Khi gặp chướng ngại ta có thể thay đổi phương cách để đạt mục tiêu nhưng đừng thay đổi quyết tâm đạt đến mục tiêu ấy. (When obstacles arise, you change your direction to reach your goal, you do not change your decision to get there. )Zig Ziglar
Của cải và sắc dục đến mà người chẳng chịu buông bỏ, cũng tỷ như lưỡi dao có dính chút mật, chẳng đủ thành bữa ăn ngon, trẻ con liếm vào phải chịu cái họa đứt lưỡi.Kinh Bốn mươi hai chương
Kinh nghiệm quá khứ và hy vọng tương lai là những phương tiện giúp ta sống tốt hơn, nhưng bản thân cuộc sống lại chính là hiện tại.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Bạn sẽ không bao giờ hạnh phúc nếu cứ mãi đi tìm những yếu tố cấu thành hạnh phúc. (You will never be happy if you continue to search for what happiness consists of. )Albert Camus
Sống chạy theo vẻ đẹp, không hộ trì các căn, ăn uống thiếu tiết độ, biếng nhác, chẳng tinh cần; ma uy hiếp kẻ ấy, như cây yếu trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 7)
Hạnh phúc đích thực không quá đắt, nhưng chúng ta phải trả giá quá nhiều cho những thứ ta lầm tưởng là hạnh phúc. (Real happiness is cheap enough, yet how dearly we pay for its counterfeit.)Hosea Ballou
Cuộc đời là một tiến trình học hỏi từ lúc ta sinh ra cho đến chết đi. (The whole of life, from the moment you are born to the moment you die, is a process of learning. )Jiddu Krishnamurti
Cách tốt nhất để tiêu diệt một kẻ thù là làm cho kẻ ấy trở thành một người bạn. (The best way to destroy an enemy is to make him a friend.)Abraham Lincoln
Đừng chờ đợi những hoàn cảnh thật tốt đẹp để làm điều tốt đẹp; hãy nỗ lực ngay trong những tình huống thông thường. (Do not wait for extraordinary circumstances to do good action; try to use ordinary situations. )Jean Paul
Quy luật của cuộc sống là luôn thay đổi. Những ai chỉ mãi nhìn về quá khứ hay bám víu vào hiện tại chắc chắn sẽ bỏ lỡ tương lai. (Change is the law of life. And those who look only to the past or present are certain to miss the future.)John F. Kennedy
Lời nói được thận trọng, tâm tư khéo hộ phòng, thân chớ làm điều ác, hãy giữ ba nghiệp tịnh, chứng đạo thánh nhân dạyKinh Pháp Cú (Kệ số 281)
Trang chủ »» Danh mục »» »» Pháp Hoa Văn Cú - Tập 2 »» Giải thích phẩm Phương tiện (tiếp theo) »»
KINH VĂN
Nơi chư Phật quá khứ,
Hoặc còn, hoặc diệt độ,
Nếu được nghe pháp này,
Đều đã thành Phật đạo.
Các vị Phật tương lai,
Số nhiều đến vô lượng,
Tất cả chư Phật ấy,
Cũng phương tiện thuyết pháp.
Hết thảy các đức Phật,
Dùng vô số phương tiện,
Độ thoát muôn chúng sinh,
Vào trí Phật vô lậu,
Người đã được nghe pháp,
Không ai không thành Phật.
Chư Phật từng thệ nguyện,
Đạo Phật tu, Phật chứng,
Cũng làm cho chúng sinh,
Đều tu chứng đạo ấy.
Chư Phật đời vị lai,
Tuy thuyết trăm ngàn ức,
Đến vô số pháp môn,
Thật chỉ là Nhất thừa.
Chư Phật đủ phước trí,
Biết pháp không tự tánh,
Hạt giống Phật duyên khởi,
Cho nên thuyết Nhất thừa.
Pháp trụ nơi pháp vị,
Tướng thế gian thường trụ,
Nơi đạo trường rõ biết,
Đạo sư thuyết phương tiện.
Ý thứ hai từ câu “Nơi chư Phật quá khứ” trở đi gồm 1 khổ kệ, nói rõ về liễu nhân chủng tử.[1] Xét theo ước lệ như phần trên thì [lẽ ra phải gồm đủ] cả [những ý nghĩa như] hữu tướng, vô tướng, phi hữu tướng phi vô tướng, tâm chuyên nhất hay tâm tán loạn v.v. vì đều là những chủng tử [Phật tánh] trong 5 thừa, nay đều trừ bỏ tất cả [pháp phương tiện] mà đưa vào một thừa chân thật. Đại lược là như vậy. Tâm chuyên nhất lắng nghe một câu [kinh] là nghiệp lành [sinh về] cõi trời; tâm tán loạn được nghe một câu [kinh] là nghiệp lành [sinh vào] cõi người. Đại lược là như vậy.
● Hỏi: [Kinh văn có] ý gì mà lược nói các pháp môn của chư Phật quá khứ để giảng rộng 5 thừa [phương tiện]?
● Đáp: Ba đời chư Phật tất cả đều có bày ra [các pháp] quyền thừa [phương tiện], nhưng pháp vị lai thì chưa đến, pháp hiện tại chỉ mới khởi đầu, [nếu đưa ra để] chứng minh nghĩa chân thật thì yếu ớt [không đủ thuyết phục]. Các pháp phương tiện trong quá khứ đã lâu rồi, những người được giáo hóa đều đã thành tựu tứ nhất, thêm nữa nêu việc [chư Phật] khắp mười phương đều bày ra pháp quyền biến phương tiện để hiển lộ pháp chân thật, nên việc chứng minh ý nghĩa được mạnh mẽ thuyết phục. Ngàn vạn[2] lời hư dối cũng không bằng một sự chứng nghiệm rõ biết chân thật. Cho nên nêu việc [thực tế] của chư Phật trong quá khứ để nói rộng [pháp phương tiện trong] 5 thừa.
Phần thứ ba từ câu “Các vị Phật tương lai” trở đi gồm 6 khổ rưỡi kệ, tụng lại ý nghĩa phần nói về các đức Phật tương lai trong văn trường hàng ở trên. Phần này chia làm hai tổng đoạn.
Tổng đoạn thứ nhất một khổ rưỡi đầu tiên tụng ý nghĩa trừ bỏ ba thừa [phương tiện].
Tổng đoạn thứ hai [từ câu “Độ thoát muôn chúng sanh”] gồm 5 khổ kệ tụng ý nghĩa hiển bày Nhất thừa [chân thật]. [Tổng đoạn này chia làm 4 đoạn.]
Đoạn thứ nhất từ câu “Độ thoát muôn chúng sanh” trở đi 1 khổ kệ, tụng ý nghĩa nhân nhất.
Đoạn thứ hai từ câu “Chư Phật từng thệ nguyện” trở đi 1 khổ kệ, tụng ý nghĩa hành nhất. Đạo mà chư Phật tu hành, thệ nguyện làm cho tất cả chúng sinh đều chứng đắc đạo ấy, lẽ nào lại không phải là hành nhất?
Đoạn thứ ba từ câu “Chư Phật đời vị lai” trở đi 2 khổ kệ, tụng ý nghĩa giáo nhất. Rõ biết các pháp thường không có tự tánh, thật tướng cũng thường trụ nơi không tự tánh, cho đến không có tánh vô nhân[3] và trạng thái vô tánh đó lại cũng không có tánh. Đó gọi là vô tánh.
“Giống Phật từ duyên khởi”, là nói trung đạo không có tánh, đó chính là chủng tử Phật.[4] [Chúng sanh] mê muội không biết lẽ này, đó là do duyên nơi vô minh nên [nghiệp] chúng sinh sinh khởi. [Các bậc giác ngộ] hiểu rõ lẽ này, đó là do duyên nơi thực hành giáo pháp nên chánh giác sinh khởi. Muốn cho hạt giống Phật sinh khởi thì phải thuyết dạy pháp Nhất thừa. Đây là tụng ý nghĩa giáo nhất. Lại nữa, không có tự tánh chính là chánh nhân Phật tánh. Nói “Giống Phật từ duyên khởi” tức là duyên [nhân] và liễu [nhân Phật tánh].[5] Dùng duyên [nhân] trợ giúp liễu [nhân] nên chủng tử chánh nhân được sinh khởi. Một [duyên] sinh khởi thì tất cả đều sinh khởi, ba tánh như vậy gọi là Nhất thừa.
Đoạn thứ tư từ câu “Pháp trụ nơi pháp vị” trở đi gồm 1 khổ kệ, tụng ý nghĩa lý nhất. Chúng sinh, chánh giác cùng một lẽ như, không hai không khác, đều không ra ngoài lẽ như. Tất cả đều như pháp, lấy đó làm [pháp] vị.
“Tướng thế gian thường trụ” là chánh giác xuất thế lấy như làm vị, cũng lấy như làm tướng, vị và tướng ấy thường trụ. Chúng sinh thế gian cũng lấy như làm vị, lại cũng lấy như làm tướng nên có lẽ nào lại không thường trụ? Tướng thế gian [như vậy] đã là thường trụ, lẽ nào không phải là lý nhất?
Lại nói về nghĩa thế gian, đó tức là nói các ấm, nhập và giới. Nói “thường trụ” tức là chánh nhân [Phật tánh]. Nhưng chánh nhân [Phật tánh] này chẳng phải 6 pháp,1 mà duyên nhân với liễu nhân [Phật tánh] không lìa 6 pháp. Chánh nhân là thường nên duyên [nhân], liễu [nhân] cũng thường. Cho nên nói “tướng thế gian thường trụ”.
“Nơi đạo tràng rõ biết” là nêu quả thật để giải thích việc tạm bày phương tiện quyền biến và hiển bày lẽ chân thật. [Chư Phật từ] nơi đạo tràng đã thấu suốt, rõ biết sáng tỏ thật lý từ lâu, chỉ vì chúng sinh bị che chướng nặng nề nên tạm bày phương tiện thuyết thành ba thừa. Đại lược là như vậy.
KINH VĂN
Hàng trời người cúng dường,
Mười phương Phật hiện tại,
Số nhiều như cát sông,
Xuất hiện nơi thế gian,
Vì giúp chúng an ổn,
Cũng thuyết pháp như vậy.
Biết tịch diệt hơn hết,
Nhưng dùng sức phương tiện,
Tuy chỉ bày mọi đường,
Thật chỉ vì Phật thừa.
Rõ biết mọi tánh hạnh,
Tâm niệm của chúng sinh,
Và tập khí quá khứ,
Tham muốn, sức tinh tấn,
Cùng căn tánh lợi, độn.
Nên dùng mọi nhân duyên,
Nhiều thí dụ, ngôn từ,
Phương tiện thuyết ứng hợp.
Phần thứ tư từ câu “Hàng trời người cúng dường” trở đi có 4 khổ rưỡi kệ, tụng lại phần văn trường hàng nói về chư Phật trong hiện tại. Trong văn trường hàng thì phần này có 4 ý, phần kệ này [chia làm 3 tổng đoạn] chỉ tụng lại 3 ý, không tụng phần tóm kết sau cùng.
Tổng đoạn thứ nhất, nêu ý thứ nhất gồm 1 khổ rưỡi kệ, nêu ý nghĩa của sự giáo hóa, chính là vì sự an ổn của chúng sinh.
Tổng đoạn thứ hai, nêu ý thứ hai từ câu “Biết tịch diệt hơn hết” trở đi, gồm 1 khổ kệ, tụng lại ý nghĩa hiển bày lẽ chân thật trong văn trường hàng ở trên. “Biết tịch diệt hơn hết” là nói nghĩa lý nhất. “Thật chỉ vì Phật thừa” là nói nghĩa giáo nhất, hoặc cũng có thể hiểu là nói nghĩa hành nhất.
Tổng đoạn thứ ba, nêu ý thứ ba, từ câu “Rõ biết mọi tánh hạnh, tâm niệm của chúng sinh...” gồm 2 khổ kệ, tụng về ý nghĩa tạm bày phương tiện quyền biến [của chư Phật], y theo văn kinh [có thể hiểu được].
Tổng phần thứ hai từ câu “Nay ta cũng như vậy” trở đi có 43 khổ rưỡi kệ, tụng lại phần nói về Phật Thích-ca trong văn trường hàng ở trên. [Trong nội dung giảng rộng 6 ý nghĩa thì] phần văn trường hàng không nói đến nghĩa xưng tán pháp [Phật] là hy hữu, còn trong phần kệ tụng này nêu đủ 6 nghĩa.[6] Nhưng theo các nhà cựu giải thì phần nói về Phật Thích-ca là dẫn trước [phẩm] Thí dụ, tức là nói phần văn trước dẫn khởi cho ý nghĩa văn sau. có sự tương quan và phát triển.
[Quả thật là,] đọc nhiều sớ giải thì hoa mắt, nghe nhiều diễn giảng thì loạn tâm, nên kẻ si mê chậm lụt ắt phải hoang mang nghi hoặc. Theo ý riêng tôi thì trước tiên nên xem hết toàn văn từ đầu đến cuối, sau đó mới tự mình soi xét suy ngẫm. [Theo đó thì] phần kệ nói về Phật Thích-ca có 2 ý. Một là tụng lại [nghĩa] bên trên, hai là dẫn khởi cho văn phía dưới. [Như phần giảng trước thì] bậc thượng căn đã tỏ ngộ, hạng trung căn còn chưa hiểu rõ, cho nên phải nêu thí dụ để làm rõ pháp đã nói. Các thí dụ đều chẳng phải vô cớ nói ra, mà là có căn do từ phần trước được tiếp nối, cho nên nói là dẫn khởi.
Theo cựu giải thì [trong kinh văn] có 5 thí dụ. Một là thí dụ có ông trưởng giả; thứ hai là thí dụ [ông trưởng giả] nghĩ cách cứu giúp [những đứa con]; thứ ba là thí dụ quyền lập phương tiện; thứ tư là thí dụ [giáo pháp] bình đẳng; thứ năm là thí dụ [giáo pháp] không hư vọng.
Nhưng xét thí dụ nêu ra đầu tiên là nói tổng quát, không chỉ nói riêng ông trưởng giả. [Thí dụ] nghĩ cách cứu con thì chưa đủ nghĩa. Do [không nói] thí dụ thấy lửa [đang cháy nhà], nên [cách phân chia giải thích như trên] không dùng đến.
