không giữ ngôi Chánh đẳng Chánh giác.

Tán thán, ngợi khen là một công đức rất lớn đối với chúng sanh khi đứng trước ba ngôi báu. Ở đây các Đức Phật ở trong mười phương thế giới khác khi nghe, thấy được những lời thệ nguyện và danh hiệu của Đức Phật A Di Đà mà không tán thưởng thì quả là điều ít có. Vì lẽ ít có vị Bồ Tát nào từ khi sơ phát tâm cho đến khi thành Phật mà có được những hạnh nguyện cao cả như Đức Phật A Di Đà.

Nguyện thứ mười tám - Giả sử khi thành Phật, chúng sanh mười phương hết lòng tin ưa, mong muốn sanh về cõi nước tôi, xưng danh hiệu tôi cho đến mười niệm mà chẳng được sanh, tôi không giữ ngôi Chánh đẳng Chánh giác, chỉ trừ những kẻ tạo tội ngũ nghịch, chê bai chánh pháp.

Lời nguyện thứ 18 này rất quan trọng đối với tất cả những chúng sanh trong thế giới Ta Bà này. Ngài Thiện Đạo người Trung Hoa, Ngài Thân Loan người Nhật Bản xem đây là mấu chốt, là rường cột của việc sanh về Cực Lạc do bổn nguyện lực của Đức Phật A Di Đà. Nếu niệm Phật do tự lực mà thành thì tự lực ấy không đủ khả năng để làm cho chúng sanh sanh về đó. Điều quan trọng là tin ưa để sanh về, nếu không tin sâu, nguyện thiết thì các vị Thánh sẽ không đến nghinh tiếp khi lâm chung và niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà từ một cho đến mười niệm nhất tâm, mà chẳng được sanh thì Ngài sẽ không thành Phật.

Niệm niệm sanh rồi diệt, diệt rồi sanh. Như vậy niệm vào có thể chánh niệm và liên tục được. Nếu không nhờ vào thần lực và bổn nguyện của Đức Phật A Di Đà thì làm sao chúng sanh trong cõi Ta Bà này có thể làm chủ mình được trong những niệm ấy. Do vậy sự được sanh kia là do Đức Phật A Di Đà. Nơi lời nguyện thứ 18 này Đức Phật A Di Đà ngoại trừ những kẻ phạm tội ngũ nghịch và những kẻ nhất xiển đề thì không được sanh, nhưng trong kinh Quán Vô Lượng Thọ phần quán thứ 16 và trong kinh Đại Bát Niết Bàn quyển 2, phẩm Phạm Hạnh thì khác. Những phẩm này Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cho rằng: Những người phạm tội như thế vẫn được sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc với những điều kiện biết xấu hổ những tội lỗi đã gây ra trong nhiều đời, cũng như cần phải có thiện hữu trí thức giúp đỡ nhắc nhở niệm Phật lúc lâm chung. Tất cả các pháp đều bất định, nên nhất xiển đề cũng bất định. Ngày hôm qua nhất xiển đề không tin Phật Pháp, nhưng rồi ngày mai, ngày mốt nhất xiển đề phát tâm tin hiểu. Những kẻ như vậy cũng sẽ có khả năng sanh về chốn Lạc Bang.

Nguyện thứ mười chín - Giả sử khi thành Phật, chúng sanh mười phương nhất tâm Bồ Đề, tu công đức, dốc lòng phát nguyện muốn sanh nước tôi, đến lúc lâm chung, nếu tôi chẳng cùng đại chúng vây quanh hiện trước người đó, tôi không giữ ngôi Chánh đẳng Chánh giác.

Nếu một chúng sanh ở cõi Ta Bà này khi lâm chung mà Đức Phật A Di Đà và các vị Thánh chúng đến tiếp dẫn, thì phải nói rằng người ấy có cái nhân vị Đại Thừa, tin tưởng tuyệt đối 12 bộ kinh, hành trì giới luật nghiêm minh cũng như tu tạo phước đức, phát bồ đề tâm dõng mãnh thì mới được gặp Phật và nghe Phật thuyết pháp. Đức Phật A Di Đà đã phát nguyện như vậy là một chuyện thật, nhưng chúng sanh có được tiếp dẫn về phẩm vị cao tột ấy hay không là do sự phát nguyện thọ trì kinh điển và giới luật của Đại Thừa. Đây là cái nhân chính để được cái quả vị như vậy.

Nguyện thứ hai mươi - Giả sử khi thành Phật, chúng sanh mười phương nghe danh hiệu tôi, tưởng cõi nước tôi, trồng các cội đức, dốc lòng hồi hướng muốn sanh nước tôi, nếu như kết quả không được toại nguyện, tôi không giữ ngôi Chánh đẳng Chánh giác.

Khi nghe danh hiệu của Ngài, nhớ tưởng đến cảnh giới Tây Phương Cực Lạc và trồng các cội phước đức rồi hồi hướng tất cả phước đức ấy để được sanh về cõi ấy. Theo kinh Quán Vô Lượng Thọ (trang 160) muốn được vãng sanh phải tu tạo những phước đức như sau:

Một là hiếu dưỡng với cha mẹ, vâng lời Thầy dạy, từ tâm chẳng giết hại, tu 10 thiện nghiệp.

Hai là thọ giữ ba pháp quy y Tam Bảo, đủ các giới cấm, không phạm oai nghi.

Ba là phát tâm Bồ Đề, tin sâu nhân quả, đọc tụng kinh điển Phương Đẳng Đại Thừa, khuyên người khác cùng tu học.

Nếu phân tách thật kỹ thì lời nguyện thứ 20 này cũng gần giống như lời nguyện thứ 18. Vì vậy cũng đã có những vị Tổ Đức như Ngài Thân Loan của Nhật Bản ở thế kỷ 13, đầu tiên Ngài cũng theo lời nguyện thứ 20 này để phát nguyện vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, nhưng sau đó thì Ngài phát nguyện nương theo lời nguyện thứ 18 nương nhờ bổn nguyện lực của Đức Phật A Di Đà để được vãng sanh.

Nguyện thứ hai mươi mốt - Giả sử khi thành Phật, các hàng trời người trong cõi nước tôi, nếu tất cả đều chẳng có đầy đủ 32 tướng của bậc đại nhân, tôi không giữ ngôi Chánh đẳng Chánh giác.

Sở dĩ chư Phật, chư vị Bồ Tát có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp vì lẽ các Ngài giữ giới thanh tịnh và tu tạo những phước đức viên mãn. Các chúng sanh ở cõi Cực Lạc cũng như tu tạo các phước đức và giữ giới thanh tịnh, nên mới được như vậy.

Nguyện thứ hai mươi hai - Giả sử khi thành Phật, số đông Bồ Tát ở cõi Phật khác sanh đến nước tôi, rốt ráo đến bậc Nhứt Sanh Bổ Xứ, trừ những vị nào có bản nguyện riêng ứng hóa tự tại, vì công đức, độ thoát tất cả, dạo qua cõi nước của các Đức Phật, tu Bồ Tát hạnh, cúng dường chư Phật trong khắp mười phương, khai hóa hằng sa vô lượng chúng sanh, làm cho tất cả đứng vững nơi đạo vô thượng chánh giác, vượt lên công hạnh các bậc thông thường, hiện tiền tu tập công đức rộng lớn của hạnh Phổ Hiền. Nếu chẳng như thế, tôi không giữ ngôi Chánh đẳng Chánh giác.

Bồ Tát Nhứt Sanh Bổ Xứ là Bồ Tát chỉ còn một đời nữa sẽ thị hiện làm Phật ở một cõi nào đó. Ví dụ như Bồ Tát Di Lặc hiện bây giờ đang ở trong Nội Cung Đâu Suất chờ đó cho đến khi nào giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni không còn tồn tại nơi cõi Ta Bà này nữa thì Ngài sẽ hạ sanh vào đây. Hình thức này cũng còn gọi là hình thức hoàn tướng của các vị Bồ Tát. Vì các vị ấy không muốn trụ yên nơi thế giới Cực Lạc mà theo lời nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền trở lại Ta Bà để hóa độ chúng sanh. Đây là một đại nguyện.

Nguyện thứ hai mươi ba - Giả sử khi thành Phật, Bồ Tát trong nước nương thần lực Phật, nếu muốn cúng dường các Đức Phật khác, trong khoảng bữa ăn mà chẳng thể đến khắp vô lượng ức na do tha cõi của các Đức Phật, tôi không giữ ngôi Chánh đẳng Chánh giác.

Các vị Bồ Tát được sanh về cõi Cực Lạc còn phải nương vào thần lực của chư Phật. Vì thần lực của chư Phật là tha lực tối cao, để giúp cho các vị Bồ Tát chỉ trong khoảng bữa ăn có thể bay đến mười phương vô biên quốc độ để đảnh lễ cúng dường các vị Phật ở đó. Nếu chỉ riêng năng lực của các vị Bồ Tát thì không thể thành tựu việc cúng dường này.

Nguyện thứ hai mươi bốn - Giả sử khi thành Phật, Bồ Tát nước tôi ở trước chư Phật, biểu hiện cội đức của mình, muốn có các vật dùng để cúng dường mà không thể được đúng theo ý muốn, tôi không giữ ngôi Chánh đẳng Chánh giác.

Đức Phật A Di Đà sẽ dùng tha lực của Ngài hóa hiện mọi vật cần dùng để cho các vị Bồ Tát đi đến các vị Phật ở những cõi khác cúng dường.

Nguyện thứ hai mươi lăm - Giả sử khi thành Phật, các hàng Bồ Tát trong cõi nước tôi, nếu không thể diễn nói về Nhất Thiết Trí, tôi không giữ ngôi Chánh đẳng Chánh giác.

Nhất Thiết Trí theo kinh Nhân Vương Hộ Quốc, Ba La Mật Đa quyển hạ (Đại 8, 843 thượng) nói rằng: “Đầy khắp cõi vô lậu, thân giải thoát thanh tịnh, vắng lặng chẳng nghĩ bàn, gọi là Nhất Thiết Trí”. Bồ Tát Nhất Thiết Trí là những vị Bồ Tát giải thoát, thanh tịnh, vắng lặng không còn suy nghĩ gì nữa. Ở cõi Cực Lạc đầy dẫy những vị như vậy.

Nguyện thứ hai mươi sáu - Giả sử khi thành Phật, các hàng Bồ Tát trong cõi nước tôi, nếu chẳng được thân Kim Cang Na La Diên, tôi không giữ ngôi Chánh đẳng Chánh giác.

Thân Kim Cang Na La Diên là thân thù thắng của Phật, Bồ Tát. Vì thân của Phật, Bồ Tát cứng chắc, giống như kim cương, không một vật gì khác làm hư hoại được. Còn sức mạnh của các Ngài cũng giống như sức mạnh của Trời Na La Diên, cho nên gọi thân của các Ngài là thân Kim Cương Na La Diên.

Nguyện thứ hai mươi bảy - Giả sử khi thành Phật, từ hàng trời người trong khắp cõi nước, cho đến vạn vật thảy đều nghiêm sạch, hình dạng màu sắc sáng rỡ lạ lùng, sự khéo rất mực, không ai có thể tính lường biết hết. Nếu chúng sanh nào dầu có thiên nhãn mà có thể rõ biết danh số, tôi không giữ ngôi Chánh đẳng Chánh giác.

Cõi Cực Lạc còn gọi là cõi Tịnh Độ trong sạch từ trời người cho đến muôn vật. Đây là do tha lực của Đức A Di Đà biến hiện. Hình dáng và màu sắc của những chúng sanh ở đó sáng rực như hào quang, đẹp đẽ lạ thường. Những vị Bồ Tát và những chúng sanh ấy nhiều vô số, không thể kể hết được.

Nguyện thứ hai mươi tám - Giả sử khi thành Phật, Bồ Tát nước tôi, người nào mặc dầu công đức ít nhất, mà không thể thấy biết về cây Bồ Đề Đạo Tràng với vô lượng ánh sáng, vô lượng màu sắc, cao bốn trăm muôn dặm. Nếu chẳng được thế, tôi không giữ ngôi Chánh đẳng Chánh giác.

Mỗi một Đức Phật khi còn thực hành hạnh Bồ Tát đều ngồi thiền định dưới gốc cây Bồ Đề. Nơi ấy sau khi Đức Phật thành đạo rồi, gọi là Đạo Tràng. Từ cây Bồ Đề ấy tỏa sáng vô lượng màu sắc và vươn cao lên không trung hằng bốn trăm muôn dặm. Đây chính là hình ảnh biểu thị của sự giác ngộ, mà dẫu cho một vị Bồ Tát ít phước đức nhất cũng có thể thấy được nơi cõi Tây Phương Cực Lạc.

Nguyện thứ hai mươi chín - Giả sử khi thành Phật, Bồ Tát nước tôi, hoặc thọ đọc kinh, phúng tụng diễn nói, mà chẳng có được biện tài trí tuệ, tôi không giữ ngôi Chánh đẳng Chánh giác.

Các vị Bồ Tát ở cõi Cực Lạc thường hay thọ trì, đọc tụng kinh điển và diễn nói những ý nghĩa mầu nhiệm từ kinh điển mà chư Phật đã tuyên thuyết. Khi thọ trì, đọc tụng như vậy đều có những biện tài vô ngại, thế trí biện thông, khiến cho chúng sanh ở đó nghe pháp phải phát lòng tin tưởng nơi giáo lý cao thâm vi diệu ấy.

Nguyện thứ ba mươi - Giả sử khi thành Phật, các vị Bồ Tát trong cõi nước tôi, về chỗ trí tuệ và tài biện luận nếu còn giới hạn, tôi không giữ ngôi Chánh đẳng Chánh giác.

Nhờ vào tha lực của Đức Phật A Di Đà mà tất cả những vị Bồ Tát ở cảnh giới Cực Lạc đều có trí tuệ siêu việt và biện tài vô ngại. Trí tuệ là thành quả tu chứng của chư Phật và các vị Thánh Chúng. Tài biện luận là sự nhiếp phục chúng sanh bởi lòng từ bi và trí tuệ sẽ nhiếp hóa chúng sanh một cách dễ dàng.

Nguyện thứ ba mươi mốt - Giả sử khi thành Phật, nước tôi thanh tịnh, đâu đâu cũng đều soi thấy hết thảy vô lượng vô số bất khả tư nghì thế giới của các Đức Phật trong khắp mười phương, dường như gương sáng soi rõ khuôn mặt. Nếu chẳng như thế, tôi không giữ ngôi Chánh đẳng Chánh giác.

Một thế giới như vậy, gọi là một thế giới trong sạch, thanh tịnh, trong suốt. Do vậy tiếng Anh gọi là: Pure Land, tiếng Đức gọi là: Reines Land. Cả hai ngôn ngữ ấy đều diễn tả sự trong suốt, sạch sẽ của cõi giới này. Tịnh Độ ở đây đối nghĩa lại với uế độ giống như cõi Ta Bà này, nơi chúng sanh đang ở vậy.

Cõi Cực Lạc trong suốt như pha lê, được cấu tạo toàn bằng ánh sáng, không phải bằng nghiệp lực. Do vậy có thể soi thấy hết tất cả các cõi Phật khác. Đây cũng là một tấm gương phản chiếu tâm thức của những chúng sanh tại đó. Vì lẽ tâm thức của các vị Bồ Tát tại đó trong suốt, cho nên thế giới cũng trong suốt như pha lê vậy.

Nguyện thứ ba mươi hai - Giả sử khi thành Phật, cõi nước của tôi từ nơi mặt đất lên đến hư không, nào những cung điện, lầu quán, hồ nước, cây hoa v.v… Tất cả vạn vật đều bởi vô lượng châu báu phức tạp, trăm ngàn thứ hương chung hợp tạo thành, tô điểm kỳ lạ, vượt hơn tất cả trời người. Mùi hương xông khắp mười phương thế giới. Bồ Tát cảm nhận đều tu hạnh Phật. Nếu chẳng như thế, tôi không giữ ngôi Chánh đẳng Chánh giác.

