Người nhiều lòng tham giống như cầm đuốc đi ngược gió, thế nào cũng bị lửa táp vào tay.
Kinh Bốn mươi hai chương
Mục đích của đời sống là khám phá tài năng của bạn, công việc của một đời là phát triển tài năng, và ý nghĩa của cuộc đời là cống hiến tài năng ấy.
(The purpose of life is to discover your gift. The work of life is to develop it. The meaning of life is to give your gift away.)David S. Viscott
Hạnh phúc không tạo thành bởi số lượng những gì ta có, mà từ mức độ vui hưởng cuộc sống của chúng ta.
(It is not how much we have, but how much we enjoy, that makes happiness.)Charles Spurgeon
Mất lòng trước, được lòng sau. (Better the first quarrel than the last.)Tục ngữ
Tôi không thể thay đổi hướng gió, nhưng tôi có thể điều chỉnh cánh buồm để luôn đi đến đích.
(I can't change the direction of the wind, but I can adjust my sails to always reach my destination.)Jimmy Dean
Bạn có thể trì hoãn, nhưng thời gian thì không. (You may delay, but time will not.)Benjamin Franklin
Hãy lặng lẽ quan sát những tư tưởng và hành xử của bạn. Bạn sâu lắng hơn cái tâm thức đang suy nghĩ, bạn là sự tĩnh lặng sâu lắng hơn những ồn náo của tâm thức ấy. Bạn là tình thương và niềm vui còn chìm khuất dưới những nỗi đau.
(Be the silent watcher of your thoughts and behavior. You are beneath the thinkers. You are the stillness beneath the mental noise. You are the love and joy beneath the pain.)Eckhart Tolle
Sống trong đời cũng giống như việc đi xe đạp. Để giữ được thăng bằng bạn phải luôn đi tới.
(Life is like riding a bicycle. To keep your balance you must keep moving. )Albert Einstein
Cho dù người ta có tin vào tôn giáo hay không, có tin vào sự tái sinh hay không, thì ai ai cũng đều phải trân trọng lòng tốt và tâm từ bi. (Whether one believes in a religion or not, and whether one believes in rebirth or not, there isn't anyone who doesn't appreciate kindness and compassion.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Lời nói được thận trọng, tâm tư khéo hộ phòng, thân chớ làm điều ác, hãy giữ ba nghiệp tịnh, chứng đạo thánh nhân dạyKinh Pháp Cú (Kệ số 281)
Cỏ làm hại ruộng vườn, si làm hại người đời. Bố thí người ly si, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 358)
Bức thứ mười một: (Hồ Tôn Hiến thanh tra đất cũ, nhớ tiếng đàn Thuý Kiều. Trong tiệc thơ, có nhà văn kể lại đời nàng. Hồ ban tặng Kim Trọng cây đàn)
Kim về tựa án đăm chiêu Chập chờn lửa múa, tiêu điều gió đưa Vào Đông tiết giá mưa thưa Cành trơ vàng rụng, đào vừa hồng khai
° ° ° Huyện đường kể buổi sáng nay Có Hồ Tổng đốc nhân ngày thanh tra Đất bằng nhớ trận phong ba Thác là ngựa cuốn, gió là cờ reo Hồ cùng Từ Hải – một keo Nắng ngời kiếm kích, mây neo lọng tàn (860)
Vài năm giặc giã tan hàng Mưu cơ đôi kế, ngọc vàng dăm rương Họ Từ - đối thủ phi thường Nam bang trí dũng chẳng nhường một ai Võ văn thao lược là tài Đức dung hào kiệt, trí ngoài thần cơ Nêu chính nghĩa, dựng màu cờ Danh vang trung thổ, khí mờ đẩu tinh Giá là rường cột triều đình Bốn phương mở cõi, thái bình cậy tay (870)
Cứ xem người đó ta đây Trời cao hơn hẳn đất dầy - chẳng sai Xưa nay những bậc kỳ tài Tử sanh là chuyện bên ngoài, luận chi Tấn trò dâu biển qua đi Nghĩa nhân mới để chút gì làm duyên Mượn danh đãi sĩ chiêu hiền Che quân mai phục giáo khiên sáng loà Họ Từ thừa biết mưu ta Vẫn vào đất chết như là rong chơi (880)
Vả chăng tuốt mũi gươm ngời Hai bên kéo một cuộc chơi đến cùng Dù cho trời đất chẳng dung Hùm thiêng trong rọ vẫy vùng chưa thôi Lại thêm thây chất nên đồi Nát nhầu cỏ nội, tả tơi lá ngàn Hẳn Từ chẳng vị giàu sang Lồng son sao đáng phượng hoàng khép thân Mà e gió dập mây vần Thêm hồn vô tội dưới chân ngựa giày (890)
Một khi nát cỏ tàn cây Đời Kiều ắt hẳn thêm đày đoạ mưa Anh hùng nhi nữ nghìn xưa Vướng nhau vì một đường tơ diệu vời
° ° ° Những đêm tàn rượu chơi vơi Trong ta chợt hiện bóng người hiên ngang Mắt Từ - kiếm ảnh chưa tan Khiến thân co lạnh trong làn khí thiêng Nghĩ mình muôn trận cung tên Việc quân trá thuật là quyền xưa nay (900)
Ngại gì máu nhuộm hồng tay Thây oan chừng đã chất đầy đồng hoang Tử sanh - là luật sa tràng Giáo gươm là tín, trá gian là tài Chiến tranh – chẳng khác canh bài Mua vui trong cuộc trần ai nhọc nhằn Chỉ vì chút lợi chút danh Được thua đắp đỗi – tan tành tiếp nhau Đã thành cái lệ biển dâu Yếu thua, mạnh được – cao sâu đặt bày (910)
Trừ khi Thánh Chúa vần xoay Yêu thương sự sống ngừng tay hận thù Lòng không biển thẳm non mù Hợp hoà cuộc thế thiên thu cậy nhờ Còn như trí thuật nghìn xưa Bày ra thêm những vực bờ tâm gian
° ° ° Núi sông trải mãi xương tàn Đổi thành mấy đấu lương quan triều đình Cúi đầu lấy nhục làm vinh Mắt mờ tai điếc, dân tình mặc ai (920)
Vật vờ áo mão cân đai Vào trong khúm núm, ra ngoài vây vo Tiếc cho thân cũng trong lò Tỉnh thôi tóc đã màu tro ngả chiều Hồn oan nào biết bao nhiêu Lẫn hơi gió lạnh ít nhiều oán pha Mắt Từ như lưỡi gươm loà Đêm đêm vào mộng nhìn ta lạnh lùng Trải qua muôn trận thư hùng Khơi sông máu hận đổi chung rượu đầy (930)
Đã từng xé xác phanh thây Xem như phạt cỏ chém cây là thường Kể chi thiện ác thói thường Chiến tranh là đến yêu thương nhiệm mầu Mặc cho lũ quỷ không đầu Dắt nhau lủi thủi qua cầu tử sinh Từ hôm cái chết oanh linh Trong tâm ám ảnh, bên tình không yên Khiến ta u uất não phiền Đêm đêm thao thức ngó viền trăng phai (940)
Bao giờ hoà hợp muôn loài Bên trong thịnh đức, bên ngoài điều phương Làm sao mở hết biên cương Trần gian dựng một thiên đường chung vui Cho hoa tươi góp ngàn tươi Cho ta dâng nốt cuộc đời góp công
° ° ° Qua đây nhớ tiếng tơ đồng Ngày tàn binh lửa núi sông nhuộm cờ Tay Kiều lướt mấy dòng tơ Năm cung còn đến bây giờ vọng vang (950)
Sông Thương nào sóng mang mang Tấm lòng nghĩa nước tình chàng chia đôi An Tiêm nào nỗi bồi hồi Hồn quê theo cánh diều trôi mây về Bốn dây như điếng như tê Nỉ non oán đọng, não nề sầu câm Bây giờ vẫn thoảng dư âm Tiếng đàn thanh lặng khóc thầm bấy nay Tơ xưa rụng ở đất này Ngọc xưa trầm dưới sông vầy lênh đênh (960)
Đoạn trường sóng dọi trăng thanh Tưởng xiêm y đó còn xanh đến giờ Bãi chiều hoa trắng đong đưa Ngỡ tay người cũ phím tơ lạnh lùng Giờ nhìn kỹ nữ so cung Hồ ngồi tựa gối nhắp chung trà buồn Sân mưa sùi sụt dòng tuôn Dương như lệ tủi kiếp hường long đong Cùng tân khách ngỏ hận lòng Hồ tơ nay chạnh tiếng đồng tiệc quân (970)
Ngày xưa, của một giai nhân Giết chồng, cứu nước muôn phần vẻ vang Rồi thân giao xuống Tiền Đàng Trăm năm vẹn nghĩa đá vàng sâu xa
° ° ° Bấy giờ có một văn gia Thưa rằng chuyện ấy tôi đà rõ hay Giở trang tài mệnh xưa nay Cùng hoen nước mắt, càng dày túc duyên Dòng đời khi xuống khi lên Cũng là thử thách cánh thuyền thiên hương (980)
