XI. Những đêm tàn rượu Bức thứ mười một: (Hồ Tôn Hiến thanh tra đất cũ, nhớ tiếng đàn Thuý Kiều. Trong tiệc thơ, có nhà văn kể lại đời nàng. Hồ ban tặng Kim Trọng cây đàn) Kim về tựa án đăm chiêu
Chập chờn lửa múa, tiêu điều gió đưa
Vào Đông tiết giá mưa thưa
Cành trơ vàng rụng, đào vừa hồng khai
° ° °
Huyện đường kể buổi sáng nay
Có Hồ Tổng đốc nhân ngày thanh tra
Đất bằng nhớ trận phong ba
Thác là ngựa cuốn, gió là cờ reo
Hồ cùng Từ Hải – một keo
Nắng ngời kiếm kích, mây neo lọng tàn (860)
Vài năm giặc giã tan hàng
Mưu cơ đôi kế, ngọc vàng dăm rương
Họ Từ - đối thủ phi thường
Nam bang trí dũng chẳng nhường một ai
Võ văn thao lược là tài
Đức dung hào kiệt, trí ngoài thần cơ
Nêu chính nghĩa, dựng màu cờ
Danh vang trung thổ, khí mờ đẩu tinh
Giá là rường cột triều đình
Bốn phương mở cõi, thái bình cậy tay (870)
Cứ xem người đó ta đây
Trời cao hơn hẳn đất dầy - chẳng sai
Xưa nay những bậc kỳ tài
Tử sanh là chuyện bên ngoài, luận chi
Tấn trò dâu biển qua đi
Nghĩa nhân mới để chút gì làm duyên
Mượn danh đãi sĩ chiêu hiền
Che quân mai phục giáo khiên sáng loà
Họ Từ thừa biết mưu ta
Vẫn vào đất chết như là rong chơi (880)
Vả chăng tuốt mũi gươm ngời
Hai bên kéo một cuộc chơi đến cùng
Dù cho trời đất chẳng dung
Hùm thiêng trong rọ vẫy vùng chưa thôi
Lại thêm thây chất nên đồi
Nát nhầu cỏ nội, tả tơi lá ngàn
Hẳn Từ chẳng vị giàu sang
Lồng son sao đáng phượng hoàng khép thân
Mà e gió dập mây vần
Thêm hồn vô tội dưới chân ngựa giày (890)
Một khi nát cỏ tàn cây
Đời Kiều ắt hẳn thêm đày đoạ mưa
Anh hùng nhi nữ nghìn xưa
Vướng nhau vì một đường tơ diệu vời
° ° °
Những đêm tàn rượu chơi vơi
Trong ta chợt hiện bóng người hiên ngang
Mắt Từ - kiếm ảnh chưa tan
Khiến thân co lạnh trong làn khí thiêng
Nghĩ mình muôn trận cung tên
Việc quân trá thuật là quyền xưa nay (900)
Ngại gì máu nhuộm hồng tay
Thây oan chừng đã chất đầy đồng hoang
Tử sanh - là luật sa tràng
Giáo gươm là tín, trá gian là tài
Chiến tranh – chẳng khác canh bài
Mua vui trong cuộc trần ai nhọc nhằn
Chỉ vì chút lợi chút danh
Được thua đắp đỗi – tan tành tiếp nhau
Đã thành cái lệ biển dâu
Yếu thua, mạnh được – cao sâu đặt bày (910)
Trừ khi Thánh Chúa vần xoay
Yêu thương sự sống ngừng tay hận thù
Lòng không biển thẳm non mù
Hợp hoà cuộc thế thiên thu cậy nhờ
Còn như trí thuật nghìn xưa
Bày ra thêm những vực bờ tâm gian
° ° °
Núi sông trải mãi xương tàn
Đổi thành mấy đấu lương quan triều đình
Cúi đầu lấy nhục làm vinh
Mắt mờ tai điếc, dân tình mặc ai (920)
Vật vờ áo mão cân đai
Vào trong khúm núm, ra ngoài vây vo
Tiếc cho thân cũng trong lò
Tỉnh thôi tóc đã màu tro ngả chiều
Hồn oan nào biết bao nhiêu
Lẫn hơi gió lạnh ít nhiều oán pha
Mắt Từ như lưỡi gươm loà
Đêm đêm vào mộng nhìn ta lạnh lùng
Trải qua muôn trận thư hùng
Khơi sông máu hận đổi chung rượu đầy (930)
Đã từng xé xác phanh thây
Xem như phạt cỏ chém cây là thường
Kể chi thiện ác thói thường
Chiến tranh là đến yêu thương nhiệm mầu
Mặc cho lũ quỷ không đầu
Dắt nhau lủi thủi qua cầu tử sinh
Từ hôm cái chết oanh linh
Trong tâm ám ảnh, bên tình không yên
Khiến ta u uất não phiền
Đêm đêm thao thức ngó viền trăng phai (940)
Bao giờ hoà hợp muôn loài
Bên trong thịnh đức, bên ngoài điều phương
Làm sao mở hết biên cương
Trần gian dựng một thiên đường chung vui
Cho hoa tươi góp ngàn tươi
Cho ta dâng nốt cuộc đời góp công
° ° °
Qua đây nhớ tiếng tơ đồng
Ngày tàn binh lửa núi sông nhuộm cờ
Tay Kiều lướt mấy dòng tơ
Năm cung còn đến bây giờ vọng vang (950)
Sông Thương nào sóng mang mang
Tấm lòng nghĩa nước tình chàng chia đôi
An Tiêm nào nỗi bồi hồi
Hồn quê theo cánh diều trôi mây về
Bốn dây như điếng như tê
Nỉ non oán đọng, não nề sầu câm
Bây giờ vẫn thoảng dư âm
Tiếng đàn thanh lặng khóc thầm bấy nay
Tơ xưa rụng ở đất này
Ngọc xưa trầm dưới sông vầy lênh đênh (960)
Đoạn trường sóng dọi trăng thanh
Tưởng xiêm y đó còn xanh đến giờ
Bãi chiều hoa trắng đong đưa
Ngỡ tay người cũ phím tơ lạnh lùng
Giờ nhìn kỹ nữ so cung
Hồ ngồi tựa gối nhắp chung trà buồn
Sân mưa sùi sụt dòng tuôn
Dương như lệ tủi kiếp hường long đong
Cùng tân khách ngỏ hận lòng
Hồ tơ nay chạnh tiếng đồng tiệc quân (970)
Ngày xưa, của một giai nhân
Giết chồng, cứu nước muôn phần vẻ vang
Rồi thân giao xuống Tiền Đàng
Trăm năm vẹn nghĩa đá vàng sâu xa
° ° °
Bấy giờ có một văn gia
Thưa rằng chuyện ấy tôi đà rõ hay
Giở trang tài mệnh xưa nay
Cùng hoen nước mắt, càng dày túc duyên
Dòng đời khi xuống khi lên
Cũng là thử thách cánh thuyền thiên hương (980)
Kể từ đất cũ họ Vương
Kiều, Vân phận gái riêng vườn ẩn hoa
Vương Quan, trai nối dòng nhà
Soi trăng đọc sách đậm đà kinh luân
Thuý Kiều vì hiếu quên thân
Duyên trời vừa hé nụ xuân vội tàn
Tưởng cùng Kim dệt phím loan
Trăm năm hoà một bản đàn rồng mây
Ai ngờ một sớm chia tay
Mảnh trăng, đất nọ đất này nhớ nhau (990)
° ° °
Kẻ đi buồn trắng ngàn lau
Người về tay nhặt hoa cau lệ tràn
Vận nhà gặp chuyện trái oan
Vàng ba trăm lạng lễ quan mới thành
Chuộc cha, nàng phải bán thân
Dầu sôi lửa bỏng dám lần lữa đâu
Cậy em trả mối tình đầu
Hạt mưa liều phận, chôn câu nguyệt thề
Rơi vào tay họ Mã kia
Dầm sương dãi gió một xe bụi hồng (1000)
Cánh bèo ngơ ngác trên sông
Lầm nơi buôn hạnh, bán hồng mà trao
Phận Kiều chưa ngọt tay dao
Then sương đóng chặt hoa vào lầu xanh
Lại lầm thêm mẹo Sở Khanh
Miệng kêu chẳng thấu thôi đành phận câm
Đứt lòng nức tiếng ca ngâm
Rượu cười cợt khách lệ tầm tã riêng
Nàng cùng chàng Thúc vầy duyên
Tưởng qua dầu dãi lại thêm đoạ đày (1010)
Chước ghen vợ Thúc mới hay
Khiến mày mặt tủi – ngó mày mặt đau
Trái oan đành phận tôi hầu
Cá nằm đáy lưới lo rầu sớm hôm
Vượt tường ẩn chốn Thiền môn
Nhưng e thêm trận sóng cồn phong ba
Lần thêm Bạc Hạnh, Bạc Bà
Tưởng đâu mái ấm lại là lầu xanh
Thôi thì sen lấm bùn tanh
Gió mưa thêm nữa vầy cành thu mưa (1020)
Não nùng nguyệt đón sương đưa
Tình riêng còn ánh sao thưa cuối trời
° ° °
Một hôm đất Việt có người
Nghênh ngang đàn kiếm tìm nơi chuộc nàng
Nửa năm duyên bén đá vàng
Họ Từ nổi máu hồ giang quen ngày
Đưa chồng ngựa nhạt yên mây
Phòng thu khép kín đêm ngày mênh mông
Người đi mù mịt non sông
Cho hoa quỳ võ một bông hướng chờ (1030)
Ngó sao, sao cũng hoen mờ
Hỏi trăng, trăng cũng lặng lờ tuyết băng
Nhện buồn thì giở tơ giăng
Người buồn khâu áo, biết rằng gửi ai
Gió phai màu lá hiên ngoài
Lệ phai sắc gối đêm dài bóng câm
° ° °
Một hôm binh giáp ầm ầm
Từ về tráng khí hùng tâm chói loà
Trai hào kiệt, gái anh hoa