Một cõi nước như vậy chỉ có thể có được qua lời phát nguyện của Đức Phật A Di Đà và chính do bổn nguyện cũng như từ lực của Ngài mà thành tựu một cõi giới như thế. Mỗi Đức Phật ngự trị một cõi Tịnh Độ, nhưng Cực Lạc thì chỉ có một, nơi đây nằm dưới quyền cai quản, dạy dỗ của Đức Phật A Di Đà. Từ nhà cửa, cây báu và những loại vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, xích châu, mã não, san hô, hổ phách v.v… tô điểm cảnh giới này, làm cho cõi Cực Lạc xinh đẹp hơn những cõi Tịnh Độ khác. Nơi ấy hương thơm ngào ngạt, xông đến khắp mười phương vô biên thế giới.

Nguyện thứ ba mươi ba - Giả sử khi thành Phật, các hạng chúng sanh trong khắp mười phương vô lượng bất khả tư nghì thế giới của các Đức Phật, bất cứ ai được quang minh tôi xúc chạm đến thân, thì thân tâm người đó trở nên dịu dàng, hơn hàng trời người. Nếu chẳng như thế, tôi không giữ ngôi Chánh đẳng Chánh giác.

Đấy là những người có nhân duyên với Phật Pháp và riêng với Đức A Di Đà. Nếu người, trời và chúng sanh trong các cõi tiếp xúc được với ánh sáng vô lượng ấy, chắc chắn khi lâm chung sẽ được sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc.

Nguyện thứ ba mươi bốn - Giả sử khi thành Phật, những chúng sanh trong vô lượng bất khả tư nghì thế giới của các Đức Phật ở khắp mười phương, nghe danh hiệu tôi mà chẳng chứng được vô sanh pháp nhẫn, các môn tổng trì sâu xa của Bồ Tát, tôi không giữ ngôi Chánh đẳng Chánh giác.

Vô Sanh Pháp Nhẫn là đối với lý thực tướng các pháp không sanh diệt, tin nhận thông suốt, không ngần ngại, không lùi bước, nên gọi là Vô Sanh Pháp Nhẫn. Trên thực tế ở cõi này hay cõi khác, các pháp đều không đến, không đi, không còn, không mất, không sanh không diệt. Bồ Tát nhận thấy rõ tướng ấy nên được vào các môn Tổng Trì sâu xa. Khi nghe đến tên của Đức Phật A Di Đà mà các Bồ Tát trong mười phương vô biên thế giới đã thâu nhập được Phật trí như vậy, quả là tha lực của Đức Phật A Di Đà có một công năng thật diệu dụng.

Nguyện thứ ba mươi lăm - Giả sử khi thành Phật, vô lượng bất khả tư nghì thế giới của các Đức Phật ở khắp mười phương, bất cứ nơi nào có hàng nữ nhân, nghe danh hiệu tôi mà vui mừng tin ưa, phát tâm bồ đề, nhàm chán thân nữ, sau khi mạng chung, nếu còn làm thân phụ nữ trở lại, tôi không giữ ngôi Chánh đẳng Chánh giác.

Ở các cõi Dục, chúng sanh còn ngu si mê muội, nên còn có thân nam và thân nữ để giao hội với nhau và sinh con đẻ cái, nhưng thế giới chư Phật không cần thân nữ nữa. Ở đây tất cả đều do thần lực biến hóa sanh và ngay cả chư Thiên ở cõi trời Sắc giới và Vô Sắc giới cũng vậy. Họ không vì lục dục, thất tình mà bị chìm nổi. Họ dùng thần thông và tâm thức để trao đổi với nhau và từ đó sanh ra luyến ái, nhưng vẫn còn khổ sở của sinh tử chi phối, nhất là khi họ hưởng phước đức ở những cõi trời ấy mãn, họ cũng có thể bị đọa xuống làm người hay những loài thấp hơn.

Do vậy là nữ nhân, khi nghe được danh hiệu của Đức Phật A Di Đà mà vui tin cũng như nhàm chán thân nữ, rồi phát tâm Bồ Đề để sanh về cõi Cực Lạc thì chính nơi ấy sẽ vĩnh viễn thoát ly được cảnh sanh tử luân hồi.

Nguyện thứ ba mươi sáu - Giả sử khi thành Phật, chúng Bồ Tát trong vô lượng bất khả tư nghì thế giới của các Đức Phật ở khắp mười phương nghe danh hiệu tôi, sau khi mạng chung sẽ luôn luôn tiếp tục tu hành phạm hạnh cho đến thành Phật. Nếu chẳng như thế, tôi không giữ ngôi Chánh đẳng Chánh giác.

Danh hiệu của Đức Phật A Di Đà rất quan trọng. Trong ấy chứa đủ cả vô lượng quang và vô lượng thọ. Nếu có các vị Bồ Tát nào khi nghe danh hiệu xong, cho đến lúc lâm chung vẫn luôn luôn tu hành những phạm hạnh và nhớ nghĩ đến danh hiệu Phật A Di Đà thì vị Bồ Tát ấy sẽ đạt được quả vị Phật.

Nguyện thứ ba mươi bảy - Giả sử khi thành Phật, các hàng trời người trong vô lượng bất khả tư nghì thế giới của các Đức Phật ở khắp mười phương, nghe danh hiệu tôi mà gieo năm vóc, cúi đầu lễ lạy, mừng rỡ tin ưa, tu hạnh Bồ Tát, thì kẻ ấy được chư thiên, người đời rất mực kính trọng. Nếu chẳng như thế, tôi không giữ ngôi Chánh đẳng Chánh giác.

Danh hiệu A Di Đà Phật, nếu có chúng sanh nào nghe được rồi, lại đem năm vóc gieo xuống đất để lễ bái, tán thán, cúng dường và vui mừng tu theo lục độ Ba La Mật của các vị Bồ Tát thì chính người ấy sẽ được chư Thiên, loài người trong đời này rất mực cung kính. Vì lẽ chúng sanh ấy biết kính Phật, khi nghe đến danh hiệu mà còn lễ lạy để tỏ lòng tôn kính, thì chư Thiên và loài người đối với kẻ lễ bái kia cũng thực hành như vậy.

Nguyện thứ ba mươi tám - Giả sử khi thành Phật, các hàng trời người trong cõi nước tôi muốn được y phục, thì tùy niệm liền đến tự nhiên nơi thân, được Phật khen ngợi pháp phục thích ứng, nếu như còn phải tìm tòi may cắt, đập nhuộm, giặt giũ, tôi không giữ ngôi Chánh đẳng Chánh giác.

Cõi Phật A Di Đà là cõi Tịnh Độ biến hóa. Chỉ cần chúng sanh tại đó khởi lên tâm niệm gì, thì Đức A Di Đà liền hóa hiện ra thứ đó. Ví dụ như muốn ăn có ăn, muốn mặc có mặc. Tất cả những pháp phục này không cần may sắm, chỉ cần ước muốn, nhớ nghĩ trong tâm niệm là các pháp phục tự nhiên đến mặc vào thân mình mà còn được chư Phật mgợi khen đẹp đẽ nữa.

Nguyện thứ ba mươi chín - Giả sử khi thành Phật, các hàng trời người trong cõi nước tôi cảm thọ sự vui, chẳng như Tỳ Kheo đã hết lậu hoặc, tôi không giữ ngôi Chánh đẳng Chánh giác.

Các vị Tỳ Kheo sanh về cõi này mà còn phiền não thì không hiện hữu ở cõi này. Tất cả lậu hoặc đã hết và chỉ cảm thọ toàn là niềm vui ở cõi giới Tây Phương Cực Lạc này.

Nguyện thứ bốn mươi - Giả sử khi thành Phật, Bồ Tát nước tôi, ý muốn được thấy vô lượng Phật độ trang nghiêm thanh tịnh trong khắp mười phương, liền được như nguyện, ở nơi cây báu đều soi thấy rõ, như gương trong sáng soi rõ khuôn mặt. Nếu chẳng như thế, tôi không giữ ngôi Chánh đẳng Chánh giác.

Tất cả các cõi Phật trong mười phương vô biên thế giới đều thanh tịnh, trong suốt. Nếu có những vị Bồ Tát nơi cõi Tây Phương Cực Lạc muốn trông thấy những Phật độ thanh tịnh ấy thì chỉ cần nơi cây báu tại cảnh giới Tây Phương có thể soi thấy rõ những vị Phật quốc độ kia, giống như gương sáng soi rõ gương mặt của mỗi người vậy. Đây chính là do từ lực của Đức Phật A Di Đà mà thành tựu vậy.

Nguyện thứ bốn mươi mốt - Giả sử khi thành Phật, các chúng Bồ Tát ở quốc độ khác nghe danh hiệu tôi, mãi đến thành Phật mà các giác quan còn bị hư khuyết hoặc bị lùn xấu, tôi không giữ ngôi Chánh đẳng Chánh giác.

Từ địa vị phàm phu chứng thành Bồ Tát phải trải qua vô lượng A Tăng kỳ kiếp mới thành tựu. Từ Bồ Tát đến quả vị Phật phải trải qua ba A Tăng kỳ kiếp nữa mới đạt thành ngôi vị Chánh đẳng Chánh giác. Nếu trong khoảng thời gian ấy có các vị Bồ Tát ở những quốc độ khác nghe được danh hiệu của Đức Phật A Di Đà giáo chủ cõi Tây Phương Cực Lạc mà các giác quan bị hư khuyết hoặc lùn xấu là điều không thể có. Vì lẽ với oai lực của câu Phật hiệu và tha lực của Đức Phật A Di Đà sẽ làm cho các vị Bồ Tát ở những cõi nước kia nghe rõ ràng danh hiệu và tướng hảo trang nghiêm để xứng danh là Bồ Tát.

Nguyện thứ bốn mươi hai - Giả sử khi thành Phật, các chúng Bồ Tát ở quốc độ khác nghe danh hiệu tôi, thì tất cả đều được sự thanh tịnh và chứng các môn Tam Muội giải thoát. Trụ Tam Muội đó trong khoảng móng niệm, có thể cúng dường vô lượng bất khả tư nghì các Đức Thế Tôn mà vẫn không mất các định ý. Nếu chẳng như thế, tôi không giữ ngôi Chánh đẳng Chánh giác.

Danh hiệu A Di Đà Phật là một danh hiệu bất khả tư nghì, khiến cho ai nghe qua cũng đều được thanh tịnh, giải thoát và chứng tất cả những môn Tam Muội. Như vậy tự danh hiệu ấy đã có một năng lực khó nghĩ bàn như thế, đều là nhờ vào nguyện lực và tha lực của Đức Phật A Di Đà đã phát ra lời thệ nguyện, khi Ngài còn là một Pháp Tạng Tỳ Kheo trước khi thành Phật.

Ở nơi Tam Muội ấy trong khoảng một sát na mà có thể dùng thần lực để đi cúng dường vô lượng vô biên các Đức Thế Tôn ở những cõi Phật ấy mà tâm định tĩnh vẫn không xao lãng, phân biệt. Quả thật danh hiệu này có một năng lực khó thể nói hết được.

Nguyện thứ bốn mươi ba - Giả sử khi thành Phật, các chúng Bồ Tát ở các quốc độ khác nghe danh hiệu tôi, khi thọ mạng dứt, được sanh vào nhà tôn quý oai đức. Nếu chẳng như thế, tôi không giữ ngôi Chánh đẳng Chánh giác.

Đây là những vị Bồ Tát muốn trở lại chốn phàm tình để độ sanh. Nhờ nghe danh hiệu của Đức Phật A Di Đà khi phát nguyện gá thai sẽ được sanh vào nơi quyền quý, oai đức, chứ không phải là chốn bình thường, để dễ độ sanh đối với các chúng sanh trong đời ác năm trược này.

Nguyện thứ bốn mươi bốn - Giả sử khi thành Phật, các chúng Bồ Tát ở quốc độ khác nghe danh hiệu tôi, vui mừng khấp khởi tu hạnh Bồ Tát, thì cội công đức đều được tròn đủ. Nếu chẳng như thế, tôi không giữ ngôi Chánh đẳng Chánh giác.

Bồ Tát thực hành lục độ vạn hạnh như: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ. Tất cả đều phải Ba La Mật, rốt ráo, qua bên kia bờ giải thoát. Khi những Bồ Tát này thực hành Ba La Mật như vậy mà nghe đến danh hiệu của Đức Phật A Di Đà vui mừng khấp khởi, thì chính công đức nghe danh hiệu ấy sẽ làm cho các vị Bồ Tát được tròn đủ những hạnh nguyện lợi tha qua sự trợ lực của Đức Phật A Di Đà.

Nguyện thứ bốn mươi lăm - Giả sử khi thành Phật, các chúng Bồ Tát ở quốc độ khác nghe danh hiệu tôi, thì tất cả đều được môn Tam Muội Phổ Đẳng, trụ tam muội đó cho đến thành Phật, thường thấy vô lượng bất khả tư nghì tất cả các Phật. Nếu chẳng như thế, tôi không giữ ngôi Chánh đẳng Chánh giác.

Phổ Đẳng Tam Muội là Tam Muội mà trong đó hành giả đồng thời được thấy tất cả chư Phật. Đây là nhờ công đức nghe danh hiệu của Đức Phật A Di Đà. Khi ở trong tam muội ấy thường được gặp tất cả chư Phật trong mười phương vô biên quốc độ.

Nguyện thứ bốn mươi sáu - Giả sử khi thành Phật, các vị Bồ Tát trong cõi nước tôi, tùy nguyện mỗi người, muốn nghe pháp gì, tự nhiên được nghe pháp ấy. Nếu chẳng như thế, tôi không giữ ngôi Chánh đẳng Chánh giác.

Những vị Bồ Tát được sanh về nơi thế giới Tây Phương Cực Lạc được gặp Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm và Đại Thế Chí Bồ Tát, được gần Phật nghe pháp, nhưng cũng tùy theo hạnh nguyện của mỗi vị. Nếu muốn nghe pháp gì khác nữa thì các pháp ấy tự nhiên ứng hiện. Đây cũng chính do tha lực của Đức Phật A Di Đà tạo nên và đây chính là bổn nguyện lực của Đức Phật A Di Đà vậy.

Nguyện thứ bốn mươi bảy - Giả sử khi thành Phật, các chúng Bồ Tát ở quốc độ khác nghe danh hiệu tôi, ngay đó nếu chẳng đến bậc bất thối, tôi không giữ ngôi Chánh đẳng Chánh giác.

Quả thật danh hiệu của Đức Phật A Di Đà có một năng lực vô lượng vô biên. Từ cõi người cho đến cõi trời hay những cõi Phật khác, nếu có chúng sanh nào hay các vị Bồ Tát nào có nhân duyên nghe đến danh hiệu của Ngài thì kết quả thật bất khả tư nghì, ngay cả việc chứng ngôi bất thối chuyển nữa.

Nguyện thứ bốn mươi tám - Giả sử khi thành Phật, các chúng Bồ Tát ở quốc độ khác nghe danh hiệu tôi, nếu như chẳng được đệ nhất, đệ nhị, đệ tam pháp nhẫn. Đối với pháp môn của các Đức Phật, ngay đó chẳng thể được bất thối chuyển, tôi không giữ ngôi Chánh đẳng Chánh giác.

An trụ trong thực tướng của các pháp gọi là Nhẫn. Hàng Bồ Tát Đại Thừa ở giai vị Kiến Đạo của Sơ Địa, tin chịu lý vô sinh, thì gọi là Vô sinh Pháp nhẫn. Pháp nhẫn là đối với những phương pháp nghĩa sâu xa, mầu nhiệm được nói trong các kinh, chẳng những không sợ hãi mà còn siêng năng học tập, đọc tụng nữa. Khi những Bồ Tát ở các quốc độ khác nghe được danh hiệu của Đức Phật A Di Đà liền sinh tín tâm tu học, hành trì để chứng được thực tướng của vạn pháp.