Kể từ đất cũ họ Vương Kiều, Vân phận gái riêng vườn ẩn hoa Vương Quan, trai nối dòng nhà Soi trăng đọc sách đậm đà kinh luân Thuý Kiều vì hiếu quên thân Duyên trời vừa hé nụ xuân vội tàn Tưởng cùng Kim dệt phím loan Trăm năm hoà một bản đàn rồng mây Ai ngờ một sớm chia tay Mảnh trăng, đất nọ đất này nhớ nhau (990)
° ° ° Kẻ đi buồn trắng ngàn lau Người về tay nhặt hoa cau lệ tràn Vận nhà gặp chuyện trái oan Vàng ba trăm lạng lễ quan mới thành Chuộc cha, nàng phải bán thân Dầu sôi lửa bỏng dám lần lữa đâu Cậy em trả mối tình đầu Hạt mưa liều phận, chôn câu nguyệt thề Rơi vào tay họ Mã kia Dầm sương dãi gió một xe bụi hồng (1000)
Cánh bèo ngơ ngác trên sông Lầm nơi buôn hạnh, bán hồng mà trao Phận Kiều chưa ngọt tay dao Then sương đóng chặt hoa vào lầu xanh Lại lầm thêm mẹo Sở Khanh Miệng kêu chẳng thấu thôi đành phận câm Đứt lòng nức tiếng ca ngâm Rượu cười cợt khách lệ tầm tã riêng Nàng cùng chàng Thúc vầy duyên Tưởng qua dầu dãi lại thêm đoạ đày (1010)
Chước ghen vợ Thúc mới hay Khiến mày mặt tủi – ngó mày mặt đau Trái oan đành phận tôi hầu Cá nằm đáy lưới lo rầu sớm hôm Vượt tường ẩn chốn Thiền môn Nhưng e thêm trận sóng cồn phong ba Lần thêm Bạc Hạnh, Bạc Bà Tưởng đâu mái ấm lại là lầu xanh Thôi thì sen lấm bùn tanh Gió mưa thêm nữa vầy cành thu mưa (1020)
Não nùng nguyệt đón sương đưa Tình riêng còn ánh sao thưa cuối trời
° ° ° Một hôm đất Việt có người Nghênh ngang đàn kiếm tìm nơi chuộc nàng Nửa năm duyên bén đá vàng Họ Từ nổi máu hồ giang quen ngày Đưa chồng ngựa nhạt yên mây Phòng thu khép kín đêm ngày mênh mông Người đi mù mịt non sông Cho hoa quỳ võ một bông hướng chờ (1030)
Ngó sao, sao cũng hoen mờ Hỏi trăng, trăng cũng lặng lờ tuyết băng Nhện buồn thì giở tơ giăng Người buồn khâu áo, biết rằng gửi ai Gió phai màu lá hiên ngoài Lệ phai sắc gối đêm dài bóng câm
° ° ° Một hôm binh giáp ầm ầm Từ về tráng khí hùng tâm chói loà Trai hào kiệt, gái anh hoa Một lời đã hẹn dẫu là trăm năm (1040)
Bao phen ngậm lệ kêu thầm Nhục phơi mặt tái, sầu bầm dạ tuơng Kiều đem - ân oán tỏ tường Trả vay cho rõ lẽ thường quả nhân Những phường buôn liễu vùi xuân Đầu bêu cửa chợ xa gần hãi kinh
° ° ° Thế rồi binh mã triều đình Cọp beo là dũng, ngạc kình là oai Tướng trời nổi trận gió bay Rạng ơn thánh thượng, một ngày giặc tan (1050)
Thưởng công nàng với thổ quan Lênh đênh chèo quế, sóng lam dặt dìu Lòng ai tan tác muôn chiều Tiền Đường nước bạc gieo liều phù dung Chìm vào con nước - năm cung Cho đàn hoá sóng não nùng lòng ai Tiền căn chưa dứt thiên tài Cành vàng lại vướng mẻ chài thiện duyên Từ đây khoác áo hương thiền Nước dương tẩy oán tan phiền từ đây (1060)
Mệnh đàn tưởng cuốn tơ dây Cửa Không chôn chặt những ngày xa xưa
° ° ° Cuộc đời lắm nỗi tình cờ Khi trông không lại, chẳng chờ thì qua Từ Kim quẩy sách về nhà Chịu tang đất cũ, nhớ hoa đất người Nửa năm của lệch gió cười Hong đèn – sợ bóng, trông vời – tiếc trăng Đoạn tang vội vã vân đằng Lòng thu dặm bụi, ngựa băng nội dài (1070)
Liễu xa những tưởng sầu ai Áo bay ráng đỏ, tóc gài mây xanh Đàn còn đợi ngẩn ngơ thanh Hiên văn sẽ lại nguyên vành trăng hương Một chiều giậu cũ dừng cương Bưởi phơi nụ lệ bên đường lất lây Hỏi nhà Vương - đã rời đây Hỏi nàng, đã đáp xe mây vân trình Hỏi tình, tình đã quên tình Vườn đào xanh cũ tưởng hình trâm rơi (1080)
Tường xưa, mòn lệ trông vời Hoa xưa dột não lời thề hoa Buồng trầm xưa vẳng âm ba Còn rau sam, ấy nắng tà, vàng trơ Tỉ tê dế gọi trăng mờ Mấy tàu lá chuối xạc xờ gió lay Chàng Kim dõi đó tìm đây Sào phơi còn giải lụa dày dạn mưa Quẩn quanh nhặt chút hương thừa Chiếc hồn ma dại vật vờ thềm hoang (1090)
Hỏi người tìm đến cuối làng Nhà Vương ẩn mái tranh tàn cột xiêu Hàn huyên nhắc lại chuyện Kiều Chứa chan khoé lệ, tiêu điều mày chau Tưởng nàng xa biệt ngàn dâu Bâng khuâng tóc biếc, giãi dầu mặt hương Tưởng hoa ngậm lệ canh trường Hồn theo cánh đóm tha phương lập loè Chừng đâu trong mảnh trăng kia Cùng soi hai mặt, cùng nghe lạnh lùng (1100)
Trăng chung mà gối chẳng chung Lệ rơi lấp lánh một vùng ánh trăng Ước gì hoá được mây giăng Tìm nhau khắp chốn dẫu rằng tàn hơi Ước chi hoá hạt sương ngời Thiết tha đậu xuống tóc nguời miên man
° ° ° Cứ theo ước nguyện của nàng Thuý Vân sẽ kết cùng chàng mối duyên Vương, Kim khuya sớm bút nghiên Bảng treo nhành quế tên điền rõ hai (1110)
Bõ công kinh sách miệt mài Việc quan gánh vác, trong ngoài hiển vinh Lòng càng khơi ngọn lửa tình Trơ vơ trăng dõi, lung linh đèn sầu
° ° ° Chàng Kim dong ngựa tìm châu Bâng khuâng nắng giãi, âu sầu suơng in Vẫn là mù mịt bóng chim Nhạn bay núi Bắc đi tìm biển Đông Kể gì đèn phố khói sông Mắt soi tám hướng, lòng mong mười chiều (1120)
Cỏ hoa cũng tưởng Thuý Kiều Bâng khuâng suối bổng, đăm chiêu núi trầm Trời xanh thương kẻ có tâm Trong nơi tuyết giá hé mầm tin xuân Bao năm xuôi ngược đường trần Lang thang vó ngựa một thân võ vàng Được tin nàng – đã mất nàng Mạch sầu cắt nhỏ đôi hàng lệ xanh Kim nghe mới thấu ngọn ngành Kiếp hoa từ thuở lìa cành đớn đau (1130)
Hết đày đoạ chốn thanh lâu Lại sa vào phận tôi hầu trớ trêu Kiếp người chừng được bấy nhiêu Mà bao hàng lệ tiêu điều thấm hoen Trách trời nỡ nặng lòng ghen Hết vùi tài trí, lại lèn giai nhân Cõi hồng đã rạc dấu chân Lòng mong dầu chỉ một lần thoáng qua Dẫu tình dang dở đôi ta Một lần thấy mặt âu là trăm năm (1140)
Sông dài vừa gặp cá tăm Thì người xưa đã yên nằm đáy sông Ối thôi! Vỡ ngọc tàn hồng Thương nhau xin cảm nỗi lòng cho nhau Đàn tràng lập bến sông sâu Lệ tình rửa ngọc tươi màu băng nguyên Trả nhau vẹn nửa trăng nguyền Nước dương xin giải ưu phiền hờn oan Lênh đênh mặt sóng hoa tang Bó hoa nổi giữa mây vàng lô xô (1150)
° ° ° Bỗng dưng hiện đến sư cô Nón gồi lá thẫm, dép bồ cỏ thơm Áo Đà vạt đậm hoàng hôn Quẩy kinh đầu gậy rẽ cồn lau vương Ảnh Kiều, vừa nhác bàn hương Mắt trầm tươi nét, dáng sương ngại ngần Nhà sư bỏ nón dừng chân Hai bên thi lễ thưa gần thưa xa Cửa Thiền còn ẩn tố nga Vừa nghe những tưởng đâu là chiêm bao (1160)
Chàng Kim mắt lệ tuôn trào Kẻ sau người trước xôn xao lạy mừng Kéo nhau lên đỉnh cồn rừng Cây xao nhã điệu, chim bừng nhã thanh
° ° ° Hương chiều ngan ngát am tranh Ngoài sân man mác mấy nhành lan rơi Dưới hoa thấp thoáng bóng người Quét hoa tay cũng lả ngời chùm hoa Nhìn nhau suối lệ tuôn oà Nỗi riêng tủi thẹn, nỗi nhà đoàn viên (1170)
Phận bèo trôi dạt sông thiêng Ngờ đâu hai mảnh trăng nguyền chưa phai Một nhà sum họp trúc mai Thêm chim tấu nhạc, thêm đài bông dâng Bõ rài rạc ngựa bâng khuâng Bõ hiu hắt gió theo vầng mây xanh Cõi lòng cũng rộn yến oanh Viền trăng duới lại gặp vành trăng trên Dòng hương quyện sóng đàn lên Đổi tình cầm sắt thành duyên cầm kỳ (1180)
Người kiệt nữ ấy là chi Đương Kim quan huyện, chính vì phu nhân
° ° ° Hồ nghe vẻ mặt tần ngần Bờ sương ngạn liễu giang tân nhạt nhoà Tiểu đình trầm mặc hiên hoa Trà sen đọng nguyệt, tỳ bà dừng loan Sượng sùng khoé mắt thượng quan Nửa chi cay đắng, nửa san ngậm ngùi Sáng nay, Hồ mới sai người Đem cây đàn quý ban nơi huyện đường (1190)
