LỜI GIỚI THIỆUCho lần tái bản 2020Trên đời này, chuyện đáng nói nhất, quan trọng nhất của con người thật không gì bằng chuyện sống và chết.
Tác giả, Hòa Thượng Thich Như Điển, tính đến nay (2020) đã 71 tuổi đời và 56 tuổi đạo. Trong tác phẩm này, tác giả ghi lại những cảm nhận của mình trong suốt quá trình chăm sóc tinh thần cho người sống và cả những người chết.
Ngay ở “Lời vào sách“ tác giả đã nhắc đến câu kệ thuộc nằm lòng của mọi tu sĩ Phật Giáo.
"Một bát cơm ngàn nhàMột thân muôn dặm xaChỉ vì sự sanh tửThuyết pháp độ người qua.”Bài kệ này là kim chỉ nam nằm trong túi gấm tư trang, là mục đích của đời sống đạo cho mỗi tu sĩ trong vai trò Trưởng Tử Như Lai.
***
Suốt chặng đường 56 năm qua, trên bước vân du hành đạo, từ Việt Nam sang Nhật Bản, rồi đến Đức quốc cũng như các châu lục khác, tác giả đã không biết bao nhiêu lần thuyết pháp độ sinh, đã hóa độ bao nhiêu đệ tử tăng và tục. Không những thế, tác giả cũng đã từng đứng trước linh cửu trong hàng ngàn tang lễ, tuyên đọc bài Thuyết Linh “Hữu sanh hữu tử hữu luân hồi…“ tuyên lời Phật dạy cho người chết. Thiết tưởng ít ai có đủ thẩm quyền và kinh nghiệm nhiều hơn để nói về chuyện “Sống và Chết theo quan niệm Phật Giáo“ như vậy..
Ngoài ra, tác phẩm cũng nhắc đến những tập tục, lễ nghi, tuần thất… về tang lễ theo các truyền thống của Trung Hoa, Nhật Bản và Việt Nam.
Nhận thấy đây là một tác phẩm đáng đọc cho mọi người, cho mọi lứa tuổi, Viên Giác Tùng Thư xin giới thiệu đến quý độc giả gần xa. Sách được xuất bản từ năm 1998 và trong lần tái bản này đã có một số điểm được chỉnh sửa, bổ sung hoàn thiện hơn.
Xuân Canh Tý 2020VIÊN GIÁC TÙNG THƯ___________________
LỜI VÀO SÁCHHôm nay là ngày Mồng Một tháng Năm nhuần năm Mậu Dần, nhằm ngày 24 tháng 6 năm 1998 sau khi làm lễ Bố Tát (Uposatta) tụng giới nơi chánh điện, trở lại thư phòng, tôi bắt đầu viết cho quyển sách của năm nay nhan đề là: Sống và Chết theo quan niệm của Phật Giáo.
Mỗi người trong chúng ta đều có thói quen khác nhau. Tôi có thói quen viết sách vào mùa hè, vì đây là mùa an cư kiết hạ, nên có nhiều thời gian hơn các tháng khác. Vả lại, chính trong 3 tháng này nội tâm cũng yên tĩnh hơn, ngoại cảnh cũng đẹp hơn. Thông thường tôi hay uống 3 chung trà trước khi đi vào một quyển sách, để biết đâu với hương vị quen thuộc ấy có thể giúp mình thêm một ý sáng tạo nào đó trong khi viết sách.
Cả 2 tuần nay, mùa an cư kiết hạ đã bắt đầu nhưng tôi chẳng viết được một trang sách nào cả. Lý do chỉ đơn thuần là vì còn phải chuẩn bị một số công việc bên ngoài nữa cho nên mãi đến hôm nay mới bắt đầu. Năm nay lại nhuần 2 tháng năm nên an cư cũng bắt đầu vào giữa tháng năm (nhuần) âm lịch, chứ không phải giữa tháng 4 âm lịch như mọi khi. Do vậy mà rằm tháng 7 âm lịch năm nay cũng sẽ trễ đến đầu tháng 9 dương lịch. Ngày 16 tháng 7 âm lịch mới là ngày ra hạ của chư Tăng, năm nay nhằm ngày 6 tháng 9 năm 1998. Đã gần đến mùa Thu rồi, còn gì nữa?