Một lời đã hẹn dẫu là trăm năm (1040)
Bao phen ngậm lệ kêu thầm
Nhục phơi mặt tái, sầu bầm dạ tuơng
Kiều đem - ân oán tỏ tường
Trả vay cho rõ lẽ thường quả nhân
Những phường buôn liễu vùi xuân
Đầu bêu cửa chợ xa gần hãi kinh
° ° °
Thế rồi binh mã triều đình
Cọp beo là dũng, ngạc kình là oai
Tướng trời nổi trận gió bay
Rạng ơn thánh thượng, một ngày giặc tan (1050)
Thưởng công nàng với thổ quan
Lênh đênh chèo quế, sóng lam dặt dìu
Lòng ai tan tác muôn chiều
Tiền Đường nước bạc gieo liều phù dung
Chìm vào con nước - năm cung
Cho đàn hoá sóng não nùng lòng ai
Tiền căn chưa dứt thiên tài
Cành vàng lại vướng mẻ chài thiện duyên
Từ đây khoác áo hương thiền
Nước dương tẩy oán tan phiền từ đây (1060)
Mệnh đàn tưởng cuốn tơ dây
Cửa Không chôn chặt những ngày xa xưa
° ° °
Cuộc đời lắm nỗi tình cờ
Khi trông không lại, chẳng chờ thì qua
Từ Kim quẩy sách về nhà
Chịu tang đất cũ, nhớ hoa đất người
Nửa năm của lệch gió cười
Hong đèn – sợ bóng, trông vời – tiếc trăng
Đoạn tang vội vã vân đằng
Lòng thu dặm bụi, ngựa băng nội dài (1070)
Liễu xa những tưởng sầu ai
Áo bay ráng đỏ, tóc gài mây xanh
Đàn còn đợi ngẩn ngơ thanh
Hiên văn sẽ lại nguyên vành trăng hương
Một chiều giậu cũ dừng cương
Bưởi phơi nụ lệ bên đường lất lây
Hỏi nhà Vương - đã rời đây
Hỏi nàng, đã đáp xe mây vân trình
Hỏi tình, tình đã quên tình
Vườn đào xanh cũ tưởng hình trâm rơi (1080)
Tường xưa, mòn lệ trông vời
Hoa xưa dột não lời thề hoa
Buồng trầm xưa vẳng âm ba
Còn rau sam, ấy nắng tà, vàng trơ
Tỉ tê dế gọi trăng mờ
Mấy tàu lá chuối xạc xờ gió lay
Chàng Kim dõi đó tìm đây
Sào phơi còn giải lụa dày dạn mưa
Quẩn quanh nhặt chút hương thừa
Chiếc hồn ma dại vật vờ thềm hoang (1090)
Hỏi người tìm đến cuối làng
Nhà Vương ẩn mái tranh tàn cột xiêu
Hàn huyên nhắc lại chuyện Kiều
Chứa chan khoé lệ, tiêu điều mày chau
Tưởng nàng xa biệt ngàn dâu
Bâng khuâng tóc biếc, giãi dầu mặt hương
Tưởng hoa ngậm lệ canh trường
Hồn theo cánh đóm tha phương lập loè
Chừng đâu trong mảnh trăng kia
Cùng soi hai mặt, cùng nghe lạnh lùng (1100)
Trăng chung mà gối chẳng chung
Lệ rơi lấp lánh một vùng ánh trăng
Ước gì hoá được mây giăng
Tìm nhau khắp chốn dẫu rằng tàn hơi
Ước chi hoá hạt sương ngời
Thiết tha đậu xuống tóc nguời miên man
° ° °
Cứ theo ước nguyện của nàng
Thuý Vân sẽ kết cùng chàng mối duyên
Vương, Kim khuya sớm bút nghiên
Bảng treo nhành quế tên điền rõ hai (1110)
Bõ công kinh sách miệt mài
Việc quan gánh vác, trong ngoài hiển vinh
Lòng càng khơi ngọn lửa tình
Trơ vơ trăng dõi, lung linh đèn sầu
° ° °
Chàng Kim dong ngựa tìm châu
Bâng khuâng nắng giãi, âu sầu suơng in
Vẫn là mù mịt bóng chim
Nhạn bay núi Bắc đi tìm biển Đông
Kể gì đèn phố khói sông
Mắt soi tám hướng, lòng mong mười chiều (1120)
Cỏ hoa cũng tưởng Thuý Kiều
Bâng khuâng suối bổng, đăm chiêu núi trầm
Trời xanh thương kẻ có tâm
Trong nơi tuyết giá hé mầm tin xuân
Bao năm xuôi ngược đường trần
Lang thang vó ngựa một thân võ vàng
Được tin nàng – đã mất nàng
Mạch sầu cắt nhỏ đôi hàng lệ xanh
Kim nghe mới thấu ngọn ngành
Kiếp hoa từ thuở lìa cành đớn đau (1130)
Hết đày đoạ chốn thanh lâu
Lại sa vào phận tôi hầu trớ trêu
Kiếp người chừng được bấy nhiêu
Mà bao hàng lệ tiêu điều thấm hoen
Trách trời nỡ nặng lòng ghen
Hết vùi tài trí, lại lèn giai nhân
Cõi hồng đã rạc dấu chân
Lòng mong dầu chỉ một lần thoáng qua
Dẫu tình dang dở đôi ta
Một lần thấy mặt âu là trăm năm (1140)
Sông dài vừa gặp cá tăm
Thì người xưa đã yên nằm đáy sông
Ối thôi! Vỡ ngọc tàn hồng
Thương nhau xin cảm nỗi lòng cho nhau
Đàn tràng lập bến sông sâu
Lệ tình rửa ngọc tươi màu băng nguyên
Trả nhau vẹn nửa trăng nguyền
Nước dương xin giải ưu phiền hờn oan
Lênh đênh mặt sóng hoa tang
Bó hoa nổi giữa mây vàng lô xô (1150)
° ° °
Bỗng dưng hiện đến sư cô
Nón gồi lá thẫm, dép bồ cỏ thơm
Áo Đà vạt đậm hoàng hôn
Quẩy kinh đầu gậy rẽ cồn lau vương
Ảnh Kiều, vừa nhác bàn hương
Mắt trầm tươi nét, dáng sương ngại ngần
Nhà sư bỏ nón dừng chân
Hai bên thi lễ thưa gần thưa xa
Cửa Thiền còn ẩn tố nga
Vừa nghe những tưởng đâu là chiêm bao (1160)
Chàng Kim mắt lệ tuôn trào
Kẻ sau người trước xôn xao lạy mừng
Kéo nhau lên đỉnh cồn rừng
Cây xao nhã điệu, chim bừng nhã thanh
° ° °
Hương chiều ngan ngát am tranh
Ngoài sân man mác mấy nhành lan rơi
Dưới hoa thấp thoáng bóng người
Quét hoa tay cũng lả ngời chùm hoa
Nhìn nhau suối lệ tuôn oà
Nỗi riêng tủi thẹn, nỗi nhà đoàn viên (1170)
Phận bèo trôi dạt sông thiêng
Ngờ đâu hai mảnh trăng nguyền chưa phai
Một nhà sum họp trúc mai
Thêm chim tấu nhạc, thêm đài bông dâng
Bõ rài rạc ngựa bâng khuâng
Bõ hiu hắt gió theo vầng mây xanh
Cõi lòng cũng rộn yến oanh
Viền trăng duới lại gặp vành trăng trên
Dòng hương quyện sóng đàn lên
Đổi tình cầm sắt thành duyên cầm kỳ (1180)
Người kiệt nữ ấy là chi
Đương Kim quan huyện, chính vì phu nhân
° ° °
Hồ nghe vẻ mặt tần ngần
Bờ sương ngạn liễu giang tân nhạt nhoà
Tiểu đình trầm mặc hiên hoa
Trà sen đọng nguyệt, tỳ bà dừng loan
Sượng sùng khoé mắt thượng quan
Nửa chi cay đắng, nửa san ngậm ngùi
Sáng nay, Hồ mới sai người
Đem cây đàn quý ban nơi huyện đường (1190)
Thiên tình lại dệt đôi chương
Thưởng công trị loạn, tuyên dương hiền tài
Kim về tựa án thở dài
Nến trong lệ đọng, mưa ngoài hiên thưa
Tặng đàn hẳn nhắc tiếng xưa
Trị dân – thầm nhủ như vừa so dây
Ra vào, tư lự riêng tây
Nghĩ mai thiết yến, đặt bày lo toan
Ngoài hiên có tiếng a hoàn
Dâng thơ đã nhác tên nàng đề phong (1200)
Nến rơi lã chã giọt hồng
Xem qua nhẹ nỗi bận lòng tối nay
Chữ Kiều, lãng đãng hương bay
Lủa pha sắc giấy ửng mây chiều mờ
Đàn này, thiếp đã so tơ
Quả là báu vật, bây giờ, tạ ơn
Ấm thì mạch suối nào hơn
Ngân thì tiếng hạc như vờn cồn trăng
Trục đàn sáng ngọc tươi băng
Xuân phơi khói núi, Thu giăng tơ trời (1210)
Cảm riêng khó tả nên lời
Xin cho tiện thiếp dự nơi tao đàn
° ° °
Trước là đáp lễ thượng quan
Sau cùng bằng hữu dâng làn cung tơ
Tri âm tạ mối duyên thơ
Chút lân tài đã đợi chờ mấy Đông
Thiếp xin ghi tạc ơn lòng
Đêm nay thảo vội đôi dòng bút trao
° ° °
Đồi xa nai vọng tiếng gào
Ngoài hiên nhoà nhạt cội đào đơm sương (1220)
Bóng ai quạnh quẽ trên tường
Gió Đông lùa mấy dòng hương nhạt màu
XII. Dậy sóng Tiền Đường Bức thứ mười hai: (Nhờ tiếng đàn của Thuý Kiều, Hồ Tôn Hiến giải thoát khỏi con mắt ám ảnh của Từ Hải khi chết) Ngàn mai lợp trắng hiên lầu
Hồ sen in dáng nhịp cầu lung linh
Chênh vênh đôi mái tiểu đình
Lẫn trong đảo liễu vươn mình xanh cong