Thiên tình lại dệt đôi chương Thưởng công trị loạn, tuyên dương hiền tài Kim về tựa án thở dài Nến trong lệ đọng, mưa ngoài hiên thưa Tặng đàn hẳn nhắc tiếng xưa Trị dân – thầm nhủ như vừa so dây Ra vào, tư lự riêng tây Nghĩ mai thiết yến, đặt bày lo toan Ngoài hiên có tiếng a hoàn Dâng thơ đã nhác tên nàng đề phong (1200)
Nến rơi lã chã giọt hồng Xem qua nhẹ nỗi bận lòng tối nay Chữ Kiều, lãng đãng hương bay Lủa pha sắc giấy ửng mây chiều mờ Đàn này, thiếp đã so tơ Quả là báu vật, bây giờ, tạ ơn Ấm thì mạch suối nào hơn Ngân thì tiếng hạc như vờn cồn trăng Trục đàn sáng ngọc tươi băng Xuân phơi khói núi, Thu giăng tơ trời (1210)
Cảm riêng khó tả nên lời Xin cho tiện thiếp dự nơi tao đàn
° ° ° Trước là đáp lễ thượng quan Sau cùng bằng hữu dâng làn cung tơ Tri âm tạ mối duyên thơ Chút lân tài đã đợi chờ mấy Đông Thiếp xin ghi tạc ơn lòng Đêm nay thảo vội đôi dòng bút trao
° ° ° Đồi xa nai vọng tiếng gào Ngoài hiên nhoà nhạt cội đào đơm sương (1220)
Bóng ai quạnh quẽ trên tường Gió Đông lùa mấy dòng hương nhạt màu
XII. Dậy sóng Tiền Đường
Bức thứ mười hai: (Nhờ tiếng đàn của Thuý Kiều, Hồ Tôn Hiến giải thoát khỏi con mắt ám ảnh của Từ Hải khi chết)
Ngàn mai lợp trắng hiên lầu Hồ sen in dáng nhịp cầu lung linh Chênh vênh đôi mái tiểu đình Lẫn trong đảo liễu vươn mình xanh cong Ngàn đào gió gợn bên song Cành phơi sóng lục mơ mòng thiên nga Huyện đường mở tiệc thưởng hoa Quanh bờ liễu rũ đèn sa lồng vàng (1230)
Dưới hoa thấp thoáng khách quan Giai nhân tài tử luận bàn văn chương Gió trầm ngan ngát thiên hương Hoàng hôn theo cánh nhạn hường về quanh
° ° ° Sau rèm, phơ phất tinh anh Kiều ôm đàn, vuốt tóc xanh cúi chào Môi tươi chúm chím nụ đào Trán cao vòm tuyết, mi rào khoé nhung Não nùng một đoá phù dung Đôi tay hồng thạch so cung ngại ngần (1240)
Xa đưa ấm giọng chim thần Chào mừng quan khách, xa gần dự thơ Nàng ngồi bên tấm rèm tơ Lung linh lửa nến, nhạt mờ dấu hoa Tóc mây biếc ngọn la đà Nửa phơi vóc liễu, nửa sa ráng trời Hồ quan tựa án trông vời Não nùng nét mặt rõ người năm xưa Tay Kiều hồng ngọc đong đưa Trầm im lặng khói, nến mờ ảo lay (1250)
° ° ° Dây nào lơ thơ mây bay Nhỏ to như nhắc chuyện ngày hồng hoang Lòng Hồ tan loãng mênh mang Nỗi buồn khơi lại âm vang ngày nào
° ° ° Lòng đàn bước thấp bước cao Dường như ngọn sóng xuôi vào trùng dương Đỉnh trầm cũng ngát thêm hương Cây đàn dậy sóng Tiền Đường trôi mau Tưởng muôn ngọn đổ qua đầu Mồ hôi đẫm mái tóc sầu Hồ quan (1260)
Mắt Từ ám ảnh chưa tan Bỗng như vụt loé một làn gươm bay Mồ hôi ngỡ máu tuôn đầy Tay Hồ sửa tóc, mặt mày tái xanh Năm cung vàng ngọc tan tành Liễu tơ ướt sũng trời xanh rũ hồ Dây đàn chợt nín hư vô Tao nhân mặc khách còn ngơ ngẩn hồn
° ° ° Lại run quỷ oán ma hờn Hơi đâu lạnh khối băng sơn bềnh bồng (1270)
Dáng Kiều lau lách thu đông Như trăng úa gọi nước sông đi về Gió vờn cỏ nội lê thê Vệt sao lặn giữa tiểu khê hẹn hò
° ° ° Ngón đàn thiên cổ so đo Tơ đồng lãng đãng theo lò hương gây Hạt sầu nức nở cung dây Tóc sa nét mực nến gầy lửa hiu Trán Hồ gợn nét đăm chiêu Đã bời gió tấp lại nhiều mưa đong (1280)
Mắt Từ thoáng hiện ngoài song Nhìn Hồ trầm mặc như vòng trăng Thu Cành duơng trĩu ngọn sương mù Lồng đèn gió bạt lửa lu ngọn tàn
° ° ° Tay tiên chợt ấm hơi đàn Mạch tuôn tí tách, trong làn xuân hương Nội ngàn hoa hé nụ sương Lò trầm man mác khói vương sợi dài Tưởng chừng chim họp ban mai Đậu về reo hát hiên ngoài triền miên (1290)
Hồ nghe nhẹ bẵng ưu phiền Dây đàn ấm mạch suối thiêng tỉnh ngời Mắt Từ như cánh hạc trời Bay lên mất hút giữa nơi vô cùng Bấy giờ im bặt năm cung Trầm thưa thớt toả nến lung linh mờ Mắt Hồ vuơng ngấn lệ chờ Môi khô cười nụ hững hờ sầu quên
° ° ° Ôm đàn khép nép hài tiên Tạ từ quan khách dáng quyên ngại ngần (1300)
Tiệc đào tài tử giai nhân Vòng tay đưa tiễn trăng dần dần xê Lơ thơ liễu tựa hoa kề Hoa rơi tiễn bước hoa về cầu hoa Thêm trầm, thơ phú ngâm nga Sang canh eo óc tiếng gà vọng sương
XIII. Ngỡ ngàng bọt nước
Bức thứ mười ba: (Kim Trọng cứu giải oan nghi án của Ngô Khôi)
Kim đang ngồi trước công đường Ngói cong mưa rụng, rêu tường lá bay Xạc xào gió cuộn hoa lay Cây nghiêng hàng gọi cuối ngày vàng trơ (1310)
Núi xa thành dựng mây mờ Thôn xa khói tím vẩn vơ nhạt nhoà Ngoài sân lích chích bầy gà Gọi nhau đến dưới hiên nhà ủ con Chim nào buông điệu véo von Tưởng như đất cũ tiếng còn giục ta Bao năm chưa lại quê nhà Trải hồng một giải cỏ hoa dõi chờ Chênh vênh vách núi xanh mơ Thác cao ghềnh vắt dòng tơ ngang trời (1320)
Trại hoa Đá Trắng thương ơi Mỗi tên đất – mỗi dấu đời vọng vang Thương từ nương sắn khóm lang Nhớ từ mùi đất bên đàng nhớ đi Lớn lên giữa núi xanh rì Cỏ cây như thể tứ chi thuộc mình Một thời chia nhục chia vinh Đã làm nên cõi tâm tình - là ta Bây giờ sợ khác trước xa Chắt chiu ảo ảnh như là thiên thu (1330)
Kim còn tựa án ưu tư Tình neo cánh gió, ý từ hạt mưa
° ° ° Dưới thềm đã vọng tiếng thưa Dẫn vào bà lão già nua tuổi trời Lưng còng, quần áo tả tơi Tay nương gậy trúc vẻ người chốn quê Kim truyền: lão ở đâu về Có chi oan ức đạt đề của công Bẩm quan già ở núi Đông Suốt đời cặm cụi vun trồng rau khoai (1340)
Hiếm hoi được mụn con trai Ngô Khôi tên gọi, tuổi ngoài ba mươi Cảnh già mẹ goá, con côi Vào rừng hái nấm, lên đồi bẻ măng Nhà nghèo chưa đủ miếng ăn Kể chi đau ốm khó khăn khôn lường Năm xưa quan trấn địa phương Một hôm gặp ở giữa đường, bắt đi Giữ giam nào rõ tội chi Thân nghèo còn biết lấy gì đảm đang (1350)
Hai năm còm cõi lang thang Dò la được biết đày sang huyện này Vội vàng chống gậy đi ngay Tấm thân muôn dặm đoạ đày nắng mưa Lần xin cơm cặn canh thừa Nhìn con lần cuối cho vừa nhớ mong Xác này bỏ chợ trôi sông Còn hơn tựa cửa ngùi trông lệ tràn Đánh liều, già đến cửa quan Cậy nhờ phụ mẫu xá oan cởi sầu (1360)
Mẹ con cho đuợc nhìn nhau Làm thân trâu ngựa kiếp sau nguyện đền Vô cùng – cảm tạ ơn trên Thân này dầu nát không quên tấc thành
° ° ° Mưa ngoài trĩu ngọn cỏ xanh Mây vương nắng quái bên thành mưa dây Rập đầu lạy trước án mây Trên khuôn mặt lão vương đầy lệ rơi Kim truyền tra sổ tìm người Rõ ràng án buộc những lời vu vơ (1370)
Già nghe mừng tủi sững sờ Vẻ e quáng mắt, vẻ ngờ chiêm bao Lệnh truyền xuống bọn quản lao Giỏ khoai vội xách theo vào thăm con Trông già chàng những héo hon Bước chân từ mẫu trèo non đạp ngàn Đời còn lắm chuyện trái oan Bất công nhan nhản, lầm than dẫy đầy No nê chi bọn tớ, thầy Họp bè kết nhóm đạp giày dân đen (1380)
Trời cao chẳng thể với lên Tiền tài thế lực bốn bên dập vùi Hùa nhau một lũ ăn người Tiếng kêu tắc nghẹn, tiếng cười hả hê Giận mình một thuở đam mê Trị dân thẳng mực ra bề tôi trung Nặng nề quỳ gối khom lưng Cũng phường bịt mắt tai bưng bấy ngày Vá trời khôn một bàn tay Đành đem chí gửi chén say giày vò (1390)