Còn không mấy ngày nữa là lần sinh nhật thứ 50 của tôi. Ở Á Đông kể như vậy, chứ theo Tây Phương mới lần thứ 49 mà thôi. Người Tây Phương và Đông Phương có nhiều cái giống nhau và nhiều cái khác nhau lắm. Biết làm sao giải thích cho hết được. Thôi thì phải tập làm quen với nhau rồi mới có thể hiểu nhau. Ví dụ người Á Châu phải làm quen với dao nĩa khi ăn uống và người Âu Châu phải quen với đũa khi muốn tìm hiểu đến văn hóa của Á Châu.
Trên tầng thượng trước phòng của quý chú có một chậu hoa quỳnh rất đẹp và mỗi năm thường nở rất nhiều hoa vào mùa hạ. Năm nay sinh nhật của tôi có độ 8 hoa quỳnh đã nở. Dĩ nhiên là vô tình rồi, nhưng loài hoa này có lẽ cũng muốn cống hiến một chút hương sắc với đời, nên mới nở rộ vào ngày này chăng? Nghe đâu hoa quỳnh nở mang nhiều vui tươi và ước vọng đến cho mọi người.
Hoa màu vàng nhạt, hương thơm. Lẽ ra phải nở về đêm, nhưng ở xứ Âu Châu này hay nở vào buổi chiều, lúc mặt trời gần lặn và chỉ một đêm thôi, ngày mai quỳnh lại tàn. Quỳnh cưu mang cả tháng, từ khi còn ở trạng thái là một chồi và trở thành búp, để rồi nở hoa, nhưng chỉ một đêm, quả thật là loài hoa vương giả.
Năm rồi 1997 là năm tuổi của tôi. Khi nói đến năm tuổi là hay nói đến tam tai. Có nghĩa là năm ấy sẽ có 3 cái nạn lớn. Đó là hao tài, tiêu tán và mất mạng. Dĩ nhiên là tôi không tin tử vi rồi, vì tôi đã tin theo Đạo Phật. Nhưng cũng có nhiều cái thuộc về hình nhi hạ học cũng phải tin, nhất là những chuyện đã qua rồi và nghiệm lại thấy đúng, chứ không phải nhất thiết là ở hình nhi thượng học hết. Nhiều người Á Châu hay tin từ 49 đến 53 tuổi cuộc sống nặng nề lắm. Vì năm tuổi, vì sao hạn v.v... Vả lại cái tuổi này có lẽ cũng là cái tuổi đi vào xế chiều của cuộc sống, nên đã có nhiều điều không may đến với mọi người chăng?
Theo sự giải thích về tam tai thì những năm ấy người ta phải mất mát tiền bạc, người thân ra đi, hay chính mình phải chết. Nghiệm lại thử năm rồi có đúng với tôi điều nào chăng? Hiển nhiên là có một đến hai sự việc. Đó là 2 Sư Cô lớn tuổi ở chùa ra đi đột ngột cách nhau trong vòng 7 tiếng đồng hồ. Một người mất vào lúc 4 giờ chiều và một người khác mất vào 1 giờ rưỡi khuya. Đó là điều ly tán hay tiêu tán. Còn mất mạng thì tôi chưa chết, nhưng năm rồi cũng phải mổ chân để lấy ra một cục thịt dư, như vậy là mất đi một ít của mạng mình rồi. Còn hao tài thì năm rồi không đáng kể. Bù lại đó ở chùa có trồng 2 cây đồng tiền (geldblaetter), cây này hiếm khi nở hoa lắm, nhưng trước khi cô Hạnh Niệm và cô Hạnh Tịnh mất, cả 2 cây đều nở hoa và cả 3 tháng hoa vẫn chưa tàn. Cây này tôi ít thấy khi nào ra hoa. Do vậy mà nhiều người đã bảo là tôi hên, sẽ có chùa lớn hơn chùa Viên Giác nữa. Điều ấy có đúng không thì hãy chờ xem.