Ngàn đào gió gợn bên song
Cành phơi sóng lục mơ mòng thiên nga
Huyện đường mở tiệc thưởng hoa
Quanh bờ liễu rũ đèn sa lồng vàng (1230)
Dưới hoa thấp thoáng khách quan
Giai nhân tài tử luận bàn văn chương
Gió trầm ngan ngát thiên hương
Hoàng hôn theo cánh nhạn hường về quanh
° ° °
Sau rèm, phơ phất tinh anh
Kiều ôm đàn, vuốt tóc xanh cúi chào
Môi tươi chúm chím nụ đào
Trán cao vòm tuyết, mi rào khoé nhung
Não nùng một đoá phù dung
Đôi tay hồng thạch so cung ngại ngần (1240)
Xa đưa ấm giọng chim thần
Chào mừng quan khách, xa gần dự thơ
Nàng ngồi bên tấm rèm tơ
Lung linh lửa nến, nhạt mờ dấu hoa
Tóc mây biếc ngọn la đà
Nửa phơi vóc liễu, nửa sa ráng trời
Hồ quan tựa án trông vời
Não nùng nét mặt rõ người năm xưa
Tay Kiều hồng ngọc đong đưa
Trầm im lặng khói, nến mờ ảo lay (1250)
° ° °
Dây nào lơ thơ mây bay
Nhỏ to như nhắc chuyện ngày hồng hoang
Lòng Hồ tan loãng mênh mang
Nỗi buồn khơi lại âm vang ngày nào
° ° °
Lòng đàn bước thấp bước cao
Dường như ngọn sóng xuôi vào trùng dương
Đỉnh trầm cũng ngát thêm hương
Cây đàn dậy sóng Tiền Đường trôi mau
Tưởng muôn ngọn đổ qua đầu
Mồ hôi đẫm mái tóc sầu Hồ quan (1260)
Mắt Từ ám ảnh chưa tan
Bỗng như vụt loé một làn gươm bay
Mồ hôi ngỡ máu tuôn đầy
Tay Hồ sửa tóc, mặt mày tái xanh
Năm cung vàng ngọc tan tành
Liễu tơ ướt sũng trời xanh rũ hồ
Dây đàn chợt nín hư vô
Tao nhân mặc khách còn ngơ ngẩn hồn
° ° °
Lại run quỷ oán ma hờn
Hơi đâu lạnh khối băng sơn bềnh bồng (1270)
Dáng Kiều lau lách thu đông
Như trăng úa gọi nước sông đi về
Gió vờn cỏ nội lê thê
Vệt sao lặn giữa tiểu khê hẹn hò
° ° °
Ngón đàn thiên cổ so đo
Tơ đồng lãng đãng theo lò hương gây
Hạt sầu nức nở cung dây
Tóc sa nét mực nến gầy lửa hiu
Trán Hồ gợn nét đăm chiêu
Đã bời gió tấp lại nhiều mưa đong (1280)
Mắt Từ thoáng hiện ngoài song
Nhìn Hồ trầm mặc như vòng trăng Thu
Cành duơng trĩu ngọn sương mù
Lồng đèn gió bạt lửa lu ngọn tàn
° ° °
Tay tiên chợt ấm hơi đàn
Mạch tuôn tí tách, trong làn xuân hương
Nội ngàn hoa hé nụ sương
Lò trầm man mác khói vương sợi dài
Tưởng chừng chim họp ban mai
Đậu về reo hát hiên ngoài triền miên (1290)
Hồ nghe nhẹ bẵng ưu phiền
Dây đàn ấm mạch suối thiêng tỉnh ngời
Mắt Từ như cánh hạc trời
Bay lên mất hút giữa nơi vô cùng
Bấy giờ im bặt năm cung
Trầm thưa thớt toả nến lung linh mờ
Mắt Hồ vuơng ngấn lệ chờ
Môi khô cười nụ hững hờ sầu quên
° ° °
Ôm đàn khép nép hài tiên
Tạ từ quan khách dáng quyên ngại ngần (1300)
Tiệc đào tài tử giai nhân
Vòng tay đưa tiễn trăng dần dần xê
Lơ thơ liễu tựa hoa kề
Hoa rơi tiễn bước hoa về cầu hoa
Thêm trầm, thơ phú ngâm nga
Sang canh eo óc tiếng gà vọng sương
XIII. Ngỡ ngàng bọt nước Bức thứ mười ba: (Kim Trọng cứu giải oan nghi án của Ngô Khôi) Kim đang ngồi trước công đường
Ngói cong mưa rụng, rêu tường lá bay
Xạc xào gió cuộn hoa lay
Cây nghiêng hàng gọi cuối ngày vàng trơ (1310)
Núi xa thành dựng mây mờ
Thôn xa khói tím vẩn vơ nhạt nhoà
Ngoài sân lích chích bầy gà
Gọi nhau đến dưới hiên nhà ủ con
Chim nào buông điệu véo von
Tưởng như đất cũ tiếng còn giục ta
Bao năm chưa lại quê nhà
Trải hồng một giải cỏ hoa dõi chờ
Chênh vênh vách núi xanh mơ
Thác cao ghềnh vắt dòng tơ ngang trời (1320)
Trại hoa Đá Trắng thương ơi
Mỗi tên đất – mỗi dấu đời vọng vang
Thương từ nương sắn khóm lang
Nhớ từ mùi đất bên đàng nhớ đi
Lớn lên giữa núi xanh rì
Cỏ cây như thể tứ chi thuộc mình
Một thời chia nhục chia vinh
Đã làm nên cõi tâm tình - là ta
Bây giờ sợ khác trước xa
Chắt chiu ảo ảnh như là thiên thu (1330)
Kim còn tựa án ưu tư
Tình neo cánh gió, ý từ hạt mưa
° ° °
Dưới thềm đã vọng tiếng thưa
Dẫn vào bà lão già nua tuổi trời
Lưng còng, quần áo tả tơi
Tay nương gậy trúc vẻ người chốn quê
Kim truyền: lão ở đâu về
Có chi oan ức đạt đề của công
Bẩm quan già ở núi Đông
Suốt đời cặm cụi vun trồng rau khoai (1340)
Hiếm hoi được mụn con trai
Ngô Khôi tên gọi, tuổi ngoài ba mươi
Cảnh già mẹ goá, con côi
Vào rừng hái nấm, lên đồi bẻ măng
Nhà nghèo chưa đủ miếng ăn
Kể chi đau ốm khó khăn khôn lường
Năm xưa quan trấn địa phương
Một hôm gặp ở giữa đường, bắt đi
Giữ giam nào rõ tội chi
Thân nghèo còn biết lấy gì đảm đang (1350)
Hai năm còm cõi lang thang
Dò la được biết đày sang huyện này
Vội vàng chống gậy đi ngay
Tấm thân muôn dặm đoạ đày nắng mưa
Lần xin cơm cặn canh thừa
Nhìn con lần cuối cho vừa nhớ mong
Xác này bỏ chợ trôi sông
Còn hơn tựa cửa ngùi trông lệ tràn
Đánh liều, già đến cửa quan
Cậy nhờ phụ mẫu xá oan cởi sầu (1360)
Mẹ con cho đuợc nhìn nhau
Làm thân trâu ngựa kiếp sau nguyện đền
Vô cùng – cảm tạ ơn trên
Thân này dầu nát không quên tấc thành
° ° °
Mưa ngoài trĩu ngọn cỏ xanh
Mây vương nắng quái bên thành mưa dây
Rập đầu lạy trước án mây
Trên khuôn mặt lão vương đầy lệ rơi
Kim truyền tra sổ tìm người
Rõ ràng án buộc những lời vu vơ (1370)
Già nghe mừng tủi sững sờ
Vẻ e quáng mắt, vẻ ngờ chiêm bao
Lệnh truyền xuống bọn quản lao
Giỏ khoai vội xách theo vào thăm con
Trông già chàng những héo hon
Bước chân từ mẫu trèo non đạp ngàn
Đời còn lắm chuyện trái oan
Bất công nhan nhản, lầm than dẫy đầy
No nê chi bọn tớ, thầy
Họp bè kết nhóm đạp giày dân đen (1380)
Trời cao chẳng thể với lên
Tiền tài thế lực bốn bên dập vùi
Hùa nhau một lũ ăn người
Tiếng kêu tắc nghẹn, tiếng cười hả hê
Giận mình một thuở đam mê
Trị dân thẳng mực ra bề tôi trung
Nặng nề quỳ gối khom lưng
Cũng phường bịt mắt tai bưng bấy ngày
Vá trời khôn một bàn tay
Đành đem chí gửi chén say giày vò (1390)
Thôi thì đủ mặt đủ trò
Thân tâm nô lệ vào cho đồng tiền
Tưởng khi theo đuổi bút nghiên
Mộng làm sáng đức thánh hiền cửa công
Ngỡ ngàng bọt nước ra sông
Chốn quê thèm đuợc làm ông đồ già
Chính chân giữ lấy nếp nhà
Đã làm không Hoá thì Hoà thái hư
Khi ngày cao giọng thi thư
Khi đêm thưởng nguyệt cùng sư đạo đàm (1400)
Khi qua làng nước luận bàn
Bảo răn như đạo, khuyên can thực lòng
Còn hơn hoạn lộ long đong
Giúp dân chẳng được như lòng ước ao
Ta còn nhớ giấc chiêm bao
Cầu treo dốc ngược rơi vào phù vân
Theo Kiều lấy phúc làm nhân
Cuối năm xin được thi ân giảm tù
Những ai án tích lờ mờ
Xin cho phóng thích, lượng nhờ quan trên (1410)
Bút rồng đạo đạt đôi tên
Ý tình tha thiết trình lên tỉnh đường
° ° °
Bọt mưa nhuộm nắng mây huờng
Cơn mây trên đỉnh phố phường về đâu
Thì thùng nhịp trống tan hầu
Ngoài sân ngựa cũng gục đầu hí vang