Thôi thì đủ mặt đủ trò Thân tâm nô lệ vào cho đồng tiền Tưởng khi theo đuổi bút nghiên Mộng làm sáng đức thánh hiền cửa công Ngỡ ngàng bọt nước ra sông Chốn quê thèm đuợc làm ông đồ già Chính chân giữ lấy nếp nhà Đã làm không Hoá thì Hoà thái hư Khi ngày cao giọng thi thư Khi đêm thưởng nguyệt cùng sư đạo đàm (1400)
Khi qua làng nước luận bàn Bảo răn như đạo, khuyên can thực lòng Còn hơn hoạn lộ long đong Giúp dân chẳng được như lòng ước ao Ta còn nhớ giấc chiêm bao Cầu treo dốc ngược rơi vào phù vân Theo Kiều lấy phúc làm nhân Cuối năm xin được thi ân giảm tù Những ai án tích lờ mờ Xin cho phóng thích, lượng nhờ quan trên (1410)
Bút rồng đạo đạt đôi tên Ý tình tha thiết trình lên tỉnh đường
° ° ° Bọt mưa nhuộm nắng mây huờng Cơn mây trên đỉnh phố phường về đâu Thì thùng nhịp trống tan hầu Ngoài sân ngựa cũng gục đầu hí vang
XIV. Hoà tan dặm trường
Bức thứ mười bốn: (Ngô Khôi tới dâng Kim Trọng đôi chim Đại Hồi, nhờ vậy Vương Quan đã tìm đuợc tung tích Hồ Ông (Thầy học của Kim, Quan, Kiều) - Dòng dõi Hồ Quý Ly (Việt Nam) – lưu lạc bên Tàu, là một học giả chủ truơng "Tri Hoà Hành Hoá")
Guồng tơ nhật nguyệt mênh mang Cuốn hồng sương núi, phơi vàng xuân hoa Lưng trời lác đác chim qua Cánh theo gió ấm thiết tha tìm về (1420)
Mây bay lả nét thơ đề Núi xanh thiên bút ngọn kề nghiên suơng Lầu cong mái đậm nắng vương Tiếng chim trong cụm hải đường xôn xao Huyện đường khuất giữa ngàn đào Đì đùng pháo nổ, ngạt ngào trầm xông Cúc vàng nở ngát hiên đông Mây trời cỏ đất mênh mông một màu Họ hàng đoàn tụ bên nhau Nhìn đàn trẻ nhỏ trước sau một bầy (1430)
Ngày xuân mới gặp nhau đây Vương, Kim ngồi dưới tàng cây thưởng trà Chuyện gần rồi đến chuyện xa Tấm lòng hồi tưởng quê nhà đinh ninh Hai ta như bóng theo hình Leo lên cành bưởi luận bình văn thơ Nhân khi Thầy mải cuộc cờ Trốn trường ra tắm bên bờ Bảo Giang Qua nương bẻ trộm mía vàng Ăn xong nhặt sỏi bên đàng ném nhau (1440)
Trở về nhận bốn roi đau Thế rồi lại trốn đi câu như thường Trong mình, giấu mấy nén hương Ghé vào bãi mộ bên đường phụ ma Sườn đồi đuổi bắt reo ca Buông diều cánh cốc la đà bay lên Trèo cây đa, bắt sáo đen Móc nhằm hang rắn một phen hoảng hồn Mùa đông rủ chó săn chồn Xuống khe đơm cá, lên cồn bẫy chim (1450)
Bạn xưa còn nhớ như in Bây giờ ai biết bóng chim cuối trời Mùa nào chẳng có thú chơi Ngày nào chẳng đứng nghe lời rầy la
° ° ° Sau lưng có tiếng hầu nha Xin đưa một kẻ vào là Ngô Khôi Dâng lên cặp chim Đại Hồi Lông tơ như thể phấn nhồi tuyết vương Quả là báu vật lạ thường Tên Khôi khép nép bên tường trình thưa (1460)
Rằng con từ độ ơn nhờ Thượng quan minh xét, bao giờ dám quên Đoái thương đến phận dân hèn Tha về phụng dưỡng mẹ hiền sắt son Đức tày vạn biển nghìn non Dù cho sông cạn đá mòn không phai Quê nhà có ngọn Thiên Thai Đỉnh cao chót vót là đài Thông Linh Có hang Thánh Hoá, Tâm Bình Bên chùa Non Nước cảnh tình thanh u (1470)
Có Thầy ở nước Đại Ngu Là Hồ ẩn sĩ dật cư chốn này Tổ tiên lưu lạc qua đây Cố hương cách mấy trùng mây quan hà Sống cùng ái nữ hiền hoà Sắc tài đôi vẻ tên là Ẩn Lan Sớm trưa cung cửi tầm tang Xuống khe giặt lụa, lên ngàn dạo chơi
° ° ° Vương, Kim vừa thoáng nghe lời Nhìn nhau xúc động bồi hồi - Thầy xưa! (1480)
Bao năm đằng đẵng ai ngờ Mây còn quyện núi, nước chưa qua cầu Vương truyền: Người hãy trình mau Tiểu thư còn biết hiệu "Sầu Hoa Dung"?
° ° ° Họ Ngô xiết đỗi lạ lùng Quan đây, Thầy đó hẳn chung họ hàng Bẩm quan quả đúng hiệu nàng Người còn tôn bậc chúa lan tuyệt trần
° ° ° Hai chàng nghe nói tần ngần Mỗi lời như dẫn xa dần vào mơ (1490)
Mái trường cỏ lợp đơn sơ Xanh xanh ngõ trúc, ơ hờ then hoa "Làm Nên Hoá, Biết Nên Hoà" Chủ trương, riêng phải học gia kinh quyền Điều Thân, Tịnh Ý, Hoàn Nguyên Hoà vào xã hội, thiên nhiên đổi dời Tình thương, lẽ sáng thông ngời Giúp người Tự Chỉnh giữa đời ngăn che Lời Thầy khuyên nhủ răn đe Khi ngồi luyện tập, khi nghe văn bình (1500)
Đạo trương thắm thiết ân tình Bao năm tấc dạ in hình chưa phai
° ° ° Khôi rằng: Như loại chim này Tuy là dã điểu – lại hay nghĩa nghì Theo nàng – đuổi cũng không đi "Lý – Trần – Lê" hót vân vi núi ngàn
° ° ° Lâng lâng như suối reo đàn Tưởng lời non nước hoà tan dặm trường Từ nghe Lan hát trên nương Đôi chim từ bỏ non sương theo cùng (1510)
Suốt ngày như bạn vui chung Tiếng chim hoà vọng một vùng non xanh Thế rồi kết tổ trên cành Thời gian thoắt đã nở thành một đôi Nàng đặt tên chim Đại Hồi Ngày ngày tung cánh trong nôi mây hồng Con thường hầu hạ Hồ Ông Lên non hái thuốc, câu sông buông thuyền Tập tành chút ít bút nghiên Thảnh thơi riêng cõi uyên tuyền qua mau (1520)
Đói no bữa cháo bữa rau Nửa nuôi thân mẫu, nửa hầu Tôn sư Từ ngày hoạ đến chẳng ngờ Duyên may gặp cửa quan, nhờ lượng trên Cho về phụng duỡng mẹ hiền Ơn cao lòng những mong đền một mai Nhân khi kể đến danh ngài Ẩn Lan gửi tặng chim này lễ xuân Gọi là báo đáp đôi phần Rạng soi thánh đạo trị dân an hoà (1530)
° ° ° Kim truyền: Heo hút non xa Dùi mài kinh sử được là quý hơn Vị gì lặn lội xuyên sơn Qua đây đền đáp chút ơn bình thường Mẹ già sớm móc chiều sương Lỡ khi nắng gió bất thường, chớ khinh Sinh thành ân nghĩa cho mình Còn ta chút lượng hiếu sinh đáng gì Nghỉ chân dăm bữa – rồi đi Cho ta gửi chút quà về núi Đông (1540) XV. Ào ào ngọn gió ↑ Bức thứ mười lăm: (Kim, Quan du xuân - ra tay trừng trị bọn cường hào, vừa gây nên hai án mạng)
Bâng khuâng huơng nội hoa đồng Làng xa bát ngát mấy vồng tre xanh Cỏ dài lả gió qua nhanh Chiều Xuân chim tụ trên cành mừng nhau Nắng chia vàng ửng hàng cau Thì thùng trống điểm nhịp chầu đình xa Đầu năm mở hội thưởng hoa Nào là Quan họ, nào là Trống quân Hai bên tuấn tử giai nhân Hoà nhau điệu hát trong ngần đầu thôn (1550)
Sông dài chín ủng hoàng hôn Khói dâng lãng đãng bên cồn chim kêu Nhịp hò bơi chải giục đều Thuyền đua theo ngọn thuỷ triều như bay Tiếng nào la hét vỗ tay Ven đê thấp thoáng lửa bay đuốc hồng Mây phơi giăng đỏ đồi thông Chùa rêu núi vọng hồi chuông vân tường Vương, Kim cải dạng dân thường Thong dong thầy tớ lên đường dạo Xuân (1560)
Dấu hài lân mẫn chúng nhân Bước đi cây cỏ xanh ngần vàng pha Nơi thì vào hội Đình Hoa Cây đu đầu ngõ la đà cành lên Gái quê má lúm đồng tiền Khăn vuông mỏ quạ, yếm viền gò xanh Mắt huyền tươi nét long lanh Thắt lưng hoa lý trên nhành vờn bay Người chờ đánh một vòng vây Bên kia trì xuống, bên này nhún thêm (1570)
Cần tre lại vắt tung lên Nàng càng xanh mặt, chàng thêm hứng nồng Chung quanh tròn mắt cười trông Lắc lư đầu hướng theo vòng đu cao Nơi thì mở hội thôn đào Ngoài sân đô vật lăn vào quần nhau Trống cầm vừa đổ nhịp mau Hai thân hùng hục – một màu đồng hun Nơi thì chèo hát i uông Tiếng kèn eo ét, tấn tuồng múa may (1580)