Cây đồng tiền có lá nhỏ như đồng bạc bằng kẽm, màu đỏ tía và thân ủng nước, nhưng rất chắc. Khi đông sang cũng như hè đến, cây đều mạnh khỏe và uống nước rất nhiều. Hoa của cây nhỏ li ti như các hoa dại, màu trắng, có thêm một ít màu phụ, trông cũng rất phát tài. Hoa nở có lẽ mang đến cho người niềm vui hơn là tiền bạc, nhưng nhiều người và nhiều đời tin như vậy, ngay cả người Đức nữa, nên tên của cây mới được gọi là “cây đồng tiền”.
Đến năm nay 1998, chùa Viên Giác tại Hannover, phần ngoại duyên tuy gặp nhiều chuyện không may nhưng đồng thời cũng có lắm điều may mắn. Ví dụ năm nay ở trong chùa có nhiều người bịnh cảm, ho cả mấy tháng. Điều này có lẽ tại thời tiết bên ngoài. Mà đúng vậy, tại Đức năm nay không có mùa hè. Thông thường thì tháng 6 hay tháng 7 nắng chói chang, nhưng năm nay ba chặp nắng cháy da, ba chặp lạnh, nên phải mặc áo ấm. Đi đâu cũng nghe người ta nói về thời tiết đổi thay, nhưng riêng về con người thì rất ít người nhắc đến. Đó phải chăng là một sự thiếu sót. Rồi quý vị cận sự của chùa lại ra đi vĩnh viễn, có vị phải vào nhà thương. Đúng là cuộc đời vô thường rồi, chứ còn gì nữa. Không có gì chắc thật cả, mặc dầu đó là bản thân của ta, bằng da bằng thịt này. Xe chùa mấy chiếc cũng bị tông hư, hoặc đi tông người khác, hoặc phải vào nghĩa địa xe hơi để an giấc ngàn thu như thân thể của con người. Khi còn sống lo đi phục vụ chuyên chở cho người ta, nhưng khi bị phế thải đi rồi chẳng ai dòm ngó đến nữa, mà còn ra chiều khinh khi hất hủi nữa.
Mấy Thầy đệ tử của tôi đi học xa tại Đài Loan thì gặp nạn bị đánh cắp mất hết giấy tờ và tiền bạc. Rõ là khổ ở xứ người, nhưng nếu hiểu lý nhân duyên của nhà Phật sẽ có được một phần an ủi nho nhỏ nào đó.
Điều may mắn năm nay cũng không phải là ít, trước nhất phải nói đến vấn đề đầu tư trí tuệ - Hạnh Tấn và Hạnh Nguyện là 2 Thầy đệ tử xuất gia của tôi, đã tu học tại Đức và Ấn Độ hơn 12 năm rồi. Hạnh Tấn tốt nghiệp Cao Học Tôn Giáo Học tại Đại Học Hannover và sang Ấn Độ học tiếp tục chương trình hậu Đại Học tại New Delhi và năm nay xong chương trình Tiến Sĩ Tôn Giáo Học. Hạnh Tấn là người có học, có hạnh và có tu. Năm 1999 sẽ về lại Đức để lo cho Expo năm 2000 với chú Hạnh Hảo người Đức và lo việc chùa, phụ giúp cho tôi trong những năm tới. Hạnh Tấn cũng đã viết và dịch nhiều tác phẩm hay như: Người Mang Hy Vọng, Xứ Phật Tình Quê, Uống Lửa Thở Đất v.v...
Hạnh Nguyện đang tu học tại tu viện Sera theo truyền phái Phật Giáo Tây Tạng, đã học năm thứ hai tại Đại Học Tu Viện này, cũng đã sáng tác đóng góp với Đời và Đạo qua các tác phẩm Milarepa bằng tranh, tự truyện Một Người Tu 1 + 2, Xứ Phật Tình Quê v.v...
Tuy quý Thầy này được đào tạo tại ngoại quốc, nhưng văn phong và ý hướng vẫn một lòng lo cho Quê hương và Giáo hội. Cũng chính năm này 2 Thầy đệ tử đã có chương trình kêu gọi quý Đạo Hữu và quý Phật tử khắp nơi ủng hộ Trung Tâm Tu Học Viên Giác tại Bồ Đề Đạo Tràng, Ấn Độ, và cũng đã được quý Phật tử khắp nơi hỗ trợ.