XIV. Hoà tan dặm trường Bức thứ mười bốn: (Ngô Khôi tới dâng Kim Trọng đôi chim Đại Hồi, nhờ vậy Vương Quan đã tìm đuợc tung tích Hồ Ông (Thầy học của Kim, Quan, Kiều) - Dòng dõi Hồ Quý Ly (Việt Nam) – lưu lạc bên Tàu, là một học giả chủ truơng "Tri Hoà Hành Hoá") Guồng tơ nhật nguyệt mênh mang
Cuốn hồng sương núi, phơi vàng xuân hoa
Lưng trời lác đác chim qua
Cánh theo gió ấm thiết tha tìm về (1420)
Mây bay lả nét thơ đề
Núi xanh thiên bút ngọn kề nghiên suơng
Lầu cong mái đậm nắng vương
Tiếng chim trong cụm hải đường xôn xao
Huyện đường khuất giữa ngàn đào
Đì đùng pháo nổ, ngạt ngào trầm xông
Cúc vàng nở ngát hiên đông
Mây trời cỏ đất mênh mông một màu
Họ hàng đoàn tụ bên nhau
Nhìn đàn trẻ nhỏ trước sau một bầy (1430)
Ngày xuân mới gặp nhau đây
Vương, Kim ngồi dưới tàng cây thưởng trà
Chuyện gần rồi đến chuyện xa
Tấm lòng hồi tưởng quê nhà đinh ninh
Hai ta như bóng theo hình
Leo lên cành bưởi luận bình văn thơ
Nhân khi Thầy mải cuộc cờ
Trốn trường ra tắm bên bờ Bảo Giang
Qua nương bẻ trộm mía vàng
Ăn xong nhặt sỏi bên đàng ném nhau (1440)
Trở về nhận bốn roi đau
Thế rồi lại trốn đi câu như thường
Trong mình, giấu mấy nén hương
Ghé vào bãi mộ bên đường phụ ma
Sườn đồi đuổi bắt reo ca
Buông diều cánh cốc la đà bay lên
Trèo cây đa, bắt sáo đen
Móc nhằm hang rắn một phen hoảng hồn
Mùa đông rủ chó săn chồn
Xuống khe đơm cá, lên cồn bẫy chim (1450)
Bạn xưa còn nhớ như in
Bây giờ ai biết bóng chim cuối trời
Mùa nào chẳng có thú chơi
Ngày nào chẳng đứng nghe lời rầy la
° ° °
Sau lưng có tiếng hầu nha
Xin đưa một kẻ vào là Ngô Khôi
Dâng lên cặp chim Đại Hồi
Lông tơ như thể phấn nhồi tuyết vương
Quả là báu vật lạ thường
Tên Khôi khép nép bên tường trình thưa (1460)
Rằng con từ độ ơn nhờ
Thượng quan minh xét, bao giờ dám quên
Đoái thương đến phận dân hèn
Tha về phụng dưỡng mẹ hiền sắt son
Đức tày vạn biển nghìn non
Dù cho sông cạn đá mòn không phai
Quê nhà có ngọn Thiên Thai
Đỉnh cao chót vót là đài Thông Linh
Có hang Thánh Hoá, Tâm Bình
Bên chùa Non Nước cảnh tình thanh u (1470)
Có Thầy ở nước Đại Ngu
Là Hồ ẩn sĩ dật cư chốn này
Tổ tiên lưu lạc qua đây
Cố hương cách mấy trùng mây quan hà
Sống cùng ái nữ hiền hoà
Sắc tài đôi vẻ tên là Ẩn Lan
Sớm trưa cung cửi tầm tang
Xuống khe giặt lụa, lên ngàn dạo chơi
° ° °
Vương, Kim vừa thoáng nghe lời
Nhìn nhau xúc động bồi hồi - Thầy xưa! (1480)
Bao năm đằng đẵng ai ngờ
Mây còn quyện núi, nước chưa qua cầu
Vương truyền: Người hãy trình mau
Tiểu thư còn biết hiệu "Sầu Hoa Dung"?
° ° °
Họ Ngô xiết đỗi lạ lùng
Quan đây, Thầy đó hẳn chung họ hàng
Bẩm quan quả đúng hiệu nàng
Người còn tôn bậc chúa lan tuyệt trần
° ° °
Hai chàng nghe nói tần ngần
Mỗi lời như dẫn xa dần vào mơ (1490)
Mái trường cỏ lợp đơn sơ
Xanh xanh ngõ trúc, ơ hờ then hoa
"Làm Nên Hoá, Biết Nên Hoà"
Chủ trương, riêng phải học gia kinh quyền
Điều Thân, Tịnh Ý, Hoàn Nguyên
Hoà vào xã hội, thiên nhiên đổi dời
Tình thương, lẽ sáng thông ngời
Giúp người Tự Chỉnh giữa đời ngăn che
Lời Thầy khuyên nhủ răn đe
Khi ngồi luyện tập, khi nghe văn bình (1500)
Đạo trương thắm thiết ân tình
Bao năm tấc dạ in hình chưa phai
° ° °
Khôi rằng: Như loại chim này
Tuy là dã điểu – lại hay nghĩa nghì
Theo nàng – đuổi cũng không đi
"Lý – Trần – Lê" hót vân vi núi ngàn
° ° °
Lâng lâng như suối reo đàn
Tưởng lời non nước hoà tan dặm trường
Từ nghe Lan hát trên nương
Đôi chim từ bỏ non sương theo cùng (1510)
Suốt ngày như bạn vui chung
Tiếng chim hoà vọng một vùng non xanh
Thế rồi kết tổ trên cành
Thời gian thoắt đã nở thành một đôi
Nàng đặt tên chim Đại Hồi
Ngày ngày tung cánh trong nôi mây hồng
Con thường hầu hạ Hồ Ông
Lên non hái thuốc, câu sông buông thuyền
Tập tành chút ít bút nghiên
Thảnh thơi riêng cõi uyên tuyền qua mau (1520)
Đói no bữa cháo bữa rau
Nửa nuôi thân mẫu, nửa hầu Tôn sư
Từ ngày hoạ đến chẳng ngờ
Duyên may gặp cửa quan, nhờ lượng trên
Cho về phụng duỡng mẹ hiền
Ơn cao lòng những mong đền một mai
Nhân khi kể đến danh ngài
Ẩn Lan gửi tặng chim này lễ xuân
Gọi là báo đáp đôi phần
Rạng soi thánh đạo trị dân an hoà (1530)
° ° °
Kim truyền: Heo hút non xa
Dùi mài kinh sử được là quý hơn
Vị gì lặn lội xuyên sơn
Qua đây đền đáp chút ơn bình thường
Mẹ già sớm móc chiều sương
Lỡ khi nắng gió bất thường, chớ khinh
Sinh thành ân nghĩa cho mình
Còn ta chút lượng hiếu sinh đáng gì
Nghỉ chân dăm bữa – rồi đi
Cho ta gửi chút quà về núi Đông (1540)
XV. Ào ào ngọn gió ↑ Bức thứ mười lăm:
(Kim, Quan du xuân - ra tay trừng trị
bọn cường hào, vừa gây nên hai án mạng)
Bâng khuâng huơng nội hoa đồng
Làng xa bát ngát mấy vồng tre xanh
Cỏ dài lả gió qua nhanh
Chiều Xuân chim tụ trên cành mừng nhau
Nắng chia vàng ửng hàng cau
Thì thùng trống điểm nhịp chầu đình xa
Đầu năm mở hội thưởng hoa
Nào là Quan họ, nào là Trống quân
Hai bên tuấn tử giai nhân
Hoà nhau điệu hát trong ngần đầu thôn (1550)
Sông dài chín ủng hoàng hôn
Khói dâng lãng đãng bên cồn chim kêu
Nhịp hò bơi chải giục đều
Thuyền đua theo ngọn thuỷ triều như bay
Tiếng nào la hét vỗ tay
Ven đê thấp thoáng lửa bay đuốc hồng
Mây phơi giăng đỏ đồi thông
Chùa rêu núi vọng hồi chuông vân tường
Vương, Kim cải dạng dân thường
Thong dong thầy tớ lên đường dạo Xuân (1560)
Dấu hài lân mẫn chúng nhân
Bước đi cây cỏ xanh ngần vàng pha
Nơi thì vào hội Đình Hoa
Cây đu đầu ngõ la đà cành lên
Gái quê má lúm đồng tiền
Khăn vuông mỏ quạ, yếm viền gò xanh
Mắt huyền tươi nét long lanh
Thắt lưng hoa lý trên nhành vờn bay
Người chờ đánh một vòng vây
Bên kia trì xuống, bên này nhún thêm (1570)
Cần tre lại vắt tung lên
Nàng càng xanh mặt, chàng thêm hứng nồng
Chung quanh tròn mắt cười trông
Lắc lư đầu hướng theo vòng đu cao
Nơi thì mở hội thôn đào
Ngoài sân đô vật lăn vào quần nhau
Trống cầm vừa đổ nhịp mau
Hai thân hùng hục – một màu đồng hun
Nơi thì chèo hát i uông
Tiếng kèn eo ét, tấn tuồng múa may (1580)
Diễn viên chỉ đó chỉ đây
Sau cành đuốc lớn mặt mày đỏ ran
Người xem dưới bục lấn tràn
Áo hoen khăn bạc những làn mồ hôi
Tập trung trống trút từng hồi
Hoàng hôn lặng tắt sau đồi tùng xanh
Cội mai phơ phất đôi cành
Con ong kiếm mật bay nhanh bãi chiều
Gió lùa ngọn cỏ đìu hiu
Nam thanh nữ tú dập dìu lại qua (1590)
° ° °
Bỗng nghe tiếng chạy tiếng la
Rượt theo thằng bé quanh nhà lao xao
Người xem không lối ra vào
Trẻ kia còn biết ngả nào chuồn mau
Hầm hầm mặt ngựa đầu trâu
Quật theo đôi gậy, nắm đầu nhắc lên
Lết đi như kéo tấm mền
Buông tay, xác nọ rũ mềm lăn quay
Một người xanh xám mặt mày
Xông vào xác trẻ vừa lay vừa gào (1600)
Con ơi! Con có làm sao
Mẹ đây còn sống thế nào hở con!