Tất cả 48 lời nguyện bên trên là 48 hạnh nguyện của một vị Bồ Tát trước khi thành Phật. Nếu quốc độ của Ngài không được như vậy thì Ngài sẽ chẳng thành Phật. Nay thì cõi Phật ấy đã thành tựu và có rất nhiều chúng sanh được sanh về đó do công đức niệm danh hiệu Ngài. Từ những chúng sanh ở cõi Ta Bà hay những vị Bồ Tát ở những cõi Phật khác, ai nghe đến danh hiệu của Ngài mà phát tâm trì tụng chí thành và nguyện sanh về thế giới ấy để thoát ly sinh tử luân hồi thì tất cả do năng lực của Ngài cũng như nhờ bổn nguyện lực của Ngài có thể hướng người ấy về cảnh giải thoát. Nghe danh, trì danh, niệm danh, quán tưởng danh, thực hành danh v.v… tất cả đều nằm trong 4 chữ: A Di Đà Phật. Do vậy A Di Đà Phật có một năng lực vô cùng tận, không một vị Phật nào trong 3 đời và nhiều cõi khác có thể sánh bằng. Cho nên khi tán thán, chiêm ngưỡng Ngài, có bài kệ rằng:

Chúng đức nghiêm thân phi số lượng
Quang minh biến chiếu quá thập phương
Tam thế Như Lai vô dữ đẳng
Hằng thí chúng sanh đại từ hàng.

Nghĩa:

Đức tướng nghiêm thân không kể xiết
Ánh sáng chiếu soi quá mười phương
Ba đời chư Phật chẳng sánh bằng
Thường cho chúng sanh thuyền từ lớn.

Thân tướng của Đức Phật A Di Đà quá trang nghiêm vi diệu, chung quanh Ngài ánh sáng phát ra chiếu tỏa khắp mười phương vô biên thế giới. Ánh sáng này không bị ngăn ngại, trên chiếu sáng đến cõi Trời Hữu Đảnh, dưới chiếu sáng đến địa ngục A Tỳ, nhưng chỉ với những kẻ có nhân duyên, tin ưa câu Phật hiệu thì ánh sáng ấy mới lân mẫn gần kề để tiếp dẫn về cõi Tây Phương Cực Lạc.

Còn nếu chúng sanh nào kém phước đức và không tin ưa câu Phật hiệu A Di Đà thì sự vãng sanh vẫn còn xa.

Ánh sáng ấy ba đời chư Phật trong quá khứ, hiện tại và vị lai chưa có vị nào sánh kịp, cho nên gọi là: A Di Đà bậc nhất. Ngài với lòng từ bi to lớn, rộng khắp đã phát ra 48 lời nguyện, nhằm cứu vớt chúng sanh về tận nơi thế giới của Ngài để tiếp tục tu hành và một ngày nào đó có thể chứng được quả vị Phật rồi trở lại Ta Bà để hóa độ chúng sanh, hoặc ở lại cõi Cực Lạc để gần gũi Đức Phật A Di Đà và các vị Thánh Chúng để nghe pháp và hóa độ chúng sanh tại đó.

Đây là một thượng thiện duyên, không phải ai nghe rồi cũng có thể tin liền và sau đó thực hành việc niệm Phật một cách miên mật được. Tất cả đều do nhân duyên mà thành tựu. Cho nên có người tu theo pháp này mà cũng có lắm người tu theo pháp môn khác là vậy.

Như vậy nội dung của Kinh Vô Lượng Thọ phần quyển thượng là giới thiệu 48 lời nguyện của Pháp Tạng Tỳ Kheo và theo những lời nguyện ấy, quốc độ của Ngài mới được trang nghiêm thanh tịnh như vậy. Điều quan trọng là tin ưa và nhớ nghĩ cũng như trì niệm danh hiệu của Ngài một cách chân thực thì mới được thành tựu những sở nguyện và sau khi mạng chung sẽ được vãng sanh về Thế Giới Cực Lạc kia.

Kế tiếp là phần nội dung tư tưởng của Kinh Vô Lượng Thọ quyển hạ.

Quyển hạ diễn tả về việc những chúng sanh được sanh về nơi hoa sen chín phẩm và Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng nói cho Ngài A Nan cũng như Ngài Di Lặc nghe về những tội báo của những chúng sanh trong đời ác năm trược này. Hoa sen ở thế giới Ta Bà này nhỏ thó và chỉ có vài ba màu, nhưng hoa sen ở thế giới Cực Lạc to lớn và có nhiều màu sắc khác nhau. Ví dụ như hoa sen xanh phát ra ánh sáng xanh, hoa sen vàng phát ra ánh sáng vàng, hoa sen đỏ phát ra ánh sáng đỏ v.v…

Hoa sen ở cõi tục này mọc ra từ bùn nhơ nước đọng, nhưng hoa ấy có được những đặc tính như sau:

Đặc tính thứ nhứt - gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Hoa sen xuất thân từ chốn bùn dơ nước đọng, nhưng khi hoa đã vươn lên khỏi mặt nước rồi thì hoa ấy tỏa ra hương thơm thanh thoát nhẹ nhàng. Điều này cũng giống như con người đang sống trong cuộc đời ngũ trược ác thế, tội lỗi dẫy đầy, nhưng nếu biết hướng thượng và tự chủ thì cũng có thể vượt qua mọi khổ đau trần lụy để trở thành một bậc quân tử chánh nhân, hoặc giả một người Phật Tử biết tỏ ngộ chân lý.

Đặc tính thứ hai - Nhân quả dị thời. Nghĩa là không có một loài hoa nào khi ra hoa mà hoa ấy không từ lá, cành đâm chồi để trở thành nụ cả. Chỉ riêng hoa sen, hoa ấy mọc thẳng từ gốc sen, không trực tiếp từ cành sen, giữa lá và hoa riêng biệt. Điều này tượng trưng cho nhân và quả khác nhau, không cùng lúc.

Đặc tính thứ ba - Nhân quả đồng thời. Không một loài hoa nào vừa ra hoa vừa ra quả, chỉ có hoa sen. Trong khi sen trổ bông, gương sen đã phơi bày đài sen và hạt sen. Đây là đặc tính đặc biệt chỉ có hoa sen mới có.

Đặc tính thứ tư - Là loài hoa tinh khiết. Loài hoa này chỉ để cúng Phật, ngoài ra không dùng làm những việc tầm thường, tuy rằng hoa ấy từ bùn nhơ nước đọng phát sinh ra.

Đặc tính thứ năm cũng là đặc tính cuối cùng - Hoa sen không là loài hoa ong bướm. Ong và bướm hay tìm cách hút mật các nhụy hoa khác, nhưng đặc biệt ở hoa sen, không là nơi lả lơi để cho ong bướm dễ dàng đến hút mật nơi nhụy hoa.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo với Ngài A Nan rằng: Những chúng sanh nào nghe danh hiệu của Đức Phật A Di Đà mà vui mừng tin tưởng, dầu cho là một niệm dốc lòng hồi hướng, nguyện sanh về nước ấy, tức được vãng sanh và ở vào bậc không còn thối chuyển, trừ những người nào tạo tội ngũ nghịch và bác bỏ chánh pháp.

Đức Phật bảo rằng có ba hạng để các chúng sanh được sanh về đó.

- Hạng sanh ở bực Thượng.

“Gồm những người xuất gia dứt hẳn ái dục, làm hạnh Sa Môn, phát tâm Bồ Đề, một mực chuyên niệm Phật Vô Lượng Thọ, kiêm tu các hạnh, nguyện sanh lạc quốc, thì những người này lúc sắp lâm chung, Phật Vô Lượng Thọ và các Thánh Chúng hiện ra trước người ấy, ngay đó hành giả theo sau Đức Phật sanh về nước ấy. Từ hoa sen bảy báu tự nhiên hóa sanh, ở vào bậc không thối chuyển, trí huệ dõng mãnh, thần thông tự tại. Thế nên A Nan! Ngay trong đời này, người nào muốn thấy Phật Vô Lượng Thọ, hãy nên phát tâm vô thượng Bồ Đề, tu các công đức và nguyện sanh về cõi nước An Lạc.”

Những chúng sanh được sanh ở bậc Thượng này là những người có căn tánh Đại Thừa, tin sâu nhân quả tội phước, giữ giới luật tinh nghiêm, kể cả tu sĩ lẫn cư sĩ. Khi những người này sắp lâm chung thì lập tức được Đức Phật A Di Đà và các vị Thánh Chúng đến đón về Tây Phương Cực Lạc và hóa sanh từ hoa sen báu. Bậc này dành riêng cho những người thượng căn, thượng trí. Nghĩa là sau khi nghe giáo lý của Đức Phật rồi liền thực hành và hiểu biết một cách rõ ràng, chính xác, nên đã ngộ rõ đường mê và tu tạo những phước đức để hồi hướng về cõi Tịnh Độ với một niệm nhất tâm, không có gì để hoài nghi nữa.

- Hạng sanh bực Trung:

“Các chúng trời, người trong các thế giới ở khắp mười phương, những ai hết lòng nguyện sanh về nước ấy, mặc dầu chẳng thể làm hạnh Sa Môn, tu công đức lớn, nhưng nên phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, một mực chuyên niệm Phật Vô Lượng Thọ, theo khả năng mình làm các việc phước đức từ thiện, vâng giữ trai giới, xây tháp cất chùa, in kinh, tạo tượng, cúng dường Sa Môn, treo phan thắp đèn, dâng hoa, đốt hương cúng dường Tam Bảo, dùng những phước ấy hồi hướng phát nguyện, nguyện sanh lạc quốc. Đến lúc lâm chung, người ấy sẽ thấy hóa thân của Phật, tướng tốt sáng ngời, không khác chơn thân Phật Vô Lượng Thọ và thấy Thánh Chúng hiện ra trước mắt, liền đó hành giả theo sau hóa Phật vãng sanh Cực Lạc Quốc, ở bậc bất thối, sau đó công đức, trí tuệ người ấy sẽ như bực Thượng.”

Bực trung này dùng cho những kẻ trung căn trung trí. Nghĩa là nghe giáo pháp của Phật thuyết rồi thì hiểu, nhưng phải qua nhiều lần mới rõ nghĩa và không chứng nhập liền ở phẩm vị cao. Ở đây ám chỉ cho những người có căn tánh Tiểu Thừa. Tuy có giữ gìn giới luật, nhưng trọng việc tu tạo phước đức. Do vậy khi lâm chung chỉ có hóa thân của Đức Phật A Di Đà đến nghinh tiếp cùng với các vị Bồ Tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí, đưa về cảnh giới Cực Lạc, ở ngôi bất thối và từ đó tu tiếp để được lên bực Thượng.

Những ai lạy Phật một lạy, cúng Phật một cành hoa, đốt hương đèn để dâng lên cúng Phật, hay nhẫn đến mang tiền tài, của cải đem dâng hiến vào chùa để làm những việc phước đức như in ấn kinh sách, xây chùa, đúc tượng hay nhẫn đến làm những việc như xây dựng cầu cống, đường sá, làm những việc từ thiện, cứu người v.v… tất cả đều giống như những giọt nước mưa rơi xuống từ hư không, rồi chảy ra ao hồ. Những giọt nước ấy tiếp tục chảy ra sông, rạch, suối v.v… rồi từ đó tiếp tục chảy vào biển cả. Chỉ khi nào biển cả mênh mông vô tận kia không còn nước nữa thì giọt nước ban đầu kia mới không có ý nghĩa. Công đức cũng như vậy. Tất cả những gì chúng ta đã hành trì, gìn giữ, tu tạo v.v… không bao giờ mất. Chính ở ngôi bất thối ấy vẫn luôn chứa đựng những phước đức mà chúng sanh đã tu tạo trong bao đời nay và bây giờ mới được tích tụ lại như vậy.

- Hạng sanh bực Hạ:

“Các chúng trời người ở trong những thế giới ở khắp mười phương, những ai thành khẩn muốn sanh về nước ấy, giả như chẳng thể làm nổi những việc công đức phước thiện, hãy nên phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, thường bữa chuyên ý niệm danh Phật Vô Lượng Thọ cho đến mười niệm, mong được sanh về cõi nước của Ngài. Nếu được nghe những giáo pháp sâu xa, nên mừng tin theo, chẳng sanh nghi ngờ, thì dầu một niệm, niệm danh Phật ấy, nhờ lòng chí thành, muốn sanh lạc quốc, đến lúc lâm chung, người đó mộng thấy Đức Phật, cũng được vãng sanh, công đức trí tuệ người này kế đó như người bậc Trung.”

Những ai sanh về bậc Hạ này đều thuộc về những kẻ hạ căn hạ trí. Nghĩa là có nghe giáo pháp của Phật đó, nhưng nghe rồi không hiểu và nếu có hiểu cũng hiểu sai. Nếu có những thiện hữu tri thức cận kề nhắc bảo cho và nhớ lại lỗi lầm, tin theo chánh pháp, thì Đức Phật sẽ hiện ra trong giấc mộng của người ấy trước khi lâm chung và đưa thần thức của người ấy về cảnh giới Tây Phương Cực Lạc.

Những chúng sanh này có thể gọi là những người xuất gia hoặc cư sĩ không thực hành đúng đắn giới luật và làm phước đức không nhiều, nhưng nếu có tâm nhớ nghĩ đến danh hiệu của Đức Phật A Di Đà, một lòng niệm Phật, cầu vãng sanh về Tây Phương và có tâm hối cải, xấu hổ những việc làm xưa, đồng thời những thiện hữu tri thức ở gần đó nhắc nhở niệm Phật và người ấy niệm theo. Nhờ vậy mà được mộng thấy Phật A Di Đà trước khi lâm chung và sau đó được vãng sanh. Từ cõi Hạ này dần dần tu hành tinh tấn trong nhiều tiểu kiếp để được sanh lên phẩm vị cao hơn ở bậc Trung cũng như bậc Thượng.

Những chúng sanh nào được sanh về cảnh giới Tây Phương Cực Lạc rồi đều không bị lưu chuyển trong vòng sanh tử luân hồi nữa và được phước báu ở gần Đức Phật A Di Đà cũng như các vị Thánh Chúng ở cõi đó để nghe pháp. Ở cõi này như trong kinh A Di Đà và kinh Vô Lượng Thọ diễn tả từ con người cho đến cảnh vật, thực vật v.v… không có loại nào là không trân quý, đặc biệt. Nếu nói trong muôn ngàn kiếp cũng không thể kể hết được năng lực tự tại của Đức Phật A Di Đà và do thần lực ấy biến hóa ra, tạo nên những công đức như thế để trang nghiêm thế giới Tây Phương Cực Lạc.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tiếp đến nói cho Ngài A Nan và Ngài Di Lặc nghe về những việc ở cõi Ta Bà này mà con người thường hay gặp phải như:

“Người đời quen thói tục nông nỗi, chỉ cùng tranh chấp những việc không đâu. Sống giữa cảnh ác, sự khổ kịch liệt, con người lại siêng đem thân lo liệu để tự chu cấp. Không luận kẻ trên, người dưới, kẻ nghèo người giàu, từ nhỏ đến lớn, từ gái đến trai, cùng nhau chỉ biết lo kiếm tiền của. Dầu có hay không, cũng đồng một niềm ưu tư sầu khổ, chất chứa lo nghĩ mãi miết lâu ngày, bị tâm sai sử không lúc nào yên. Có ruộng lo ruộng, có nhà lo nhà, trâu ngựa gia súc, của tiền tôi tớ, y phục, uống ăn, vật này món nọ… lại cũng cùng nhau khổ tâm lo lắng, tư lự chất chồng, nghĩ ngợi mông lung, sầu ưu sợ sệt…” (Kinh Vô Lượng Thọ, quyển hạ, trang 96-97).