Ngài Pháp Dao nói: Trong phẩm Phương tiện, từ câu “Chư Phật tùy chỗ thích hợp mà thuyết pháp” cho đến hết phần văn trường hàng chính là hiển bày Nhất thừa chân thật.
Nói chung phần này có thể chia thành 4 ý. Thứ nhất là trừ bỏ bốn [nghĩa giáo, lý, hành, nhân] của ba thừa đã thuyết trước đây, nay thuyết giảng thành tứ nhất.[7] Thứ hai là [nói nghĩa] do 5 sự uế trược [che chướng chúng sanh] cho nên không thể giảng nói Nhất thừa. Thứ ba là từ câu “Nếu các đệ tử của ta tự cho mình là A-la-hán...” trở đi, nêu rõ những trường hợp không hiểu đúng pháp. Thứ tư là từ câu “Xá-lợi-phất! Các ông nên hết lòng tin hiểu...” trở đi, nêu rõ nghĩa [lời Phật dạy] không hư dối, từ ban sơ đến rốt cùng, tuy lời [Phật] nói có khác biệt nhưng nếu theo ý nghĩa mà tìm cầu thì tất cả đều chân thật.
Phần sau [trong phẩm Thí Dụ] nói việc trong nhà lửa là dùng thí dụ để nêu 3 ý trong phẩm Phương tiện này. Từ câu “Như trong nước có ông đại trưởng giả”[8] trở đi cho đến hết câu “nguyện đến lúc ban cho”[9] là thí dụ nêu ý thứ nhất, nói về nghĩa 5 uế trược [che chướng]. Từ câu [“Xá-lợi-phất! Lúc bấy giờ ông trưởng giả] ban cho mỗi đứa con một cỗ xe lớn”[10] cho đến hết câu “được điều chưa từng có”[11] là thí dụ nêu ý thứ hai, nói về nghĩa [pháp Phật] là chân thật. Từ câu “ông trưởng giả ấy bình đẳng ban cho các con...”[12] đến hết câu “có phải là hư dối chăng?”[13] là thí dụ nêu ý thứ ba, nói về nghĩa [pháp Phật] không hư dối.
Ngài Huyền Sướng[14] nói có 6 thí dụ. Thứ nhất là nêu việc trong nhà [đang cháy], thí dụ tướng trạng các tai ách [của chúng sanh]. Thứ hai là nêu việc [ông trưởng giả] tỉnh giác rõ biết [nhà đang cháy], thí dụ duy nhất chỉ có Phật khởi ý niệm Nhất thừa. Thứ ba là [nêu việc các con không nghe lời], thí dụ chúng sinh không [đủ sức] thọ nhận [giáo pháp Nhất thừa], nên [Phật] phải vì [chúng sanh] nói ra những việc đáng kinh sợ [trong chốn sinh tử]. Thứ tư là [nêu việc trưởng giả hứa cho ba loại xe đẹp], thí dụ Phật phương tiện nói ba thừa là an vui. Thứ năm là [nêu việc các con ra khỏi nhà lửa an toàn, được trưởng giả ban cho cùng một loại xe báu], thí dụ việc Phật [trừ bỏ ba thừa,] thuyết giảng giáo pháp Nhất thừa. Thứ sáu là tổng kết [các ý nghĩa trên] để chỉ rõ pháp Phật không hư dối.
Ngài Long Sư[15] cũng nói có 6 thí dụ. Thứ nhất là nêu việc cha con ông trưởng giả trong căn nhà [đang cháy], thí dụ như đức Phật tôn quý nhất trong 3 cõi, giáo hóa chúng sinh. Thứ hai là ông trưởng giả thấy biết lửa [đang cháy nhà], thí dụ như Phật dùng Phật nhãn thấy rõ chúng sinh [khổ đau] trong 6 đường. Thứ ba là ông trưởng giả [nghĩ cách] cứu [các con ra khỏi nhà] lửa cháy, thí dụ như đức Phật [sau khi thành đạo] trong 21 ngày [suy nghĩ] muốn hóa độ chúng sinh nhưng không thể vận dụng Đại thừa. Thứ tư nêu việc ông trưởng giả dùng phương tiện dẫn dụ [các con] bằng 3 loại xe, thí dụ như đức Phật phương tiện tạm thuyết giáo pháp ba thừa. Thứ năm nêu việc ông trưởng giả ban cho [tất cả các con cùng] một loại một xe lớn, thí dụ như Phật việc thuyết kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Thứ sáu [nêu việc ông trưởng giả dẫn dụ cứu thoát các con] thí dụ như Phật thuyết pháp không hư dối.
[Phần kệ tụng ở đây dẫn khởi] thí dụ căn nhà bốc cháy [trong phẩm Thí Dụ ở phần sau, có 10 nghĩa dẫn khởi cho] 10 thí dụ.
Thứ nhất, từ câu “Nay ta cũng như vậy” trở đi gồm 2 khổ kệ, tụng lại tổng quát cả hai ý nghĩa về quyền và thật trong phần văn trường hàng ở trên và nêu ý nghĩa dẫn khởi chung cho các thí dụ [trong phẩm Thí Dụ].
Thứ hai, từ câu “Xá-lợi-phất nên biết” trở đi gồm 4 khổ kệ, tụng lại ý nghĩa về 5 sự uế trược trong văn trường hàng phần trên, là ý nghĩa dẫn khởi cho thí dụ thấy lửa [cháy nhà].
Thứ ba là từ câu “Ban sơ ngồi đạo trường”, gồm 6 khổ rưỡi kệ, nêu rõ nghĩa không thể dùng Đại thừa để giáo hóa chúng sinh [nhiều tham đắm, si mê]. Đây là ý nghĩa dẫn khởi cho thí dụ [ông trưởng giả muốn] cứu các con [ra khỏi nhà đang cháy] mà không thể được.
Thứ tư, từ câu “Liền nhớ Phật quá khứ” trở đi gồm 11 khổ kệ, nêu rõ ý nghĩa [vận dụng] ba thừa có thể giáo hóa được [chúng sanh], đồng thời là ý nghĩa dẫn khởi cho thí dụ [ông trưởng giả] cứu được các con thoát [ra khỏi căn nhà đang cháy].
Thứ năm, từ câu “Xá-lợi-phất nên biết! Ta thấy những Phật tử...” gồm 1 khổ kệ, nêu rõ sự phát khởi căn cơ Đại thừa, cũng là ý nghĩa dẫn khởi cho thí dụ [ông trưởng giả] nhìn thấy các con đã thoát nạn.
Thứ sáu, từ câu “Đều khởi tâm cung kính” trở đi gồm 1 khổ kệ, nêu rõ ý nghĩa [người đã nghe giáo pháp] ba thừa tìm cầu quả vị, cũng là ý nghĩa dẫn khởi cho thí dụ các con [của ông trưởng giả] đòi hỏi [cha ban] cho xe.
Thứ bảy, từ câu “Ta liền suy nghĩ rằng” trở đi gồm 2 khổ kệ thêm một câu, nêu rõ sự hoan hỷ của Như Lai, là ý nghĩa dẫn khởi cho thí dụ ông trưởng giả hoan hỷ [thấy các con thoát nạn].
Thứ tám, từ câu “Nay giữa chúng Bồ Tát” trở đi gồm 3 câu, nêu rõ việc [Phật vì đại chúng] thuyết giảng Đại thừa, là ý nghĩa dẫn khởi cho thí dụ [ông trưởng giả] cho các con [cùng một loại] xe lớn.
Thứ chín, từ câu “Bồ Tát nghe pháp này” trở đi gồm 1 khổ kệ,[16] nêu rõ việc chúng sinh hoan hỷ [được nghe pháp], là ý nghĩa dẫn khởi cho thí dụ các con [của ông trưởng giả] đều vui mừng [vì được xe lớn].
Thứ mười, từ câu “Các ông chớ hoài nghi” trở đi, gồm 1 khổ rưỡi kệ, nêu rõ ý nghĩa lời Phật dạy không hư dối, là ý nghĩa dẫn khởi thí dụ ông trưởng giả không dối gạt [các con].
Có người bàn luận rằng, nếu phân chia theo câu thì có 19 câu,[17] nhưng nếu phân chia theo ý nghĩa thì có 6 nghĩa. Thứ nhất là nêu nghĩa tổng quát; thứ hai là [trưởng giả] thấy lửa [cháy nhà, ví như đức Phật nhìn thấy chúng sinh chịu hiểm nạn trong 6 đường]; thứ ba là [Phật biết dùng] Nhất thừa không thể giáo hóa [chúng sinh, giống như ông trưởng giả không thể bảo các con ra khỏi nhà lửa]; thứ tư là [Phật biết dùng] ba thừa [phương tiện] có thể giáo hóa [chúng sinh, giống như ông trưởng giả dùng 3 loại xe dẫn dụ được các con ra khỏi nhà lửa]; thứ năm là [Phật] trở lại thuyết pháp Nhất thừa, [giống như ông trưởng giả dùng duy nhất một loại xe lớn ban cho các con]; và thứ sáu là lời Phật dạy không hư dối, [giống như ông trưởng giả không dối gạt các con]. Tất cả các phần khác đều có thể thu vào trong sáu ý nghĩa này.
Lại nếu xét theo 10 [ý nghĩa dẫn khởi đến 10] thí dụ [như vừa nói trước] thì có nhiều điểm sai biệt giữa phần nói pháp [trong phẩm này] và phần thí dụ [ở phẩm sau].
Trong phần nói pháp [thì nghĩa] tìm cầu quả vị đặt trước, đức Phật hoan hỷ nói sau, nhưng trong phần thí dụ thì nói ông trưởng giả vui mừng trước, các con đòi cho xe nói sau. [Như vậy,] tuy muốn nối kết hai phần thông nhau nhưng cuối cùng lại thành ra cách biệt rất xa.
Lại nữa, [xét trong hai phần] thì ý nghĩa lớn nhỏ trái ngược nhau. Trong phần nói pháp thì [Phật] thấy căn cơ Đại thừa phát khởi nên hoan hỷ, còn trong phần thí dụ thì ông trưởng giả chỉ do duyên nhỏ [là thấy các con] thoát nạn mà vui mừng.
Phần nói pháp làm rõ nhân Đại [thừa], phần thí dụ chỉ nêu quả nhỏ nhoi. Phần nói pháp nêu sự che chướng Đại [thừa] sắp bị phá đổ, phần thí dụ chỉ nói tai nạn nhỏ nhoi vừa thoát ra được. [Như vậy,] ý nghĩa và tác động [của các vấn đề] đều trái nghịch nhau.
Lại [xét nghĩa] có và không cũng khác biệt nhau. Trong phần nói pháp trình bày những bậc thượng căn dễ dàng giác ngộ nên không có việc [tương đương với các con trưởng giả] đòi xe, trong phần thí dụ thì nói hạng trung căn do mê hoặc nên mới có thí dụ [các con trưởng giả] đòi xe. Nếu dẫn sự cung kính [của hàng Phật tử] mà cho là [tương đương với] việc đòi xe thì hoàn toàn khác biệt, không phù hợp với ý của kinh văn.
Nay không nói đến 4 lỗi như trên,[18] nhưng xét theo chỗ có và không thì trong phần văn trường hàng có 5 nghĩa: thứ nhất là trừ bỏ ba thừa, thứ hai là hiển bày Nhất thừa, thứ ba là nêu 5 sự uế trược [che chướng], thứ tư là [phân biệt] chân ngụy và thứ năm là [xác quyết lời Phật dạy] không hư dối. Trong phần kệ tụng cũng có 5 nghĩa, chỉ khác là trong văn trường hàng có [nghĩa phân biệt] chân ngụy, trong kệ tụng thì không có; trong kệ tụng có nghĩa xưng tán pháp, trong văn trường hàng thì không có. Đó là xen lẫn hỗ tương cho nhau để trình bày [đầy đủ nghĩa].
Xét về thứ tự thì trong văn trường hàng trước nói việc trừ bỏ ba thừa, sau mới nói hiển bày Nhất thừa, trong phần kệ thì trước nói hiển bày Nhất thừa, sau mới nói trừ bỏ ba thừa.
Xét về nghĩa khai hợp, [thứ nhất] là khai mở ba thừa, kết lại hiển bày Nhất thừa, [nghĩa này] dẫn khởi cho thí dụ tổng quát [trong phẩm Thí Dụ]. Thứ hai là trong phần kệ [chỉ có nghĩa] kết lại mà không nói nghĩa khai mở. Kế tiếp là phần văn nói nghĩa lìa 5 sự uế trược, dẫn khởi cho 4 thí dụ trong phần sau, nói nghĩa khai mở mà không kết lại. Nghĩa không hư dối là dẫn khởi cho thí dụ không hư dối. Nghĩa chẳng hợp chẳng khai là làm rõ chỗ nắm giữ hay buông bỏ. Kinh văn có 4 đoạn là dẫn khởi cho 6 thí dụ [trong phần sau], nói nghĩa chấp giữ không buông. Phần xưng tán pháp không thuộc về 6 thí dụ nên nói nghĩa buông mà không giữ.
Luận về nghĩa chung hay riêng thì phần đầu nói trừ bỏ ba thừa, hiển bày Nhất thừa là nói chung việc Đức Thích-ca chỉ giáo hóa bằng 1 pháp môn. Từ phần nói về 5 sự uế trược trở đi thì đều là thí dụ nói riêng [từng ý nghĩa].
Kế đến [luận về] bản tích, phần tổng quát nêu giáo pháp của Phật bao gồm cả hai nghĩa bản, tích. Từ phần nói về năm sự uế trược trở đi là nói riêng từng nghĩa bản, tích. Riêng phần nói về 5 sự uế trược chính là nêu rõ [nghĩa Phật] trụ nơi pháp thân là bản, nhìn thấy chúng sinh khổ đau mà khởi tâm đại bi. Từ phần nói nghĩa không thể dùng Nhất thừa giáo hóa [chúng sanh] là nói [Phật] thương xót biểu hiện hình tích. Đại lược là như vậy.
Nay cho rằng ý chính của tích môn là trừ bỏ ba thừa, hiển bày Nhất thừa. Phần trước thuyết pháp chỉ thẳng, bậc thượng căn liền tỏ ngộ, hàng trung căn và hạ căn thì chưa hiểu, nên sau đó [Phật] vì họ mà nói các thí dụ. Từ thí dụ ba [xe như ba thừa] và một [xe như Nhất thừa] khiến cho [thính chúng] được hiểu rõ.