Trẻ kia hé mắt héo hon
Nấc lên nhìn mẹ như còn thiết tha
Buông thây con - mụ khóc oà
Rú lên chồm đến người nhà vương tôn
Gã tung đạp, hộc máu mồm
Bước chân lảo đảo, mụ ôm bụng nằm
Quân đâu kéo đến rầm rầm
Nửa mau cấp cứu, nửa ngầm bủa vây (1610)
Kim truyền: Trói hết bọn này
Người quanh đổ lại tiếp tay tức thì
Lôi thôi khăn áo tu mi
Giáo gươm tuốt sáng dẫn đi một đoàn
Mụ run tay chỉ bên đàng
Thều thào, mấp máy hai làn môi khô
Rằng con thân cô thế cô
Chỉ còn đứa bé cậy nhờ thượng quan
Dường như dồn hết hơi tàn
Lời chi tắt nghẹn, xuôi bàn tay yên (1620)
Bên trong trẻ khóc ré lên
Vương truyền khiêng vực xác trên vào nhà
Đầu giường còn bát cháo hoa
Góc tường siêu thuốc hơi phà lửa sôi
Nhìn hai thây chết bồi hồi
Gặng tra mới có một người chịu thưa
° ° °
Rằng chồng mụ nọ năm xưa
Đày làm lính thú nắng mưa cuối trời
Một hôm quần áo tả tơi
Trốn về nhà giữa những lời hăm he (1630)
Cái thân trên búa dưới đe
Hết hào thuốc vặt, lại be rượu đầy
Hết chiều tớ, lại hầu thầy
Nai lưng làm mướn nuôi bầy nhặng xanh
Ít tiền buôn bán để dành
Cởi ra đút lót mấy anh sống nhờ
Có thì giả bộ làm ngơ
Bằng không xách cổ lên chờ cửa quan
Thương con xót vợ cơ hàn
Cắn răng ngậm miệng phàn nàn cùng ai (1640)
Kéo cầy nuôi nợ - lệch vai
Bao nhiêu đày đoạ rạc rài lắm phen
Năm rồi có kẻ ghét ghen
Thế là đóng cũi cài then nhốt vào
Cái thân nhục nhã lính đào
Tù cho đáng kiếp ai vào viếng thăm
Mẹ con làm mướn quanh năm
Thắt lưng buộc bụng khó khăn kể gì
Tháng rồi sinh một hài nhi
Có ai dám mướn thuê gì nữa đâu (1650)
Cảnh nhà trăm mối lo sầu
Thế rồi ngả bệnh nhấc đầu không lên
Thằng cu lớn phải kiếm tiền
Thuốc thang nuôi mẹ quanh miền xin ăn
Kể chi hắt hủi nhục nhằn
Cúi đầu lạy hết khó khăn phiền hà
Xóm trong có một Hoạn gia
Tiền kho bạc đụn đầy nhà quyền danh.
Mấy đời dòng dõi công khanh
Đè đầu bóp cổ dân lành nhiều phen (1660)
Đã đành yên phận bùn đen
Đạp quen người lại cố lèn thật đau
Nuôi thêm một lũ đầu trâu
Làng trên xóm dưới âu sầu bấy nay
Đảo điên như trở bàn tay
Quẹt công lừa của một bầy gian ngoan
Bao người tù rục chết oan
Bắt con, cuớp vợ tiêu tan dần dà
Có ai tính chuyện kêu ca
Nửa đêm ném lửa đốt nhà như chơi (1670)
Đợi trời thì đã tàn hơi
Căm bầm tím ruột, ngậm lời dạ thưa
Tha hồ làm gió làm mưa
Quan trên sợ thế còn chừa mặt ai
Hoạn gia nổi tiếng một "ngài"
Tham lam chật dạ, gái trai tính lừng
Cầm đầu thêm bọn khuyển ưng
Chuyên bề cướp giật, chuyên lùng gái tơ
Chôn vùi bao kiếp đào thơ
Ối thôi! Tội kể đã mờ trời cao (1980)
Chiều nay thầy tớ tiêu dao
Thằng cu vô phúc ném vào - lỡ tay
Trông lên phách lạc hồn bay
Co chân lủi đến chỗ này – rồi yên
Nhờ ơn nhị vị quan trên
Rộng soi mới dám trình lên đôi phần
Nói cho cạn nỗi khổ dân
Rồi ra nát thịt tan thân cũng đành
Dù là voi đạp ngựa phanh
Quyết đem đổi mạng cho thành tiếng kêu (1690)
Khổ đau chất ngất bao điều
Đèn trời soi rõ nay liều mạng thưa
° ° °
Bỗng đâu lốc cuốn bụi mờ
Ào ào ngọn gió vật vờ tàng me
Ai ngờ sau chốn luỹ tre
Lắm phường cẩu tặc kết bè hại nhân
Chẳng kiêng phép nước xa gần
Cậy thần cậy thế - gớm quân lột người
Đường về Xuân cũng kém tươi
Kim truyền đem trẻ về nơi công đàng (1700)
Ra tay phá xích xiềng oan
Bằng không ta sẽ cáo quan trở về
XVI. Ai để hoa dung Bức thứ mười sáu: (Vương Quan hồi tưởng người yêu cũ – nàng Ẩn Lan (con gái Hồ ông) và dự định đi theo Ngô Khôi thăm Thầy học) Vương Quan thơ thẩn ngoài đê
Ven sông in bóng hoa lê nở bừng
Tiếng ai hú vọng trong rừng
Mây phơi lụa tím trên sừng trâu tơ
Nền trời nhàn nhạt màu mơ
Sông đem ráng đỏ sóng hờ hững đi
Sáo diều vọng tiếng vu vi
Như chim nghiêng cánh tìm gì lưng mây (1710)
Thôn xa nghển bóng cau gầy
Vẻ như tư lự dõi bầy sẻ thưa
Gió chiều giục nhớ thôn xưa
Vườn mai hoa trắng bây giờ còn tươi
Niềm quê vời vợi phương trời
Lửa chiều thấp thoáng tưởng lời cố thôn
° ° °
Ngày xưa áo nhuộm hoàng hôn
Dáng ai cắp rổ lên cồn hái dâu
Tiếng nàng hát vọng đôi câu
Dừng tay viết mướn lòng sầu vẩn vơ (1720)
Lều tranh còn ủ chăn mơ
Mối tình là một bài thơ vô đề
Ẩn Lan ơi! Mái tóc thề
Gió Xuân nay có vỗ về suối hương
Đêm nao ngồi học bên tường
Nến leo lét lụi, chữ vương vắt chìm
Ngoài song thoảng tiếng hài im
Như trăng buông hạt tơ chìm kiêu sa
Lan cười đưa đến cho ta
Sợi dài tóc buộc chùm hoa ngâu vàng (1730)
Sách thơm áp má mơ màng
Tỉnh ra hương thoảng bóng lan chập chờn
Nhớ khi em dỗi em hờn
Hai ta chia sẻ nắm cơm cháy vừng
Nhớ đêm nằm võng ngó trăng
Đếm ngôi "sao sáng" lại rằng "sáng sao"
Giọng em lanh lảnh tiếng cao
Răng em tươi hạt ngọc nào long lanh
Nền trời mây lại qua nhanh
Viền trăng vương phải đầu cành vỡ tan (1740)
Những đêm trời tối như than
Bắt con đom đóm trên giàn mồng tơi
Cho em, em cất tiếng cười
Hất tay em thả đóm trời tung bay
Vòi ta đuổi bắt lại ngay
Thả đi, đòi lại mãi đày đoạ nhau
Gọi em là vẻ hoa sầu
Lan đòi nụ bưởi cài đầu làm duyên
Nhặt son trên núi mài nghiên
Thơ anh em điểm dấu yên màu hồng (1750)
Tưởng khi đỗ đạt thành công
Tay đan suối tóc, hoa lồng trăng non
Chưa thề sông cạn đá mòn
Trang tình đã điểm dấu son đầu đời
Dường trong ánh mắt tiếng cười
Vẻ như ngượng ngập mở lời con tim
Thế rồi – tăm cá bóng chim
Theo Thầy ẩn dật dời miền đi xa
Anh về lý vẫn đơm hoa
Cuối thôn còn lại mái nhà xác xơ (1760)
Hiên trăng soi quạnh bàn cờ
Tìm chi con đóm cũng vờ vẩn bay
Buồng đây, Lan vẫn ngồi may
Bây giờ tơ nhện gió lay lạnh lùng
Âu sầu ai để hoa dung
Nền xưa giảng sách tiếng trùng ngân vang
Tìm em đò dọc thuyền ngang
Thấy đâu dấu vết chim sang đất nào
Năm xưa em tựa cội đào
Tên ai còn dấu khắc vào da cây (1770)
Mấy lần anh lại chốn đây
Hiên tranh đôi bướm vờn mây lững lờ
Lòng buồn trăm mối vò tơ
Sợ trông hoa nở, ngại chờ hứng thi
Những đêm trăng sáng buồn chi
Mà lòng sách vẳng tiếng gì chan chan
Ngỡ chim gọi bạn trên giàn
Ngỡ em phơi cái thời gian giậu ngoài
Cánh lòng lại vượt ngàn mây
Tìm đâu suối tóc tay cài hoa xưa (1780)
Có đêm thao thức nghe mưa
Tưởng em về tiếng guốc đưa ngại ngần
Đông tàn còn thể chờ Xuân
Đôi ta biền biệt sông Ngân nhạt nhoà
Biết đâu em ở miền xa
Nghe mưa mà chẳng như ta khóc mình
Có đêm soi bóng lung linh
Bâng khuâng một ngọn đèn tình trong sương
Em thì biền biệt dáng hương
Riêng hoa in bóng trên giường lơ thơ (1790)
Tóc đan hoa ảnh lờ mờ
Mộng xưa hoen ướt đôi tờ lệ thi
Nước non cũng nhuốm sầu bi
Người đi – úa cái Xuân thì – ai đây
Dặm hồng biền biệt cồn mây
Cỏ hoa chung giấc sum vầy bấy xuân
° ° °
Thế rồi vâng lệnh song thân
Xe duyên cùng với giai nhân xóm ngoài
Có khi thức ngủ canh dài
Mơ hồ còn tưởng dáng ai ngồi kề (1800)
Tỉnh ra mới biết cơn mê
Mảnh trăng cùng bóng hoa lê nhạt dần
Tình đời rồi cũng phù vân
Biết bao sóng gió xoá dần dư âm
Dẫu lòng ôm mối tình câm
Vùi sâu một nấm mù tâm lệ nhoà
Bây giờ bắt được tin hoa
Tấm lòng lại quặn xót xa lạ thường
Sáng mai hành lý lên đường
Thăm Lan biết mấy dặm trường ngựa bon (1810)
° ° °
Sông dài cởi yếm hoàng hôn
Bầy chim ngủ đậu bên cồn lại bay
Gió về đưa ngọn sóng say
Tiếng ca mục tử cuối ngày gọi trâu
Bãi xa cỏ tím rầu rầu
Mái đình rêu vọng trống chầu nhịp mưa
XVII. Lòng như khối ngọc Bức thứ mười bảy: (Kiều, Vân hành huơng chùa Văn Chương, thăm Thầy Văn – nhà sư đã dạy Kiều kinh Kim Cương) Trời Xuân trong vắt mây thưa