Diễn viên chỉ đó chỉ đây Sau cành đuốc lớn mặt mày đỏ ran Người xem dưới bục lấn tràn Áo hoen khăn bạc những làn mồ hôi Tập trung trống trút từng hồi Hoàng hôn lặng tắt sau đồi tùng xanh Cội mai phơ phất đôi cành Con ong kiếm mật bay nhanh bãi chiều Gió lùa ngọn cỏ đìu hiu Nam thanh nữ tú dập dìu lại qua (1590)
° ° ° Bỗng nghe tiếng chạy tiếng la Rượt theo thằng bé quanh nhà lao xao Người xem không lối ra vào Trẻ kia còn biết ngả nào chuồn mau Hầm hầm mặt ngựa đầu trâu Quật theo đôi gậy, nắm đầu nhắc lên Lết đi như kéo tấm mền Buông tay, xác nọ rũ mềm lăn quay Một người xanh xám mặt mày Xông vào xác trẻ vừa lay vừa gào (1600)
Con ơi! Con có làm sao Mẹ đây còn sống thế nào hở con! Trẻ kia hé mắt héo hon Nấc lên nhìn mẹ như còn thiết tha Buông thây con - mụ khóc oà Rú lên chồm đến người nhà vương tôn Gã tung đạp, hộc máu mồm Bước chân lảo đảo, mụ ôm bụng nằm Quân đâu kéo đến rầm rầm Nửa mau cấp cứu, nửa ngầm bủa vây (1610)
Kim truyền: Trói hết bọn này Người quanh đổ lại tiếp tay tức thì Lôi thôi khăn áo tu mi Giáo gươm tuốt sáng dẫn đi một đoàn Mụ run tay chỉ bên đàng Thều thào, mấp máy hai làn môi khô Rằng con thân cô thế cô Chỉ còn đứa bé cậy nhờ thượng quan Dường như dồn hết hơi tàn Lời chi tắt nghẹn, xuôi bàn tay yên (1620)
Bên trong trẻ khóc ré lên Vương truyền khiêng vực xác trên vào nhà Đầu giường còn bát cháo hoa Góc tường siêu thuốc hơi phà lửa sôi Nhìn hai thây chết bồi hồi Gặng tra mới có một người chịu thưa
° ° ° Rằng chồng mụ nọ năm xưa Đày làm lính thú nắng mưa cuối trời Một hôm quần áo tả tơi Trốn về nhà giữa những lời hăm he (1630)
Cái thân trên búa dưới đe Hết hào thuốc vặt, lại be rượu đầy Hết chiều tớ, lại hầu thầy Nai lưng làm mướn nuôi bầy nhặng xanh Ít tiền buôn bán để dành Cởi ra đút lót mấy anh sống nhờ Có thì giả bộ làm ngơ Bằng không xách cổ lên chờ cửa quan Thương con xót vợ cơ hàn Cắn răng ngậm miệng phàn nàn cùng ai (1640)
Kéo cầy nuôi nợ - lệch vai Bao nhiêu đày đoạ rạc rài lắm phen Năm rồi có kẻ ghét ghen Thế là đóng cũi cài then nhốt vào Cái thân nhục nhã lính đào Tù cho đáng kiếp ai vào viếng thăm Mẹ con làm mướn quanh năm Thắt lưng buộc bụng khó khăn kể gì Tháng rồi sinh một hài nhi Có ai dám mướn thuê gì nữa đâu (1650)
Cảnh nhà trăm mối lo sầu Thế rồi ngả bệnh nhấc đầu không lên Thằng cu lớn phải kiếm tiền Thuốc thang nuôi mẹ quanh miền xin ăn Kể chi hắt hủi nhục nhằn Cúi đầu lạy hết khó khăn phiền hà Xóm trong có một Hoạn gia Tiền kho bạc đụn đầy nhà quyền danh. Mấy đời dòng dõi công khanh Đè đầu bóp cổ dân lành nhiều phen (1660)
Đã đành yên phận bùn đen Đạp quen người lại cố lèn thật đau Nuôi thêm một lũ đầu trâu Làng trên xóm dưới âu sầu bấy nay Đảo điên như trở bàn tay Quẹt công lừa của một bầy gian ngoan Bao người tù rục chết oan Bắt con, cuớp vợ tiêu tan dần dà Có ai tính chuyện kêu ca Nửa đêm ném lửa đốt nhà như chơi (1670)
Đợi trời thì đã tàn hơi Căm bầm tím ruột, ngậm lời dạ thưa Tha hồ làm gió làm mưa Quan trên sợ thế còn chừa mặt ai Hoạn gia nổi tiếng một "ngài" Tham lam chật dạ, gái trai tính lừng Cầm đầu thêm bọn khuyển ưng Chuyên bề cướp giật, chuyên lùng gái tơ Chôn vùi bao kiếp đào thơ Ối thôi! Tội kể đã mờ trời cao (1980)
Chiều nay thầy tớ tiêu dao Thằng cu vô phúc ném vào - lỡ tay Trông lên phách lạc hồn bay Co chân lủi đến chỗ này – rồi yên Nhờ ơn nhị vị quan trên Rộng soi mới dám trình lên đôi phần Nói cho cạn nỗi khổ dân Rồi ra nát thịt tan thân cũng đành Dù là voi đạp ngựa phanh Quyết đem đổi mạng cho thành tiếng kêu (1690)
Khổ đau chất ngất bao điều Đèn trời soi rõ nay liều mạng thưa
° ° ° Bỗng đâu lốc cuốn bụi mờ Ào ào ngọn gió vật vờ tàng me Ai ngờ sau chốn luỹ tre Lắm phường cẩu tặc kết bè hại nhân Chẳng kiêng phép nước xa gần Cậy thần cậy thế - gớm quân lột người Đường về Xuân cũng kém tươi Kim truyền đem trẻ về nơi công đàng (1700)
Ra tay phá xích xiềng oan Bằng không ta sẽ cáo quan trở về
XVI. Ai để hoa dung
Bức thứ mười sáu: (Vương Quan hồi tưởng người yêu cũ – nàng Ẩn Lan (con gái Hồ ông) và dự định đi theo Ngô Khôi thăm Thầy học)
Vương Quan thơ thẩn ngoài đê Ven sông in bóng hoa lê nở bừng Tiếng ai hú vọng trong rừng Mây phơi lụa tím trên sừng trâu tơ Nền trời nhàn nhạt màu mơ Sông đem ráng đỏ sóng hờ hững đi Sáo diều vọng tiếng vu vi Như chim nghiêng cánh tìm gì lưng mây (1710)
Thôn xa nghển bóng cau gầy Vẻ như tư lự dõi bầy sẻ thưa Gió chiều giục nhớ thôn xưa Vườn mai hoa trắng bây giờ còn tươi Niềm quê vời vợi phương trời Lửa chiều thấp thoáng tưởng lời cố thôn
° ° ° Ngày xưa áo nhuộm hoàng hôn Dáng ai cắp rổ lên cồn hái dâu Tiếng nàng hát vọng đôi câu Dừng tay viết mướn lòng sầu vẩn vơ (1720)
Lều tranh còn ủ chăn mơ Mối tình là một bài thơ vô đề Ẩn Lan ơi! Mái tóc thề Gió Xuân nay có vỗ về suối hương Đêm nao ngồi học bên tường Nến leo lét lụi, chữ vương vắt chìm Ngoài song thoảng tiếng hài im Như trăng buông hạt tơ chìm kiêu sa Lan cười đưa đến cho ta Sợi dài tóc buộc chùm hoa ngâu vàng (1730)
Sách thơm áp má mơ màng Tỉnh ra hương thoảng bóng lan chập chờn Nhớ khi em dỗi em hờn Hai ta chia sẻ nắm cơm cháy vừng Nhớ đêm nằm võng ngó trăng Đếm ngôi "sao sáng" lại rằng "sáng sao" Giọng em lanh lảnh tiếng cao Răng em tươi hạt ngọc nào long lanh Nền trời mây lại qua nhanh Viền trăng vương phải đầu cành vỡ tan (1740)
Những đêm trời tối như than Bắt con đom đóm trên giàn mồng tơi Cho em, em cất tiếng cười Hất tay em thả đóm trời tung bay Vòi ta đuổi bắt lại ngay Thả đi, đòi lại mãi đày đoạ nhau Gọi em là vẻ hoa sầu Lan đòi nụ bưởi cài đầu làm duyên Nhặt son trên núi mài nghiên Thơ anh em điểm dấu yên màu hồng (1750)
Tưởng khi đỗ đạt thành công Tay đan suối tóc, hoa lồng trăng non Chưa thề sông cạn đá mòn Trang tình đã điểm dấu son đầu đời Dường trong ánh mắt tiếng cười Vẻ như ngượng ngập mở lời con tim Thế rồi – tăm cá bóng chim Theo Thầy ẩn dật dời miền đi xa Anh về lý vẫn đơm hoa Cuối thôn còn lại mái nhà xác xơ (1760)
Hiên trăng soi quạnh bàn cờ Tìm chi con đóm cũng vờ vẩn bay Buồng đây, Lan vẫn ngồi may Bây giờ tơ nhện gió lay lạnh lùng Âu sầu ai để hoa dung Nền xưa giảng sách tiếng trùng ngân vang Tìm em đò dọc thuyền ngang Thấy đâu dấu vết chim sang đất nào Năm xưa em tựa cội đào Tên ai còn dấu khắc vào da cây (1770)
Mấy lần anh lại chốn đây Hiên tranh đôi bướm vờn mây lững lờ Lòng buồn trăm mối vò tơ Sợ trông hoa nở, ngại chờ hứng thi Những đêm trăng sáng buồn chi Mà lòng sách vẳng tiếng gì chan chan Ngỡ chim gọi bạn trên giàn Ngỡ em phơi cái thời gian giậu ngoài Cánh lòng lại vượt ngàn mây Tìm đâu suối tóc tay cài hoa xưa (1780)
Có đêm thao thức nghe mưa Tưởng em về tiếng guốc đưa ngại ngần Đông tàn còn thể chờ Xuân Đôi ta biền biệt sông Ngân nhạt nhoà Biết đâu em ở miền xa Nghe mưa mà chẳng như ta khóc mình Có đêm soi bóng lung linh Bâng khuâng một ngọn đèn tình trong sương Em thì biền biệt dáng hương Riêng hoa in bóng trên giường lơ thơ (1790)