Phần trước thuyết chánh pháp đã có đủ nói lược và nói rộng về nghĩa trừ bỏ ba thừa, hiển bày Nhất thừa, phần sau thuyết thí dụ cũng đủ nghĩa nói lược và nói rộng việc [ông trưởng giả] hứa hẹn 3 [loại xe] rồi ban cho chỉ 1 [loại xe lớn]. [Lần thứ ba] thuyết nhân duyên cũng dẫn dắt từ ba thừa về Nhất thừa.
Nếu theo những cách giải thích [như trên để hiểu] phần thí dụ có 3 ý, 6 ý hay 10 ý[19] thì không phù hợp với nghĩa 3 lần [thuyết pháp][20] trong kinh văn, cũng sai lệch với chỗ tin hiểu của 4 vị [Đại Thanh văn[21] trong phẩm Tin hiểu], do vậy ở đây không dùng đến.
Nay giảng rõ trong tổng phần thứ hai này nói về đức Phật Thích-ca, chia làm 2 phần.
- Phần thứ nhất từ câu “Nay ta cũng như vậy” trở đi gồm 2 khổ kệ, lược tụng lại ý nghĩa về quyền và thật trong phần kinh văn trường hàng, làm nghĩa dẫn khởi cho thí dụ tổng quát [trong phẩm Thí Dụ].
- Phần thứ hai từ câu “Xá-lợi-phất nên biết, ta dùng Phật nhãn quán” trở đi gồm có 41 khổ rưỡi kệ, tụng rộng về 6 nghĩa trong văn trường hàng ở trước, làm nghĩa dẫn khởi cho các thí dụ riêng biệt [trong phẩm Thí Dụ].
Lược nói trong phần thứ nhất có 6 ý, có thể là dẫn khởi cho 6 ý nghĩa trong phần thí dụ tổng quát [của phẩm Thí Dụ].
KINH VĂN
Nay ta cũng như vậy,
Vì giúp chúng an ổn,
Dùng đủ mọi pháp môn,
Để chỉ bày Phật đạo.
Ta dùng sức trí tuệ,
Biết lòng dục chúng sinh,
Phương tiện giảng các pháp,
Khiến cho đều hoan hỷ.
Phần thứ nhất, kệ nói “Nay ta cũng như vậy”, “ta” ở đây là đức Phật Thích-ca, tức là bậc chủ trì giáo hóa, là dẫn khởi cho phần thí dụ “có ông đại trưởng giả” [trong phẩm Thí Dụ].
[Lời kệ nói “vì giúp chúng an ổn”,] “an ổn” ở đây là Đại Niết-bàn, là trụ xứ thường an vui. Trụ xứ này yên tĩnh vắng lặng, không bị che chướng bởi năm sự uế trược cho nên gọi là an ổn. An ổn là trái ngược với không an ổn. Không an ổn tức là chốn sinh tử trong ba cõi, nơi [chư Phật] thi hành giáo hóa. Vì có 5 sự uế trược che chướng nên nói là không an ổn, tức là dẫn khởi cho thí dụ căn nhà đang cháy [trong phẩm Thí Dụ]. “Chúng” là nói chúng sinh được giáo hóa trong 5 đường,[22] là dẫn khởi cho thí dụ 500 người [trong phẩm Thí Dụ].
Lại nữa, an ổn là pháp an ổn, đối lại với pháp không an ổn. Pháp không an ổn là 5 uế trược, là dẫn khởi cho thí dụ lửa bốc lên cháy [nhà trong phẩm Thí Dụ].
Lời kệ nói “Dùng đủ mọi pháp môn” tức là trái với không có đủ loại, là dẫn khởi cho thí dụ [căn nhà] chỉ có 1 cửa [trong phẩm Thí Dụ].
Kệ nói “Biết lòng dục chúng sanh” tức là [biết] căn tánh của chúng sinh trong 5 đường có 3 ba thừa sai biệt, là dẫn khởi cho thí dụ 30 người con [trong phẩm Thí Dụ]. [Từ câu này] về trước là nói lược ý nghĩa, [từ câu này] trở đi là dẫn khởi cho thí dụ tổng quát [trong phẩm Thí Dụ].
[Như vậy là] trước sau có sự hỗ tương thừa tiếp, ý nghĩa kinh văn mạch lạc đầy đủ. Trong phần thí dụ lại còn dẫn [kinh văn] ở trước để chứng minh ý nghĩa về sau. Đại lược là như vậy.
KINH VĂN
Xá-lợi-phất nên biết!
Ta dùng Phật nhãn quán,
Thấy chúng sinh sáu đường,
Nghèo khốn, không phước trí,
Vào đường hiểm sinh tử,
Khổ triền miên không dứt,
Bám chấp năm món dục,
Như bò thích đuôi bò,
Tham ái tự che lấp,
Mê tối chẳng thấy gì.
Không cầu oai lực Phật,
Dứt trừ các pháp khổ,
Vào sâu rừng tà kiến,
Muốn dùng khổ dứt khổ.
Vì những chúng sinh ấy,
Ta khởi tâm đại bi.
Phần [thứ hai] tụng rộng 6 ý nghĩa [trong văn trường hàng], có thể chia làm 4 tổng đoạn, là nghĩa dẫn khởi cho các thí dụ riêng biệt [trong phẩm Thí Dụ].
- Tổng đoạn thứ nhất là từ câu “Xá-lợi-phất nên biết, ta dùng Phật nhãn quán” trở đi gồm 4 khổ kệ,[23] tụng rộng ý nghĩa về 5 sự uế trược trong văn trường hàng và dẫn khởi cho thí dụ [ông trưởng giả] nhìn thấy lửa [cháy nhà] trong phần sau.
- Tổng đoạn thứ hai là từ câu “ban sơ ngồi đạo tràng” trở đi, gồm 17 khổ rưỡi kệ, tụng rộng ý nghĩa từ nơi Nhất thừa mở bày ra ba thừa trong văn trường hàng ở trên, làm nghĩa dẫn khởi cho thí dụ [ông trưởng giả] không dùng sức mạnh mà bày ra việc hứa hẹn cho [xe nhỏ đồ chơi trong phẩm Thí Dụ].
- Tổng đoạn thứ ba là từ câu “Xá-lợi-phất nên biết, ta thấy những Phật tử” trở đi gồm 6 khổ kệ,[24] tụng rộng ý nghĩa hiển bày chân thật trong văn trường hàng ở trên, là ý nghĩa dẫn khởi thí dụ [ông trưởng giả] ban cho [các con cùng một loại] xe lớn [trong phẩm Thí Dụ].
- Tổng đoạn thứ tư là từ câu “Như nghi thức thuyết pháp, của ba đời chư Phật” trở đi gồm 5 khổ rưỡi kệ, tụng rộng ý nghĩa xưng tán chánh pháp hy hữu trong phần văn trường hàng. Tiếp theo có 2 khổ rưỡi kệ tụng lại ý nghĩa không hư dối. Kế tiếp nữa là 6 khổ kệ tụng lại ý nghĩa khuyến khích tin nhận. Cả 3 ý này hợp lại làm nghĩa dẫn khởi cho thí dụ [ông trưởng giả] không dối gạt [các con trong phẩm Thí Dụ].
Đại lược là như vậy, dưới đây sẽ phân chia chi tiết hơn.
Tổng đoạn thứ nhất tụng về 5 sự uế trược chia thành 3 đoạn.
Đoạn thứ nhất có nửa khổ kệ và 1 chữ [thấy], nêu rõ chỗ quán sát, nhìn thấy của Phật nhãn, làm nghĩa dẫn khởi cho thí dụ ông trưởng giả thấy được [lửa bốc lên cháy nhà trong phẩm Thí Dụ].
Đoạn thứ hai từ [4 chữ] “chúng sinh sáu đường” trở đi gồm 4 chữ và 2 khổ kệ thêm 3 câu, nêu rõ chỗ thấy [của Phật] về 5 sự uế trược, làm nghĩa dẫn khởi cho thí dụ [ông trưởng giả] thấy lửa [bốc lên cháy nhà trong phẩm Thí Dụ].
Đoạn thứ ba từ câu “vì những chúng sinh ấy” trở đi có nửa khổ kệ, nêu rõ việc [đức Phật] khởi tâm đại bi, làm ý nghĩa dẫn khởi cho thí dụ ông trưởng giả kinh sợ trong nhà lửa [vì lo cho các con].
Tổng đoạn thứ hai từ câu “Ban sơ ngồi đạo trường” trở đi, nếu dùng nghĩa mở bày ba thừa thì lại chia thành 2 đoạn.
Đoạn thứ nhất có 6 khổ rưỡi kệ, [Phật] suy nghĩ việc dùng Đại thừa giáo hóa [chúng sanh] không thể được, làm nghĩa dẫn khởi cho thí dụ [ông trưởng giả] tuy tự thân có sức mạnh nhưng không dùng đến.
Đoạn thứ hai từ câu “Liền nhớ Phật quá khứ” trở đi có 11 khổ kệ, [Phật] suy nghĩ giống như chư Phật quá khứ, nên dùng ba thừa để giáo hóa [chúng sanh], làm nghĩa dẫn khởi cho thí dụ [ông trưởng giả] bày ra 3 xe hứa cho [các con].
Tổng đoạn thứ ba tụng lại ý nghĩa hiển bày lẽ thật [trong văn trường hàng], lại chia thành 4 đoạn.
Đoạn thứ nhất từ câu “Xá-lợi-phất nên biết, ta thấy những Phật tử” trở đi, gồm 2 khổ kệ, nêu rõ việc phát khởi căn cơ Đại thừa, làm nghĩa dẫn khởi cho thí dụ [các con ông trưởng giả] xin được ban cho xe [như đã hứa].
Đoạn thứ hai từ câu “Ta liền suy nghĩ rằng” trở đi gồm 2 khổ kệ và 1 câu, nêu rõ việc Phật hoan hỷ, làm nghĩa dẫn khởi cho thí dụ [ông trưởng giả] thấy các con thoát nạn [trong lòng vui mừng].
Đoạn thứ ba từ câu “nay giữa chúng Bồ Tát” trở đi gồm 3 câu kệ, chính thức hiển bày pháp chân thật, làm nghĩa dẫn khởi cho thí dụ [ông trưởng giả] ban cho [các con] cùng một loại xe lớn.
Đoạn thứ tư từ câu “Bồ Tát nghe pháp này” trở đi gồm 1 khổ kệ nêu rõ việc [hàng Bồ Tát] thọ nhận [chánh pháp] tu hành tỏ ngộ và thể nhập [tri kiến Phật], làm nghĩa dẫn khởi cho thí dụ các con [của ông trưởng giả mỗi người] đều được một cỗ xe lớn nên hoan hỷ.
Phần tụng lại ý nghĩa [lời Phật] không hư dối trong văn trường hàng, làm nghĩa dẫn khởi cho thí dụ [ông trưởng giả] không dối gạt [các con]. [Phần này chỉ có một ý,] không bàn việc phân chia.
Lại nữa, nếu phân chia các phần lớn tức là dẫn khởi cho 3 thí dụ [ở phần sau].
Trước hết từ câu “Nay ta cũng như vậy, vì giúp chúng an ổn” trở đi gồm 2 khổ kệ, [nói nghĩa] hợp lại không lìa bỏ, làm nghĩa dẫn khởi cho thí dụ tổng quát.
Thứ hai là từ câu “Xá-lợi-phất nên biết, ta dùng Phật nhãn quán” trở đi [gồm 3 khổ rưỡi kệ, nói nghĩa nên] lìa bỏ không hợp lại, làm nghĩa dẫn khởi cho các thí dụ riêng biệt [trong phẩm Thí Dụ].
Thứ ba là [từ câu “vì những chúng sinh ấy” gồm nửa khổ kệ nói nghĩa] không hư dối, không lìa bỏ cũng không hợp lại, làm nghĩa dẫn khởi cho thí dụ [ông trưởng giả không dối gạt các con trong phẩm Thí Dụ].
[Như vậy,] nếu nương theo nghĩa phần trên làm chỗ dẫn khởi cho phần dưới, kệ tụng có đủ hai phần nói lược và nói rộng thì ý nghĩa thông suốt cả ba vòng thuyết pháp cũng như trong phẩm Tin hiểu, văn và nghĩa đều không khiếm khuyết.
Nếu riêng theo phần tụng rộng thì có thể chia ra 4 ý, tụng lại 4 nghĩa trong văn trường hàng ở trước, làm nghĩa dẫn khởi cho 4 thí dụ [trong phẩm Thí Dụ], như vậy cũng thông suốt cả 3 vòng thuyết pháp cùng ý nghĩa trong phẩm Tin hiểu, văn và nghĩa đều không khiếm khuyết.
Nếu lại phân chia phần tụng về 5 sự uế trược thành 3 ý, phần tụng nghĩa phương tiện thành 2 ý, phần tụng hiển bày chân thật thành 4 ý, [phần tụng nghĩa] không hư dối chỉ 1 ý, tất cả hợp thành 10 ý, làm nghĩa dẫn khởi cho 10 thí dụ trong phẩm Thí Dụ thì 10 ý này chỉ phù hợp với 2 vòng thuyết chánh pháp và thuyết thí dụ, còn so với nghĩa trong phẩm Tin hiểu cùng việc thuyết nhân duyên thì văn lại khiếm khuyết.
Cho nên, việc phân chia thành 3 phần với các ý như trên là nương theo phần trước làm dẫn khởi cho phần sau, hoàn toàn không phải là tùy tiện không thú hướng.
[Thứ nhất là] phần kệ tụng nói lược thì trước có 1 khổ kệ, tụng lại nghĩa hiển bày chân thật, sau cũng 1 khổ kệ tụng lại nghĩa khai mở quyền biến, [đều là nghĩa trong văn trường hàng bên trên]. Phần kinh văn này tuy ngắn nhưng nêu đầy đủ nghĩa tứ nhất.[25]
“Nay ta cũng như vậy”, là giống như chư Phật ở điểm này, đều dùng một [Phật thừa] chân thật để giáo hóa chúng sinh. Câu này tụng lại tổng quát về nghĩa hiển bày chân thật.
[“Vì giúp chúng an ổn”,] nói an ổn thì [chỉ có] tạng bí mật Niết-bàn là nơi an ổn. Chư Phật tự mình an trụ trong đó, lại cũng giúp cho chúng sinh được thể nhập vào tạng bí mật ấy.