Nắng hồng như xoã guồng tơ buông dần
Núi xa bút dựng xanh ngần
Cõi thiêng lảnh giọng chim thần chợt ca (1820)
Tiếng chuông lay nhẹ ngàn hoa
Bóng mây dường cũng giao hoà lang thang
Ngày rằm sắm sửa đèn nhang
Kiều, Vân ngồi võng trên đàng hành huơng
° ° °
Sáng nay vãn cảnh Văn Chương
Lưng non đôi mái khói hương phụng thờ
Của nhà sư kiêm nhà thơ
Thường cùng mặc khách cuộc cờ tiêu dao
Nghe xưa, cũng bực anh hào
Chí cao chẳng thoả, ẩn vào cửa Không (1830)
Riêng lòng ôm ấp non sông
Kết liên hào kiệt tang bồng chờ khi
Dần dà thấm nhập từ bi
Lòng yêu muôn loại sá gì – một, hai
Diệu hành chuyển đạo Như Lai
Vẫn trong vạn pháp, vẫn ngoài sắc danh
Y phương cứu giúp dân lành
Đôi tay đinh lực như thành phục ma
Chẳng nề trà rượu đàn ca
Chốn nào chốn chẳng hiền hoà đạo duyên (1840)
Thong dong nửa Phật nửa Tiên
Thiền tâm hoá độ một miền sao trăng
Chí người như cánh chim bằng
Hát ca vi vút bên Hằng cát vương
Về đây lập cảnh Văn Chương
Am che mái cỏ bên sườn non cao
Đường lên trải trắng bông đào
Gió sa hương nhuỵ, trời vào lá cây
Tao nhân thường gặp nhau đây
Thưởng trà thiền vị nghe Thầy luận kinh (1850)
Đậm đà giáo lý nhân tình
Niết Bàn thành cõi phù sinh đổi dời
Đã quen biết mấy năm trời
Với Kim, thầy cũng là người cố tri
° ° °
Ngày rằm chị rủ em đi
Thong dong võng lụa hai vì phu nhân
Bên đường cỏ nhuộm mầu Xuân
Đôi con châu chấu xanh ngần vụt bay
° ° °
Nhạn sa soi mặt sông đầy
Lách lau đôi ngọn bông gầy thiết tha (1860)
Bóng chùa lồng với bóng hoa
Nắng Xuân lóng lánh vừa sa đôi làn
Núi vuông Thiên Ấn ngọc lam
Sông nghiêng lụa đậm dấu chàm thiên thư
Rừng tùng thoảng mõ trầm tư
Nổi trôi chuỗi hạt thái hư bềnh bồng
Thảo trường lập phái Thi Tông
Trường Sơn vẽ một nét cong vách ngời
Mênh mang mây trải gấm phơi
Hoa lay tưởng ngọn bút trời phê văn (1870)
Võng đưa bên suối tẩy trần
Sỏi xanh vương vần dấu xuân tiên hài
Đạo tràng chim mở hội mai
Trầm theo sương đọng trên đài hoa vương
Quanh co bậc đá vân hường
Tóc ai phơ phất dòng hương cõi Thiền
Chùa Văn Chương hiện bên triền
Mái rơm nhàn nhạt dáng hiền như như
Đón nàng vào mái Tâm Hư
Vách treo dòng kệ Thiền sư cảm đề (1880)
Ngoài hiên hoa nép mây kề
Tiểu đồng ngơ ngẩn bên hè xinh xinh
Sư Thầy đương khoá giảng kinh
Sai trò dâng xuống riêng bình trà thơm
Sửa sang hoa quả khay sơn
Lên Chùa lễ Phật bướm vờn loanh quanh
Cầu tre qua suối trong lành
Hoa rơi nước cuộn, hoa cành nước in
Sườn cao vách tím ngàn sim
Thuyền câu bến nước sào im cắm chờ (1890)
Trần gian riêng mộng riêng thơ
Riêng u uẩn núi riêng hờ hững Xuân
Vẳng đâu sáo quyện suối thần
Vườn mai hiện mấy văn nhân thưởng trà
Tao đàn cao giọng ngâm nga
Thiền sư khoác áo nâu già trầm ngâm
Tiếng kêu vi vút sơn lâm
Hoa nghiêng cánh lẳng, hoa thầm nụ khai
Dừng chân ven suối Thiên Thai
Âm âm giải nước thay lời luyến thương (1900)
° ° °
Nhớ khi đón lại huyện đường
Thỉnh Thầy giảng lý Kim Cương độ đời
Hoặc khi chuyện nước chuyện trời
Mỗi lời nghe lại mỗi lời thanh cao
Tiên dung đạo cốt tiêu dao
Xét ra sư đệ, nghĩ vào tương tri
Ung dung khi đến khi đi
Lòng như khối ngọc lưu ly sáng loà
Trong năm nhờ thỉnh Thầy qua
Du phương người để cánh hoa võ vàng (1910)
Sáng nay đầm ấm xuân quang
Hành hương, mới có dịp sang thăm Thầy
Lưng non man mác dòng mây
Trắng in đáy suối, vàng xây thành cầu
XVIII. Khói mờ ngoài sông Bức thứ mười tám: (Kiều gặp tên tội tù, chính là gã Bán tơ từng giá hoạ cho cha nàng. Gã cho biết vườn Thuý bây giờ đang rao bán, Vương ông cho lão hầu về chuộc lại) Kiều nằm trằn trọc canh thâu
Tóc mây cài nửa trăng sầu nhạt phai
Lá lan phơ phất hiên ngoài
Bóng in vẽ một nét mày quạnh hiu
Lòng chia trăm mối nghìn chiều
Gió vô tình để tiêu điều lệ hoen (1920)
Nhớ từng kỷ niệm thân quen
Trái tim ấm chút lửa đèn ban sơ
° ° °
Bao năm tưởng đã phai mờ
Bỗng dưng gặp gã bán tơ năm nào
Hôm qua cai ngục trình vào
Một tên tội phạm xanh xao mặt mày
Xét trong hành trạng người này
Xưa buôn tơ lụa là tay lẫy lừng
Gặp cơn binh lửa bỗng dưng
Thế là sản nghiệp lên từng khói mây (1930)
Nửa năm lính thú đoạ đày
Trốn về rồi bị huyện này giữ giam
Tấm thân tù tội cơ hàn
Nghe tin sét đánh bàng hoàng bên tai
Vợ con đã chết vì ai
Hết lăn lộn, lại nằm dài rên la
Sáng nay nàng mới nhận ra
Đứa làm tan cửa nát nhà ngày xưa
Là thằng vu hoạ Bán tơ
Quẩn quanh, nào có ai ngờ gặp nhau (1940)
Gió sương điểm bạc mái đầu
Mắt sưng chín mọng trái sầu đỏ hoe
Hắn ngồi nhổ cỏ bên hè
Xương trơ như nắm xương tre rã rời
Kiều nhìn, cổ những nghẹn lời
Thấy chi ngoài một mảnh đời đau thương
Nàng dò tin tức cố hương
Hắn rằng có bạn buôn thường lại qua
Mới hay vườn Thuý quê nhà
Chủ đang rao bán, chờ ra kinh kỳ (1950)
Vui buồn hồi tưởng những khi
Gia đình bàn soạn tính về cố thôn
° ° °
Ông Vương tóc giãi hoàng hôn
Thở dài lặng ngắm khói dồn ngoài sông
Hiện ra gốc ổi gốc bòng
Bên tàng hoa khế tím hong nền chiều
Lòng ông đau xót bao nhiêu
Mỗi cây là mỗi ít nhiều vấn vương
Mả mồ ở chốn quê huơng
Lạc loài nắm đất tà dương giãi dầu (1960)
Bà Vương lặng lẽ đâm trầu
Tưởng khi dòng nước con cầu đón đưa
Thiếu gì kẻ dạ người thưa
Ngày xưa ai đó, bây giờ là ai
Vả chăng xứ lạ quê người
Riêng tư là thói người nơi thị thành
Quê nhà dù cất mái tranh
Mà trong thân tộc, mà quanh bạn bè
Hiền hoà khóm trúc bờ tre
Vẳng lên tiếng cuốc sang hè gọi khan (1970)
Canh cua hoa lý điểm vàng
Vại cà muối xổi nồng nàn thơm cay
Trời còn cao, đất còn dày
Có ao rau muống, có đầy chum tương
Thân già lãng đãng bóng sương
Tuổi trời còn lại mấy nương nắng chiều
Luống khoai, bãi sắn ít nhiều
Tự tay trồng tỉa muôn chiều thiết tha
Còn hơn dinh thự nguy nga
Nhà cao cửa rộng vẫn là của công (1980)
Tưởng khi vác cuốc thăm đồng
Mắt bà rơm rớm hai tròng lệ vui
Còn Kim vẻ mặt bùi ngùi
Trầm ngâm mắt vọng chân trời xa xăm
Vân ngồi thêu áo băn khoăn
Lòng chia hai ngả, khó khăn thốt lời
Tiểu Nguyện vừa ghé tới nơi
Mẹ ơi con chẳng muốn rời bà đâu
Một nhà bàn tán giờ lâu
Sau cùng ông gọi lão hầu lên sai (1990)
Sẵn sàng tay nải, sớm mai
Trở về quê cũ, dặm dài gió đưa
Hỏi xem vườn Thuý bán chưa
Liệu mà tâu lại, vàng đưa - về liền
° ° °
Kiều nằm thao thức thâu đêm
Ánh trăng bạc giắt đầu thềm gió sông
Nhớ Thầy học cũ – Hồ ông
Ngày xưa đèn sách – những mong hậu trình
Thường khuyên: Mình đã loạn mình
Cái tâm khiến luỵ cái hình lao đao (2000)
Truyền đời xây tiếp tâm lao
Cùng giăng bẫy quỷ - cùng nhào khe ma
Khổ, Vui – từ một cái Ta
Đã vào tật bệnh, tất ra mê trường
Thấp-Cao, Chân-Giả, Đoản-Trường
Chấp tranh máu lệ đau thuơng dẫy đầy
Biến người thành cỏ thành cây
Kéo luôn thần thánh tiếp tay tội đồ
° ° °
Cánh buồm phù thế lô xô
Càng chan chứa mộng – càng cô quạnh đời (2010)
° ° °
Kiều đưa năm ngón rã rời
Ngó tay mình mỉm nét cười bâng khuâng
Nàng nghe lòng nhẹ lâng lâng
Tiếng chim ngoài vọng trên tầng mây cao
Chim di phiêu bạt phương nào
Có qua ăn trái rừng đào sớm mai
Hỏi giùm sứ giả Như Lai
Làm chi cho sạch trần ai cát lầm
Làm chi phổ nguyện Quan Âm
Hay riêng sen trắng giữa đầm đủ chưa (2020)
Hay rồi một trận gió mưa
Bùn đen kia hẳn không chừa đài hương
° ° °
Trăng ngoài lóng lánh cành sương
Hoa nhìn trăng nép bên tường đùa vui
Dưới hoa dế hát ngậm ngùi
Trăng nghiêng tai lắng – viền tươi ngọc ngà
Một trăng đẹp bấy nhiêu hoa
Mà trăng có biết đâu là – là đâu...