Rồi Frank Sanzenbacher, Pháp danh Thiện Bình, Pháp tự Hạnh Hảo, một người Đức cao lớn, nói tiếng Trung Hoa rất rành và Việt ngữ cũng khá. Còn tiếng Đức cũng như tiếng Anh là tiếng mẹ đẻ của chú rồi. Năm này cũng đã xong luận án tốt nghiệp Cao Học tại Đại Học Hamburg với đề tài ra trường là: “Thập Mục Ngưu Đồ Tụng” bằng tiếng Hán của Hòa Thượng Quảng Trí người Việt Nam biên soạn vào thời Trịnh-Nguyễn phân tranh, dịch và bình chú ra tiếng Đức. Cả một công trình nghiên cứu như thế rất công phu. Sau khi xuất gia và thọ giới Sa Di, cho đến nay chú đã ở chùa Viên Giác hơn 4 năm rồi và đang lo hướng dẫn các lớp học người Đức tại Chùa cùng với ông Rotar Rieder. Có lẽ sau năm 2000 sẽ cho chú thọ giới Tỳ Kheo và tha phương cầu học.
Hạnh Bảo có khả năng về tiếng Trung Hoa, nên tôi đã cho sang Singapor tu học, nhưng ở đây giấy tờ khó khăn, đành phải về lại Đức làm giấy tờ đi Đài Loan để học tại các Phật Học Viện và có thể tại Đại Học. Tuy khổ tâm vì mất giấy tờ và tiền bạc tại Đài Loan, nhưng có lẽ sẽ tiếp tục con đường học Phật tại đó.
Ở tại chùa, chú Hạnh Hòa năm nay đang học năm thứ 2 về phân khoa Tôn Giáo Học và Anh văn tại Đại Học Hannover. Chú là người giỏi ngoại ngữ nên đã phụ cho tôi về phương diện ngoại giao tại đây. Tại Đại Học này Đức Thụ Hồ Lộc, vẫn còn là một cư sĩ tại gia, nhưng năm nay đã ra trường Cao Học với luận án tốt nghiệp tối ưu với đề tài là: Phật Giáo Việt Nam tại Đức. Tác phẩm này sẽ được xuất bản trong nay mai để giới thiệu với người Đức về sự phát triển của Phật Giáo Việt Nam ở xứ này.
Chú Hạnh Sa vừa xong Tú Tài và nay đã ghi danh học về Phật học tại Đại Học Hamburg.
Ngoài ra còn các chú Hạnh Vân, Hạnh Từ, Hạnh An, Hạnh Định, Hạnh Trí, Hạnh Luận đang học nội điển tại chùa qua sự hướng dẫn của tôi và Thầy Giáo Thọ Thích Quảng Bình. Thầy dạy về chữ Hán và nghi lễ. Vì vậy bây giờ quý Phật tử đến chùa Viên Giác nghe những âm thanh lạ của trống, của chuông, linh, tang, mõ, đẩu, khánh v.v... Đó là công đức của Thượng Tọa Giáo Thọ Thích Quảng Bình đã dạy cho các chú. Phần tôi bận rộn muôn bề, nên mỗi tuần chỉ hướng dẫn cho quý cô quý chú 2 đến 3 lần mà thôi. Thường thì dạy cảnh sách bằng chữ Hán, luật Sa Di bằng chữ Hán và Đại Trí Độ Luận bằng tiếng Việt. Quý cô tại chùa bây giờ chỉ còn Ni Sư Như Viên, Sư cô Hạnh Châu, Sư cô Hạnh Ân, cô Hạnh Ngọc và chừng 10 người làm công quả. Quý cô lớn tuổi cũng rất bận rộn cho chuyện tu, chuyện học và chuyện công quả tại chùa. Đó là kết quả của phần trí tuệ mà cây công đức ấy đã gieo trồng từ 12 năm trước. Hy vọng với những cây này, Phật Giáo Việt Nam sẽ gặt được những quả trí tuệ vào các năm tới, ở đầu thế kỷ 21 này.
Đó là chưa kể các Phật tử tại các địa phương khắp nơi trên xứ Đức này, rất nhiều người tin Phật, hành hạnh Phật và thể hiện lòng từ bi của mình đến với tha nhân bằng hữu trong cách sống của mình.