Nói chỗ “an ổn” tức là tụng nghĩa lý nhất. Nói đến “chúng” tức là tụng nghĩa nhân nhất. “Dùng đủ mọi pháp môn, để chỉ bày Phật đạo” tức là tụng nghĩa hành nhất. “Chỉ bày” tức là nghĩa giáo nhất.
“Ta dùng sức trí tuệ” tức là nói trí tuệ quyền biến phương tiện. “Biết lòng dục chúng sanh” là soi chiếu thấu rõ căn cơ Tiểu thừa. “Phương tiện giảng các pháp” là tạm bày các pháp quyền biến phương tiện. “Khiến cho đều hoan hỷ” là [chỉ bày dẫn dắt] tùy căn cơ thích hợp.
Hai khổ kệ này tuy nói lược nhưng thu tóm được một đường hướng giáo hóa chung của chư Phật, từ mở bày quyền biến cho đến hiển bày chân thật, thấu suốt ngọn nguồn rõ thông kết quả, hết thảy không có gì là không bao quát. Cho nên nói rằng phần lược tụng này là dẫn khởi cho thí dụ tổng quát [trong phẩm Thí Dụ].
Thứ hai là từ câu “Xá-lợi-phất nên biết, ta dùng Phật nhãn quán” trở đi, gồm 41 khổ rưỡi kệ, rộng tụng 6 nghĩa[26] trong văn trường hàng ở trước. Các nhà cựu giải cho rằng 7 khổ kệ sau cùng [trong đoạn này] là thuộc phần lưu thông. Nay không dùng cách giải thích đó mà xem đây là phần xưng tán chánh pháp để khuyến khích lòng tin.
- Tổng đoạn thứ nhất có 4 khổ kệ, tụng lại ý nghĩa về 5 sự uế trược và [quyền biến] khai mở ba thừa trong văn trường hàng.
- Tổng đoạn thứ hai tiếp theo có 17 khổ rưỡi kệ, tụng lại ý nghĩa [Phật] bày ra các phương tiện giáo hóa trong văn trường hàng.
- Tổng đoạn thứ ba có tiếp theo có 6 khổ kệ tụng lại ý nghĩa hiển bày lẽ thật trong văn trường hàng.
- Tổng đoạn thứ tư có 5 khổ rưỡi kệ, tụng lại ý nghĩa xưng tán chánh pháp hy hữu trong văn trường hàng. Tuy trong phần nói về Phật Thích-ca không có nghĩa này, nhưng đây là chỉ đến phần nói về chư Phật.
- Tổng đoạn thứ năm gồm 2 khổ rưỡi kệ, tụng lại ý nghĩa không hư dối trong văn trường hàng.
- Tổng đoạn thứ sáu gồm 6 khổ kệ, tụng lại ý nghĩa khuyến khích lòng tin trong văn trường hàng.[27]
[Nay bắt đầu nói về] 4 khổ kệ đầu tiên, tụng lại ý nghĩa về 5 sự uế trược. Phần văn trường hàng ở trên có 4 phần: nêu số, kể tên, hiện thể và kết thích; nay trong phần kệ chỉ có 3 phần là nêu số, kể tên và hiện thể. Văn trường hàng nói vì 5 sự uế trược [che chướng] nên phải thuyết ba thừa, nay trong kệ tụng nói vì 5 sự uế trược nên [Phật] xuất thế. [Phật] xuất thế vốn là để thuyết giảng Đại thừa, nhưng do [chúng sinh bị] che chướng không thể tiếp nhận được nên trước tiên phải [tạm] thuyết Tiểu thừa.
Tổng đoạn này lại chia làm 3 đoạn.
- Đoạn thứ nhất có 11 chữ,[28] nêu rõ việc Phật có [Phật nhãn] có năng lực nhìn thấy.
- Đoạn thứ thứ hai từ “chúng sinh sáu đường” trở đi gồm 4 chữ và 2 khổ kệ cộng thêm 3 câu, nêu rõ 5 sự uế trược Phật nhìn thấy.
- Đoạn thứ thứ 3 từ “vì những chúng sinh ấy” trở đi gồm nửa khổ kệ, nêu rõ việc [Phật] khởi tâm đại bi để ứng cứu [chúng sanh].
Đoạn thứ nhất có 11 chữ, [trong đó nói] “ta dùng Phật nhãn quán thấy”, [tương ứng với] kinh văn [trong phẩm Thí Dụ] ở phần sau nói “ông trưởng giả đứng bên ngoài cửa”. Đây là nêu văn phần sau để chứng minh phần trước, nên biết rằng Phật an trụ nơi pháp thân, dùng Phật nhãn thường vắng lặng để soi chiếu khắp thảy căn cơ [chúng sanh]. Nếu thấy [chúng sanh] căn tánh lanh lợi, uế trược [che chướng] nhẹ thì hiện hình tượng Phật Lô-xá-na[29] để thuyết pháp Nhất thừa. Nếu thấy [chúng sanh] căn tánh ngu độn, uế trược [che chướng] nặng nề thì cởi bỏ chuỗi anh lạc, dùng hình tượng vị tỳ-kheo già,[30] kinh sợ [trước nỗi khổ của chúng sanh] mà đi vào trong nhà lửa [ba cõi], dùng phương tiện khai mở ba thừa. Tùy thời quán chiếu xem xét rõ biết căn cơ, cho nên nói “ta dùng Phật nhãn quán thấy”.
[Hỏi:] Nếu quán các pháp hình sắc thì nên dùng thiên nhãn, nếu để phân biệt căn cơ thì nên dùng pháp nhãn, vì sao lại nói dùng Phật nhãn để thấy?
[Đáp:] Vì Phật nhãn trọn vẹn thông suốt, nên nêu chỗ thù thắng nhất thì đã bao gồm hết những điều kém hơn. Lại nữa, hết thảy các loại nhục nhãn, thiên nhãn, tuệ nhãn, pháp nhãn khi ở nơi Phật thì đều gọi chung là Phật nhãn. Đại lược là như vậy.
Đoạn thứ hai từ “sáu đường chúng sanh” trở đi, có 4 chữ và 2 khổ kệ cộng thêm 3 câu, nêu rõ chỗ thấy [của Phật] về năm sự uế trược. Câu “sáu đường chúng sinh, nghèo khốn, không phước trí”[31] là nói về chúng sinh trược. “vào đường hiểm sinh tử, khổ triền miên không dứt” là nói về mạng trược. Từ câu “bám chấp năm món dục” trở đi gồm 1 khổ kệ là nói về phiền não trược. “Không cầu oai lực Phật, dứt trừ các pháp khổ” là nói về kiếp trược. “Vào sâu rừng tà kiến, muốn dùng khổ dứt khổ” là nói về kiến trược.
[Do tà kiến nên muốn dùng khổ để dứt khổ,] như có người nói, [đó là] dùng 5 loại sức nóng tự nung đốt thân thể để mong thoát khổ,[32] nhưng ngược lại [đã không thoát khổ] còn bị khổ báo. Hoặc nói rằng các tà kiến đều dẫn đến cảm thọ, cảm thọ tức là khổ. Thực hành nhân khổ [như vậy] mà mong muốn được dứt khổ, làm sao có thể được?
Kinh Phổ Diệu nói: “Nói về nguyên do sinh vào 5 đường thì giữ theo 5 giới sinh vào cõi người, thực hành 10 nghiệp lành sinh lên cõi trời, tham lam keo kiệt đọa vào cảnh giới ngạ quỷ, hung hăng đấu đá thì đọa làm súc sinh, tạo 10 nghiệp ác thì đọa vào địa ngục. Nếu không phải sinh trong 5 đường, không có 5 ấm, 6 pháp suy hao,[33] đó tức là Niết-bàn.”[34] Chẳng ở trong sinh tử cũng chẳng trụ nơi Niết-bàn, ngay đó liền quyết định thọ nhận Bồ-đề.
Luận A-tỳ-đàm Tỳ-bà-sa, quyển 7 nói: Người đọa vào địa ngục, khi vừa mới sinh ra liền nghĩ rằng: “Trước đây ta nghe các vị sa-môn nói rằng, tham dục là lỗi xấu ác phải sinh vào địa ngục rất đáng sợ. Ta ngày trước không dứt trừ được tham dục nên nay phải chịu sự khổ não kinh khủng này.” Ở đây nêu rõ tham dục là nguyên nhân sinh vào địa ngục.
Lại nói rằng, trong 5 đường, mỗi nơi đều tự có pháp riêng. Như ở địa ngục thì hình sắc vừa dứt đoạn liền lập tức tiếp nối trở lại.[35] Trong loài súc sinh có những loài có thể bay trên không trung.[36] Trong cảnh giới ngạ quỷ, vào những khi [có người cúng thí] thì có thể đến trong cõi người [để thọ nhận]. Trong cõi người có những người dũng mãnh tài ba, có sức nhớ nghĩ, có hạnh thanh tịnh. Dũng mãnh tài ba là nói người chưa nhìn thấy quả [lành] mà vẫn có thể rộng tu nhân [hiền thiện]. Có sức nhớ nghĩ là những việc đã làm từ rất lâu xa có thể nhớ lại. Có hạnh thanh tịnh là có khả năng đạt các quả vị giải thoát, Thanh văn, Duyên giác, Sơ quả Bồ Tát.[37] Trong cõi trời thì [chư thiên] có khả năng tự nhiên có được những thứ cần dùng tùy ý muốn. Đại lược là như vậy.
Trong địa ngục [có những chúng sanh] thành tựu nghiệp phiền não cho đến nghiệp thiện của cõi trời Tha hóa Tự tại, nhưng các nghiệp ấy không tức thời hiện hành. Nơi cõi trời Tha hóa Tự tại [cũng có chư thiên] tạo tác các nghiệp phiền não cho đến nghiệp bất thiện cõi địa ngục, nhưng các nghiệp ấy không tức thời hiện hành. Chỉ nêu cõi trên cao nhất và cõi bên dưới thấp nhất, những cõi khác ở khoảng giữa do đó có thể suy ra biết được.
Địa ngục là tên gọi ở Trung Hoa, người Ấn Độ gọi là nê-lê (niraya), Hán dịch là vô hữu (無有), vì ở cảnh giới này không có sự hoan hỷ, không có mùi vị, không có mừng vui, không có lợi ích... cho nên gọi là vô hữu (không có); hoặc cũng nói là thấp hèn, cũng nói là đọa lạc, vì [khi vào địa ngục thì] thân trung ấm bị treo ngược, các căn đều bị hủy hoại. Hoặc nói “không” có nghĩa là không có nơi nào [trong địa ngục mà tội nhân] được ân xá, tha thứ. Do ngục tốt biến hóa làm cho thấy như không phải chúng sinh [hữu tình].[38] Thoạt tiên tội nhân bị trói dẫn đến chỗ Diêm vương thì vẫn còn là chúng sinh, đến khi chịu khổ [trong địa ngục] thì không còn tính là chúng sinh. Ban đầu vừa giải đến như vậy còn có thể nói năng biện bạch, đến khi thọ khổ [trong địa ngục] thì cho đến tiếng kêu đau đớn cũng không còn có thể phân biệt.[39]
Loài súc sinh, do hình thể không ngay, dáng đi không ngay nên gọi là súc sinh.[40] Lại nữa súc sinh còn gọi là biến hữu (có khắp), là nói có khắp trong năm đường. Trên các cõi Tứ vương thiên và cõi trời Tam thập tam đều có [súc sanh], nhưng các loài voi ngựa để cưỡi trên cõi trời đều là do phước nghiệp hóa sinh, cho nên không tính đó là chúng sinh. Lại nữa, súc sinh còn gọi là tối tăm mù mịt. Tối tăm mù mịt nghĩa là do nhiều phần vô minh, cho nên gọi là súc sinh.
[Chúng sinh vào thời] kiếp sơ đều có thể hiểu rõ [và dùng] ngôn ngữ của bậc thánh, dần dần về sau do ăn uống mà thay đổi khác đi. Do tâm siểm nịnh gian trá nên tiếng nói biến đổi [như tiếng người], hoặc không biết nói [như các loài súc sanh].
Loài quỷ, tiếng Phạn gọi là xà-lê-đa (preta), người nhà Tần gọi là “tổ phụ”, vì chúng sinh thuở ban sơ sinh vào cảnh giới quỷ nên gọi [quỷ] là tổ phụ,[41] loài quỷ sinh ra về sau [do đó] cũng gọi là tổ phụ.
Lại nữa, [chúng sanh] do keo kiệt tham lam nên bị đọa vào cảnh giới này, là nơi phải chịu nhiều sự đói khát, cho nên gọi là ngạ quỷ (quỷ đói). Lại cũng chịu sự sai khiến của chư thiên, thường hy vọng mong mỏi có được đồ ăn thức uống, cho nên gọi là ngạ quỷ.
Loài người, tiếng Phạn gọi là ma-nô-xà (manuṣya), Hán dịch là ý (意). Thuở xưa vua Đỉnh Sinh ban đầu dạy dỗ [con người] rằng mỗi khi làm việc gì [trước tiên] phải suy xét kỹ, phải trù lượng trước, phải thường nhớ nghĩ đến. [Con người] vâng theo lời dạy của vua nên mỗi khi làm việc gì đều có suy xét, trù lượng, nhớ nghĩ, do vậy nên con người, được gọi là “ý”.
Lại nữa, con người có thể ngăn dứt ý niệm, có thể tu theo chánh đạo đạt được các quả vị Thanh văn, Duyên giác...[42]
Lại nữa, người là “kiêu mạn”, vì trong năm đường [thì con người] nhiều kiêu mạn hơn cả cho nên gọi là cõi người.
Loài a-tu-la (asura), Hán dịch là phi thiên (chẳng phải trời), vì chữ “tu-la” có nghĩa là trời, chữ “a” là chẳng phải, không phải. Loài này chẳng phải chư thiên nên gọi là a-tu-la.
Lại nữa, tu-la là đoan chánh. Loài này không đoan chánh cho nên gọi là a-tu-la.
Lại nữa, tu-la là rượu, a là không. Loài này không uống rượu nên gọi là a-tu-la.
Thiên (trời) có nghĩa là thiên nhiên, tự nhiên thù thắng. Vì chư thiên có được khoái lạc thù thắng, thân hình thù thắng nên gọi là thắng. Tất cả mọi việc của chư thiên đều thù thắng, vượt hơn các cảnh giới khác [trong năm đường]. Lại thường dùng ánh sáng để tự chiếu sáng nên gọi là thiên.