Ngàn năm vò võ mạch sầu
Nửa ngâm đáy mắt nửa đầu non xanh (2030)
Xin trăng soi dọc lộ hành
Xin trăng chỉ hướng tựu thành mà đi
Mốt mai cất bước từ ly
Trăng núi biếc, lệ xanh rì hàn giang
Một lòng trăng rộng mênh mang
Trăng đâu riêng của một nàng lầu cao
Nửa trăng lặn dưới rừng đào
Còn xin nguyên nửa tan vào mộng ta
XIX. Nàng rằng suối chảy
Bức thứ mười chín: (Đã tậu lại vườn Thuý, ông bà Vương, Thuý Kiều và Hương Nhi sửa soạn về quê cũ. Vương Quan ghé lại thăm nói về Ẩn Lan) Cuối Xuân đường rụng đầy hoa
Cánh rơi tưởng nụ mây sa bềnh bồng (2040)
Kiều ra tựa cửa ngùi trông
Đồi cao đã trắng mấy bông lau chiều
Bên dòng lảnh tiếng chim kêu
Qua cầu vó ngựa rơi đều tà dương
Cổng tre mái ngói ráng hườn
Cánh không buồn khép gió vương ơ hờ
Tiếng ve trong cõi sương mờ
Ngâm theo xác lá lơ thơ rụng vàng
Hương nào theo gió tìm sang
Như chim cánh vượt dặm tràng hoa rơi (2050)
° ° °
Tin nhà đã gởi tới nơi
Việc xong, lão bộc lên mời về quê
Phòng riêng sửa soạn bộn bề
Xôn xao lòng nhớ, não nề lòng xa
Vương ông cùng với Vương bà
Thuý Kiều cùng một trẻ là Hương Nhi
Sửa sang hành lý mang đi
Mốt mai thắng ngựa trở về cố hương
Lòng nàng dan díu nhớ thương
Bước chân tưởng những dặm trường sắt se (2060)
Chia tay khóm liễu bờ tre
Sụt sùi cây cỏ còn nghe lệ thầm
Thôi từ tạ nhé tri âm
Như sương ta cũng âm thầm nát tan
Sớm mai phơi chuỗi ngọc lam
Trang nghiêm một thoáng nhân gian bọt bèo
Kìa sao thiên lý tiêu điều
Vẽ chi những nét đăm chiêu ngậm lời
Nhánh hoa u mặc ngó trời
Một thân bên giậu mỉm cười héo hon (2070)
Mây chiều lả xuống sườn non
Dáng như lác đác hồn con hạc về
Nửa vàng lau lách sầu chia
Nửa xanh mây khói đầm đìa mang mang
Giải hồng cuồn cuộn bến giang
Buồm dong đôi tấm ráng vàng ngàn xa
Thành Tây ải đỏ lạc hà
Theo thuyền man mác cỏ hoa dương chiều
Vàng ơi chi lắm tiêu điều
Xanh ơi ngăn ngắt qua đèo hàn san (2080)
Tím ơi cỏ nội ngút ngàn
Màu gieo cuối bãi, màu tan ngọn triền
Chim quyên xuống đất sầu riêng
Mặt trời thu một hồi chiêng lửa hồng
Xe ai đẩy hát trên đồng
Tiếng ca bán rượu từng không lạnh bầu
Dáng Kiều thơ thẩn vườn sau
Dấu chân gieo nhẹ dấu sầu vẩn vơ
Gió vàng áo nhạt màu mơ
Hoàng hôn toả ngọn khói mờ ai hun (2090)
Cỏ êm đã thoảng tiếng trùng
Hoa cau hương quyện vài chum nước ngần
Gió chiều cũng nhớ giai nhân
Quẩn quanh theo với bước chân tìm gì
° ° °
Rào tre lả ngọn tường vi
Tiếng quen ngâm mấy câu thi ngoài tường
Nàng trông ra thấy chàng Vương
Ung dung dắt ngựa buộc cương dưới đào
Hoa hiên cũng lả cánh chào
Hiên lam Kiều đón em vào vấn an (2100)
Vương rằng: Rong ruổi quan san
Ngựa đeo trăng lạnh, vó tan sương chiều
Cho dù thất suối tam đèo
Chút hương hoa cũ ướp theo bấy ngày
Mới về em vội qua đây
Ẩn Lan gửi lượng trầm này kính dâng
° ° °
Ngó em – Kiều lại thêm mừng
Hoa in đáy mắt còn rưng rưng lòng
° ° °
Nhà Thầy bên động Huyền Không
Mái tranh tàng ần thu đông mịt mờ (2110)
Tóc người đã bạc như tơ
Bạn thân chim tụ, quân cờ hoa rơi
Sớm lên đào thuốc dong chơi
Chiều về dạy học khắp nơi tụ hiền
Danh thơm đã nức mọi miền
Làng trong mến chuộng, quan trên nể vì
Chẳng ham quyền tước kinh kỳ
Thong dong gậy trúc, đến, đi ngoài vòng
Rượu thơ phơi phới một lòng
Trà thơm viết sách, suối trong ngâm mình (2120)
Xin Thầy được đón về dinh
Sớm khuya vẹn nghĩa sư sinh một nhà
Thác rằng tuổi đã nua già
Núi non mến cảnh, cỏ hoa luyến người
Ẩn Lan giờ vẫn đẹpp tươi
Một chiều bên suối ngỏ lời hằng mơ
Chỉ bông hoa nở ven bờ
Nàng rằng: Suối chảy có chờ đâu hoa
Nhắc chi chuyện cũ đôi ta
Ngày nay Lan vẫn như là ngày xưa (2130)
Vị gì chung nắng chia mưa
Giữ thơm mộng cũ ngày chưa ngọc vàng
° ° °
Kiều ngồi nghiêng tựa hành lang
Gió lùa tóc quyện theo làn hương bay
Hoa cà ráng ướp hiên Tây
Sao hôm vừa mọc trên cây suơng chiều
XX. Chải tóc thu phong Bức thứ hai mươi: (Kiều thăm lại chốn cũ, cho trồng cây Hoàng Mai trên nền am xưa. Đạm Tiên nhập thần cảnh tỉnh Thuý Kiều. Nàng thăm mộ đàn lần cuối, trước khi hồi hương) Rèm đào gió lọt phiêu diêu
Kiệu phu chừng đã được điều tới sân
Mây Thu phơi tóc xanh ngần
Hiên lam nghe rộn bước chân chim vào (2140)
Tưởng hoa sớm rụng mái cao
Kiều nằm dõi bóng chiêm bao ơ hờ
Ngang mình lệch mảnh chăn tơ
Mắt nhung dịu thiếp đôi bờ cỏ xanh
Tay dài tơ búp lan nhành
Dáng Thu lãng đãng nhạt vành trăng cong
Bên giường chải tóc thu phong
Tai nghiêng nghiêng cánh sen hồng mát thơm
Má đào gò ửng tuyết đơm
Môi in nét trổ nụ hường ban mai (2150)
Bên song khép nép lan đài
Hoa trong thiêm thiếp hoa ngoài bâng khuâng
Hương đêm còn thoảng lâng lâng
Chăn tơ phủ xuống như tầng hoàng hoa
Đôi hài cong mũi kiêu sa
Im im lắng tiếng chim ca ngoài vườn
Nghĩ ra nay sớm hành hương
Vươn vai Kiều dậy, ngắm gương tần ngần
Hương nhi đem áo lại gần
Khoác lên vai ngọc gò xuân mịn hồng (2160)
Qua hiên bướm nổi bềnh bồng
Tung tăng gió vuốt vài bông cúc hiền
Vườn ngoài non nỉ yến uyên
Xách hoa lên kiệu gót tiên dịu dàng
° ° °
Đồi thưa lấm tấm bông vàng
Hoa Thu hỏi mấy lần sang đất này
Đổi thay từng khắc từng ngày
Mà vòng nguyên định chen đầy hoa dung
Xét trong trời đất vô cùng
Biển dâu sắp đặt lạ lùng cao xanh (2170)
Bao nhiêu cung điện tan tành
Xô đi, dựng lại dưới vành trăng tươi
Thăng hoa cuộc sống con nguời
Phế hưng trải rộng lẽ trời tự nhiên
Đường dài sỏi nhạt thu thiên
Trước sau biết mấy gót phiền qua đi
Bóng người cổ tích còn chi
Còn nghe gió kể chuyện gì bên nương
Bước nào ngượng ngập yêu đương
Bước nào rầm rập giáo gươm chói loà (2180)
Bước nào lay lắt nua già
Bước nào xe ngựa lại qua rộn ràng
Nhớ không ngọn cỏ may vàng
Ngày xưa lữ khách qua đàng còn không
Hỏi mây mây trắng như bông
Riêng đường sương tụ bụi hồng trăm năm
Bãi sông cỏ lạnh căm căm
Tưởng Từ áo vải xưa nằm chốn đây
Phách thiêng khí vẫn loà mây
Xưa ai trộm xác gò này mang đi (2190)
Xưa ai đạp vỡ mồ bi
Gò xưa còn bãi cỏ chi rầu rầu