Mặc dầu Đức Phật nói không sai một điều nào, không dư không thiếu một việc gì. Nhưng chúng sanh ở đời ác năm trược này đa phần chỉ biết sợ quả chứ không biết lo cho nhân nên mới ra nông nỗi ấy. Còn Bồ Tát thì ngược lại, nhân nào cũng phải lo tính toán trước khi thực hiện. Nếu thấy rằng quả sẽ không thánh thiện thì Bồ Tát dừng lại từ cái nhân lúc ban đầu. Trong khi đó chúng sanh vì ngu si, mộng tưởng, điên đảo… nên cứ mãi bị trôi lăn trong sanh tử luân hồi. Cứ thế chết đi, sống lại nhiều kiếp để gây ân và trả oán với nhau. Nếu không nhờ lòng từ của chư Phật như Đức Giáo Chủ cõi Ta Bà này hay Đức Giáo Chủ cõi Tây Phương Cực Lạc, mà các Ngài đã dùng tự lực và tha lực để cứu độ cho, nhưng nhiều chúng sanh vẫn còn cang cường chưa chịu tin sâu nguyện thiết để sanh về thế giới Cực Lạc ấy.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giảng tiếp về năm mối đại ác như sau:

“Thế nào gọi là năm mối đại ác, năm nỗi đớn đau, năm sự thiêu đốt? Và sao gọi là tiêu hóa năm ác, gìn giữ năm lành, được sanh phước đức, qua khỏi dòng đời và vào Niết Bàn trường thọ vĩnh viễn?

Mối ác thứ nhất: Loài trời, loài người cho đến các giống côn trùng bé nhỏ, không một loài nào chẳng tạo ra ác nghiệp. Lớn lấn cướp nhỏ, mạnh đè bẹp yếu, cùng nhau sanh giặc, tàn hại giết chóc, ăn nuốt lẫn nhau, không đạo không đức, chẳng biết tu thiện, về sau chịu các tai ương hình phạt, thần minh ghi chép không sót mảy may, chẳng hề ân xá kẻ phạm tội ác, do đó mà có đủ các hạng người: nghèo nàn, hèn hạ, ăn xin, ăn mày, cô đơn côi cút, mù, điếc, câm, ngọng, ngu si, tệ ác, cho đến những người khập khễnh què quặt. Còn người sang giàu, tài cao học sáng, là do đời trước nhơn từ, trung hiếu, chứa đức làm lành, nên được như vậy…”

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sau khi giới thiệu 48 lời Đại Nguyện của Đức Phật A Di Đà rồi, Ngài lại nói về các bậc tu chứng và ở quyển hạ của kinh Vô Lượng Thọ, Đức Phật không ngần ngại chỉ rõ cho chúng sanh thấy vì sao ở cõi Ta Bà này lại lắm điều bất tịnh như vậy? Thật là tương phản với thế giới Tây Phương Cực Lạc. Tư tưởng này chẳng phải là tư tưởng yếm thế, nông nổi hay hù dọa chúng sanh. Đây là nhân, đây là quả, đây là duyên khởi, đây là sự biến đổi của vô thường sanh diệt v.v… Tất cả những điều này khi còn sống thì các vị thần minh ghi chép rõ ràng, khi chết thì nghiệp cảnh đài tiền sẽ hiện ra trước mắt như ban ngày để con người theo đó chọn nghiệp đi đầu thai.

Nghiệp cảnh đài tiền ấy giống như chiếc máy điện toán ngày nay, hình ảnh, âm thanh thâu vào và phát ra nhờ dòng điện cũng như sự tạo tác bấm nút của con người. Dầu cho các dữ kiện có bị xóa đi, nhưng vết tích vẫn còn đó. Trừ phi cá nhân ấy biết hối lỗi và phải tin tưởng nơi lời thệ nguyện của Đức Phật A Di Đà thì mới được về nơi cảnh giới An Dưỡng, không còn bị luân hồi khổ đau chi phối nữa.

Mối ác thứ hai: Người trên thế gian, giữa đạo cha con, anh em, vợ chồng, phần nhiều chẳng có ân tình, nhân nghĩa, trái với lễ nghi. Hầu hết chỉ quen xa hoa dâm dục, kiêu mạn dọc ngang, mặc tình phóng túng lừa dối lẫn nhau, tâm miệng trái ngược. Lời nói, ý nghĩ đều sai tình thực. Hoặc siểm nịnh bất trung, hoặc a dua hồ mị, ganh ghét người hiền, chê bai điều thiện, hãm hại người lành một cách oan uổng. Làm Vua làm Chúa thì chẳng công minh, sử dụng tôi gian để họ làm quấy, hạng tôi bất chánh cơ mưu xảo ngụy. Lợi dụng thế lực, chà đạp người tài. Làm vua không chánh bị dân khi dễ, bỏ rơi người hiền chẳng xứng nhân tâm. Tôi khi dễ vua, con lừa dối cha, anh em, vợ chồng, bạn bè quen biết khi dối lẫn nhau, người người ôm lòng ham muốn dục lạc, giận dỗi, si mê, muốn mình nồng hậu, muốn có thật nhiều, kẻ trên người dưới tâm ai cũng vậy, đến đỗi tan nhà mất mạng cũng chẳng ngó trước nhìn sau, lụy đến bà con, bỗng dưng mà bị diệt cả họ hàng…

Người xưa dạy rằng:

Nhân tình tợ điểu đồng lâm túc
Đại hận lai thời các tự phi.

Nghĩa:

Tình đời như chim ngụ một rừng
Gặp khi kinh động tứ tán bay.

Tình đời đúng là chỉ như thế thôi! Tuy rằng nói chồng vợ, cha con, anh em hiếu nghĩa v.v… nhưng mỗi người đều xây dựng riêng cho tự ngã của mình. Nếu tự ngã ấy không được củng cố, vuốt ve, che đậy… thì mọi tình cảm xưa nay xem như bị tan vỡ. Điều chính yếu để thỏa mãn lòng ham muốn sắc dục, danh vọng, địa vị mà thôi. Ngay như cả làm vua được rồi cũng chưa cho là đủ, còn phải thâu tóm quyền hành, sử dụng tôi gian, làm hại cả quê hương, họ hàng, đất nước, nào có nương tay.

Đức Phật nói ra việc này cách nay (2011) đã hơn 2.500 năm lịch sử rồi, nhưng mới đây vào tháng 10 năm 2011 này lịch sử cũng đã lặp lại giống như những gì đã nói tự ngàn xưa, không sai một mảy may nào. Nguyên là ông Gaddhafi, thủ lãnh của xứ Libya thuộc miền Bắc Phi Châu. Từ lúc 27 tuổi đã bước lên địa vị vinh quang, nắm quyền sinh sát cả nước dưới tay mình qua 42 năm cai trị, nhưng cũng không chịu nhường quyền cai trị đất nước cho người khác. Nên những tiếng nói tự do dân chủ bắt đầu phản kháng mạnh và đòi hỏi ông phải tỵ nạn lưu vong để cứu dân tộc mình, nhưng ông một mực vẫn từ chối, cả cha con dòng họ đều muốn tử thủ nơi quê hương mình và kết quả là ông đã bị lực lượng kháng cự giết chết cả hai cha con vào hạ tuần tháng 10 năm 2011 vừa qua. Đây là một bài học lịch sử cho những ai muốn học những điều tốt và tránh những điều xấu. Trước khi bị lôi ra từ ống cống (tương phản với ngai vàng nơi ông đã cầm quyền sinh sát suốt 42 năm qua), ông ta đã van nài người lính là “đừng giết tôi và tôi có rất nhiều tiền”. Đến giờ phút cuối đời mới van xin thì quá trễ. Vì quyền lực và tiền bạc đâu có đổi được mạng sống của mình. Phải chi trước đây chừng vài năm ông tha tội cho những người bị ông hãm hại, thì cái quả ngày nay ông ta đâu có bị như vậy. Có lẽ ông ta nghĩ rằng: quyền lực sẽ suốt đời ở bên ông và ông tin rằng: Cha truyền con nối, nên mới không buông bỏ những quyền thế như vậy. Nào ngờ đâu danh vọng, tiền tài, địa vị… bỗng chốc cũng tan ra mây khói.

Nghe đâu ông còn để tiền trong các ngân hàng ở ngoại quốc đến 200 tỷ đô la. Nếu tiền ấy đem chia cho dân nghèo thì dân thương ông biết mấy. Bây giờ tiền ấy của thiên trả địa mà thôi. Do vậy tiền bạc cũng chẳng mua được mạng sống của con người.

Ngày nay chế độ dân chủ đã ngự trị hầu hết quả địa cầu này rồi. Cho nên những người lãnh đạo một quốc gia nên ý thức việc lâm nguy của sơn hà xã tắc quan trọng hơn là bản thân và địa vị của mình mới được. Ngày xưa, Nho giáo thường hay dạy rằng: Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh. Nghĩa là: Dân là quý, đất nước hàng thứ hai, Vua là nhẹ. Thế mà ngày nay ai lên làm vua được rồi đều cai trị ngược lại. Do vậy mà lòng dân oán than cũng phải.

Đức Phật dạy tiếp:

Mối đại ác thứ ba: Người trên thế gian cùng nhau sống gởi, trong vòng trời đất mênh mông vô tận, mạng sống con người thật là ngắn ngủi. Trên từ những người hiền tài thông minh, những người lớn tuổi, quý phái khá giàu, dưới đến những kẻ nghèo nàn hèn hạ, hoặc là những kẻ bại liệt ngu ngơ, giữa nữa là những người tạo các nghiệp dữ, hầu hết ôm ấp những điều xằng bậy, nhớ tưởng dâm dật, phiền não ngập lòng, giao hợp ân ái, đứng ngồi chẳng yên. Ý tham tiếc giữ, chỉ muốn vớ được, liếc ngó sắc đẹp theo thói tà ngoại, chán ghét vợ nhà đi lại tư thông, hao tốn gia tài, làm điều trái phép…

Tổ Quy Sơn trong văn Cảnh Sách đã cảnh báo về sự vô thường về mạng sống của con người rằng:

“Ngạn thọ tỉnh đằng, khởi năng trường cửu.” Nghĩa là “cây ven bờ vực, dây leo vách giếng, há có thể lâu dài chăng?” Quả thật là như vậy. Nếu cây bám rễ bên miệng giếng thì đâu có gì là chắc chắn! Thế nhưng con người vì sống trong cuộc đời ngũ dục về tài, sắc, danh, thực, thùy này nên quên đi tất cả những sự khổ đau xảy đến trước mắt rất nhanh.

Sống chỉ ham vui dâm dật, ân ái, giao hợp, chán ghét vợ nhà rồi đi tư thông với những người khác, làm cho gia đình mất hạnh phúc. Thế nhưng con người không biết dừng tại đó, lại còn tạo ra không biết bao nhiêu nỗi oan khiên chồng chất thêm nữa, khiến cho nhiều người bị bức bách khổ não, có trường hợp phải dẫn đến sự tử vong. Nếu con người biết dừng, thì người ấy sẽ là người hạnh phúc muôn đời. Biết dừng lại trước những thử thách là biết mình. Nếu không tự biết mình thì mọi sự thành công cũng chỉ là giả tạm mà thôi. Sự ham muốn về xác thịt, về sắc đẹp nó cũng giống như những cơn ngứa. Càng gãi thì càng ngứa. Nói như Ngài Long Thọ, Tổ Sư của Trung Quán Luận là “ước gì đừng ngứa”. Nhưng quan trọng là hãy đừng gãi. Đừng ngứa là cái nhân, đừng gãi là cái quả. Nhân và quả luôn đi bên nhau như bóng theo hình vậy. Đa phần ai cũng muốn được vợ đẹp, tiền nhiều… nhưng rồi tất cả những loại này nó cũng chỉ là những sự vô thường, tạm bợ, chẳng có gì vĩnh cửu trên thế gian này cả. Người nào có cả hàng trăm vợ rồi cũng chết một mình. Người nào giàu cả hàng trăm tỷ đô la, khi nhắm mắt xuôi tay nào có ai mang theo được đồng nào! Tất cả chỉ là ảo ảnh của cuộc đời.

Mối ác thứ tư: “Người trên thế gian chẳng nhớ mấy việc ăn hiền ở lành, lại dạy bảo nhau càng gây ác nghiệp. Nói lời hai lưỡi, nói năng nguy hiểm, nói sai sự thật, nói lời thêu dệt, gièm pha tranh đấu, ganh ghét người lành, phá hoại hiền sĩ để rồi đắc ý. Chẳng hiếu với cha mẹ, khinh lờn bậc Thầy dạy, thất tín với bạn bè, không mấy khi thành thật. Cho mình là sang, nghĩ mình là lớn, nói mình có đạo, hành động ngang tàng, cậy thế cậy oai xâm lấn kẻ khác, chẳng hay nghĩ xét, làm ác không thẹn, ỷ mình mạnh khỏe, muốn người cung kính, chẳng sợ đất trời, chẳng sợ thần minh, chẳng khứng làm lành, tự do ngạo nghễ. Tưởng mình sống lâu, không lo không sợ, thường cứ ôm lòng ngã mạn kiêu căng… những ác nghiệp ấy trời thần ghi biết…”.

Việc làm phước, tích đức cho mình và cho đời sau thì ít người làm, nhưng tích chứa tài sản của cải thì nhiều. Tuy vậy chẳng biết làm việc từ thiện. Muốn có nhiều tiền của thì phải tạo ra mưu này chước nọ, nói dối, nói gạt và mối lợi muốn thâu vào mình, khiến cho người khác phải khổ đau mà mình đâu ngờ đến. Cứ cho mình là giàu có, ăn trên ngồi trước, nói năng hung hãn, vì nghĩ mình là người có quyền có thế v.v… Rồi nghĩ mình mạnh khỏe suốt đời, sống lâu chẳng sợ… nhưng ngờ đâu cơn vô thường lại ập đến, khiến cho tất cả từ có biến thành không và những cái không lại biến thành có. Đó là tiền tài, của cải, gái đẹp, rượu ngon và những tội lỗi tuy chẳng nhìn thấy nhưng đã trở thành hiện thực.

Đạo Phật không chấp nhận bất cứ một vị Thần nào tạo ra vũ trụ này và có quyền ban ơn giáng họa cho mọi người, nhưng Đạo Phật chấp nhận những vị thần có hiện hữu trong thế gian này, như trong Kinh Pháp Hoa hay nhiều kinh khác Đức Phật đã dạy. Mỗi vị Thần hay các vị Trời có nhiệm vụ ghi lại những phước đức và lỗi lầm của mỗi chúng sanh để theo đó, sau khi mạng chung sẽ trả nghiệp. Vì không có nghiệp nào vay mà chẳng trả. Vì lẽ khi có nhân, ắt phải sanh ra quả, dầu cho quả ấy đến nhanh hay chậm.