Lại nữa, thiên là thiên nhiên, tự nhiên. Kinh A-hàm nói rằng: “Chúng sinh chỉ là tên gọi giả tạm, các cảnh giới là pháp. Năm đường chúng sinh cùng với pháp giới hòa hợp. Nếu chúng sinh làm việc xấu ác, tâm liền đi theo cảnh giới xấu ác. Nếu làm việc hiền thiện, tâm liền đi theo cảnh giới hiền thiện. Làm việc thù thắng thì tâm liền đi theo cảnh giới thù thắng, làm việc thấp hèn thì tâm đi theo cảnh giới thấp hèn. Cho nên vị tỳ-kheo phải học làm theo đủ mọi việc hiền thiện.”
Phần trên là dựa theo nhân duyên để giải thích về “chúng sinh sáu đường”.[43] Phần sau có vẻ như dùng nghĩa quán tâm để giải thích về sáu đường.
Đoạn thứ ba từ câu “vì những chúng sinh ấy” trở đi, nửa khổ kệ, nêu rõ việc [đức Phật] khởi tâm đại bi.
“Vì những chúng sinh ấy, ta khởi tâm đại bi”, đó là trước đã nêu khả năng nhìn thấy [của Phật nhãn], tiếp theo lại nói rõ những gì [đức Phật] nhìn thấy [trong sáu đường], đến đây thì do tâm đại bi [hun đúc nhiều đời nên] phải vào trong ba cõi thiết lập phương tiện dẫn dắt chúng sinh hướng theo trí tuệ Phật.[44]
KINH VĂN
Ban sơ ngồi đạo trường,
Ta nhìn cây, kinh hành,
Trong suốt hai mốt ngày,
Chỉ suy xét một việc:
Trí tuệ ta chứng đắc,
Thật vi diệu hơn hết.
Chúng sinh căn cơ thấp,
Tham đắm, nhiều si mê...
Những hạng chúng sinh này,
Làm sao có thể độ?
Khi ấy những Phạm vương,
Cùng các Thiên Đế thích,
Bốn Thiên vương Hộ thế,
Cùng Đại Tự tại thiên,
Và chúng chư thiên khác,
Quyến thuộc trăm ngàn vạn,
Cùng chắp tay cung kính,
Thỉnh Phật chuyển pháp luân.
Ta liền tự nghĩ rằng:
Nếu chỉ khen Phật thừa,
Chúng sinh chìm đắm khổ,
Không đủ sức tin nhận,
Sẽ chống phá, không tin,
Đọa sâu ba đường ác.
Ta không nên thuyết pháp,
Phải sớm nhập Niết-bàn.
Liền nhớ Phật quá khứ,
Từng dùng sức phương tiện.
Nay ta chứng chánh đạo,
Cũng nên thuyết ba thừa.
Khi ta nghĩ như vậy,
Mười phương Phật hiện ra,
Dùng Phạm âm khuyến khích:
“Lành thay! Phật Thích-ca,
Đấng Đạo sư bậc nhất,
Chứng pháp Vô thượng này,
Theo gương tất cả Phật,
Mà dùng sức phương tiện.
Chư Phật cũng chứng đắc,
Pháp vi diệu bậc nhất,
Nhưng cũng vì chúng sinh,
Phân biệt thuyết ba thừa.
Kém trí ưa pháp nhỏ,
Không tự tin thành Phật,
Nên phải dùng phương tiện,
Phân biệt các quả vị.
Tuy nói có ba thừa,
Chỉ giáo hóa Bồ Tát.”
Xá-lợi-phất nên biết!
Ta nghe tiếng chư Phật,
Thanh âm rất nhiệm mầu,
Liền vui cung kính Phật.
Rồi khởi lên ý nghĩ:
“Ta gặp đời uế trược,
Như lời chư Phật dạy,
Ta cũng thuận làm theo.”
Suy nghĩ như vậy rồi,
Liền đến Ba-la-nại.
Tướng các pháp vắng lặng,
Không thể dùng lời nói,
Phật dùng sức phương tiện,
Giảng cho năm tỳ-kheo.
Gọi là chuyển pháp luân,
Từ đó có Niết-bàn,
Lại có A-la-hán,
Có Pháp bảo, Tăng bảo.
Từ vô số kiếp xưa,
Ngợi khen pháp Niết-bàn,
Dứt hẳn khổ sinh tử,
Ta thường thuyết như vậy.
Tổng đoạn thứ hai từ câu “ban sơ ngồi đạo tràng” trở đi, có 17 khổ rưỡi kệ, nêu việc [đức Phật] mở bày phương tiện để giáo hóa [chúng sanh]. Phần này lại được chia thành hai đoạn.
- Đoạn thứ nhất gồm 6 khổ rưỡi kệ đầu tiên, nêu rõ việc [Phật suy] nghĩ biết rằng nếu dùng Đại thừa không giáo hóa được [chúng sanh].
- Đoạn thứ hai là từ câu “liền nhớ Phật quá khứ” trở đi là ý thứ hai, có 11 khổ kệ, nêu rõ việc [đức Phật] nhớ lại cũng giống như chư Phật quá khứ đều dùng ba thừa để giáo hóa, thích hợp [với chúng sanh] nên có thể được.
Đoạn thứ nhất nói việc [Phật nghĩ đến] dùng Đại thừa giáo hóa lại có thể chia thành 3 tiểu đoạn.
- Tiểu đoạn thứ nhất có 1 khổ rưỡi kệ, nêu việc [Phật] suy nghĩ có nên dùng Đại thừa giáo hóa hay không.
- Tiểu đoạn thứ hai từ câu “chúng sinh căn cơ thấp” trở đi có 3 khổ kệ, nói rõ việc chúng sinh [cõi này] không có căn cơ [Đại thừa].
- Tiểu đoạn thứ ba từ câu “ta liền tự nghĩ rằng” trở đi có 2 khổ kệ, nêu rõ việc [Phật] suy nghĩ từ bỏ không dùng Đại thừa giáo hóa [chúng sanh].
Tiểu đoạn thứ nhất, từ câu “ban sơ ngồi đạo tràng”, nếu nói theo lý rốt ráo thì không có, chỉ là giả lập thời gian để giáo hóa chúng sinh. Vì là thời điểm khởi đầu sự giáo hóa nên nói là “ban sơ”.
Giải thích về sự việc thì ban sơ [Phật] ở tại nơi này tu hành chứng đạo cho nên gọi là đạo tràng, ngồi dưới gốc cây này thành tựu Chánh giác cho nên gọi là đạo thọ.
[Kệ nói “ta nhìn cây, kinh hành”, đức Phật] cảm ơn cây [bồ-đề] nên ngồi đó nhìn cây, vì nghĩ đến ân đức của mặt đất nơi ấy nên đi kinh hành [quanh đó]. [Phật] thành đạo rồi, lúc ấy để đền đáp ân trạch nên muốn dùng giáo pháp Đại thừa, liền xét nghĩ đến sự thích hợp với chúng sinh.
Giải thích theo quán tâm thì cây là [biểu trưng cho] cây đại thọ 12 nhân duyên. [Phật] quán sâu lý duyên khởi nên tự mình thành tựu giác ngộ, muốn dùng rừng cây pháp vô lậu che mát, làm lợi ích cho chúng sinh, cho nên nói “ta nhìn cây”.
Nói “kinh hành” vì 37 phẩm đạo của Đại thừa là thực hành đạo pháp. [Đức Phật] tự dùng các phẩm đạo ấy mà bước đi trên hết thảy cõi đất, chứng thành Phật đạo, muốn dùng pháp này để giáo hóa cứu độ chúng sinh, nên khởi sự đi [kinh hành nơi này].
Nhưng cây bồ-đề với mặt đất đều chẳng có [sự nhận biết] phân biệt, cần gì phải có việc báo ân? Kinh Vị Tằng Hữu nói rằng: “Chỉ dùng sự lưu thông giáo hóa để truyền bá chánh pháp, gọi là báo ân.”
Kinh Quá Khứ Nhân Quả nói rằng: Sau khi Phật thành đạo, trong tuần lễ đầu tiên suy nghĩ rằng: “Pháp của ta vi diệu, trong chúng sinh không ai có khả năng thọ nhận.” Trong tuần lễ thứ hai, Phật suy nghĩ biết trong chúng sinh có những bậc thượng căn, có những người trung căn và có những kẻ hạ căn. Trong tuần lễ thứ ba, Phật suy xét xem ai là người thích hợp được nghe pháp trước tiên. Suy xét rồi liền đến thành Ba-la-nại, vì năm người mà thuyết giảng pháp Tứ đế. [Lần đầu tiên,] ông Kiều-trần-như chứng đắc Pháp nhãn thanh tịnh, [còn bốn người là] Át-bệ, Bạt-đề, Thập Lực Ca-diếp và Ma-ha-nam Câu-lợi vẫn chưa chứng đạo. Đức Phật thuyết giảng pháp Tứ đế một lần nữa, bốn người này liền chứng đắc Pháp nhãn thanh tịnh. Phật lại thuyết dạy rằng 5 ấm là vô thường, khổ, không và vô ngã, cả 5 người liền chứng đắc quả A-la-hán.
[Khi ấy], đức Phật là Phật bảo, giáo pháp Tứ đế là Pháp bảo, 5 người [vừa chứng quả] cùng với Phật là 6 vị A-la-hán, tức là Tăng bảo.
Tiểu Vân sớ nói rằng: “Trong ba tuần lễ đầu tiên, đức Phật đã thuyết giảng kinh Pháp hoa.” Trong phần sau kinh văn nói đức Phật Túc Vương Hoa Trí ở trên tòa ngồi bằng 7 báu dưới gốc cây Bồ-đề thuyết giảng kinh Pháp hoa. Do vậy biết rằng đức Phật [Thích-ca] ngày nay dưới gốc cây Bồ-đề cũng thuyết kinh Pháp hoa, nhưng những chúng sinh căn tánh ngu độn không tiếp nhận được, [nên Phật] phải làm theo như chư Phật quá khứ, tạm khai mở ba thừa để giáo hóa, cho đến về sau ở thành Vương Xá mới thuyết giảng Nhất thừa.
Nếu suy theo ý của bậc trí thì trước tiên [các đức Phật ấy] dưới cội Bồ-đề thuyết giảng trí tuệ Phật, sau đó ở những nơi khác cũng thuyết giảng trí tuệ Phật. Theo đó thì đức Phật Thích-ca ngày nay trước hết thuyết giảng kinh Hoa nghiêm, sau đó đến kinh Pháp hoa. Cho nên kinh văn nói: “Ban sơ những ai vừa nhìn thấy thân ta, nghe được pháp ta thuyết, liền thể nhập được trí tuệ Như Lai, chỉ trừ những người trước đây đã tu tập, học theo Tiểu thừa, nhưng nay lại cũng khiến cho những người ấy được thể nhập trí tuệ của Như Lai.” Như vậy so với nghĩa này cũng giống nhau.
[Về nhân duyên của] 5 vị tỳ-kheo. [Thuở xưa, vua Ác Sanh[45] dạo chơi cùng các cung nữ,] những cung nữ ấy [không đi theo vua mà cùng tụ tập lại để] nghe một vị tiên nhân thuyết pháp. Vua Ác Sinh nổi giận [ra lệnh] chặt đứt hai cánh tay và cắt tai, cắt mũi [của vị tiên nhân. Khi ấy tiên nhân tu hạnh nhẫn nhục nên không hề oán hận. Sau đó, do đại nguyện của ngài nên] máu chảy ra bỗng hóa thành sữa [và thân thể lành lặn lại như trước]. Vua Ác Sinh thuở ấy [nay chính là Kiều-trần-như],[46] còn vị tiên nhân nay chính là Phật. [Thuở ấy khi bị hại, tiên nhân] có lời thệ nguyện [rằng sau này khi thành Phật sẽ khiến cho vua Ác Sanh] được uống nước cam lộ chánh pháp, được là người đầu tiên nghe pháp âm.
Hỏi: Do đâu mà [đức Phật] vì 5 người chuyển pháp luân đầu tiên?
Đáp: [Chuyển pháp luân đầu tiên trong loài người là] vì con người thấy được chân lý trước tiên, vì [sau khi Phật thành đạo] thì con người được nhìn thấy, vì con người chứng [được quả vị], vì những việc làm và sự nghiệp của Phật cũng giống như con người, vì chư thiên từ trong cõi người mà được nhiều điều tốt đẹp lợi ích, vì trong con người có đủ bốn chúng.[47]
[Hỏi:] Vua Chuyển luân ra đời có âm thanh chấn động đến cõi trời Tha hóa Tự tại, khi ngài Kiều-trần-như chứng đạo, âm thanh chấn động đến cõi Phạm thiên, khi Phật thành đạo, âm thanh chấn động đến cõi trời Thủ-đà-hội.[48] Vì sao [khác biệt] như vậy?
Đáp: Do [ba loại] nghiệp thiện, nghiệp khen ngợi và nghiệp xưng tán cha mẹ thầy tổ [là thuộc về ba bậc] thượng, trung và hạ [khác biệt nhau] cho nên [biểu hiện] như vậy.[49] Nếu như [chư thiên ở] cõi trời Hữu đỉnh mà có nhĩ thức [nghe biết được âm thanh] thì âm thanh của Phật cũng chấn động đến đó.[50] Vua Chuyển luân thực hành [và khuyến khích nhân dân thực hành] 10 nghiệp thiện, [những người thực hành] nghiệp thiện được sinh về các cõi trời Dục giới, nên chư thiên các cõi trời Dục giới đều vui mừng được tăng thêm nhiều quyến thuộc. Ngài Kiều-trần-như [chứng quả] dứt lìa lòng dục [trở nên thanh tịnh], cho nên [chấn động] thấu đến cảnh giới của Phạm thiên.[51] Phật là bậc tối thắng cho nên [có âm thanh chấn động đến] cõi trời A-ca-ni-trá.[52] Đại lược là như vậy.
Nếu [giải thích] theo Đại thừa thì khi Phật thành đạo, âm thanh chấn động khắp trăm ức cõi trời A-ca-ni-trá [ở các thế giới], lại cũng chấn động đến các cõi trời A-ca-ni-trá trong khắp mười phương vô lượng vô biên thế giới. Đại lược là như vậy.