Tưởng chàng bẻ kiếm dựng râu
Nốc nghiêng bát rượu, trên đầu cài trăng
Cuộc ra vùng vẫy chim bằng
Cuộc về đồn ải mưa giăng bóng cờ
° ° °
Kiều ngồi như ngẩn như ngơ
Dường đâu lãng đãng trong mơ hiện về
Lâng lâng hương cận hoa kề
Đạm Tiên buông giải tóc thề vương vương (2200)
Tiếng nàng thoang thoảng khói hương
Rằng: Không có hội đau thương đoạn tràng
Quả, Nhân – tôi trót lỡ làng
Khiến em vào chị - giục đàng trầm luân
Giờ nên đuổi mộng khỏi thân
Nhiều vương vấn cũ – dễ phần chiêu ma
Dáng nàng lãng đãng mưa sa
Giật mình mới biết mộng hoa lúc nào
Vào Thu chim cũng xanh xao
Tiếng kêu theo gió thoảng vào rèm thêu (2110)
Não nùng thay nỗi lòng Kiều
Nhìn bông lan ngọc đăm chiêu nền trời
Hồn Tiên nhắn nhủ chơi vơi
Chừng nghe còn vẳng trong lời hoàng khuyên
° ° °
Nền xưa kiệu đã dừng nghiêng
Dây hoa núi dại vàng nguyên ngọn tường
Tàn lan lóng lánh hàng sương
Hoa chao nhỏ hạt nước hương rùng mình
Chập chùng đồi núi lung linh
Vén rèn, xuống kiệu, dáng quỳnh mông lung (2120)
Rã rời từng bước rêu nhung
Hài reo giữa cõi vô cùng hoang mang
Truyền phu đem cội mai vàng
Trồng lên trên đỉnh nền hoang cỏ dày
Giác Duyên thầy có về đây
Trông hoa xin tưởng vóc gầy Kiều nhi
Hoa này là nguyện đại bi
Giữa đông, vàng rộ sá gì phận côi
Thân con dù chốn xa xôi
Lời Thầy, sóng dậy gió dồi dám quên (2230)
° ° °
A hoàn sắp lễ dâng lên
Sợi hương tím loãng trên nền cỏ cao
Chắp tay khấn nguyện thì thào
Khay hoa đậu cánh chim vào bỗng nhiên
Kiều xin: Có phải Đạm Tiên
Hương linh còn quyện chút duyên má hồng
Cảm nhau – một sợi tơ đồng
Thì xin bay đậu cành bông mai vàng
Hoặc Từ dũng khí hiên ngang
Anh linh lưu luyến trần gian chẳng lìa (2240)
Đồ vương nuối mộng xưa kia
Hay còn vì thiếp, chưa chia ngả đường
Thì xin bay xuống đầu tường
Khấn xong, chim cất cánh hường bay đi
Lưng trời buông giọng từ quy
Đáp vào rừng vắng như vì sao sa
Run run Kiều chắp tay hoa
Cúi đầu lễ vọng, hương nhoà khoé môi
Tiếng chim lảnh lót bên đồi
Dường như thê thiết bồi hồi bụi mưa (2250)
° ° °
A hoàn lại cất tiếng thưa
Thỉnh bà lên kiệu, cơn mưa – kịp về
Ở đây sầu lặng buồn tê
Sơn lam chướng khí lỡ bề ốm đau
° ° °
Kiều nhìn phơ phất hoa lau
Ngọn cờ tập trận - ngày đầu thơ ngây
Đã vàng dặm cát đồi mây
Thêm hiu hắt gió ngàn cây vật vờ
Tàng hoa lan cũ trông chờ
Vẻ đang thiêm thiếp giấc mơ tuyệt vời (2260)
Mốt mai ta ở chân trời
Riêng hoa còn mãi – sương rơi một tàng
Rừng hoang trả lại rừng hoang
Cội lan kia liệu hoa vàng bao Thu
° ° °
Nhớ hồi Thầy lập am tu
Chọn đây là cảnh thâm u hữu tình
Sớm chiều niệm Phật nghe kinh
Mảnh trăng ẩn chốn phù sinh điêu tàn
Một chiều trồng gốc ngọc lan
Thầy rằng: Mai mốt còn làn hương bay
Đời người như cánh hoa lay
Trần gian thơm một đôi ngày lại thôi
Giờ Thầy Tam Hợp đâu rồi
Nhớ ai hoa lạnh lùng rơi cánh buồn
Lan còn hoa lệ sầu tuôn
Hương bay vơ vẩn dõi muôn hướng tìm
Mốt mai ta cũng theo chim
Về thâu ngọc rớt vàng chìm sông Ngô (° )
Đêm đêm tơ tưởng đi mò
Sông Thương hoa có neo đò nhớ thương (2280)
° ° °
Kiệu phu lại thỉnh lên đường
Hồn lâng lâng kiệu, hồn vương vương rừng
° ° °
Lá đưa khăn lệ rưng rưng
Nhắn nhe chim cũng lạnh lùng tiếng ca
Sông buồn đỏ quạnh âm ba
Mây đưa đỏ bãi hoàng sa lạnh lùng
Mắt buồn vời vợi mông lung
Tiễn chân cội đá khóm tùng, ngất ngây
Con tim chôn lại rừng này
Theo hoa rụng xuống chân Thầy hôm mai (2290)
Những đêm chớp biển mưa dài
Hồn bên núi, xác phương ngoài – thảm chưa
Mỗi xa mỗi bước rừng thưa
Yên hà theo tiếng đò đưa thuyền về
Chợ chiều rạ nhạt mái quê
Hắt hiu gió gợn tái tê sóng trường
Sào ai phất phới mây hường
Nhịp hò mái đẩy khói sương ngút mù
Kiều truyền kiệu ghé gò Thu
Mộ đàn hoa nở âm u lối mòn (2300)
Một gò cỏ úa héo hon
Xưa kia Từ Hải – cũng chôn gò này
Bây giờ liệt sĩ nằm đây
Mộ đàn – thêm trắng một cây đoạn trường
Lòng Kiều chín nhớ mười thương
Hai mồ ngát một tuần hương Thuý Kiều
Áo bay lẫn giữa mây chiều
Bâng khuâng suối tóc, đăm chiêu nét ngài
Chim nào hót giữa lùm mai
Chừng như thoảng tiếng thở dài trên yên (2310)
Gò xanh thơ thẩn gót tiên
Chân trời cõi đất hai miền sầu chia
Xương tàn nấm đất ai kia
Núi sông – không một tấm bia để đời
Anh em chí cả nghiêng trời
Lòng chung chẳng thể tách rời – Bắc, Nam
Vẫy vùng một cõi giang san
Thương người cơ cực, chém quan tế cờ
Ai từng tuốt kiếm ngâm thơ
Chí toan sắp lại ván cờ máu tươi (2320)
Ai từng nốc rượu cả cười
Sau rung tiếng hát giữa nơi chiến trường
Tưởng khi cờ cuộn mây vương
Thành cao ném một ngọn thương san bằng
Bây giờ mây uốn ngành trăng
Gió ù cổ miếu, nhện giăng chiến bào
Mồ chung le lói vì sao
Hồn oan tử sĩ xạc xào cờ lau
Cỏ hồng đỉnh núi thay màu
Tưởng như sắc ngựa Phong Châu anh hùng (2330)
Còn đâu trống giục kiếm cung
Chiều nay ếch nhái lạnh lùng khua xa
Trăm năm còn lại gò hoa
Lất lây giải ánh lạc hà cô thôn
° ° °
Nhà ai hun lá bên cồn
Nhìn mây phu kiệu bồn chồn ngồi quanh
Bãi sông rải rác mái tranh
Trẻ vui ném sỏi dưới cành dương khô
Sườn non nửa mảnh trăng nhô
Cong thành một nét mơ hồ mi ai (2340)
Lại nghe trong cội hoa mai
Bật thêm tơ tóc rùng vai đàn bầu
° ° °
Nàng dừng lắng đợi âu sầu
Quả như tiếng vẳng hương lầu trước đây
Hồn ai nấc tiếng ngân này
Xưa nương đàn cũ, giờ cây mai vàng
Tiếng ngân chìm đắm mơ màng
Một dây to nhỏ hồn man mác trời
Buông chi tiếng nhặt tiếng lơi
Trong u ẩn gió nghe tơi tả lòng (2350)
° ° °
Kiều còn thơ thẩn tiên dong
Núi xa nhoà mấy vành cong sương mù
Quạt trần khép mở vân du
Hoa dung đáy nước cho dù khói vương
Bâng khuâng bước dạo cầu sương
Tóc bay dài một dòng hương la đà
Có nàng cắp rổ bèo hoa
Vén quần cánh nhuỵ lội qua sưối về
Bè ai thả vó ven đê
Nửa ngâm ráng đỏ, nửa kề mây xanh (2360)
Gió Thu hiu hắt lùa nhanh
Đáy khe cát trắng long lanh ngấn trời
Qua cầu suối cũng đua tươi
Bờ vai phơ phất tóc xuôi hững hờ
Trên dòng tơ, dưới dòng tơ
Hai dòng thêu một đoá mơ nhạt nhoà