Trên đây là một số điểm tốt và xấu. Xấu và tốt thực ra cũng là 2 mặt của cuộc đời, nhưng chỉ một lối vào thôi. Ai ý thức được sẽ ra khỏi cửa khổ đau này. Ai còn thiếu tư duy, cứ đi vào với con đường sanh tử triền miên trong cuộc sống này vậy. Tôi không tin bói toán và đoán số bàn mộng, nhưng tin rằng cuộc sống có thăng trầm, đời người có lúc này lúc nọ. Cũng giống như một con đường, đâu phải lúc nào cũng thẳng tắp để đưa người đi đến đích đâu? Có lúc cong, có lúc thẳng. Có lúc bằng phẳng, có lúc khúc khuỷu, ngoằn ngoèo, lúc đường tốt, lúc đường xấu v.v... Do vậy mà tôi vẫn thường hay nói trong cái tốt có cái xấu và trong cái xấu có cái tốt là vậy.
Trở về lại sinh hoạt thường nhật của chùa năm nay trong mùa An Cư Kiết Hạ cũng như mọi năm, nghĩa là từ sáng sớm quý Thầy, quý cô, quý chú đã dậy và đúng 6 giờ kém 15 phút là mọi người vân tập nơi Tổ Đường để lễ Tổ. Sau đó lên chánh điện ngồi thiền 15 phút. Nay thì quý chú đã tự hô canh được rồi, tôi không còn phải hô nữa. Sau đó trì tụng thần chú Thủ Lăng Nghiêm và kinh hành nhiễu Phật. Đến 7 giờ nghi lễ xong, cô chú nào có phiên trực nhật phải lo nấu dọn cho trong ngày thì phải có mặt nơi nhà bếp để sửa soạn. 8 giờ sáng tất cả Đại chúng đều dùng sáng chung. Từ 7 đến 8 giờ sáng là giờ viết sách của tôi. Nếu buổi sáng có thì giờ, tôi viết tiếp từ 9 đến 10 giờ rưỡi. Cứ ròng rã và đều đặn mỗi mùa hè như thế, mà cho đến nay tôi đã được 25 tác phẩm rồi. Dĩ nhiên sách tôi không hay so với một số tác giả nổi danh khác, nhưng nó là những tư liệu sống và những gì có tận nơi đáy lòng, tôi đem phơi bày cho mọi người đọc và hiểu cho một người tu, chỉ đơn giản có thế thôi. Câu: “Có công mài sắt có ngày nên kim”, tôi vẫn thường hay ứng dụng vào cuộc sống của mình là vậy.
Từ 9 đến 10 giờ 30 sáng, có lúc quý chú Sa Di phải học luật, quý vị khác thì chuẩn bị cho buổi quá đường. Đúng 11 giờ chư Tăng Ni dùng ngọ trai, sau đó đi kinh hành nhiễu Phật. Năm nay có thêm phần đánh chuông trống bát-nhã vào lúc chư Tăng lên chánh điện, để cho quý chú quen dần với việc sử dụng chuông, trống lớn. Trước 11 giờ có một chú lên chánh điện cúng Ngọ nữa. 12 giờ trưa là giờ của các chú Sa Di Thị Giả và những người giúp việc dùng trưa. Sau đó là giờ chỉ tịnh cho đến 2 giờ chiều.
Từ 2 giờ 30 đến 4 giờ là giờ học. Vào cuối tuần giờ học này không có, nhưng thay vào đó là các giờ thuyết giảng trong các buổi Thọ Bát Quan Trai. 5 giờ chiều có buổi công phu chiều, tụng Di Đà, Hồng Danh và Thí Thực. Đến 18 giờ 30 dùng tối bằng cháo nhẹ và 20 giờ tất cả lên chánh điện để lễ kinh Đại Bát Niết Bàn, mỗi chữ mỗi lạy.