[Có bốn nơi xác định là:] nơi Phật chuyển pháp luân lần đầu tiên, nơi cội Bồ-đề [Phật thành đạo], nơi [Phật giáng hạ] khi vừa trở về từ cõi trời Đao Lợi [sau khi thuyết pháp cho thánh mẫu] và nơi [đức Phật] thị hiện đại thần biến [để giáo hóa]. Bốn nơi này thì tất cả chư Phật đều xác định, ngoài ra những nơi khác thì không xác định. Lại nữa, [có người nói] trừ nơi [đức Phật] chuyển pháp luân, còn lại ba nơi khác đều là những nơi xác định.
Kệ nói “trong suốt hai mốt ngày”, các nhà cựu giải cho là [thời gian đức Phật] suy nghĩ về giáo, lý, hành, nhất; hoặc cũng nói là [suy nghĩ về việc vận dụng] các pháp khuyên bảo khuyến khích và răn dạy ngăn cản.
Ngài Pháp Dao nói, việc [giáo hóa chúng sanh] thật hết sức sâu xa, nên bậc chí thánh [như đức Phật] cũng phải suy xét trước rồi sau mới thực hành. Tuần lễ đầu tiên suy xét về trí tuệ Phật hết sức vi diệu. Tuần lễ thứ hai suy xét về việc căn tánh chúng sinh chẳng giống nhau. Tuần lễ thứ ba suy xét về các pháp môn như thuốc [trị bệnh] có muôn ngàn loại, liền nêu kệ để chứng minh:
“Trí tuệ ta chứng đắc,
Thật vi diệu hơn hết.
Chúng sinh căn cơ thấp...
... Làm sao có thể độ?”
Nay nêu rõ [ý nghĩa] Phật an trụ nơi pháp thân vắng lặng mà thường soi chiếu, thường dùng Phật nhãn để quán sát thấy biết khắp nơi không bỏ sót, lẽ nào phải đợi khi đến đạo tràng lưu lại 21 ngày mới nghĩ đến những việc ấy hay sao?
[Cho nên,] nói 21 [ngày] chỉ là [ý nghĩa] biểu trưng, tức là biểu trưng cho [ý nghĩa] đức Phật muốn thuyết pháp 3 vòng [cho các căn cơ thượng, trung, hạ] nên tạm nói là 3 tuần. Tuần đầu suy xét về [lần thứ nhất] thuyết chánh pháp. Tuần thứ hai suy xét về [lần thứ hai] thuyết giảng thí dụ và tuần thứ ba suy xét về [lần thứ ba] thuyết giảng nhân duyên. [Cả ba lần suy xét đều thấy] không [chúng sinh nào có] căn cơ thích hợp, cho nên [dùng Đại thừa] không thể giáo hóa.[53] Do đó, [đức Phật] dừng lại việc thuyết giảng Đại thừa để mở bày phương tiện Tiểu thừa. Đó là giải thích nghiêng về theo Đại thừa Viên giáo.
Nếu giải thích chung theo Đại thừa thì tuần đầu tiên [đức Phật] suy xét muốn thuyết giảng Đại thừa Viên giáo, tuần tiếp theo suy xét muốn thuyết giảng Đại thừa Biệt giáo, tuần thứ ba suy xét muốn thuyết giảng Đại thừa Thông giáo. [Cả ba lần suy xét đều thấy] không [chúng sinh nào có] căn cơ thích hợp, cho nên [dùng Đại thừa] không thể giáo hóa. Do đó [đức Phật] dừng lại việc thuyết giảng Đại thừa, để thuyết giảng Tam tạng của ba thừa làm phương tiện giáo hóa [chúng sanh].
Giải thích theo quán tâm thì tuần đầu tiên [đức Phật] muốn [thuyết giảng pháp] quán trung đạo, nhưng pháp trung đạo thật vi diệu khó nhận hiểu, [Phật] quán thấy không thể dùng [để giáo hóa chúng sinh căn cơ thấp]. Tuần tiếp theo [Phật] muốn [thuyết giảng] pháp quán các pháp đều giả tạm không thật, nhưng quán giả thì trí phân biệt khó sinh, cũng không thể dùng [để giáo hóa chúng sinh căn cơ thấp]. Tuần thứ ba, [Phật] muốn [thuyết giảng] pháp quán các pháp đều là không, nhưng pháp quán không tuy khéo léo hóa độ lại cũng không thể [giáo hóa chúng sinh căn cơ thấp]. Sau đó [Phật] mới [mở bày] phương tiện dùng đến pháp quán phân tích chia chẻ của Tiểu thừa.
Tiểu đoạn thứ hai từ câu “chúng sinh căn cơ thấp” trở đi có 3 khổ kệ, nêu rõ việc [đức Phật quán thấy] chúng sinh không có căn cơ [thích hợp Đại thừa], có thể chia thành ba phân đoạn. Phân đoạn đầu gồm nửa khổ kệ, nêu rõ việc [chúng sanh] che chướng nặng nề. Phân đoạn thứ hai tiếp theo, từ câu “những chúng sinh như thế” trở đi gồm nửa khổ kệ, nêu rõ việc chúng sinh không thể nghe [pháp Đại thừa]. Phân đoạn thứ ba từ câu “khi ấy những Phạm vương” trở đi gồm 2 khổ kệ, nêu rõ việc tuy các vị Phạm vương... thưa thỉnh thuyết pháp Đại thừa, nhưng đức Phật rõ biết [chúng sinh khi ấy] không có căn cơ thích hợp cho nên không thuyết.
Tiểu đoạn thứ ba[54] từ câu “ta liền tự nghĩ rằng” trở đi gồm 2 khổ kệ, nêu rõ việc [đức Phật] suy nghĩ muốn thôi không giáo hóa. Đoạn này lại chia làm 2 phần. Phần trước gồm 1 khổ rưỡi kệ nêu rõ việc [chúng sanh] không có căn cơ [thích hợp], nếu gượng ép thuyết pháp [Đại thừa] thì nghe vào ắt phải tổn hại [do không tin nhận được]. Phần sau từ câu “ta không nên thuyết pháp” trở đi gồm nửa khổ kệ nói rõ việc [Phật muốn] thôi không giáo hóa.
Đoạn thứ hai từ câu “Liền nhớ Phật quá khứ” trở đi gồm 11 khổ kệ, tụng lại ý nghĩa trong phần văn trường hàng ở trước, từ nơi một Phật thừa mà [đức Phật] phương tiện thuyết giảng thành ba thừa. Đoạn này chia thành 2 tiểu đoạn. Tiểu đoạn thứ nhất gồm 10 khổ kệ nêu rõ việc hóa [độ chúng sinh là] có thể được. Tiểu đoạn thứ hai có 1 khổ kệ giải thích chỗ nghi.
Tiểu đoạn thứ nhất có 10 khổ kệ lại chia ra 4 phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất gồm 1 khổ kệ [từ câu “Liền nhớ Phật quá khứ”], nêu rõ [Phật dự định thuyết giảng] ba thừa là thích hợp. Phân đoạn thứ hai từ câu “Khi ta nghĩ như vậy” trở đi gồm 6 khổ rưỡi kệ, nêu rõ việc có căn cơ [để giáo hóa bằng phương tiện]. Phân đoạn thứ ba từ câu “Suy nghĩ như vậy rồi” trở đi gồm 1 khổ rưỡi, nêu rõ việc thi hành phương tiện để giáo hóa. Phân đoạn thứ tư từ câu “Gọi là chuyển pháp luân” trở đi có 1 khổ kệ, nêu rõ [kết quả chúng sanh] thọ nhận và thực hành [giáo pháp].
Phân đoạn thứ nhất, kệ nói “Liền nhớ Phật quá khứ”, nghĩa là nói [Phật suy nghĩ việc] chúng sinh [hiện nay] tuy không có căn cơ đại thừa nhưng cũng không thể vĩnh viễn bỏ mặc, cần phải dùng phương tiện để dẫn dắt cứu độ. [Phật Thích-ca] không phải tự mình hoàn toàn không biết việc phương tiện khai mở ba thừa, mà ở đây là muốn dẫn chứng cho thấy chư Phật [từ thuở xưa] cũng đều như vậy, cho nên nói là “liền nhớ Phật quá khứ”.[55]
Phân đoạn thứ hai từ câu “Khi ta nghĩ như vậy” gồm sáu khổ rưỡi kệ nêu rõ [trong chúng sinh vẫn] có những căn cơ bậc thấp [có thể hóa độ]. Phân đoạn này lại chia làm 2 ý.
Ý thứ nhất gồm 4 khổ rưỡi kệ, nêu rõ việc chư Phật ngợi khen [việc Phật Thích-ca khởi ý muốn dùng phương tiện để giáo hóa].
Ý thứ hai gồm 2 khổ kệ, từ câu “Xá-lợi-phất nên biết” trở đi, nêu rõ việc đức Phật Thích-ca tùy thuận [theo như chư Phật quá khứ].
Phần trước đây [nói việc Phật Thích-ca] muốn dùng Đại thừa giáo hóa nhưng [chúng sanh] không có căn cơ thích hợp, cho nên chư Phật không khen ngợi. Nay ở phần này [Phật Thích-ca khởi ý] muốn thuyết giảng Tiểu thừa linh hoạt phù hợp với căn cơ thấp nhỏ [của chúng sanh], như vậy ắt là sớm muộn gì chúng sinh cũng đều được hóa độ, cho nên chư Phật khen ngợi.
Ý thứ nhất nói việc khen ngợi của chư Phật lại chia thành 5 tiểu ý.
Tiểu ý thứ nhất có 3 câu, đức Phật Thích-ca trình bày việc chư Phật hiện ra. Đây là do đức Phật Thích-ca nghĩ nhớ đến chư Phật nên [chư Phật] dùng sức phương tiện hiện ra. [Chư Phật] hiện cũng là do 2 ý nghĩa: [Phật Thích-ca] dự định thuyết pháp [Tiểu thừa] và gặp được căn cơ [thích hợp của chúng sanh], cho nên chư Phật hiện.
Tiểu ý thứ hai từ câu “Lành thay! Phật Thích-ca” trở đi có một câu và 1 khổ kệ, nêu ý chính chư Phật khen ngợi đức Phật Thích-ca vì có thể tạm ẩn đi pháp chân thật rốt ráo để thiết lập pháp quyền thừa phương tiện, cho nên [khen ngợi] là lành thay. [Kệ nói “Đấng Đạo sư bậc nhất”], đó là nói Phật vì Nhất thừa mà thiết lập ba thừa, dẫn dắt chúng sinh thể nhập trí tuệ Phật, chính là bậc Đạo sư cao tột nhất. “Chứng pháp Vô thượng này” tức là nói chứng được trí tuệ chân thật vi diệu đệ nhất. Kệ nói “Theo gương tất cả Phật, mà dùng sức phương tiện” là nói nghĩa tạm ẩn pháp chân thật rốt ráo mà sử dụng pháp quyền biến phương tiện.
Tiểu ý thứ ba từ câu “chư Phật cũng chứng đắc” trở đi, gồm 1 khổ kệ, nêu rõ việc chư Phật đều tạm ẩn pháp chân thật mà sử dụng pháp quyền biến, [ý nghĩa có thể hiểu được rõ ràng] như trong kinh văn.
Tiểu ý thứ tư từ câu “kém trí, ưa pháp nhỏ” gồm 1 khổ kệ, cùng lúc giải thích 2 ý nghĩa. [Thứ nhất là] vì chúng sinh “kém trí”, không đủ khả năng nghe hiểu giáo pháp Đại thừa, cho nên phải tạm ẩn giấu đi pháp chân thật. [Thứ hai là] vì chúng sinh “ưa pháp nhỏ” cho nên phải tạm bày ra pháp quyền thừa phương tiện.
Tiểu ý thứ năm là từ câu “tuy nói có ba thừa” gồm nửa khổ kệ, đồng thời tóm kết lại 2 ý nghĩa [trên], tuy có thuyết giảng 3 thừa nhưng rốt ráo là hiển bày pháp chân thật.
Ý thứ hai từ câu “Xá-lợi-phất nên biết” trở đi gồm 2 khổ kệ, nêu rõ việc đức Phật Thích-ca thực hành thuận theo [chư Phật], được nghe tiếng chư Phật khen ngợi liền đáp lại bằng cách niệm “nam-mô”. Nam-mô có nghĩa là cung kính, vâng theo. Phần này lại có 2 tiểu ý.
Tiểu ý thứ nhất 1 khổ kệ, nói ra lời vâng thuận theo [chư Phật].
Tiểu ý thứ hai 1 khổ kệ, nói lên suy nghĩ thuận theo căn cơ chúng sinh [trong đời uế trược].
Phân đoạn thứ ba từ câu “Suy nghĩ như vậy rồi” trở đi gồm 1 khổ rưỡi kệ nêu ý chính là [Phật] thi hành việc thuyết giảng giáo pháp. Từ câu “tướng các pháp vắng lặng, không thể dùng lời nói” tức là như trước đã nói về lẽ trung đạo không có tự tánh, là chủng tử Phật tánh. Lẽ thật này không thể suy lường tính đếm, lại cũng không thể dùng lời giảng thuyết, nay dùng phương tiện tạm bày ra ba thừa để thuyết giảng. [Lẽ thật này] lại cũng không sinh không diệt, nhưng dùng phương tiện tạm nói là có sinh có diệt. Lại nữa, [ngay cả] lẽ chân thật của Tiểu thừa[56] cũng không nằm ở chỗ chỉ bày thuyết giảng, nhưng [Phật] dùng phương tiện nên bày ra thuyết giảng tứ môn.[57] Trước tiên, vì 5 người [nhóm Kiều-trần-như] mà nói pháp vô thường, đó là hữu môn...
Phân đoạn thứ tư từ câu “Gọi là chuyển pháp luân” trở đi gồm 1 khổ kệ, nêu rõ [các giai đoạn] thọ nhận, hành trì, liễu ngộ và thể nhập [tri kiến Phật]. Chuyển pháp giáo hóa từ trong tâm Phật độ nhập vào tâm người khác gọi là chuyển pháp luân. Ngài Kiều-trần-như ban sơ được kiến đế,[58] tức là dứt trừ kiến hoặc, chứng được một phần Diệt đế, cũng tức là đạt được một phần Niết-bàn hữu dư. Tên gọi Niết-bàn bắt đầu có từ lúc đó, [cho nên kệ nói: “Từ đó có Niết-bàn.” Do đó thành bậc vô học, liền có danh xưng A-la-hán. Người thuyết giảng giáo pháp ba thừa là Phật, nội dung được thuyết giảng là pháp, những vị [tu tập] đạt được kiến đế, thành bậc A-la-hán, gọi chung là Tăng. Tam bảo do đó xuất hiện ở thế gian.