Đức Phật dạy tiếp:

Mối ác thứ năm: Người trên thế gian biếng lườì dật dựa, chẳng chịu làm lành, sửa mình tu đức, bỏ bê cửa nhà, vợ con đói rách, khốn khổ quanh năm, cha mẹ răn dạy trở lại giận dữ, trợn mắt trả treo, nói năng bất hòa, chống trái phản nghịch, chẳng khác oan gia, chẳng bằng tuyệt tự. Lấy, cho vô phép, mọi người chán ngán, phụ ơn bội nghĩa, không lòng báo bổ đáp đền. Nghèo nàn túng thiếu phục hồi chẳng được, đua chen giành giựt, phóng túng chơi bời. Tiền gian xoay xở, tiêu pha lãng phí, say đắm rượu thịt, ăn uống vô chừng, luông tuồng phóng đãng, bướng bỉnh ngang ngạnh, chẳng biết phải quấy, chẳng kể tình người, cưỡng bức dục tình, ức hiếp kẻ yếu, thấy người làm lành ganh ghét phá hoại, không lễ không nghĩa, chẳng ngó ngàng ai, tưởng mình hiểu biết, can dạy chẳng nghe. Sáu dòng bà con, kẻ có người không chẳng cần để ý. Chẳng nghĩ công ơn cha mẹ, chẳng còn tình bạn nghĩa Thầy. Tâm thường nghĩ ác, miệng thường nói ác, thân thường làm ác, chưa từng có một điều lành. Chẳng tin Thánh hiền, chẳng tin Phật Pháp, chẳng tin tu hành có thể chứng đạo, chẳng tin chết rồi thần thức tái sanh, chẳng tin làm lành gặp lành, làm dữ gặp dữ. Muốn giết Thánh hiền quấy rối Tăng Chúng, muốn hại cha mẹ, anh em quyến thuộc, đến đỗi bà con ghê tởm oán ghét, mong chết cho khuất…

Khi sinh ra cuộc đời này, bất cứ ai trong chúng ta đã chẳng mang theo một điều gì, ngoại trừ nghiệp lực với hai bàn tay trắng. Rồi lớn lên thành danh, thành tài, thành người và đã tạo ra không biết bao nhiêu là khổ nạn như bất hiếu với mẹ cha, không chung thủy nghĩa chồng vợ, không tạo chữ tín cho bạn bè, thân hữu, không làm lành lánh dữ, không có tâm thương chúng sanh. Nhưng chỉ có toàn là những điều tệ hại. Ví dụ như bất hiếu với cha mẹ, Thầy Tổ, ngỗ nghịch trái ý với anh chị em, tạo ra sự nghi ngờ giữa vợ chồng và người thân, làm cho nghi kỵ chống báng nhau…

Lại còn chẳng tin tội phước nhân quả báo ứng. Chỉ biết đời này và không tin sự tái sinh ở đời sau, nên tha hồ dối trá và tạo ra tội ác. Lại tìm cách giết chết những bậc Thánh hiền và Tăng Chúng, những người đã cát ái ly gia sống đời tỉnh thức. Đôi khi còn muốn giết hại cả cha mẹ, anh em, vợ chồng, bà con quen thuộc nữa… Như vậy cái ái của thế gian chỉ là cái ái có điều kiện và cái ái mang đến sự khổ đau. Đức Phật cũng thường dạy rằng: Người lành làm việc lành, đi từ niềm vui này đến niềm vui khác, giống như đi từ sáng ra sáng. Còn kẻ dữ làm dữ như từ khổ này đến khổ kia, từ bóng tối bước vào bóng tối. Những việc như vậy có ai biết chăng?

Đức Phật dạy tiếp:

“Thế gian như vậy, thật đáng thương xót! Phật dùng thần lực diệt ác, khuyến thiện, làm cho chúng sanh bỏ lìa nghĩ quấy mà vâng giữ giới, chăm lo hành đạo. Y lời Như Lai chỉ dạy, sau sẽ qua khỏi dòng đời và chứng Niết Bàn. Chư Thiên, nhân dân đời này, đời sau được nghe những lời trong kinh Phật nói, hãy nên suy nghĩ và gắng siêng năng, theo lời kinh dạy, chỉnh đốn thân tâm, người trên làm lành, đốc suất kẻ dưới, răn nhắc lẫn nhau. Mỗi người phải tự giữ vững tâm ý, tôn trọng bực Thánh, quý kính người hiền, từ bi nhân ái, cứu nhơn độ thế. Đối với những điều Như Lai răn nhắc, chớ có xem thường phụ bỏ, hãy cầu thoát khỏi dòng mê, nhổ gốc tội ác của sự sống chết, để ra khỏi cảnh khổ đau vô lượng, và mối lo sợ đọa ba đường ác. Đời này các ngươi cần nên gieo trồng rộng rãi cội đức, ban bố ân huệ, giữ gìn cấm giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định sáng suốt, giáo hóa lẫn nhau. Tự mình tu đức và gây thiện nghiệp, giữ tâm giữ ý đúng đắn chân thật. Dầu một ngày đêm ở tại nơi này trai giới thanh tịnh, công đức còn hơn ở cõi an lạc làm lành đến một trăm năm. Tại sao vậy? Vì cõi Phật kia vô tri tự nhiên, tất cả đều cùng chứa nhóm thiện nghiệp. Một điều ác nhỏ giống như tơ tóc cũng không hề có. Chơn thật tu mười ngày đêm ở tại cõi này, công đức trội hơn ở Phật quốc khác tu thiện ngàn năm! Lý do là vì cõi nước Phật khác đa số làm lành, hiếm người tạo ác, phước đức chiêu cảm một cách tự nhiên, không có nguyên do để gây ác nghiệp. Chỉ có nơi này đầy dẫy điều ác, chẳng được tự nhiên, toàn những gian khổ tìm cầu ham muốn và lừa dối nhau, khiến nỗi con người thân tâm lao nhọc, uống đắng ăn độc, rồi cứ như thế mà chăm làm ác, chưa từng nghỉ ngơi…

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở cõi thế gian này, chịu kham nhẫn với chúng sanh tại đây, không biết dường bao khó nhọc. Ngài đã nói ra những điều lành, vạch ra những nẻo ác, mục đích là làm cho chúng sanh bỏ ác làm lành, cải tà quy chánh. Do vậy Phật đã vì chúng sanh mà dùng thần lực để diệt ác, khuyên làm việc lành, giữ giới ăn chay, siêng năng hành đạo, nên mới khuyên nhắc, tu ít nhất một ngày một đêm Bát Quan Trai giới thanh tịnh nơi cõi Ta Bà này thì công đức còn nhiều hơn ở cõi Tây Phương Cực Lạc. Vì sao vậy? Vì ở cõi ấy việc thiện dễ làm và hầu như không có việc ác. Còn ở cõi này việc lành khó làm, việc ác lại đầy dẫy, nếu có ai đó phát nguyện tu thanh tịnh một ngày một đêm quả là điều hy hữu. Nếu có người con trai lành, người con gái tốt nào chơn thật tu trong 10 ngày đêm ở cõi này thì công đức còn nhiều hơn gấp ngàn lần tại các nước Phật khác. Vì lẽ nhân dân của các cõi Phật khác chỉ thuần làm việc lành, chẳng có ai tạo ra ác nghiệp. Do vậy họ có nhiều phước đức, là chuyện bình thường. Còn ở nơi cõi này ai cũng chăm làm ác, quên việc lành mà còn có người thiện lương tu trong 10 ngày đêm như thế, không phải là việc dễ dàng. Do vậy Đức Phật mới tán thán những người tạo ra thiện nghiệp ở ngay tại cõi này là vậy.

Sau khi nghe những lời thiện lương và hậu quả của những việc ác như thế, Ngài A Nan có ý mong chờ Đức Phật Vô Lượng Thọ phóng quang soi sáng chúng sanh trong mười phương cõi nước. Đức Phật A Di Đà tùy nguyện của Ngài A Nan, Ngài Di Lặc đã phóng quang. Tất cả Đại chúng đều hoan hỷ. Các vị Trời, các vị Chuyển Luân Thánh Vương đều chứng quả A Na Hàm, các vị Tỳ Kheo hết sạch mê lầm, tâm ý sáng tỏ. Các vị Bồ Tát chứng quả bất thối…

C. Tư Tưởng Kinh Quán Vô Lượng Thọ

Chữ quán ở đây có nghĩa là Thiền Định, suy tư, nhớ nghĩ về… Vô Lượng Thọ tức là danh hiệu của Đức Phật A Di Đà. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói kinh này tại núi Linh Thứu nơi thành Vương Xá thuộc xứ Ma Kiệt Đà, trực tiếp cho Hoàng Hậu Vy Đề Hy và Ngài A Nan cũng như 1.250 vị đệ tử tỳ-kheo nghe.

Nguyên nhân Đức Phật nói kinh này là vì A Xà Thế nghe lời dụ dỗ của Đề Bà Đạt Đa, giam cha mình là vua Tần Bà Sa La vào ngục thất để cướp ngôi. Khi đức Vua ở trong tù, được Đức Phật chỉ dạy cho phép tu Bát Quan Trai, nên giờ phút lâm chung, Vua được sanh Thiên. Trong thời gian nhà vua ở trong lao ngục, không ai được phép đến thăm, ngoại trừ Hoàng Hậu Vy Đề Hy. Cứ mỗi lần thăm nuôi, Bà tắm gội sạch sẽ và thoa bột lên tóc mình, khi vào ngục, bà đánh lừa quân canh dễ dàng, vì không biết bà có mang theo thức ăn cho chồng mình. Thời gian trôi qua lâu, nhưng đức vua vẫn chưa có dấu hiệu nào suy yếu vì không cho cung cấp thức ăn hằng ngày. A Xà Thế hỏi quân canh ngục và được tâu lại tất cả sự tình như trên, nên A Xà Thế rất giận dữ và muốn giết hoặc giam giữ cả mẹ mình nữa, nhưng nhờ những vị Đại Thần can ngăn rằng: “Xưa nay có nhiều người con cướp ngôi vua để xưng vương, chứ ít ai giết hay giam mẹ mình để thỏa mãn sự tức giận.” Do vậy A Xà Thế đã thôi không giết mẹ.

Một hôm Hoàng Hậu Vy Đề Hy kể lại chuyện xưa cho A Xà Thế nghe rằng: “Ngày xưa vua cha Tần Bà Sa La cũng thương A Xà Thế lắm. Ví như có lần A Xà Thế bị bịnh ung nhọt đầy người. Vua cha Tần Bà Sa La sợ con mình bị đau nên đã dùng chính miệng mình để hút tất cả những chất máu mủ ấy vào miệng, khiến A Xà Thế chóng lành bịnh.” Khi nghe chưa dứt câu chuyện, A Xà Thế đã động lòng trắc ẩn, sám hối lỗi lầm và cho quân lính mở cửa ngục thả cha mình ra, nhưng than ôi, lúc ấy vua Tần Bà Sa La đã băng hà và nhờ tu giới Bát Quan Trai theo lời Phật dạy, nên ông đã thác hóa sanh thiên và chứng quả Dự Lưu.

Hoàng Hậu Vy Đề Hy thấy cuộc đời này quá khổ đau, sống để chứng kiến những điều như vậy, nên bà có ý khi lâm chung muốn sanh về một thế giới khác, không muốn trở lại thế giới này để chứng kiến những khổ đau sầu lụy như thế nữa. Đức Phật từ đỉnh núi Linh Thứu biết được tâm ý của bà, nên đã dùng hào quang chiếu soi cho bà nhìn thấy tất cả các cảnh giới. Cuối cùng bà chọn thế giới Tây Phương Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà để vãng sanh.

Đây là một câu chuyện có thật, một câu chuyện lịch sử, có thật một triều đại như thế, một ông vua như thế cùng thời với Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, nhưng kinh này chỉ còn bản văn chữ Hán chứ bản tiếng Phạn lại không còn, cho nên nhiều nhà chú giải kinh điển sinh tâm nghi ngờ. Nhưng riêng với tôi, tác giả quyển “Tư Tưởng Tịnh Độ Tông” này không nghi ngờ gì cả. Có lẽ vì nguyên bản chữ Phạn được hình thành trước và sau Tây lịch khi đem sang Trung Hoa dịch Hán văn rồi, bản chính bị thất lạc. Còn ở tại quê hương Ấn Độ sau này bị Hồi Giáo thiêu hủy tất cả những kinh điển của Phật Giáo, nên nguyên bản không còn tìm lại được nữa. Đây là lý do có thể khả tin chăng?

Riêng Phật Giáo Tịnh Độ do Ngài Thân Loan chủ trương vào thế kỷ 13 tại Nhật thì quan niệm rằng: Những người ác như A Xà Thế, Vô Não, Da Xá v.v… nếu họ đã quyết tâm phản tỉnh, thì chính sự sám hối biết tàm quý ấy mau chứng đạo hơn những người bình thường và Thân Loan có một lối nhìn khác là: “Phật để tâm độ cho những người ác trước cả người hiền.” Qua câu chuyện một người mẹ có 3 người con, trong khi 2 người con đầu phát triển bình thường thì người mẹ ít lưu tâm, người con thứ 3 bịnh hoạn, đau yếu thì người mẹ thương hơn. Đây là một kết luận độc đáo của Ngài Thân Loan so với tư tưởng của những Tông Phái khác. Ngài nhắm vào tư tưởng cứu độ chúng sanh, như Đức Phật đã cứu Đề Bà Đạt Đa trong kinh Pháp Hoa hay A Xà Thế trong kinh Đại Bát Niết-bàn.

Tư tưởng kế tiếp là tư tưởng nhờ thần lực của Đức Phật Thích Ca mà bà Vy Đề Hy thấy được cảnh giới Tây Phương Cực Lạc, nếu riêng tự lực của bà, bà chỉ thấy cảnh khổ chung quanh vây bủa mình mà thôi. Lại chính nhờ câu Phật hiệu A Di Đà mà bà đã tâm đắc 16 pháp quán để sau này khi lâm chung sẽ được sanh về đó.

Đức Thế Tôn bảo bà Vy Đề Hy rằng: “Nay ngươi biết chăng? Phật A Di Đà cách đây không xa, ngươi hãy buộc niệm xem kỹ nước ấy là tịnh nghiệp thành. Nay ta vì ngươi nói rộng các dụ, cũng để tất cả phàm phu đời sau, những ai muốn tu tịnh nghiệp, được sanh về cõi Cực Lạc Tây Phương.”

Trong kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cho Ngài Xá Lợi Phất biết rằng: “Cõi ấy cách thế giới Ta Bà này 10 vạn ức cõi Phật, nơi đó có Đức Phật A Di Đà hiện đang thuyết pháp.” Còn trong kinh Quán Vô Lượng Thọ này là: Cách đây không xa, nghĩa là chỉ trong một niệm nhớ nghĩ và xem xét. Do vậy kinh này người Âu Mỹ gọi là kinh Thiền Định về Đức A Di Đà.

“Muốn sanh nước ấy, phải tu 3 phước:

- Phước thứ nhất là: Hiếu dưỡng cha mẹ, vâng thờ Thầy dạy, từ tâm chẳng giết, tu mười thiện nghiệp.

- Phước thứ hai là: Thọ giữ ba pháp quy y Tam Bảo, đủ các giới cấm, không phạm oai nghi.

- Phước thứ ba là: Phát tâm Bồ Đề, tin sâu nhân quả, đọc tụng kinh điển Phương Đẳng Đại Thừa, khuyên người khác tu. Ba điều như vậy gọi là Tịnh Nghiệp”. (Kinh Quán Vô Lượng Thọ, trang 160).

Cái phước của người con hiếu hạnh là phụng dưỡng cha mẹ khi còn sống cũng như khi về già. Đức Phật đã chẳng từng dạy rằng: Ai biết kính thờ cha mẹ là kính thờ Phật. Cha mẹ là hiện thân của vị Phật từ bi, nếu hai đấng sanh thành ấy mà ta bất hiếu, thì ai sẽ là người có hiếu với bản thân mình về sau này. Vì gieo nhân nào sẽ gặp quả nấy, không ở đời này thì đời khác, không lúc này thì lúc khác phải gặp quả báo ấy.

Thầy dạy ta là những người mang đến cho ta sự hiểu biết và trí tuệ mà ta không biết vâng lời để thực hành theo thì trên thế gian này còn gì cao xa hơn nữa?

Là một con người dầu xuất gia hay tại gia, ai ai cũng có Thầy dạy ở trong đạo và Thầy dạy ngoài đời. Họ là những người mô phạm, giúp ta rõ đường đi nước bước. Tục ngữ Việt Nam có câu: “Không Thầy đố mầy làm nên” là vậy.

Là con người, đa phần lòng từ lại ít, trái lại tâm ưa sát hại chúng sanh lại nhiều. Do vậy cần phải thể hiện lòng từ bi đối với tất cả chúng sanh cũng như tu mười nghiệp lành như: Không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói lưỡi đôi chiều, không nói lời thêu dệt, không nói lời hung ác, không nói dối, không tham, không sân và không si. Có như vậy mới xứng đáng là một hành giả biết tu nhơn.