Kinh Đại Bát Niết Bàn gồm 2 quyển, độ chừng 1.500 trang. Chùa Viên Giác sau khi lễ xong kinh Pháp Hoa, cũng mỗi chữ mỗi lạy, cuối năm 1995 bắt đầu qua lạy kinh Đại Bát Niết Bàn. Đến hôm nay, cuối tháng 6 năm 1998, mới được 200 trang, mà mỗi buổi tối thường lạy từ 250 đến 300 lạy. Có lẽ kinh này phải lạy tất cả trong 15 mùa hạ mới xong. Sở dĩ tôi phát nguyện lạy như thế, vì thấy bao nhiêu người lớn tuổi đi chùa muốn lễ một lễ cũng không trọn vẹn, nên nghĩ tới già nua, tuổi tác và vô thường nên mới phát nguyện như vậy và năm nay phát nguyện làm Trung Tâm Dưỡng Lão, cũng vì thấy nhiều người lớn tuổi sống cô đơn trên xứ người, phải có một nơi gìn giữ cũng như an ủi những bậc cao niên, nên mới bắt đầu công việc to lớn và cực nhọc khác. Tất cả cũng chỉ khởi đi từ tâm niệm độ sanh của người xuất gia mà thôi. Vì cuộc sống của người Tăng sĩ là:
“Nhứt bát thiên gia phạnCô thân vạn lý duKỳ vi sanh tử sựThuyết pháp độ xuân thu.”Nghĩa là:
“Một bát cơm ngàn nhàMột thân muôn dặm xaChỉ vì sự sanh tửThuyết pháp độ người qua."Đơn giản nhưng khó thực hiện vô cùng.
Đến 21 giờ 30 là xong lễ. Sau đó là giờ tự do của Tăng chúng như ôn bài, tắm rửa, giặt giũ v.v... Tiếp theo là chỉ tịnh để tiếp tục ngày hôm sau.
Trong mùa an cư kiết hạ mỗi năm 3 tháng tại Chùa Viên Giác, Tăng chúng và cá nhân tôi đều thực hiện như vậy. Ngoài ra 9 tháng khác trong năm, mỗi ngày chỉ còn lại 2 thời công phu sáng và chiều và các lớp học được xếp vào buổi tối. Vì ban ngày có nhiều chú phải đi học tại Đại Học.
Cuộc sống của người tu hành cứ như thế mà thong thả trôi đi và cũng phải giúp đỡ cho mọi người trong việc làm lễ cưới hỏi cho các Phật tử tại gia, giải quyết những khó khăn nội tại của gia đình và việc chết của mọi người con Phật, lẽ đương nhiên là quý Thầy quý Cô hiện diện ngay từ lúc còn bịnh hoạn tại nhà thương kia.
Tôi là một người hay gần gũi với người chết không ít. Vì lẽ mỗi lần có ai chết, gia đình đều gọi về chùa để nhờ quý Thầy đi đám. Trước hết là cái chết của người thân, như có lần tôi đã kể trong tác phẩm “Giọt Mưa Đầu Hạ” được Chùa Khánh Anh tại Pháp xuất bản vào năm 1979, về sự ra đi của thân mẫu tôi và năm nay cũng là kỷ niệm 100 năm ngày sinh của thân phụ tôi, người cũng đã mất đi từ năm 1986. Tôi ra đời khi người đã 50 tuổi và là đứa con út trong gia đình, nên cũng đã được nhiều phước duyên khi đi vào con đường đạo. Người sinh năm 1898, tức năm Mậu Tuất, năm nay 1998 là năm Mậu Dần. Đúng một trăm năm. Một trăm năm trước tại quê hương xứ Quảng của chúng tôi, triều đình nhà Nguyễn tại Huế, lúc bấy giờ vua Thành Thái đang trị vì, đã sắc phong cho dân xứ này là “Ngũ Phụng Tề Phi”. Nghĩa là 5 con phụng cùng bay một lúc. Con chim phụng hay phượng hoàng là một trong các chúa tể của loài chim, đẹp nhất trần gian này và có lúc Từ Hy Thái Hậu cũng đã lấy biểu tượng của con chim Phượng Hoàng làm quốc huy cho triều đình của mình. Lý do là từ Quảng Nam ra Huế thi có 3 vị đậu Tiến Sĩ, trong đó có ông Phạm Liệu, và 2 vị đậu Phó Bảng, giống như Cao Học ngày nay. Cả một nước chỉ có mấy người đậu mà Quảng Nam đã có 5 người đậu đầu khoa Mậu Tuất ấy, nên người Quảng Nam cũng thường hay tự hào là xứ của Văn Hiến, của ngàn năm văn vật, chỉ có tội là nghèo hơn các xứ khác trong nước mà thôi. Nghèo nhưng vẫn tự hào rằng:
“Đất Quảng Nam chưa mưa đã thấmRượu hồng đào chưa nhấm đà say.”Quảng Nam không biết có chế được rượu hồng đào không? Chứ còn rượu làm từ gạo thì chắc chắn có rồi. Vì đây là xứ nông nghiệp mà. Người Quảng Nam ở lại quê, ít có người nào làm nên nghiệp lớn, mà phải xa quê mới tạo dựng được cho xứ sở của mình một giá trị sâu thẳm của nội tâm. Về thơ văn có Phan Khôi, Bùi Giáng. Về cách mạng có Trần Quý Cáp, Trần Cao Vân, về Phật Giáo có các vị Cao Tăng thạc đức như Hương Hải Thiền Sư và Vĩnh Gia Đại Sư v.v... và ngày nay ở ngoại quốc cũng đã có nhiều người con của xứ Quảng đang gây dựng nghiệp lớn.