Tóc đan hoa ảnh lờ mờ Mộng xưa hoen ướt đôi tờ lệ thi Nước non cũng nhuốm sầu bi Người đi – úa cái Xuân thì – ai đây Dặm hồng biền biệt cồn mây Cỏ hoa chung giấc sum vầy bấy xuân
° ° ° Thế rồi vâng lệnh song thân Xe duyên cùng với giai nhân xóm ngoài Có khi thức ngủ canh dài Mơ hồ còn tưởng dáng ai ngồi kề (1800)
Tỉnh ra mới biết cơn mê Mảnh trăng cùng bóng hoa lê nhạt dần Tình đời rồi cũng phù vân Biết bao sóng gió xoá dần dư âm Dẫu lòng ôm mối tình câm Vùi sâu một nấm mù tâm lệ nhoà Bây giờ bắt được tin hoa Tấm lòng lại quặn xót xa lạ thường Sáng mai hành lý lên đường Thăm Lan biết mấy dặm trường ngựa bon (1810)
° ° ° Sông dài cởi yếm hoàng hôn Bầy chim ngủ đậu bên cồn lại bay Gió về đưa ngọn sóng say Tiếng ca mục tử cuối ngày gọi trâu Bãi xa cỏ tím rầu rầu Mái đình rêu vọng trống chầu nhịp mưa
XVII. Lòng như khối ngọc
Bức thứ mười bảy: (Kiều, Vân hành huơng chùa Văn Chương, thăm Thầy Văn – nhà sư đã dạy Kiều kinh Kim Cương)
Trời Xuân trong vắt mây thưa Nắng hồng như xoã guồng tơ buông dần Núi xa bút dựng xanh ngần Cõi thiêng lảnh giọng chim thần chợt ca (1820)
Tiếng chuông lay nhẹ ngàn hoa Bóng mây dường cũng giao hoà lang thang Ngày rằm sắm sửa đèn nhang Kiều, Vân ngồi võng trên đàng hành huơng
° ° ° Sáng nay vãn cảnh Văn Chương Lưng non đôi mái khói hương phụng thờ Của nhà sư kiêm nhà thơ Thường cùng mặc khách cuộc cờ tiêu dao Nghe xưa, cũng bực anh hào Chí cao chẳng thoả, ẩn vào cửa Không (1830)
Riêng lòng ôm ấp non sông Kết liên hào kiệt tang bồng chờ khi Dần dà thấm nhập từ bi Lòng yêu muôn loại sá gì – một, hai Diệu hành chuyển đạo Như Lai Vẫn trong vạn pháp, vẫn ngoài sắc danh Y phương cứu giúp dân lành Đôi tay đinh lực như thành phục ma Chẳng nề trà rượu đàn ca Chốn nào chốn chẳng hiền hoà đạo duyên (1840)
Thong dong nửa Phật nửa Tiên Thiền tâm hoá độ một miền sao trăng Chí người như cánh chim bằng Hát ca vi vút bên Hằng cát vương Về đây lập cảnh Văn Chương Am che mái cỏ bên sườn non cao Đường lên trải trắng bông đào Gió sa hương nhuỵ, trời vào lá cây Tao nhân thường gặp nhau đây Thưởng trà thiền vị nghe Thầy luận kinh (1850)
Đậm đà giáo lý nhân tình Niết Bàn thành cõi phù sinh đổi dời Đã quen biết mấy năm trời Với Kim, thầy cũng là người cố tri
° ° ° Ngày rằm chị rủ em đi Thong dong võng lụa hai vì phu nhân Bên đường cỏ nhuộm mầu Xuân Đôi con châu chấu xanh ngần vụt bay
° ° ° Nhạn sa soi mặt sông đầy Lách lau đôi ngọn bông gầy thiết tha (1860)
Bóng chùa lồng với bóng hoa Nắng Xuân lóng lánh vừa sa đôi làn Núi vuông Thiên Ấn ngọc lam Sông nghiêng lụa đậm dấu chàm thiên thư Rừng tùng thoảng mõ trầm tư Nổi trôi chuỗi hạt thái hư bềnh bồng Thảo trường lập phái Thi Tông Trường Sơn vẽ một nét cong vách ngời Mênh mang mây trải gấm phơi Hoa lay tưởng ngọn bút trời phê văn (1870)
Võng đưa bên suối tẩy trần Sỏi xanh vương vần dấu xuân tiên hài Đạo tràng chim mở hội mai Trầm theo sương đọng trên đài hoa vương Quanh co bậc đá vân hường Tóc ai phơ phất dòng hương cõi Thiền Chùa Văn Chương hiện bên triền Mái rơm nhàn nhạt dáng hiền như như Đón nàng vào mái Tâm Hư Vách treo dòng kệ Thiền sư cảm đề (1880)
Ngoài hiên hoa nép mây kề Tiểu đồng ngơ ngẩn bên hè xinh xinh Sư Thầy đương khoá giảng kinh Sai trò dâng xuống riêng bình trà thơm Sửa sang hoa quả khay sơn Lên Chùa lễ Phật bướm vờn loanh quanh Cầu tre qua suối trong lành Hoa rơi nước cuộn, hoa cành nước in Sườn cao vách tím ngàn sim Thuyền câu bến nước sào im cắm chờ (1890)
Trần gian riêng mộng riêng thơ Riêng u uẩn núi riêng hờ hững Xuân Vẳng đâu sáo quyện suối thần Vườn mai hiện mấy văn nhân thưởng trà Tao đàn cao giọng ngâm nga Thiền sư khoác áo nâu già trầm ngâm Tiếng kêu vi vút sơn lâm Hoa nghiêng cánh lẳng, hoa thầm nụ khai Dừng chân ven suối Thiên Thai Âm âm giải nước thay lời luyến thương (1900)
° ° ° Nhớ khi đón lại huyện đường Thỉnh Thầy giảng lý Kim Cương độ đời Hoặc khi chuyện nước chuyện trời Mỗi lời nghe lại mỗi lời thanh cao Tiên dung đạo cốt tiêu dao Xét ra sư đệ, nghĩ vào tương tri Ung dung khi đến khi đi Lòng như khối ngọc lưu ly sáng loà Trong năm nhờ thỉnh Thầy qua Du phương người để cánh hoa võ vàng (1910)
Sáng nay đầm ấm xuân quang Hành hương, mới có dịp sang thăm Thầy Lưng non man mác dòng mây Trắng in đáy suối, vàng xây thành cầu
XVIII. Khói mờ ngoài sông
Bức thứ mười tám: (Kiều gặp tên tội tù, chính là gã Bán tơ từng giá hoạ cho cha nàng. Gã cho biết vườn Thuý bây giờ đang rao bán, Vương ông cho lão hầu về chuộc lại)
Kiều nằm trằn trọc canh thâu Tóc mây cài nửa trăng sầu nhạt phai Lá lan phơ phất hiên ngoài Bóng in vẽ một nét mày quạnh hiu Lòng chia trăm mối nghìn chiều Gió vô tình để tiêu điều lệ hoen (1920)
Nhớ từng kỷ niệm thân quen Trái tim ấm chút lửa đèn ban sơ
° ° ° Bao năm tưởng đã phai mờ Bỗng dưng gặp gã bán tơ năm nào Hôm qua cai ngục trình vào Một tên tội phạm xanh xao mặt mày Xét trong hành trạng người này Xưa buôn tơ lụa là tay lẫy lừng Gặp cơn binh lửa bỗng dưng Thế là sản nghiệp lên từng khói mây (1930)
Nửa năm lính thú đoạ đày Trốn về rồi bị huyện này giữ giam Tấm thân tù tội cơ hàn Nghe tin sét đánh bàng hoàng bên tai Vợ con đã chết vì ai Hết lăn lộn, lại nằm dài rên la Sáng nay nàng mới nhận ra Đứa làm tan cửa nát nhà ngày xưa Là thằng vu hoạ Bán tơ Quẩn quanh, nào có ai ngờ gặp nhau (1940)
Gió sương điểm bạc mái đầu Mắt sưng chín mọng trái sầu đỏ hoe Hắn ngồi nhổ cỏ bên hè Xương trơ như nắm xương tre rã rời Kiều nhìn, cổ những nghẹn lời Thấy chi ngoài một mảnh đời đau thương Nàng dò tin tức cố hương Hắn rằng có bạn buôn thường lại qua Mới hay vườn Thuý quê nhà Chủ đang rao bán, chờ ra kinh kỳ (1950)
Vui buồn hồi tưởng những khi Gia đình bàn soạn tính về cố thôn
° ° ° Ông Vương tóc giãi hoàng hôn Thở dài lặng ngắm khói dồn ngoài sông Hiện ra gốc ổi gốc bòng Bên tàng hoa khế tím hong nền chiều Lòng ông đau xót bao nhiêu Mỗi cây là mỗi ít nhiều vấn vương Mả mồ ở chốn quê huơng Lạc loài nắm đất tà dương giãi dầu (1960)
Bà Vương lặng lẽ đâm trầu Tưởng khi dòng nước con cầu đón đưa Thiếu gì kẻ dạ người thưa Ngày xưa ai đó, bây giờ là ai Vả chăng xứ lạ quê người Riêng tư là thói người nơi thị thành Quê nhà dù cất mái tranh Mà trong thân tộc, mà quanh bạn bè Hiền hoà khóm trúc bờ tre Vẳng lên tiếng cuốc sang hè gọi khan (1970)
Canh cua hoa lý điểm vàng Vại cà muối xổi nồng nàn thơm cay Trời còn cao, đất còn dày Có ao rau muống, có đầy chum tương Thân già lãng đãng bóng sương Tuổi trời còn lại mấy nương nắng chiều Luống khoai, bãi sắn ít nhiều Tự tay trồng tỉa muôn chiều thiết tha Còn hơn dinh thự nguy nga Nhà cao cửa rộng vẫn là của công (1980)
Tưởng khi vác cuốc thăm đồng Mắt bà rơm rớm hai tròng lệ vui Còn Kim vẻ mặt bùi ngùi Trầm ngâm mắt vọng chân trời xa xăm Vân ngồi thêu áo băn khoăn Lòng chia hai ngả, khó khăn thốt lời Tiểu Nguyện vừa ghé tới nơi Mẹ ơi con chẳng muốn rời bà đâu Một nhà bàn tán giờ lâu Sau cùng ông gọi lão hầu lên sai (1990)