Là một chúng sanh bình thường biết làm việc thiện không chưa đủ, mà cần phải quy y Tam Bảo Phật, Pháp, Tăng và giữ gìn những giới cấm do Phật chế. Giới như hàng rào ngăn ngừa những tội lỗi và từ đó bất cứ làm vấn đề gì, chúng ta cũng suy tính kỹ càng trước khi thực hiện. Là người xuất gia có cả 3.000 oai nghi tế hạnh. Riêng Phật Tử tại gia cũng gìn giữ những oai nghi căn bản khi đi, đứng, nằm, ngồi.

Khi đã quy y thọ giới rồi liền khởi tâm làm việc thiện lương, tạo ra những phước đức cho mình và cho người, ở đời này cũng như đời sau. Điều quan trọng là những việc làm ấy phải thuận với nhân quả và trì tụng cũng như tin sâu những kinh điển Đại Thừa. Nếu một người tin nhân quả mà không tin những lời dạy của Phật hoặc chư Tổ, như vậy cũng chưa phải là có lòng tin sâu rộng. Từ đó mới khuyến khích những người khác cùng phát tâm tu học.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã bảo Ngài A Nan và Hoàng Hậu Vy Đề Hy rằng:

“Hãy lóng nghe! Lóng nghe! Và khéo nghĩ nhớ. Như Lai ngày nay vì các chúng sanh thời đại sau này bị giặc phiền não bủa vây làm hại mà giảng nói về pháp tu tịnh nghiệp. Lành thay Vy Đề Hy, hỏi việc rất hay! Thị giả A Nan ông hãy ghi nhớ, rộng vì mọi người tuyên nói lời Phật. Như Lai ngày nay dạy Vy Đề Hy và các chúng sanh trong đời sau này quán tưởng thế giới Cực Lạc Tây Phương. Nhờ lực của Phật, sẽ được nhìn thấy cõi thanh tịnh ấy, như cầm gương sáng, tự thấy mặt mình, thấy cõi nước ấy cực vui, mầu nhiệm, tâm sanh hoan hỷ, ngay đó liền chứng vô sanh pháp nhẫn…”

Con người ngày xưa chưa tiến bộ, khi còn ăn lông ở lỗ thì tập hợp nơi núi rừng, săn thú, đào củ ăn để sống. Di chuyển từ gần đến xa, sau đó trở thành dân du mục. Đến thế kỷ 15, 16 con người văn minh hơn, đã biết đi thuyền trên biển, rồi vượt đại dương để đến thăm những lục địa khác trên quả địa cầu này. Cho đến thế kỷ 21, con người hầu như đã hoàn toàn chinh phục được thiên nhiên. Ngọn núi Everet ở dãy Hy Mã Lạp Sơn tại Ấn Độ cao 8.848 mét cũng đã có người leo đến đỉnh. Những độ sâu nhất của biển cũng đã có máy móc dò tìm. Rồi lạnh buốt như Nam, Bắc Cực, nơi đá đông quanh năm suốt tháng mà cũng đã có nhiều người mạo hiểm đến đó. Không những thế, ngày nay người ta còn dùng những chiếc máy bay khổng lồ chở 500 đến 700 người bay trên không trung và hạ cánh an toàn tại các phi đạo. Những việc như thế, nếu cách đây 3, 4 trăm năm về trước mà thành tựu thì chắc loài người còn ngạc nhiên hơn nữa và loài người thuở ấy chắc rằng không bao giờ nghĩ đến việc của bốn năm trăm năm về sau này như vậy.

Ngay ở thời điểm này (2011) người ta đã đặt chân lên cung trăng và các vì tinh tú khác. Tất cả đều là nhờ khoa học và những nhà Bác Học khám phá ra. Thần thông của họ là nhiên liệu dầu hỏa, khí đốt. Năng lực bảo hộ cho họ khỏi rơi ra ngoài không khí là vỏ máy bay hay phi thuyền làm bằng thiếc, hay chất uranium v.v…

Như vậy chúng ta có thể tin được rằng năng lực của Đức Phật Thích Ca có thể thâu tóm thế giới Tây Phương Cực Lạc nhỏ lại và sáng như tấm gương để Ngài A Nan và Hoàng Hậu Vy Đề Hy trông thấy được. Đồng thời với tha lực của Đức Phật A Di Đà, Ngài có thể mang những chúng sanh có lòng tin tưởng về cõi nước của Ngài sau khi lâm chung muốn sanh về đó. Đây là bổn nguyện lực của Đức A Di Đà và oai lực của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vậy.

Đức Thế Tôn bảo bà Vy Đề Hy rằng:

“Ngươi và chúng sanh phải nên chuyên tâm, buộc niệm một chỗ, tưởng nơi Phương Tây. Tưởng như thế nào?

Cách tưởng ấy là:

- Bất cứ người nào, nếu chẳng phải kẻ sanh ra đã mù, hay người mắt sáng, đều thấy hình ảnh mặt trời sắp lặn. Nên khởi tưởng về mặt trời lặn. Ngồi xoay hướng Tây, xem cho kỹ chỗ mặt trời sắp lặn, giữ tâm đứng vững, chẳng cho di động, thấy mặt trời lặn như cái trống treo. Thấy mặt trời rồi nhắm mắt, mở mắt đều thấy rõ ràng.

Trên đây gọi là: Pháp quán thứ nhất Quán Tưởng Mặt Trời.”

Mặt trời mang ánh sáng tạo ra năng lượng để chiếu rọi xuống quả đất này. Không biết bao nhiêu sinh linh được đón nhận từ trường vô giá này. Nếu không có mặt trời sưởi ấm, cây cối sẽ không đâm chồi, nảy lộc nở hoa, mang hương sắc đến cho đời. Mặt trời không mọc thì quả đất sẽ lạnh dần. Cho nên mọi sinh linh ở trong một vũ trụ này đã, đương và sẽ cần sự hiện hữu của mặt trời.

Riêng việc quán niệm và buộc chặt tư tưởng khi mặt trời lặn và giữ nguyên hình ảnh ấy trong tâm mà Đức Phật đã dạy cho bà Vy Đề Hy nhằm để làm chủ tâm mình, không cho một vật gì xen vào và tư tưởng ấy là tư tưởng chánh định. Khi tư tưởng đã định thì có thể làm chủ chính mình và thế giới.

“Kế quán tưởng nước, thấy nước lóng trong, cũng phải rõ ràng không nghĩ gì khác. Đã thấy nước rồi, nên tưởng băng giá, thấy băng chói suốt tưởng như lưu ly. Tưởng này thành rồi thấy đất lưu ly, trong ngoài chói suốt, dưới có tràng vàng, kim cang bảy báu đỡ đất lưu ly, tràng này tám phương, có đủ tám góc, mỗi mỗi phương diện trăm báu tạo thành, mỗi mỗi châu báu hàng ngàn ánh sáng, mỗi tia sáng có tám muôn bốn ngàn màu sắc khác nhau chói đất lưu ly, như hàng trăm triệu mặt trời chói lọi, nhìn không thể xiết.

Trên đất lưu ly, lằn mức hoàng kim xen kẽ lẫn lộn bởi khu bảy báu, phân ranh hẳn hòi. Trong mỗi châu báu có những tia sáng năm trăm màu sắc, tia sáng như hoa, lại như trăng sao lơ lững hư không thành đài sáng chói, lầu các vô vàn bởi hàng trăm thứ ngọc báu hợp thành. Hai bên lâu đài, mặt nào cũng có trăm ức tràng hoa, vô lượng nhạc khí dùng để trang nghiêm. Tám thứ gió mát từ ánh sáng ra khua những nhạc khí, diễn nói những tiếng khổ, không, vô thường, vô ngã v.v…

Trên đây là pháp quán tưởng băng giá, là quán thứ hai”.

Từ nước đóng thành băng, từ băng tạo thành lưu ly và trăm ngàn báu vật… chỉ là qua cách quán chiếu của tự thân. Khi nước đông thành băng cũng giống như mặt đất chứa đựng nhiều của quý và những châu báu ấy được chiếu sáng bằng nhiều màu sắc khác nhau, giống như mặt trời chiếu vào đó.

Từ mặt lưu ly ấy phát sinh hàng trăm ngàn loại hoa và trăng sao. Gió mát thổi đến tạo thành những âm thanh vi diệu hòa lên những âm thanh của tứ pháp ấn v.v… Những điều này thường nhật bà Hoàng Hậu Vy Đề Hy không thấy được trong cung điện của bà. Mặc dầu cung điện ở thành Vương Xá ấy là một cung điện nổi bật so với các cung điện khác đương thời, nhưng bà thấy nước vẫn là nước, chứ chẳng có gì lạ. Bây giờ Đức Phật tạo cho bà có cơ hội để quán tưởng về băng giá một cách tỉ mỉ như vậy có lẽ để bà quên đi những nỗi sầu khổ bi ai về chồng, về con và chỉ chú tâm vào một vật, một nơi, để bà chỉ còn lại việc quán tưởng mục đích tạo sự thành tựu cho niềm tin và khả năng có thể đạt được của bà trong hiện thế.

“Tưởng này thành rồi, quán từ hình bóng cho thật tỏ rõ, nhắm mắt, mở mắt không cho tan mất, trừ khi ăn ngủ, ngoài ra luôn luôn nhớ những sự trên. Người tưởng được vậy gọi là thô sơ thấy đất của cõi Cực Lạc. Nếu chứng Tam Muội, thấy đất cõi ấy tỏ rõ hẳn hòi, không sao nói đủ.

Trên đây là pháp quán tưởng mặt đất, là quán thứ ba”.

Khi quán nước và băng đá trở thành lưu ly như ở cõi Cực Lạc rồi thì ngày đêm không dừng nghỉ, lúc nào cũng tâm tâm niệm niệm như thế, chỉ trừ khi đi ăn và đi ngủ. Như vậy niệm niệm liên tục cho đến khi chứng được Tam Muội hiện tiền nghĩa là chuyên tâm chú ý ở một chỗ, không để tan loạn mà phải giữ cho tâm an tĩnh, trạng thái này gọi là Tam Muội. Khi đạt đến trạng thái Tam Muội thì liền phát khởi trí tuệ mà khai ngộ chân lý, vì thế khi dùng Tam Muội này tu hành mà được cảnh giới Phật thì gọi là Tam Muội phát đắc hoặc phát định. Khi quán như vậy về đất như thế lâu ngày trở nên thuần thục thì tưởng trên dưới đất lưu ly ấy là thấy đất thô sơ ở cõi Tây Phương Cực Lạc.

“Phật bảo A Nan:

Ông nhận lời Phật, vì các chúng sanh muốn được thoát khổ trong đời sau này, mà nói về pháp Quán Đất trên đây. Nếu quán tưởng được pháp quán đất này là sẽ trừ những tội khổ sống chết, tám mươi ức kiếp, sau khi bỏ thân quyết sanh cõi Tịnh, tâm được không nghi. Khởi quán như thế gọi là quán đúng, nếu như quán khác, là quán sai lạc”.

Phật bảo A Nan và Vy Đề Hy về pháp quán cây báu. Pháp quán này diễn tả cây cối có nhiều cành lá đẹp đẽ, màu sắc như pha lê tỏa ra ánh sáng hồng, xanh và có nhiều lớp lưới bao phủ. Trên lưới ấy có cung điện của các Phạm Vương. Những ánh sáng trên cây ấy chiếu ra như hàng ngàn mặt trời, mặt trăng đang hiện hữu. Trên cây ấy lại có những quả báu như những chiếc bình của Trời Đế Thích và những ánh sáng ấy hóa thành phan phướn và những lọng báu. Trong ánh sáng ấy chói hiện những Phật sự của toàn cõi Đại Thiên và mười phương cõi nước của các Đức Phật cũng hiện trong ấy.

Khi quán tưởng về cây báu này, phải quán từ thân cây, nhánh cây, lá, hoa đều phải rõ ràng. Đây là pháp quán thứ tư.

Ánh sáng ở cõi giới Ta Bà này luôn giới hạn và có phân chia ra ngày và đêm, nhưng ánh sáng ở cõi Tây Phương Cực Lạc thì luôn luôn tươi mát, chiếu sáng dịu dàng không ngăn ngại và chẳng phân biệt ngày đêm, nên những chúng sanh được sanh về đó có cảm giác hoàn toàn an lạc để được sống trong cảnh giới thanh tịnh giải thoát ấy với vô lượng Bồ Tát và các thiện hữu trí thức ở cõi ấy.

“Kế nên tưởng nước, muốn tưởng nước thì: Quốc độ Cực Lạc có tám ao nước. Mỗi mỗi ao nước bảy báu tạo thành, ngọc ấy rất nhuần nhuyễn, từ những châu chúa Như Ý sanh ra, chia làm 14 chi nhánh, mỗi nhánh có màu bảy báu tuyệt đẹp. Thành ao vàng ròng, dưới thành có chất kim cương nhiều màu làm cát trải đáy. Trong mỗi dòng nước có sáu mươi ức hoa sen bảy báu, mỗi mỗi hoa sen tròn trịa cân đối, mười hai do tuần, nước Ma Ni ấy chảy rót giữa hoa, theo cọng lên xuống, tiếng nước tuyệt vời, diễn nói những nghĩa khổ, vô thường, vô ngã, các Ba La Mật, lại khen thưởng tốt của các Đức Phật. Châu chúa Như Ý vọt ra sắc vàng, ánh sáng vi diệu, ánh sáng hóa thành chim báu trăm màu hót tiếng lảnh lót, thường khen niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

Đó là pháp tưởng Nước Tám Công Đức và là pháp quán thứ năm.”

Nước tám công đức tức là nước có đủ tám thứ công đức thù thắng. Bên cõi Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà có ao tám công đức, chứa đầy nước tám công đức ở trong. Tám công đức thù thắng của nước trong ao là: Lặng trong, sạch mát, ngọt ngào, mềm nhẹ, thấm nhuần, an hòa, trừ đói khát, nuôi lớn các căn… (Phật Quang Đại Từ Điển trang 438).

Trong mỗi dòng nước chảy như thế có cả hằng ức ức hoa sen bảy báu và mặt nước Ma Ni chảy rót vào hoa lớn đẹp kia và tiếng nước ấy cũng diễn nói được tam pháp ấn về khổ, vô thường, vô ngã và ngay cả nghĩa của Bát Nhã Ba La Mật nữa. Các Đức Phật đều ngợi khen, đồng thời ánh sáng tại đó cũng hóa thành chim báu để ca ngợi, tán thưởng người hay nhớ đến ba ngôi báu.

“Cõi nước Cực Lạc toàn sự quý lạ. Trên mỗi khu vực có năm trăm ức lầu gác châu ngọc. Trong lầu gác ấy, vô lượng chư thiên trỗi những nhạc trời. Lại có những nhạc cụ lơ lửng trên không như cờ phướn trời, không ai trỗi khúc mà vẫn âm vang, trong những điệu nhạc đều nói về việc niệm Phật, niệm Pháp và niệm Tỳ Kheo Tăng…

Trên đây là pháp quán tưởng Tổng Quát, là quán thứ sáu.”

Quán Tổng Quát này gồm có đất, cây, ao, lầu báu v.v… Đây chính là cảnh giới Tây Phương Cực Lạc nơi Đức Phật A Di Đà đang làm giáo chủ. Nhạc trời tự nhiên ngân vang và những âm điệu ấy cũng biết nhớ nghĩ đến ba ngôi Tam Bảo. Đây chính là do năng lực của Đức Phật A Di Đà hóa hiện vậy.

Khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chỉ bày cho Hoàng Hậu Vy Đề Hy quán đến đó thì thấy Đức Phật Vô Lượng Thọ đứng giữa hư không, Ngài Quán Thế Âm và Đức Đại Thế Chí, hai vị Đại Sĩ đứng hầu hai bên, ánh sáng rực rỡ, không sao nhìn rõ, hàng trăm ngàn sắc vàng Diêm Phù Đàn cũng không thể sánh. Bà Vy Đề Hy được thấy Đức Phật Vô Lượng Thọ rồi, lạy xuống sát đất và bà thưa rằng:

“Kính bạch Đức Thế Tôn! Nay con nhờ thần lực của Phật mà được nhìn thấy Phật Vô Lượng Thọ và hai vị Bồ Tát, chúng sanh đời sau làm thế nào quán Phật Vô Lượng Thọ và hai vị Đại Sĩ?”