Tiểu đoạn thứ hai từ câu “từ vô số kiếp xưa” trở đi gồm 1 khổ kệ giải thích những chỗ nghi.
Chỗ nghi về bậc thầy là cho rằng Phật [Thích-ca] ban đầu chưa thể thấu biết căn cơ, đến khi nhớ lại chư Phật [quá khứ] mới bắt đầu rõ biết căn tánh [chúng sanh].
Nay giải thích rằng, không phải [đức Phật Thích-ca] không tự biết dùng phương tiện, chỉ vì đặc biệt muốn dẫn chứng việc [chư Phật] đồng như nhau nên nhớ nghĩ đến chư Phật, không phải khi nhớ nghĩ đến [chư Phật] rồi mới biết. “Từ vô số kiếp xưa” đã thấy [chúng sanh] ưa thích pháp Tiểu thừa, nên mới vì họ mà xưng tán [Niết-bàn], chỉ bày cho dứt hết mọi nỗi khổ. Cho nên [chúng sanh] khi nghe thuyết dạy Tiểu thừa liền được giải thoát [khổ đau].
Chỗ nghi về đệ tử thì cho rằng, làm sao chúng sinh ngay trong một đời này chỉ mới nghe [thuyết pháp] chưa bao lâu đã chứng được quả A-la-hán?
Nay giải thích rằng, “từ vô số kiếp xưa” [Phật] đã vì chúng sinh mà xưng tán [Niết-bàn], chỉ bày giáo pháp, [nay được nghe pháp] xứng hợp với sự huân tập từ xưa cho nên nhanh chóng chứng đạo.
Các nhà cựu giải cho rằng đoạn kệ này hàm ý chỉ đến nghĩa thọ lượng [của Như Lai]. Nay nói rõ rằng, nếu luận về mật ý thì cũng có thể là như vậy, nhưng xét theo ý nghĩa hiển lộ rõ ràng thì không đúng. Vì sao muốn nêu nghĩa thọ lượng [của Như Lai] mà đến ngài Di-lặc còn không rõ biết? Làm sao trong cả phần này chỉ có một đoạn kệ mang nghĩa ám chỉ? [Cho nên] nay chỉ lấy nghĩa giải thích những chỗ nghi để phân tích nhận hiểu kinh văn.
KINH VĂN
Xá-lợi-phất nên biết!
Ta thấy những Phật tử,
Quyết chí cầu Phật đạo,
Số nhiều đến vô lượng...
Đều khởi tâm cung kính,
Cùng đi đến chỗ Phật,
Họ từng theo chư Phật,
Được nghe pháp phương tiện.
Ta liền suy nghĩ rằng:
Bậc Như Lai xuất thế,
Chỉ bày trí tuệ Phật,
Nay chính lúc thích hợp.
Xá-lợi-phất nên biết!
Người căn thấp trí hẹp,
Chấp tướng và kiêu mạn,
Không thể tin pháp này.
Phật hoan hỷ không ngại,
Nay giữa chúng Bồ Tát,
Chính thức bỏ phương tiện,
Chỉ thuyết đạo Vô thượng.
Bồ Tát nghe pháp này,
Đều dứt sạch lưới nghi,
Ngàn hai trăm La-hán,
Cũng đều sẽ thành Phật.
Tổng đoạn thứ ba từ câu “Xá-lợi-phất nên biết, ta thấy những Phật tử”[59] trở đi gồm 6 khổ kệ, tụng lại ý nghĩa hiển bày lẽ thật trong văn trường hàng ở phần trước. Phần này [chia làm 4 đoạn], có đủ nghĩa tứ nhất.
Đoạn thứ nhất từ câu “Xá-lợi-phất nên biết...” trở đi gồm 2 khổ kệ, tụng nghĩa nhân nhất, vì những người thực hành theo ba thừa đều là Phật tử. Phần văn trường hàng ở trước cũng có bao gồm ý này.
Đoạn thứ hai từ câu “Ta liền suy nghĩ rằng” trở đi gồm 1 khổ kệ, tụng nghĩa lý nhất, vì nói về trí tuệ Phật, tức là tụng lại nghĩa tri kiến Phật Nhất thiết chủng trí trong phần văn trường hàng.
Đoạn thứ ba từ câu “Xá-lợi-phất nên biết, người căn thấp trí hẹp” trở đi là nghĩa thứ ba gồm 2 khổ kệ, tụng nghĩa giáo nhất. “Chỉ thuyết đạo Vô thượng” tức là giáo nhất.
Đoạn thứ tư từ câu “Bồ Tát nghe pháp này” trở đi là nghĩa thứ tư gồm 1 khổ kệ, tụng nghĩa hành nhất. “Cũng đều sẽ thành Phật” tức là hành nhất.
Tổng đoạn này lại cũng [có thể] chia thành 4 ý.
Thứ nhất, 2 khổ kệ đầu nêu rõ việc khởi phát căn cơ Đại thừa, cũng nói là tìm cầu quả vị.
Thứ hai, 2 khổ kệ và 1 câu nêu rõ ý Phật hoan hỷ, vì chúng sinh được lợi ích từ Đại thừa.
Thứ ba, 3 câu với ý chính nêu rõ sự hiển bày lẽ chân thật.
Thứ tư, 1 khổ kệ nêu nghĩa thọ nhận, hành trì, liễu ngộ và thể nhập [tri kiến Phật].
[Phần này] nêu rõ là do khởi phát căn cơ [Đại thừa] nên mới tìm cầu quả vị; tìm cầu quả vị là do căn cơ Đại thừa khởi phát. Trong việc này có 4 trường hợp.
[Thứ nhất là] tự thân [tuy đã] trừ được che chướng nhưng căn cơ [Đại thừa] chưa khởi phát, như các vị A-la-hán ở các quả vị trong ba thừa, vì ưa thích Tiểu thừa nên tuy trừ được uế trược che chướng nhưng căn cơ Đại thừa còn trì độn, chỗ nhiệm mầu của căn cơ chưa phát khởi.
[Thứ hai là] tự thân có căn cơ Đại thừa khởi phát nhưng che chướng chưa dứt trừ, như những người phàm phu trong pháp hội Pháp hoa, tuy chưa đoạn trừ được phiền não kết sử nhưng nhờ căn cơ Đại thừa bén nhạy nên có thể khởi phát.
[Thứ ba là] tự thân vừa trừ dứt được che chướng, căn cơ Đại thừa liền khởi phát, như khi [đức Phật] thuyết giảng kinh Vô lượng nghĩa, những vị đã chứng đắc quả vị Nhị thừa liền tức thời ở ngay nơi tòa ngồi mà khởi phát căn cơ Đại thừa.
[Thứ tư là] tự thân có che chướng chưa trừ được nên căn cơ Đại thừa chưa thể khởi phát, là như 5.000 người [đã lui ra khỏi pháp hội Pháp hoa].
Đoạn thứ nhất, kệ nói “quyết chí cầu Phật đạo” tức là tìm cầu quả vị Đại thừa, chẳng phải cầu quả vị Tiểu thừa. [Kinh văn nói “tìm cầu” là có ba ý nghĩa.]
Thứ nhất là ý nghĩa căn cơ Đại thừa có sự chiêu cảm [quả vị Đại thừa], tức là trong sự phát khởi căn cơ suy ra nghĩa tìm cầu [quả vị].
Thứ hai là ý nghĩa kín đáo mong cầu trong lòng, [trong số đó] có người đắc quả, có người chưa đắc quả, tức là ý này.
Thứ ba là ý nghĩa nói ra [ý nguyện] tìm cầu, tức là ba lần thiết tha thưa thỉnh. Trong các giáo pháp trước đây đã từng có việc thỉnh cầu hai lần, chỉ là chưa nói ra, ngày nay [trong hội Pháp hoa này] mới nói đủ ba lần cầu thỉnh.
Hỏi: Trước đây [những người con ông trưởng giả] thoát ra khỏi nhà rồi thì đòi hỏi cha ban cho ba loại xe, đó là sự đòi hỏi theo căn cơ và tâm tình [của họ]. Kinh văn nói là [đòi hỏi] như trước đây đã hứa. Như vậy là [thí dụ việc] tìm cầu [quả vị] ba [thừa], đâu có liên quan gì đến tìm cầu [quả vị] Nhất thừa?
Đáp: Khi ra khỏi nhà mà không thấy [như lời cha nói] tức là [biết cha] có ý định khác. Tuy nhắc lời trước đây hứa cho ba loại xe nhưng chỉ là để xin được theo ý khác đó mà thôi, cho nên cũng có thể xem đó là cầu [quả vị] Nhất thừa.
“Đều khởi tâm cung kính, cùng đi đến chỗ Phật.” Có người nói đó là hổ thẹn với Tiểu thừa mà ngưỡng mộ Đại thừa, căn cơ Đại thừa chiêu cảm đến Phật nên nói là “đi đến chỗ Phật”.
Nay nêu rõ không chỉ là căn cơ chiêu cảm đến Phật mà còn là thực sự thân hành đi đến, như trong kinh Vô lượng nghĩa nói “bốn chúng vây quanh Phật, chắp tay với tâm cung kính, muốn được nghe đạo trọn đủ”.
“Họ từng theo chư Phật, được nghe pháp phương tiện.” Trong số này là những người chỉ vừa nếm vị điều phục [của sự] thọ nhận và hành trì như Bồ Tát tu 6 ba-la-mật của Tạng giáo, Bồ Tát Thông giáo và Biệt giáo, những pháp phương tiện của ba thừa. Do những sự điều phục như vậy đã thuần thục nên khiến cho các che chướng tiêu trừ, căn cơ [Đại thừa] khởi phát mà cầu được [quả vị] Đại thừa.
Đoạn thứ hai, từ câu “Ta liền suy nghĩ rằng” trở đi gồm 2 khổ kệ và 1 câu nêu rõ việc [thính chúng] trừ được che chướng nên Phật hoan hỷ. Đức Phật vì chỉ bày trí tuệ Phật [cho chúng sanh] nên mới ra đời. Trước đây [lúc ban đầu, chúng sanh] che chướng nặng nề, không có căn cơ [thích hợp] nên không thể tức thời thuyết giảng trí tuệ Phật. Thời gian sau đó, tuy che chướng [của chúng sanh] đã trừ nhưng vẫn chưa thể thuyết giảng [Đại thừa]. Đến nay căn cơ Đại thừa [của chúng sanh] khởi phát, chính là lúc để thuyết giảng. Trước đây chúng sinh căn cơ trì độn, trí tuệ nhỏ hẹp, [Phật] sợ [rằng nếu nghe pháp Đại thừa không tin nhận được sẽ] hủy báng pháp, phải bị đọa vào đường ác, cho nên chưa phải lúc để thuyết giảng. Đến nay căn cơ [khởi phát] nhanh nhạy, quyết chí hướng về Đại thừa, được nghe [pháp] ắt sẽ tin hiểu, cho nên nói “Phật hoan hỷ”.
Kệ nói “không ngại” [tức là không lo ngại], không còn lo ngại việc [chúng sanh] bám chấp Tiểu thừa, hủy báng Đại thừa, khởi sinh tội lỗi đọa vào đường ác, cho nên nói là [Phật] không ngại.
Đoạn thứ ba, từ câu “Nay giữa chúng Bồ Tát” trở đi gồm ba câu, ý chính là hiển bày pháp chân thật. [Giáo pháp giảng cho] 5 thừa[60] còn uyển chuyển khiếm khuyết, chưa đi thẳng vào lẽ thật; [giáo pháp] Thông giáo và Biệt giáo còn thiên lệch kề cận, chưa phải một đường chân chánh. Đến nay [Phật] xả bỏ hết những pháp uyển chuyển, thiên lệch kia, chỉ thuyết giảng một đạo ngay thẳng chân thật.
Đoạn thứ tư, từ câu “Bồ Tát nghe pháp này” trở đi gồm 1 khổ kệ, nêu rõ việc [thính chúng] thọ nhận, hành trì, liễu ngộ, thể nhập [tri kiến Phật]. Hàng Bồ Tát[61] Tạng giáo và Thông giáo [trước đây] vừa nghe lược giảng [Đại thừa] thì chỗ bám chấp cũ dao động, khiến chỗ nghi mới khởi sinh, đến nay thì tất cả [những nghi ngờ đó] đều được dứt trừ. Không chỉ riêng hàng Bồ Tát mà hàng Nhị thừa [Thanh văn, Duyên giác] cũng như thế. Cho nên nói hàng Thanh văn “cũng đều sẽ thành Phật”. Các giáo pháp trước đây không nói Nhị thừa [có thể] thành Phật, nay được [Phật] tiến hành thụ ký [cho sẽ thành Phật]. [Cho nên,] việc thụ ký không riêng cho Nhị Thừa, việc dứt trừ lòng nghi không riêng cho Bồ Tát. Hai việc này hỗ tương cho nhau cùng trọn vẹn đầy đủ.
Hỏi: Hàng Bồ Tát nghi những điều gì?
Đáp: Trong [giáo pháp] Tạng giáo nói rằng, [tu tập trải qua] ba a-tăng-kỳ kiếp còn chưa đoạn trừ được mê hoặc, một khi đoạn trừ được liền thể nhập chân thật. [Giáo pháp] Thông giáo nói rằng, hàng Bồ Tát đoạn trừ hết phiền não vẫn còn lại tập khí, [khi nào] tập khí dứt hết liền thành Phật. [Nay] vừa nghe [Phật] lược nói rằng hết thảy những giáo pháp ấy đều là phương tiện, [vậy những chỗ] chân thật với thành Phật [đã nói] trước đây, rốt lại bây giờ là ở nơi đâu?
Lại nữa, ba thừa cùng học theo một đạo, do ý nghĩa gì lại có sự khác biệt?
Nay nghe [thuyết giảng kinh] Pháp hoa này rồi liền dứt trừ hết những nghi ngờ đó, không sót lại một mảy may nào.
KINH VĂN
Như nghi thức thuyết pháp,
Của ba đời chư Phật,
Ta nay cũng như vậy,
Thuyết pháp không phân biệt.
Chư Phật hiện ở đời,
Rất lâu xa khó gặp,
Ngay khi đã xuất thế,
Thuyết pháp này càng khó.