Sẵn sàng tay nải, sớm mai Trở về quê cũ, dặm dài gió đưa Hỏi xem vườn Thuý bán chưa Liệu mà tâu lại, vàng đưa - về liền
° ° ° Kiều nằm thao thức thâu đêm Ánh trăng bạc giắt đầu thềm gió sông Nhớ Thầy học cũ – Hồ ông Ngày xưa đèn sách – những mong hậu trình Thường khuyên: Mình đã loạn mình Cái tâm khiến luỵ cái hình lao đao (2000)
Truyền đời xây tiếp tâm lao Cùng giăng bẫy quỷ - cùng nhào khe ma Khổ, Vui – từ một cái Ta Đã vào tật bệnh, tất ra mê trường Thấp-Cao, Chân-Giả, Đoản-Trường Chấp tranh máu lệ đau thuơng dẫy đầy Biến người thành cỏ thành cây Kéo luôn thần thánh tiếp tay tội đồ
° ° ° Cánh buồm phù thế lô xô Càng chan chứa mộng – càng cô quạnh đời (2010)
° ° ° Kiều đưa năm ngón rã rời Ngó tay mình mỉm nét cười bâng khuâng Nàng nghe lòng nhẹ lâng lâng Tiếng chim ngoài vọng trên tầng mây cao Chim di phiêu bạt phương nào Có qua ăn trái rừng đào sớm mai Hỏi giùm sứ giả Như Lai Làm chi cho sạch trần ai cát lầm Làm chi phổ nguyện Quan Âm Hay riêng sen trắng giữa đầm đủ chưa (2020)
Hay rồi một trận gió mưa Bùn đen kia hẳn không chừa đài hương
° ° ° Trăng ngoài lóng lánh cành sương Hoa nhìn trăng nép bên tường đùa vui Dưới hoa dế hát ngậm ngùi Trăng nghiêng tai lắng – viền tươi ngọc ngà Một trăng đẹp bấy nhiêu hoa Mà trăng có biết đâu là – là đâu... Ngàn năm vò võ mạch sầu Nửa ngâm đáy mắt nửa đầu non xanh (2030)
Xin trăng soi dọc lộ hành Xin trăng chỉ hướng tựu thành mà đi Mốt mai cất bước từ ly Trăng núi biếc, lệ xanh rì hàn giang Một lòng trăng rộng mênh mang Trăng đâu riêng của một nàng lầu cao Nửa trăng lặn dưới rừng đào Còn xin nguyên nửa tan vào mộng ta
XIX. Nàng rằng suối chảy
Bức thứ mười chín: (Đã tậu lại vườn Thuý, ông bà Vương, Thuý Kiều và Hương Nhi sửa soạn về quê cũ. Vương Quan ghé lại thăm nói về Ẩn Lan)
Cuối Xuân đường rụng đầy hoa Cánh rơi tưởng nụ mây sa bềnh bồng (2040)
Kiều ra tựa cửa ngùi trông Đồi cao đã trắng mấy bông lau chiều Bên dòng lảnh tiếng chim kêu Qua cầu vó ngựa rơi đều tà dương Cổng tre mái ngói ráng hườn Cánh không buồn khép gió vương ơ hờ Tiếng ve trong cõi sương mờ Ngâm theo xác lá lơ thơ rụng vàng Hương nào theo gió tìm sang Như chim cánh vượt dặm tràng hoa rơi (2050)
° ° ° Tin nhà đã gởi tới nơi Việc xong, lão bộc lên mời về quê Phòng riêng sửa soạn bộn bề Xôn xao lòng nhớ, não nề lòng xa Vương ông cùng với Vương bà Thuý Kiều cùng một trẻ là Hương Nhi Sửa sang hành lý mang đi Mốt mai thắng ngựa trở về cố hương Lòng nàng dan díu nhớ thương Bước chân tưởng những dặm trường sắt se (2060)
Chia tay khóm liễu bờ tre Sụt sùi cây cỏ còn nghe lệ thầm Thôi từ tạ nhé tri âm Như sương ta cũng âm thầm nát tan Sớm mai phơi chuỗi ngọc lam Trang nghiêm một thoáng nhân gian bọt bèo Kìa sao thiên lý tiêu điều Vẽ chi những nét đăm chiêu ngậm lời Nhánh hoa u mặc ngó trời Một thân bên giậu mỉm cười héo hon (2070)
Mây chiều lả xuống sườn non Dáng như lác đác hồn con hạc về Nửa vàng lau lách sầu chia Nửa xanh mây khói đầm đìa mang mang Giải hồng cuồn cuộn bến giang Buồm dong đôi tấm ráng vàng ngàn xa Thành Tây ải đỏ lạc hà Theo thuyền man mác cỏ hoa dương chiều Vàng ơi chi lắm tiêu điều Xanh ơi ngăn ngắt qua đèo hàn san (2080)
Tím ơi cỏ nội ngút ngàn Màu gieo cuối bãi, màu tan ngọn triền Chim quyên xuống đất sầu riêng Mặt trời thu một hồi chiêng lửa hồng Xe ai đẩy hát trên đồng Tiếng ca bán rượu từng không lạnh bầu Dáng Kiều thơ thẩn vườn sau Dấu chân gieo nhẹ dấu sầu vẩn vơ Gió vàng áo nhạt màu mơ Hoàng hôn toả ngọn khói mờ ai hun (2090)
Cỏ êm đã thoảng tiếng trùng Hoa cau hương quyện vài chum nước ngần Gió chiều cũng nhớ giai nhân Quẩn quanh theo với bước chân tìm gì
° ° ° Rào tre lả ngọn tường vi Tiếng quen ngâm mấy câu thi ngoài tường Nàng trông ra thấy chàng Vương Ung dung dắt ngựa buộc cương dưới đào Hoa hiên cũng lả cánh chào Hiên lam Kiều đón em vào vấn an (2100)
Vương rằng: Rong ruổi quan san Ngựa đeo trăng lạnh, vó tan sương chiều Cho dù thất suối tam đèo Chút hương hoa cũ ướp theo bấy ngày Mới về em vội qua đây Ẩn Lan gửi lượng trầm này kính dâng
° ° ° Ngó em – Kiều lại thêm mừng Hoa in đáy mắt còn rưng rưng lòng
° ° ° Nhà Thầy bên động Huyền Không Mái tranh tàng ần thu đông mịt mờ (2110)
Tóc người đã bạc như tơ Bạn thân chim tụ, quân cờ hoa rơi Sớm lên đào thuốc dong chơi Chiều về dạy học khắp nơi tụ hiền Danh thơm đã nức mọi miền Làng trong mến chuộng, quan trên nể vì Chẳng ham quyền tước kinh kỳ Thong dong gậy trúc, đến, đi ngoài vòng Rượu thơ phơi phới một lòng Trà thơm viết sách, suối trong ngâm mình (2120)
Xin Thầy được đón về dinh Sớm khuya vẹn nghĩa sư sinh một nhà Thác rằng tuổi đã nua già Núi non mến cảnh, cỏ hoa luyến người Ẩn Lan giờ vẫn đẹpp tươi Một chiều bên suối ngỏ lời hằng mơ Chỉ bông hoa nở ven bờ Nàng rằng: Suối chảy có chờ đâu hoa Nhắc chi chuyện cũ đôi ta Ngày nay Lan vẫn như là ngày xưa (2130)
Vị gì chung nắng chia mưa Giữ thơm mộng cũ ngày chưa ngọc vàng
° ° ° Kiều ngồi nghiêng tựa hành lang Gió lùa tóc quyện theo làn hương bay Hoa cà ráng ướp hiên Tây Sao hôm vừa mọc trên cây suơng chiều
XX. Chải tóc thu phong
Bức thứ hai mươi: (Kiều thăm lại chốn cũ, cho trồng cây Hoàng Mai trên nền am xưa. Đạm Tiên nhập thần cảnh tỉnh Thuý Kiều. Nàng thăm mộ đàn lần cuối, trước khi hồi hương)
Rèm đào gió lọt phiêu diêu Kiệu phu chừng đã được điều tới sân Mây Thu phơi tóc xanh ngần Hiên lam nghe rộn bước chân chim vào (2140)
Tưởng hoa sớm rụng mái cao Kiều nằm dõi bóng chiêm bao ơ hờ Ngang mình lệch mảnh chăn tơ Mắt nhung dịu thiếp đôi bờ cỏ xanh Tay dài tơ búp lan nhành Dáng Thu lãng đãng nhạt vành trăng cong Bên giường chải tóc thu phong Tai nghiêng nghiêng cánh sen hồng mát thơm Má đào gò ửng tuyết đơm Môi in nét trổ nụ hường ban mai (2150)
Bên song khép nép lan đài Hoa trong thiêm thiếp hoa ngoài bâng khuâng Hương đêm còn thoảng lâng lâng Chăn tơ phủ xuống như tầng hoàng hoa Đôi hài cong mũi kiêu sa Im im lắng tiếng chim ca ngoài vườn Nghĩ ra nay sớm hành hương Vươn vai Kiều dậy, ngắm gương tần ngần Hương nhi đem áo lại gần Khoác lên vai ngọc gò xuân mịn hồng (2160)
Qua hiên bướm nổi bềnh bồng Tung tăng gió vuốt vài bông cúc hiền Vườn ngoài non nỉ yến uyên Xách hoa lên kiệu gót tiên dịu dàng
° ° ° Đồi thưa lấm tấm bông vàng Hoa Thu hỏi mấy lần sang đất này Đổi thay từng khắc từng ngày Mà vòng nguyên định chen đầy hoa dung Xét trong trời đất vô cùng Biển dâu sắp đặt lạ lùng cao xanh (2170)
Bao nhiêu cung điện tan tành Xô đi, dựng lại dưới vành trăng tươi Thăng hoa cuộc sống con nguời Phế hưng trải rộng lẽ trời tự nhiên Đường dài sỏi nhạt thu thiên Trước sau biết mấy gót phiền qua đi Bóng người cổ tích còn chi Còn nghe gió kể chuyện gì bên nương Bước nào ngượng ngập yêu đương Bước nào rầm rập giáo gươm chói loà (2180)