Đức Phật chỉ bảo bà Vy Đề Hy về việc quán tưởng tòa sen báu của Đức Phật A Di Đà. Đài sen này có vô lượng cánh sen và mỗi cánh sen tỏa ra vô lượng ánh sáng và những ánh sáng ấy tạo ra những màu sắc vàng ròng và mỗi tia ánh sáng như vậy đều tỏa ra những ánh sáng lạ. Đây là pháp tưởng Tòa Sen báu, gọi là pháp quán thứ bảy.

“… Muốn quán tưởng Phật Vô Lượng Thọ thì: Trước phải tưởng tượng. Nhắm mắt mở mắt thấy một tượng báu, màu tượng như màu vàng Diêm Phù Đàn, ngồi trên hoa kia. Thấy tượng ngồi rồi thì mắt huệ sẽ mở tỏ rõ ràng. Thấy cõi Cực Lạc bảy báu trang nghiêm: Đất báu, ao báu, hàng lối cây báu, mành báu, các trời bao phủ lên trên cây, các mành lưới báu đầy trong không gian. Thật sự như thế rất rõ ràng, như thấy làn chỉ nơi lòng bàn tay…”.

Tiếp đến quán hoa sen lớn bên trái của Phật A Di Đà, nơi Đức Quan Thế Âm Bồ Tát ngồi đó và một hoa sen lớn bên phải Đức Phật, có Đức Đại Thế Chí ngồi. Khi tưởng này thành, tượng Phật và Bồ Tát đều phóng quang minh, quang minh màu vàng soi những cây báu. Dưới mỗi cây báu đều có ba hoa sen. Trên các hoa sen, đâu đâu cũng có một Đức Phật, hai vị Bồ Tát khắp cõi nước ấy.

Nếu tưởng được như vậy sẽ thấy được Vô Lượng Đức Phật A Di Đà và vô lượng Quán Thế Âm cùng Đại Thế Chí Bồ Tát. Khi tưởng được như vậy rồi thì hành giả sẽ nghe được nước chảy, ánh sáng, tất cả cây báu, chim chóc đều diễn phép mầu. Khi nhập định hay xuất định đều nghe được diệu pháp.

Trên đây là pháp quán tưởng hình tượng, là quán thứ tám.

“Phật bảo A Nan và bà Vy Đề Hy: . . . A Nan nên biết, Phật Vô Lượng Thọ, thân như trăm ngàn muôn ức màu sắc vàng Diêm Phù Đàn cõi trời Dạ Ma, thân Phật cao vời, sáu mươi muôn ức số na-do-tha hằng hà sa do tuần, tướng sáng bạch hào giữa đôi lông mày xoáy tròn uốn lượn về phía bên phải như năm Tu Di. Mắt Phật ví như nước bốn biển lớn, xanh trắng rõ ràng. Các lỗ chơn lông tuôn ra ánh sáng như núi Tu Di. Vòng ánh sáng tròn nơi thân Phật, lớn như trăm ức đại thiên thế giới. Giữa vòng ánh sáng có trăm vạn ức na do tha số cát sông Hằng các vị hóa Phật, mỗi mỗi hóa Phật có đông vô số Bồ Tát hóa hiện theo làm thị giả.

Phật Vô Lượng Thọ có tám muôn bốn ngàn tướng tốt, trong mỗi tướng tốt, tướng nào cũng có tám muôn bốn ngàn vẻ đẹp tùy hình, trong mỗi vẻ đẹp lại có tám muôn bốn ngàn tia sáng, mỗi mỗi tia sáng soi khắp mười phương vô lượng thế giới, nhiếp lấy không bỏ những ai niệm Phật. Quang minh, tướng tốt và những hóa thân của Đức Phật ấy không thể nói đủ, chỉ nên nhớ tưởng, khiến cho “mắt tâm” sáng suốt tự thấy.

Thấy những sự trên, tức thấy tất cả chư Phật mười phương, do thấy chư Phật nên mệnh danh là Niệm Phật Tam Muội. Người vận dụng được pháp quán tưởng này, gọi là quán tưởng tất cả thân Phật. Bởi quán thân Phật, cho nên cũng sẽ nhận ra tâm Phật. Tâm Phật chính là tâm Đại Từ Bi, dùng vô duyên (vô duyên từ: Nghĩa là lòng từ bình đẳng vô điều kiện đối với tất cả) nhiếp khắp chúng sanh. Tu pháp quán này sau khi bỏ thân, hành giả được sanh ở trước chư Phật, chứng Vô Sanh Nhẫn. Bởi vậy người trí hãy nên buộc tâm, quán kỹ Đức Phật Vô Lượng Thọ…

Trên đây là nói quán khắp tướng toàn sắc thân của Phật, là quán thứ chín”.

Đức Phật A Di Đà là vị giáo chủ ở cõi Tây Phương Cực Lạc, qua 48 lời thệ nguyện của Ngài khi còn là một Pháp Tạng Tỳ Kheo, thì lời nguyện nào cũng có câu: “Giả sử khi tôi thành Phật… nếu không được vậy, thì tôi sẽ chẳng ở ngôi Chánh đẳng Chánh giác”. Vì cái nhân vô lậu, nên phát sinh cái quả vô lậu. Từ thân tướng của Ngài trang nghiêm đẹp đẽ có vô lượng ánh sáng, vô lượng sắc đẹp, vô lượng trí tuệ, vô lượng phước đức… Tất cả đều do công năng trì giới, tu các phép lành trong vô lượng kiếp mà được thành tựu như vậy.

“Phật bảo A Nan và Vy Đề Hy:

Sau khi quán thấy Phật Vô Lượng Thọ tỏ rõ hẳn hòi, tiếp đến cũng nên quán tưởng Bồ Tát Quán Thế Âm.

Vị Bồ Tát này thân cao lớn đến tám mươi muôn ức na do tha do tuần, thân màu vàng tía, đảnh có nhục kế, ót có vòng sáng, bề nào cũng rộng trăm ngàn do tuần, trong vòng sáng có 500 hóa Phật, như Phật Thích Ca Mâu Ni, mỗi mỗi hóa Phật lại có 500 vị hóa Bồ Tát, vô lượng chư thiên để làm thị giả. Quang minh nơi thân khi động khi dừng, bao nhiêu sắc tướng chúng sanh năm đường đều hiện bóng vào. Trên đầu Bồ Tát có đội thiên quan bằng ngọc Ma Ni Tỳ Lăng Già, trong thiên quan ấy có hóa Phật đứng, hóa Phật cao hai mươi lăm do tuần.

Bồ Tát Quan Thế Âm sắc mặt dường như vàng Diêm Phù Đàn, tướng bạch hào đủ màu sắc bảy báu, tuôn ra tám muôn bốn ngàn ánh sáng, mỗi ánh sáng có vô lượng, vô số trăm ngàn hóa Phật, mỗi vị hóa Phật lại có vô số những hóa Bồ Tát theo làm thị giả, biến hiện tự tại khắp mười phương cõi…

Trên đây là pháp quán tưởng sắc thân chơn thật của Bồ Tát Quan Thế Âm, là quán thứ mười”.

Đức Quán Thế Âm là vị Bồ Tát thường theo hầu Đức Phật A Di Đà ở thế giới Tây Phương Cực Lạc và tiếp dẫn chúng sanh khi sắp lâm chung về thế giới kia. Trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa phẩm thứ 25, Ngài là vị Bồ Tát hóa hiện 32 thân khác nhau để cứu đời. Công hạnh của Ngài thật là vô lượng vô biên không thể nói hết. Người Á Châu thường thờ Ngài như là một vị Bồ Tát cứu khổ, cứu nạn. Trong nhiều bài kệ tán thán công hạnh của Ngài có bài:

Bảo Quan đỉnh phật nhân đái quả.
Quá khứ Pháp Minh thiên nhân sư.
Bi nguyện vận vi thiên thủ nhãn
Chiếu hộ quần sinh bất thất thời

Nghĩa:

Trên mão mang theo nhơn, quả Phật
Quá khứ Pháp Minh, Thầy trời người
Lòng từ vận khắp, ngàn tay mắt
Chiếu giúp quần sanh, chẳng kể giờ.

Chúng ta thường hay thấy Đức Quán Thế Âm Bồ Tát ăn vận giống như người nữ, nhưng thật ra Ngài là nam nhân. Vốn đã thành Phật hiệu là Bảo Quang từ trong quá khứ xa xôi và với lòng từ bi hiện ra thân hình có ngàn tay, ngàn mắt để kịp thời cứu hộ chúng sanh trong mười phương vô biên thế giới trong cùng một lúc, chẳng nệ hà khó nhọc.

Đức Phật dạy tiếp:

Kế nữa Bồ Tát Đại Thế Chí.

Thân Bồ Tát này, mức độ lớn nhỏ cũng như Bồ Tát Quán Thế Âm. Vòng sáng trên đầu, mặt nào cũng là một trăm hai mươi lăm do tuần, chiếu ra hai trăm năm mươi do tuần. Mỗi khi động thân, quang minh chiếu suốt cõi nước mười phương, tỏa màu vàng tía, người có phước duyên thảy đều được thấy. Hễ thấy quang minh một lỗ chơn lông của Bồ Tát đây, là thấy ánh sáng thanh tịnh nhiệm mầu của Vô Lượng Đức Phật ở khắp mười phương, do đó tôn hiệu của vị Bồ Tát này là Vô Biên Quang, dùng ánh tuệ quang soi khắp tất cả, làm cho chúng sanh lìa khỏi tam đồ, được lực cao tột. Bởi vậy Bồ Tát được mệnh danh là Đấng Đại Thế Chí. Thiên quang trên đảnh của Bồ Tát có 500 hoa báu, mỗi hoa báu có 500 đài báu, trong mỗi đài báu, những tướng rộng dài, các cõi màu sạch của những Đức Phật, ở khắp mười phương đều hiện trong đó. Nhục kế trên đảnh như hoa sen vàng, trên chót nhục kế có một bình báu đầy những quang minh hiện khắp Phật sự. Ngoài ra những tướng lớn nhỏ trên thân như Quan Thế Âm, không mấy sai khác. Bồ Tát này đi, thì mười phương cõi đều bị chấn động, ngay chỗ đất động có 500 hoa báu, mỗi mỗi hoa báu trang nghiêm, cao sáng như những hoa báu ở cõi Cực Lạc. Khi Bồ Tát ngồi, cõi nước bảy báu lay động một lúc. Từ quốc độ của Đức Phật Kim Quang ở tận phương dưới, cho đến quốc độ Phật Quang Minh Vương ở tột phương trên, trong khoảng giữa ấy, vô lượng trần số phân thân của Đức Phật Vô Lượng Thọ, vô số phân thân của Quán Thế Âm và Đại Thế Chí thảy đều vân tập về cõi nước Cực Lạc, chật ních hư không, đều ngồi tòa sen diễn nói pháp mầu độ chúng sanh khổ.

Quán được như trên gọi là quán đúng, đúng tướng sắc thân của Đại Thế Chí. Đây gọi là pháp quán thứ mười một”.

Đức Đại Thế Chí luôn luôn đi hầu cận bên Đức Phật A Di Đà, là Bồ Tát trợ thủ với Đức Quán Thế Âm, sẽ tiếp dẫn chúng sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc khi được vãng sanh. Có nhiều bài tán ca ngợi tán thán Ngài như sau:

Đảnh thượng bảo bình hiện Phật sự
Nhứt mao khổng trung kiến thập phương
Cử túc chấn kinh chư quốc thượng
Phổ tiếp tịnh nhơn quy Lạc Bang.

Nghĩa:

Trên đầu bình báu hiện Phật sự
Mỗi lỗ chân lông, thấy mười phương
Cất chân chấn động trên các nước
Nhằm tiếp người lành về Lạc Bang.

Vị Bồ Tát này tượng trưng cho năng lực mạnh mẽ, thể hiện trí tuệ. Còn Đức Quán Thế Âm Bồ Tát thì thể hiện lòng từ bi. Khi đứng chung với Đức Phật A Di Đà, gọi đây là Tây Phương Tam Thánh.

“Sau khi quán thành các sự này rồi, nên khởi tự tâm sanh nơi thế giới Cực Lạc phương Tây. Ở hoa sen kiết già ngồi vững. Tưởng hoa xếp lại, tưởng hoa nở ra. Khi hoa nở ra, tưởng có 500 ánh sáng đủ màu chiếu rọi đến thân. Khi mở mắt ra, thấy Phật, Bồ Tát đầy khắp hư không. Nước, chim, rừng cây cùng với chư Phật phát ra tiếng nói, đều diễn phép mầu, hoàn toàn hợp với 12 phần kinh, nếu khi xuất định, ghi nhớ không mất. Thấy sự này rồi, gọi là được thấy Phật Vô Lượng Thọ và cõi Cực Lạc.

Trên đây là pháp quán tưởng cùng khắp, là môn quán tưởng thuộc thứ mười hai.”

Sau khi đã quán tưởng thành thục về Đức Phật A Di Đà và hai vị Bồ Tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí rồi, liền tự quán mình là người sẽ được sanh về thế giới Cực Lạc, ngồi trên đài sen báu và tưởng đến lúc hoa xếp lại cũng như hoa nở ra. Mỗi hoa như vậy chiếu rọi rất nhiều ánh sáng đủ màu. Khi mở mắt cũng như khi nhắm mắt đều thấy Phật và các vị Bồ Tát đầy dẫy trong hư không. Các cảnh mầu nhiệm như chim, nước, cây rừng cũng đều tạo nên những âm thanh nói Pháp, những pháp ấy đúng với nội dung của 12 thể loại kinh điển. Đây là cảnh giới có thật ở cõi Tây Phương đối với những người tin chắc và sâu xa về nhân quả cũng như 12 thể loại kinh điển mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã tuyên thuyết khi Ngài còn tại thế.

“Phật bảo A Nan và Vy Đề Hy:

“. . . Phật A Di Đà thần thông như ý, biến hiện tự tại nơi mười phương cõi. Hoặc hiện thân lớn đầy cả hư không, hoặc hiện thân nhỏ cao một trượng sáu. Ảnh tượng hiện ra đều sắc vàng ròng, vầng sáng nơi thân, các vị hóa Phật cùng hoa sen báu… như trước đã nói.

Bồ Tát Quán Thế Âm, Bồ Tát Đại Thế Chí ở tất cả nơi, thân đồng chúng sanh. Chỉ cần quan sát tướng trên đỉnh đầu là có thể biết Đức Quán Thế Âm hay Đại Thế Chí. Hai Bồ Tát này luôn luôn hỗ trợ Phật A Di Đà hóa độ tất cả.

Trên đây là pháp quán tưởng tạp, là pháp quán tưởng thứ mười ba.”

Tạp tưởng quán là quán chung tất cả ba vị Tây Phương Tam Thánh. Từ Đức Phật A Di Đà cho đến hai vị Bồ Tát. Những người tu theo Pháp Môn Tịnh Độ khi quán tưởng về tướng của ba vị này, không thể thiếu việc quán về thân tướng, ánh sáng, màu sắc v.v… để thâm nhập vào tâm thức của mình. Vì đây là cái nhân để được tiếp dẫn về Tây Phương Tịnh Độ.

Phật bảo A Nan và Vy Đề Hy:

- Thượng phẩm Thượng sanh là hạng người nào?

Nếu có chúng sanh nguyện sanh về nước ấy, phát ba thứ tâm bèn được vãng sanh. Những gì là ba? Tâm thứ nhất là chí thành tha thiết. Tâm thứ hai là mong muốn sâu nặng. Tâm thứ ba là phát nguyện hồi hướng. Đủ ba tâm quyết sanh nước ấy.