Quyển sách này được viết nhằm kỷ niệm 100 năm ngày sinh của phụ thân và 50 năm ra đời của tác giả, nên cá nhân tôi cũng muốn nhân đây hồi hướng phước báu này lên 2 bậc sinh thành đã quá vãng và nguyện cầu cho những ân đức sanh thành dưỡng dục cao dày ấy được đền đáp trong kiếp hiện tại này, để kiếp lai sinh khác được nhẹ gánh tang bồng.
Mỗi năm Bộ Nội Vụ Cộng Hòa Liên Bang Đức tài trợ cho tôi xuất bản một quyển sách, kể từ năm 1981 đến nay, gần 20 năm rồi. Ơn ấy xin nguyện khắc ghi và nghĩa cử cao đẹp này chắc năm tháng trôi qua không bao giờ mất nơi tâm thức của một người luôn luôn mong muốn ơn đền nghĩa trả.
Tôi cũng mong rằng tập sách này sẽ được dịch ra tiếng Đức. Vì lẽ người Đức đã làm quen ít nhiều với việc sống, chết, tái sanh qua Phật Giáo Tây Tạng, nhưng với Phật Giáo Việt Nam và các xứ Phật Giáo Á Châu khác hầu như còn xa lạ. Mà không riêng gì người Đức, ngay cả người Việt Nam cũng ít khi lưu tâm đến sự chết. Vì nghĩ rằng mình chưa chết, nên chưa lo. Nhưng đâu có ai ngờ rằng: ai sinh ra rồi cũng phải chết. Thực tế này lại hay phũ phàng và trái ngược, vì ai cũng chỉ ham sống chứ rất ít người lo chuẩn bị cho sự chết cả.
Một ngày ăn cơm 3 buổi, uống nước, dùng điện, gas, sưởi, áo mặc, hít thở không khí của đất trời v.v... Tất cả đều là ơn nghĩa của chúng sanh và muôn loài, không nên hoang phí. Vì tất cả đều phục vụ cho tha nhân và mang sự lợi ích sống chung và cùng chia sớt với nhau nhiều bổn phận. Cũng như con người thì cần O2 và cây cỏ cũng phải cần đến CO2 là vậy. Cái này sống nhờ vào cái kia và cái kia tồn tại được là nhờ cái này. Điều này cũng rất hợp với thuyết nhân duyên của nhà Phật.
Bộ Nội Vụ Cộng Hòa Liên Bang Đức giúp cho chúng tôi ra một quyển sách gồm 2 thứ tiếng Việt và Đức mỗi năm. Có như thế văn hóa của Việt Nam, đặc biệt văn hóa của Phật Giáo mới có cơ hội tồn tại nơi mảnh đất tỵ nạn này. Những người tỵ nạn sống tại Cộng Hòa Liên Bang Đức này, một mặt phải hội nhập vào đời sống văn hóa, phong tục của xứ Đức và đồng thời người tỵ nạn cũng không được phép quên ngôn ngữ mẹ đẻ của mình. Vì nếu quên phong tục tập quán và tôn giáo cũng như văn hóa của mình thì ý nghĩa hội nhập vào xã hội mới không còn nữa. Điều ấy đã bị đồng hóa rồi.