Bước nào lay lắt nua già Bước nào xe ngựa lại qua rộn ràng Nhớ không ngọn cỏ may vàng Ngày xưa lữ khách qua đàng còn không Hỏi mây mây trắng như bông Riêng đường sương tụ bụi hồng trăm năm Bãi sông cỏ lạnh căm căm Tưởng Từ áo vải xưa nằm chốn đây Phách thiêng khí vẫn loà mây Xưa ai trộm xác gò này mang đi (2190)
Xưa ai đạp vỡ mồ bi Gò xưa còn bãi cỏ chi rầu rầu Tưởng chàng bẻ kiếm dựng râu Nốc nghiêng bát rượu, trên đầu cài trăng Cuộc ra vùng vẫy chim bằng Cuộc về đồn ải mưa giăng bóng cờ
° ° ° Kiều ngồi như ngẩn như ngơ Dường đâu lãng đãng trong mơ hiện về Lâng lâng hương cận hoa kề Đạm Tiên buông giải tóc thề vương vương (2200)
Tiếng nàng thoang thoảng khói hương Rằng: Không có hội đau thương đoạn tràng Quả, Nhân – tôi trót lỡ làng Khiến em vào chị - giục đàng trầm luân Giờ nên đuổi mộng khỏi thân Nhiều vương vấn cũ – dễ phần chiêu ma Dáng nàng lãng đãng mưa sa Giật mình mới biết mộng hoa lúc nào Vào Thu chim cũng xanh xao Tiếng kêu theo gió thoảng vào rèm thêu (2110)
Não nùng thay nỗi lòng Kiều Nhìn bông lan ngọc đăm chiêu nền trời Hồn Tiên nhắn nhủ chơi vơi Chừng nghe còn vẳng trong lời hoàng khuyên
° ° ° Nền xưa kiệu đã dừng nghiêng Dây hoa núi dại vàng nguyên ngọn tường Tàn lan lóng lánh hàng sương Hoa chao nhỏ hạt nước hương rùng mình Chập chùng đồi núi lung linh Vén rèn, xuống kiệu, dáng quỳnh mông lung (2120)
Rã rời từng bước rêu nhung Hài reo giữa cõi vô cùng hoang mang Truyền phu đem cội mai vàng Trồng lên trên đỉnh nền hoang cỏ dày Giác Duyên thầy có về đây Trông hoa xin tưởng vóc gầy Kiều nhi Hoa này là nguyện đại bi Giữa đông, vàng rộ sá gì phận côi Thân con dù chốn xa xôi Lời Thầy, sóng dậy gió dồi dám quên (2230)
° ° ° A hoàn sắp lễ dâng lên Sợi hương tím loãng trên nền cỏ cao Chắp tay khấn nguyện thì thào Khay hoa đậu cánh chim vào bỗng nhiên Kiều xin: Có phải Đạm Tiên Hương linh còn quyện chút duyên má hồng Cảm nhau – một sợi tơ đồng Thì xin bay đậu cành bông mai vàng Hoặc Từ dũng khí hiên ngang Anh linh lưu luyến trần gian chẳng lìa (2240)
Đồ vương nuối mộng xưa kia Hay còn vì thiếp, chưa chia ngả đường Thì xin bay xuống đầu tường Khấn xong, chim cất cánh hường bay đi Lưng trời buông giọng từ quy Đáp vào rừng vắng như vì sao sa Run run Kiều chắp tay hoa Cúi đầu lễ vọng, hương nhoà khoé môi Tiếng chim lảnh lót bên đồi Dường như thê thiết bồi hồi bụi mưa (2250)
° ° ° A hoàn lại cất tiếng thưa Thỉnh bà lên kiệu, cơn mưa – kịp về Ở đây sầu lặng buồn tê Sơn lam chướng khí lỡ bề ốm đau
° ° ° Kiều nhìn phơ phất hoa lau Ngọn cờ tập trận - ngày đầu thơ ngây Đã vàng dặm cát đồi mây Thêm hiu hắt gió ngàn cây vật vờ Tàng hoa lan cũ trông chờ Vẻ đang thiêm thiếp giấc mơ tuyệt vời (2260)
Mốt mai ta ở chân trời Riêng hoa còn mãi – sương rơi một tàng Rừng hoang trả lại rừng hoang Cội lan kia liệu hoa vàng bao Thu
° ° ° Nhớ hồi Thầy lập am tu Chọn đây là cảnh thâm u hữu tình Sớm chiều niệm Phật nghe kinh Mảnh trăng ẩn chốn phù sinh điêu tàn Một chiều trồng gốc ngọc lan Thầy rằng: Mai mốt còn làn hương bay Đời người như cánh hoa lay Trần gian thơm một đôi ngày lại thôi Giờ Thầy Tam Hợp đâu rồi Nhớ ai hoa lạnh lùng rơi cánh buồn Lan còn hoa lệ sầu tuôn Hương bay vơ vẩn dõi muôn hướng tìm Mốt mai ta cũng theo chim Về thâu ngọc rớt vàng chìm sông Ngô (° )
Đêm đêm tơ tưởng đi mò Sông Thương hoa có neo đò nhớ thương (2280)
° ° ° Kiệu phu lại thỉnh lên đường Hồn lâng lâng kiệu, hồn vương vương rừng
° ° ° Lá đưa khăn lệ rưng rưng Nhắn nhe chim cũng lạnh lùng tiếng ca Sông buồn đỏ quạnh âm ba Mây đưa đỏ bãi hoàng sa lạnh lùng Mắt buồn vời vợi mông lung Tiễn chân cội đá khóm tùng, ngất ngây Con tim chôn lại rừng này Theo hoa rụng xuống chân Thầy hôm mai (2290)
Những đêm chớp biển mưa dài Hồn bên núi, xác phương ngoài – thảm chưa Mỗi xa mỗi bước rừng thưa Yên hà theo tiếng đò đưa thuyền về Chợ chiều rạ nhạt mái quê Hắt hiu gió gợn tái tê sóng trường Sào ai phất phới mây hường Nhịp hò mái đẩy khói sương ngút mù Kiều truyền kiệu ghé gò Thu Mộ đàn hoa nở âm u lối mòn (2300)
Một gò cỏ úa héo hon Xưa kia Từ Hải – cũng chôn gò này Bây giờ liệt sĩ nằm đây Mộ đàn – thêm trắng một cây đoạn trường Lòng Kiều chín nhớ mười thương Hai mồ ngát một tuần hương Thuý Kiều Áo bay lẫn giữa mây chiều Bâng khuâng suối tóc, đăm chiêu nét ngài Chim nào hót giữa lùm mai Chừng như thoảng tiếng thở dài trên yên (2310)
Gò xanh thơ thẩn gót tiên Chân trời cõi đất hai miền sầu chia Xương tàn nấm đất ai kia Núi sông – không một tấm bia để đời Anh em chí cả nghiêng trời Lòng chung chẳng thể tách rời – Bắc, Nam Vẫy vùng một cõi giang san Thương người cơ cực, chém quan tế cờ Ai từng tuốt kiếm ngâm thơ Chí toan sắp lại ván cờ máu tươi (2320)
Ai từng nốc rượu cả cười Sau rung tiếng hát giữa nơi chiến trường Tưởng khi cờ cuộn mây vương Thành cao ném một ngọn thương san bằng Bây giờ mây uốn ngành trăng Gió ù cổ miếu, nhện giăng chiến bào Mồ chung le lói vì sao Hồn oan tử sĩ xạc xào cờ lau Cỏ hồng đỉnh núi thay màu Tưởng như sắc ngựa Phong Châu anh hùng (2330)
Còn đâu trống giục kiếm cung Chiều nay ếch nhái lạnh lùng khua xa Trăm năm còn lại gò hoa Lất lây giải ánh lạc hà cô thôn
° ° ° Nhà ai hun lá bên cồn Nhìn mây phu kiệu bồn chồn ngồi quanh Bãi sông rải rác mái tranh Trẻ vui ném sỏi dưới cành dương khô Sườn non nửa mảnh trăng nhô Cong thành một nét mơ hồ mi ai (2340)
Lại nghe trong cội hoa mai Bật thêm tơ tóc rùng vai đàn bầu
° ° ° Nàng dừng lắng đợi âu sầu Quả như tiếng vẳng hương lầu trước đây Hồn ai nấc tiếng ngân này Xưa nương đàn cũ, giờ cây mai vàng Tiếng ngân chìm đắm mơ màng Một dây to nhỏ hồn man mác trời Buông chi tiếng nhặt tiếng lơi Trong u ẩn gió nghe tơi tả lòng (2350)
° ° ° Kiều còn thơ thẩn tiên dong Núi xa nhoà mấy vành cong sương mù Quạt trần khép mở vân du Hoa dung đáy nước cho dù khói vương Bâng khuâng bước dạo cầu sương Tóc bay dài một dòng hương la đà Có nàng cắp rổ bèo hoa Vén quần cánh nhuỵ lội qua sưối về Bè ai thả vó ven đê Nửa ngâm ráng đỏ, nửa kề mây xanh (2360)
Gió Thu hiu hắt lùa nhanh Đáy khe cát trắng long lanh ngấn trời Qua cầu suối cũng đua tươi Bờ vai phơ phất tóc xuôi hững hờ Trên dòng tơ, dưới dòng tơ Hai dòng thêu một đoá mơ nhạt nhoà
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần...
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.85 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đang online: Viên Hiếu Thành Huệ Lộc 1959 Bữu Phước Chúc Huy Minh Pháp Tự minh hung thich Diệu Âm Phúc Thành Phan Huy Triều Phạm Thiên Trương Quang Quý Johny Dinhvinh1964 Pascal Bui Vạn Phúc Giác Quý Trần Thị Huyền Chanhniem Forever NGUYỄN TRỌNG TÀI KỲ Dương Ngọc Cường Mr. Device Tri Huynh Thích Nguyên Mạnh Thích Quảng Ba T TH Tam Thien Tam Nguyễn Sĩ Long caokiem hoangquycong Lãn Tử Ton That Nguyen ngtieudao Lê Quốc Việt Du Miên Quang-Tu Vu phamthanh210 An Khang 63 zeus7777 Trương Ngọc Trân Diệu Tiến ... ...