Lại có ba hạng chúng sanh tu hành, sẽ được vãng sanh. Những gì là ba? Hạng thứ nhất là: Tâm từ chẳng giết, đủ các giới hạnh. Hạng thứ hai là: Đọc tụng kinh điển Phương Đẳng Đại Thừa. Hạng thứ ba là: Tu sáu pháp niệm (niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm thí, niệm giới, niệm các thiền định) hồi hướng phát nguyện, nguyện sanh nước ấy…

Đó là những người Thượng Phẩm Thượng Sanh.

- Thượng phẩm Trung sanh là hạng người nào?

Đây là hạng người không hẳn đọc tụng kinh điển Đại Phương Đẳng, nhưng khéo hiểu nghĩa, với đệ nhất nghĩa tâm không kinh động, tin sâu nhân quả, không chê Đại Thừa, dùng công đức này hồi hướng nguyện cầu sanh nước Cực Lạc. Người tu hành này khi sắp mạng chung, Phật A Di Đà với Quan Thế Âm và Đại Thế Chí, Vô lượng Đại chúng, quyến thuộc bao quanh cầm đài vàng tía đến trước hành giả khen rằng: “Hỡi này Pháp tử! Ngươi tu Đại Thừa, hiểu đệ nhất nghĩa, vì thế nay ta đến đón tiếp ngươi…”

Đó gọi là Thượng phẩm Trung sanh.

- Thế nào là hạng Thượng phẩm Hạ sanh?

Đây là những người cũng tin nhân quả, không chê Đại Thừa, nhưng chỉ phát tâm Vô thượng Bồ Đề, dùng công đức ấy hồi hướng nguyện cầu sanh nước Cực Lạc. Khi hành giả này sắp sửa mệnh chung, Phật A Di Đà, Quán Âm, Thế Chí cùng chư Bồ Tát cầm hoa sen vàng, hóa ra 500 Đức Phật đến đón người này. Năm trăm hóa Phật cùng lúc trao tay khen rằng: “Pháp tử! Nay ngươi thanh tịnh phát tâm Vô Thượng, ta đến đón ngươi…”

Ba hạng trên đây thuộc tưởng vãng sanh của hạng người bậc thượng, là quán thứ mười bốn.”

Tất cả những ai được sanh về Thượng Phẩm đều thuộc loại thượng căn, thượng trí, tin sâu Đại Thừa và nhân quả cũng như phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, cầu giải thoát sanh tử sau khi lâm chung ở thế giới Ta Bà này thì sẽ được chính Đức Phật A Di Đà và hai vị Bồ Tát Quán Thế Âm cùng Bồ Tát Đại Thế Chí đến nghinh tiếp. Khi về đó rồi gặp Phật liền (bực Thượng) hay sau một ngày đêm (bậc Trung) và sau bảy ngày đêm (bậc hạ), kế tiếp nghe Phật thuyết pháp.

“Phật bảo A Nan và Vy Đề Hy:

Trung Phẩm Thượng Sanh là hạng thế nào?

- Nếu có chúng sanh thọ trì 5 giới, Bát Quan Trai giới, thực hành các giới, không tạo ngũ nghịch, tránh các lỗi lầm. Đem cái lành này hồi hướng nguyện cầu sanh về thế giới Cực Lạc Phương Tây. Lúc sắp mệnh chung Phật A Di Đà và các Tỳ Kheo, quyến thuộc vây quanh, phóng quang màu vàng, đến chỗ người ấy, diễn nói những nghĩa: Khổ, không, vô thường, vô ngã, khen ngợi xuất gia được lìa các khổ. Hành giả thấy rồi tâm rất vui mừng, tự thấy thân mình ngồi trên đài hoa sen, quỳ thẳng chắp tay đảnh lễ Đức Phật chưa kịp ngẩng đầu liền được vãng sanh về thế giới Cực Lạc, hoa cũng vừa nở, ngay lúc hoa nở, nghe các âm thanh khen pháp Tứ Đế, lúc ấy liền chứng quả A La Hán, đầy đủ ba mươi sáu sức thần thông và tám giải thoát. Đó là hạng người Trung Phẩm Thượng Sanh.

Trung Phẩm Trung Sanh là những hạng nào?

- Nếu có những người, một ngày một đêm giữ Bát Quan Trai, hoặc một ngày một đêm giữ giới Sa Di, hoặc một ngày một đêm giữ giới Cụ Túc, oai nghi không khuyết. Đem công đức này hồi hướng cầu nguyện sanh nước Cực Lạc, thường hay huân tu giới hương giải thoát. Hành giả như thế khi sắp mệnh chung, thấy Phật A Di Đà và các quyến thuộc phóng quang sắc vàng, cầm hoa sen báu đến trước hành giả, khi ấy hành giả tự nghe trong không trung có tiếng ca ngợi: Hỡi thiện nam tử! Người lành như con, vì biết thuận theo lời dạy của các Đức Phật ba đời, cho nên nay ta đến đón tiếp con !”…

Trung Phẩm Hạ Sanh lại như thế nào?

- Nếu kẻ thiện nam, người thiện nữ nào hiếu thảo với cha mẹ, hay làm các việc từ thiện giúp đời, người này đến lúc vừa sắp mệnh chung, gặp thiện tri thức vì họ nói rộng sự vui ở cõi nước Phật A Di Đà, cũng nói rõ về 48 lời nguyện của Ngài Pháp Tạng, nghe xong điều ấy, người này mệnh chung, nhanh như thời gian một người lực sĩ co duỗi cánh tay, người ấy liền sanh về thế giới Cực Lạc, qua khỏi bảy ngày liền thấy Quán Thế Âm và Đại Thế Chí, nghe pháp hoan hỷ chứng Tu Đà Hoàn, một tiểu kiếp sau thành A La Hán. Đó là hạng người Trung Phẩm Hạ Sanh.

Ba bực vừa rồi gọi là tưởng sanh của hạng Trung Phẩm, là phép quán thứ mười lăm.”

Hạng Trung Phẩm là hạng dành cho những người Trung căn trung trí. Họ giữ gìn giới luật suốt đời, cho đến một ngày một đêm, hay tu tạo những công đức phước điền và đem những căn lành này hồi hướng nguyện cầu sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc thì khi mạng chung có Đức Phật A Di Đà và các vị Tỳ Kheo quyến thuộc phóng quang đến chỗ người ấy tiếp dẫn sanh về Tây Phương, hoa sen liền nở hay qua bảy ngày sau hoa sen mới nở và bảy ngày sau mới thấy được Đức Quan Thế Âm Bồ Tát và Đức Đại Thế Chí Bồ Tát nghe pháp tu hành và chứng liền quả A La Hán, hay Tu Đà Hoàn và qua nửa kiếp mới thành A La Hán, hoặc một tiểu kiếp sau mới thành A La Hán.

Những người sanh về Trung Phẩm không gặp được trực tiếp Đức Phật A Di Đà, mà chỉ gặp các vị Bồ Tát thuyết pháp cho nghe. Từ đó chứng đắc được những quả vị rốt ráo của Tiểu Thừa.

“Phật dạy A Nan và Vy Đề Hy:

Hạ Phẩm Thượng Sanh là những người nào?

Hoặc có chúng sanh tạo các nghiệp ác, tuy không chê bai kinh điển Đại Thừa. Hạng ngu như thế tạo nhiều điều dữ không biết hổ thẹn. Khi sắp mạng chung, may mắn được gặp bực thiện tri thức, vì họ giảng nói tên gọi đầu đề 12 phần kinh. Nhờ nghe thể tài các kinh như thế, trừ khỏi nghiệp ác cực nặng trong một ngàn kiếp, bực thiện trí thức lại dạy chắp tay xưng niệm Nam Mô A Di Đà Phật. Bởi xưng danh hiệu Phật, nên trừ tội lỗi trong đường sống chết 50 ức kiếp.

Khi ấy Phật kia liền khiến hóa Phật, hóa Quán Thế Âm Bồ Tát, hóa Đại Thế Chí đến trước hành giả khen rằng: Hỡi thiện nam tử! Bởi con xưng niệm danh hiệu Phật nên tội được tiêu diệt, ta đến đón con…”

Trên đây được gọi là Hạ Phẩm Thượng Sanh.

Phật dạy A Nan và Vy Đề Hy:

Hạ Phẩm Trung Sanh là hạng người nào?

Hoặc có chúng sanh hủy phạm 5 giới, hủy phạm tám giới và Cụ Túc giới, người ngu như thế ăm trộm những vật của thường trụ, ăn cắp những vật của hiện tiền tăng, bất tịnh nói pháp không hổ thẹn, dùng các nghiệp xấu để tự tô điểm. Tội nhân như vậy, bởi nghiệp ác nên đáng đọa địa ngục. Khi sắp mệnh chung, những lửa địa ngục cùng lúc hiện đến, may sao được gặp bực thiện tri thức, đem lòng từ bi, vì họ khen nói 10 lực, oai đức của Phật A Di Đà, rộng khen quang minh thần lực Phật ấy, đồng thời khen ngợi về giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến. Người này nghe rồi trừ tội sống chết tám mươi ức kiếp, tướng lửa địa ngục hóa thành gió mát, thổi những hoa trời, trên hoa đều có hóa Phật, Bồ Tát đón tiếp người này, trong khoảng một niệm liền được vãng sanh, ở trong hoa sen nơi ao bảy báu, trải qua sáu kiếp hoa sen mới nở, được Quán Thế Âm và Đại Thế Chí với giọng thanh tao an ủi người ấy và nói cho nghe kinh điển thẳm sâu, người ấy nghe pháp, ngay đó phát tâm Vô Thượng Bồ Đề. Đây gọi là bực Hạ Phẩm Trung Sanh.

Phật bảo A Nan và Vy Đề Hy:

Hạ Phẩm Hạ Sanh là những người nào?

Hoặc có chúng sanh gây nghiệp bất thiện: năm tội đại nghịch, mười điều độc ác. Tóm lại, đủ các điều chẳng lành. Kẻ ngu như thế do nghiệp xấu nên đáng đọa đường dữ, trải qua nhiều kiếp chịu khổ vô cùng. Kẻ ngu si này lúc sắp lâm chung, may mắn được gặp bực thiện tri thức an ủi đủ điều, nói những pháp mầu và dạy tưởng Phật, người nọ quằn quại tưởng niệm không nổi. Tri thức lại bảo: Nếu ngươi không thể niệm tưởng Phật kia, thì nên xưng danh Phật Vô Lượng Thọ. Người nọ hết lòng niệm chẳng dứt tiếng để đủ mười niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”.

Nhờ xưng danh Phật nên trong mỗi niệm trừ tội sanh tử 80 ức kiếp, khi vừa tắt hơi thấy hoa sen vàng như vầng mặt trời ở trước người ấy, trong khoảng phút chốc liền được vãng sanh thế giới Cực Lạc, ở trong hoa sen mãn mười hai kiếp hoa sen mới nở, Bồ Tát Quán Âm, Bồ Tát Thế Chí với tiếng Đại Bi, nói rộng cho nghe thật tướng của các pháp và cách diệt tội, kẻ ấy nghe rồi vô cùng hoan hỷ, ngay đó phát tâm Vô Thượng Bồ Đề.

Đây thuộc về hạng Hạ Phẩm Hạ Sanh, gọi là tướng sanh của bực Hạ Phẩm, là quán thứ mười sáu.

Ba bực hạ này đều thuộc về loại hạ căn hạ trí, hủy giới, phá trai, phạm vào những điều ngũ nghịch trọng tội, nhưng nhờ biết tàm quý và các Thiện Hữu Tri Thức đến lúc lâm chung nhắc nhở cho việc niệm danh hiệu Phật, nên các tội chướng mới được tiêu trừ và liền được vãng sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc. Bậc thượng được hóa Bồ Tát đến trước hành giả khen tặng. Bậc trung được gặp thiện hữu tri thức và bực hạ hạ cũng thế. Khi được sanh về thế giới Cực Lạc rồi, trải qua 49 ngày ở thế giới ấy hoa sen mới nở và trải qua 10 tiểu kiếp mới được vào Sơ Địa. Bực kế tiếp (bậc hạ phẩm trung sanh) trải qua 6 kiếp hoa sen mới nở và được nghe giọng nói của Đức Quán Thế Âm và Đại Thế Chí, liền đó phát tâm Vô Thượng Bồ Đề. Hạng cuối cùng (hạ phẩm hạ sanh) phải ở trong hoa sen 12 tiểu kiếp hoa sen mới nở và nghe tiếng Đại Bi của Đức Quán Thế Âm cũng như Đức Đại Thế Chí thì ngay đó phát tâm Vô Thượng Bồ Đề.

Tất cả những ai được sanh vào bực Hạ Phẩm đều được gọi là “Thai sanh” hay “Thai cung biên địa” của thế giới Cực Lạc. Vì lẽ khi thai sanh về đó đều phải nằm trong hoa sen từ 49 ngày đến 12 tiểu kiếp mới nghe được tiếng thuyết pháp của các vị Bồ Tát. Chỉ có một điều lợi lạc là không bị sanh tử luân hồi chi phối. Từ những phẩm sen này có thể phát tâm tu hành tiếp tục, để chứng ngôi vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Trong kinh “Vô Lượng Thọ”, quyển thượng, nơi lời nguyện thứ 18, Ngài Pháp Tạng Tỳ Kheo thệ nguyện rằng: “... ngoại trừ những kẻ phạm tội ngũ nghịch và những kẻ không tin chánh pháp”, nhưng ở kinh “Quán Vô Lượng Thọ” phần Hạ Phẩm này từ Thượng, Trung, Hạ đều là những người phạm tội, nhưng may nhờ có những Thiện Hữu Tri Thức trợ niệm lúc sắp lâm chung và ít ra cũng niệm được 10 câu Phật hiệu Nam Mô A Di Đà Phật mới được sanh về chốn “thai cung biên địa” này.

Ngoài ra trong kinh “Đại Bát Niết Bàn” phẩm Phạm Hạnh trong quyển thứ hai. Đức Phật cũng có dạy rằng: “Nhứt Xiển Đề cũng có khả năng thành Phật. Vì lẽ các pháp đều bất định, nên Nhứt Xiển Đề cũng bất định.” Ngày trước tuy không tin nơi chánh pháp, nhưng trải qua vô lượng kiếp đã phát khởi lòng tin tưởng. Chính niềm tin này sẽ dẫn hành giả kia dần đến chỗ cao cả hơn.

“Phật nói đến đây, Vy Đề Hy và 500 thị nữ nghe những lời Phật, ngay đó liền thấy cả tướng rộng dài thế giới Cực Lạc, được thấy thân Phật và hai Bồ Tát, tâm sanh mừng rỡ khen chưa từng có, bừng sáng tỏ ngộ, chứng vô sanh nhẫn, 500 thị nữ phát tâm Bồ Đề, nguyện sanh Lạc Quốc. Đức Phật thọ ký tất cả số ấy đều sẽ vãng sanh, sanh nước ấy rồi chứng được Tam Muội “Chư Phật hiện tiền”, vô lượng chư thiên đều phát đạo tâm cao tột...

(Tất cả những trích dẫn nằm trong ngoặc kép của những đoạn kinh văn trên đều nằm trong “Ba Kinh Tịnh Độ” do cố Thượng Tọa Thích Thiện Thông dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt năm 1991 và đã được Chùa Viên Giác Hannover - Đức Quốc, tái ấn tống năm 2008 - Phật lịch 2552).


    « Xem chương trước «      « Sách này có 10 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này

_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 3.140.188.23 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

Việt Nam (261 lượt xem) - Hoa Kỳ (16 lượt xem) - Senegal (13 lượt xem) - Saudi Arabia (4 lượt xem) - Đức quốc (3 lượt xem) - Nga (2 lượt xem) - Hungary (1 lượt xem) - ... ...