Năm nay là năm thứ 20, Bộ Nội Vụ Đức đã giúp đỡ cho người Phật tử Việt Nam tỵ nạn của chúng ta ở nhiều lãnh vực khác nhau của văn hóa. Xin chân thành cảm ơn sự quan tâm của chính phủ đến người Việt Nam của chúng tôi tại đây và đồng thời người tỵ nạn cũng đã hiến dâng những tinh hoa văn hóa của dân tộc mình, đặc biệt là văn hóa của Phật Giáo, như mang một bông hoa mới lạ, đẹp đẽ khác trồng vào trong một vườn hoa, vốn đã đẹp rồi, sẽ còn đẹp hơn nữa. Điều ấy có lẽ cũng không phụ công lao khó nhọc mà chính phủ Đức đã giúp đỡ cho người tỵ nạn Việt Nam hơn 20 năm qua và mong rằng ơn nghĩa ấy vẫn còn tồn tại mãi mãi.
Cho đến giờ này, viết sách hay bất cứ viết bài gì, tôi đều viết bằng tay trên giấy bản thảo, chứ không dùng computer. Vì đây chỉ là thói quen. Đôi khi sợ dòng tư tưởng của mình bị chi phối, do đó hay dùng bút để viết hơn là đánh máy. Nhưng viết phải là loại viết đặc biệt, mực loãng, nhẹ. Khi viết không cần phải dùng sức đè nặng lên viết và có như thế mới viết được nhiều hơn, dòng tư tưởng cũng liên tục như thế mà chảy mãi, chảy mãi. Sau đó mới cho đánh máy, sau khi đánh máy, tôi lại sửa lại một lần nữa và sau đó mới cho dịch ra tiếng Đức cũng như trang trí và xem lại lần cuối trước khi đưa in.
Chữ viết của tôi tương đối khó đọc, tuy nhiên Chú Sanh và Chị Nga đã quen nên cũng không gặp nhiều trở ngại. Nếu ai là người lần đầu đọc thư tôi, có lẽ sẽ không đọc được hết. Vì lẽ không có thì giờ để viết chậm và sợ dòng tư tưởng bị ngưng đọng, nên phải viết nhanh. Vì viết nhanh nên chữ xấu cũng là chuyện bình thường.
Đức Thụ năm nay cũng cố gắng dịch sách này ra tiếng Đức để giới thiệu với người Đức về cái nhìn của một người Phật tử về sự sống và sự chết qua các nước Phật Giáo Đông Nam Á mà lâu nay họ chưa có cơ hội làm quen.
Trình bày, trang trí, in ấn do anh Như Thân và các anh em công quả Thiện Như, Thiện Lai thực hiện. Từ khi viết một quyển sách, đến khi in, đóng và cắt thành sách, thời gian ít nhất cũng mất từ 6 tháng đến một năm, tùy theo độ dày mỏng của sách. Nhưng tựu trung phải cần một thời gian ít nhất là như thế.
Tất cả những ơn nghĩa ấy, nơi thâm tâm tôi bao giờ cũng ghi nhớ mãi. Vì không có những trợ duyên này, chắc chắn rằng tác phẩm sẽ không được ra đời và độc giả sẽ không có cơ hội để hiểu biết thêm một vấn đề, nhiều khi cũng không phải là vô bổ.
Chim bên ngoài đang hót, mặt trời đang dần lên cao. Nơi nội tâm của mình cảm thấy có một cái gì đó đổi thay. Có lẽ đây cũng là một trong những viễn ảnh của tâm thức và mong rằng những trang sách tiếp theo sẽ phơi bày hết mọi khía cạnh của vấn đề, để độc giả có một cái nhìn tổng quát hơn.
Nếu được như vậy quả là ích lợi cho cả người viết lẫn người đọc.
Mong lắm thay.
Tác giả cẩn bútViết tại thư phòng Chùa Viên Giác vào một sáng mùa hạ năm Mậu Dần – 1998