Vô lượng vô số kiếp,
Được nghe pháp này khó,
Người đủ sức nghe pháp,
Càng khó tìm gặp hơn.
Giống như hoa ưu-đàm,
Mọi người đều ưa thích,
Giữa hai cõi trời, người,
Hiếm hoi mới xuất hiện.
Người nghe pháp hoan hỷ,
Ngợi khen chỉ một lời,
Cũng bằng như cúng dường,
Ba đời mười phương Phật.
Người như vậy ít gặp,
Hiếm hơn hoa ưu-đàm.
Tổng đoạn thứ tư từ câu “Như nghi thức thuyết pháp, của ba đời chư Phật” trở đi, có 5 khổ rưỡi kệ, tụng lại ý nghĩa xưng tán chánh pháp thật hy hữu như trong phần văn trường hàng ở trên, còn có ý phụ là dẫn khởi cho thí dụ “không dối gạt” [ở phẩm Thí Dụ]. Tổng đoạn này chia thành 2 đoạn.
Đoạn thứ nhất gồm 1 khổ kệ, tụng lại ý nghĩa về diệu pháp như trong văn trường hàng ở trên. Diệu pháp tức là pháp quyền thật. Như “ba đời chư Phật” là dẫn chứng giống như chư Phật đều đã dùng pháp quyền. Pháp quyền tức là nghi thức dẫn dắt chúng sinh. “Thuyết pháp không phân biệt” là dẫn chứng giống như chư Phật đều hiển bày pháp chân thật. Chân thật ắt là dứt sạch ngôn ngữ, lẽ nào còn có nghi thức. Lại nữa, quyền và thật vốn không có sự phân biệt, chỉ vì những kẻ căn thấp trí nhỏ mà [phải tạm bày ra] phân biệt quyền thật. Nay đến lúc tỏ ngộ và thể nhập thì Nhất thừa với ba thừa không khác, nên biết rằng Phật thuyết ba thừa với Nhất thừa không có phân biệt. Tất cả chư Phật đều như vậy, không chỉ riêng một đức Phật Thích-ca.
Đoạn thứ hai từ câu “Chư Phật hiện ở đời” trở đi gồm 4 khổ rưỡi kệ, tụng lại ý nghĩa “đúng thời mới thuyết pháp này” trong phần văn trường hàng ở trước. Trong văn trường hàng dùng hoa ưu-đàm để [so sánh với việc Phật ra đời ít gặp]. Trong kệ tụng cũng nói hai câu “Chư Phật hiện ở đời, rất lâu xa khó gặp”. Nghĩa là phải rất lâu mới có Phật ra đời. Đây là nói cái khó về người, [rất khó có được người như Phật].
Tiếp đến hai câu “Ngay khi đã xuất thế, thuyết pháp này càng khó” là nêu cái khó về pháp, như khi đức Phật Thích-ca đã ra đời, cũng phải hơn 40 năm mới [có thể] bắt đầu [thuyết pháp] hiển bày chân thật. Đại lược là như thế.
Kế tiếp là 2 câu “vô lượng vô số kiếp, được nghe pháp này khó”, nêu cái khó của việc được nghe pháp, như cả một nhóm 5.000 người kia, Phạm âm [thuyết pháp] tràn ngập vào tai mà vẫn rời bỏ chỗ ngồi đi ra [khỏi pháp hội], chẳng phải là việc nghe pháp rất khó đó sao?
Tiếp theo là 2 câu “Người đủ sức nghe pháp, càng khó tìm gặp hơn”, nêu cái khó của sự tin nhận [chánh pháp]. Khắp trong chúng hội [khi ấy] chỉ duy nhất có ngài Xá-lợi-phất là nhận hiểu trước. Hàng trung căn và hạ căn tuy có được nghe nhưng chưa hiểu được.
[Câu kệ tiếp theo] nêu hoa ưu-đàm [hiếm có] để làm thí dụ so sánh với bốn cái khó vừa nói trên. [Phần kệ tiếp theo] chỉ nêu người nghe [pháp] hiếm có, nhưng các điều khó còn lại theo đó suy ra có thể hiểu được.
KINH VĂN
Các ông chớ hoài nghi,
Phật là vua các pháp,
Tuyên cáo cùng đại chúng,
Chỉ dùng đạo Nhất thừa,
Giáo hóa các Bồ Tát,
Không đệ tử Thanh văn.
Xá-lợi-phất, các ông,
Thanh văn cùng Bồ Tát,
Nên biết diệu pháp này,
Bí yếu của chư Phật.
Tổng đoạn thứ năm từ câu “Các ông chớ hoài nghi” trở đi là phần thứ năm, gồm 2 khổ rưỡi kệ, tụng lại ý nghĩa “lời Phật không hư dối” trong phần văn trường hàng ở trước. Phần này chia làm 2 đoạn.
Đoạn thứ nhất 1 khổ rưỡi kệ, nói đừng sinh tâm nghi ngờ đối với người đáng tin cậy.
Đoạn thứ hai từ câu “Xá-lợi-phất các ông” trở đi gồm 1 khổ kệ, nói đừng khởi tâm nghi ngờ đối với pháp đáng tin cậy.
Kệ nói “Phật là vua các pháp”, vua trong loài người còn chẳng nói hai lời, huống chi Phật là vị Pháp vương, vua của các pháp, lẽ nào lại có thể nói ra lời hư dối? Pháp phương tiện thì có thể quyền biến giả lập, còn pháp chân thật đâu thể hư dối. [Cho nên,] nghe đấng Pháp vương thuyết pháp đừng sinh tâm nghi ngờ.
Các nhà cựu giải cho rằng từ câu “Xá-lợi-phất các ông” trở đi, gồm 7 khổ kệ, không tụng [ý nghĩa] về thôi thúc lòng tin mà chỉ là [tụng lại ý nghĩa] phần nói về Phật Thích-ca [trong văn trường hàng], tức là ý khuyến tín và hoằng truyền kinh điển.
Phần này chia làm 2 ý. Ý thứ nhất gồm 5 khổ rưỡi kệ, [đức Phật] khuyên nên hoằng truyền kinh điển để làm nhân tố hành trì. Ý thứ hai gồm 1 khổ rưỡi kệ lược nói về việc thụ ký.
Khổ kệ đầu tiên khuyên [những ai] ngưỡng mộ quả vị mà hành trì nhân [tu tập] thì tất yếu phải hoằng truyền kinh điển [này]. [Kệ nói pháp này là “bí yếu của chư Phật”, vì] hơn 40 năm được ẩn giấu trong tâm Phật, người khác không ai biết nên gọi là “bí”, đạo thẳng tắt Nhất thừa thâu nhiếp muôn pháp môn nên nói là “yếu”.
Từ câu “vì đời ác năm trược” trở đi gồm 1 khổ kệ, [sau khi] giải thích [về pháp] “bí yếu”, đến đây nêu rõ rằng những người che chướng nặng nề thì rốt cùng không thể hiểu được [pháp Đại thừa này], vì vậy nên đức Như Lai phải [tạm] ẩn giấu, không thể tuyên thuyết không đúng người.
Từ câu “những kẻ xấu đời sau” trở đi gồm 2 khổ kệ, nêu rõ cách thức của việc hoằng truyền kinh điển. Khổ kệ thứ nhất nêu rõ, với những kẻ xấu ác thì đừng vì họ mà thuyết giảng [kinh này]. [Khổ kệ] sau đó nói rõ, với người hiền thiện thì nên vì họ mà thuyết giảng.
Từ câu “Xá-lợi-phất nên biết” trở đi, gồm 1 khổ rưỡi kệ, tóm kết 2 ý nghĩa.
Trước tiên một khổ kệ tóm kết nghĩa “bí yếu”, nêu rõ pháp như thế này thì [chư Phật] trước đã phải dùng đến muôn ức phương tiện, sau đó mới [có thể] chỉ bày chỗ chân thật.
Tiếp theo nửa khổ kệ sau tóm kết về cách thức hoằng truyền kinh, [nêu rõ] những người không học tập thì không thể hiểu rõ được kinh này, chính là kết lại ý nghĩa đối với người xấu ác không nên thuyết giảng kinh này. [Từ đó cũng suy ra hàm nghĩa] đối lại[62] là những ai học tập thì sẽ hiểu được kinh này, nên với những người như vậy thì có thể thuyết giảng.
Từ câu “các ông đã rõ biết” trở đi, gồm 1 khổ rưỡi kệ, lược nói về việc thụ ký. Ba câu trên nêu nghĩa rõ biết, một câu giữa nói ý không nghi hoặc, hai câu dưới cùng nói việc được thụ ký. Đã rõ biết, không còn nghi hoặc, cho nên “phải hết sức vui mừng, biết mình sẽ thành Phật”.
Ý nghĩa thụ ký trong phần này là dẫn khởi cho phần Xá-lợi-phất và các vị khác được thụ ký ở phần sau. Ý nghĩa hoằng truyền kinh điển trong phần này là dẫn khởi cho việc Phật dạy ngài Xá-lợi-phất phải lưu thông [kinh điển] ở phần sau.
Trên đây là trình bày cách giải thích theo các nhà cựu giải.
KINH VĂN
Vì đời ác năm trược,
Chỉ tham đắm các dục,
Những chúng sinh như vậy,
Rốt chẳng cầu Phật đạo.
Những kẻ xấu đời sau,
Nghe Phật dạy Nhất thừa,
Mê hoặc không tin nhận,
Phá pháp, đọa cõi ác.
Người thanh tịnh, tàm quý,
Quyết chí cầu Phật đạo,
Nên vì những người ấy,
Rộng khen đạo Nhất thừa.
Xá-lợi-phất nên biết,
Pháp chư Phật như thế,
Dùng muôn ức phương tiện,
Để thuyết pháp thích hợp,
Nếu không học, không tu,
Thì không thể thấu hiểu.
Các ông đã rõ biết,
Phật là thầy thế gian,
Việc phương tiện quyền biến,
Đừng khởi sinh nghi hoặc.
Phải hết sức vui mừng,
Biết mình sẽ thành Phật.
Nay giảng rõ từ câu “Vì đời ác năm trược” trở xuống là tổng đoạn thứ sáu, gồm 6 khổ kệ, tụng lại ý nghĩa chọn lọc thính chúng và thúc giục mọi người. May mắn là trong văn trường hàng đã có phần này, ý nghĩa tương tự, lẽ nào không phải là tụng lại.
Tổng đoạn thứ sáu có thể chia thành 2 đoạn. Đoạn thứ nhất gồm 3 khổ kệ đầu, tụng về ý nghĩa chọn lọc thính chúng. Đoạn thứ hai gồm 3 khổ kệ sau, tụng về ý nghĩa thúc giục lòng tin.
Đoạn thứ nhất từ câu “vì đời ác năm trược” trở đi, 1 khổ kệ là tụng lại ý nghĩa chọn lọc loại trừ những người không phải đệ tử Phật. Vì sao vậy? Nếu “tham đắm các dục” tức là làm theo nghiệp của ma, nên phải loại trừ những người ấy.
Trong văn trường hàng nói [những người] bám chấp Niết-bàn mà còn không phải là đệ tử Phật, [huống chi] ở đây nói [có nghĩa là] bám chấp sinh tử, lại có thể là đệ tử Phật hay sao? Đó là [văn và kệ] cùng hỗ tương, bổ sung ý nghĩa cho nhau [để làm rõ ý nghĩa] loại trừ hết những người không phải đệ tử Phật.
“Rốt chẳng cầu Phật đạo” là tụng lại ý nghĩa trong văn trường hàng loại trừ hàng tăng thượng mạn. Những kẻ tăng thượng mạn là chưa chứng đắc quả vị giải thoát[63] mà tự nói mình đã chứng đắc. Người như vậy cho nên không cầu Phật đạo.
Từ câu “những kẻ xấu đời sau” trở đi 1 khổ kệ, tụng lại ý nghĩa “sau khi Phật diệt độ thì người có thể thọ trì, tụng đọc, giảng giải những kinh như thế này rất khó gặp được” trong phần văn trường hàng.
Từ câu “người thanh tịnh, tàm quý” trở đi 1 khổ kệ, tụng lại ý nghĩa “nếu gặp Phật ở cõi khác thì ở trong giáo pháp này liền được thấu triệt rõ ràng” trong phần văn trường hàng.
Đoạn thứ hai gồm 3 khổ kệ, tụng lại ý nghĩa thúc giục lòng tin trong phần văn trường hàng. Nếu nói [đệ tử Phật mà] không tin pháp [Nhất thừa] này thì thật hoàn toàn vô lý.
[Trong ý này,] 1 khổ rưỡi kệ phần trước là thúc giục lòng tin [đối với việc Phật thi hành] pháp quyền, 1 khổ rưỡi kệ phần sau là thúc giục lòng tin đối với pháp chân thật. [Đối với các pháp] thật và quyền [đều tin chắc] không còn nghi hoặc liền tự rõ biết mình sẽ thành Phật. Đại lược là như thế.[64]
____________________________
CHÚ THÍCH
[1] Liễu nhân chủng tử: tức là chủng tử của liễu nhân Phật tánh, theo nghĩa trong kinh Đại Bát Niết-bàn đã dẫn ở trước, phân biệt với chánh nhân và duyên nhân.
[2] Nguyên tác dùng chữ “俱胝 - câu-chi”, Phạn ngữ là koṭi, chỉ số lượng một trăm ngàn (100.000), nhưng thường được dùng với ý nghĩa biểu trưng cho số lượng rất nhiều, không nhất thiết chính xác.
[3] Tánh vô nhân (無因性), tức là nói tánh không có nguyên nhân, tự nhiên sinh.
[4] Câu này nguyên tác Đại Chánh tạng chép là: “佛種從緣起者。中道無。性即是佛種。 - Phật chủng tùng duyên khởi. Trung đạo vô. Tánh tức thị Phật chủng.” Do dấu chấm đặt không đúng nên kinh văn trở thành tối nghĩa. Đúng ra phải chép là: “Phật chủng tùng duyên khởi, trung đạo vô tánh tức thị Phật chủng.” Chúng tôi chuyển dịch theo ý nghĩa này.
[5] Đoạn này sử dụng ý nghĩa ba loại tánh Phật được nói trong kinh Đại Bát Niết-bàn như đã dẫn ở trước: chánh nhân Phật tánh, liễu nhân Phật tánh và duyên nhân Phật tánh.
[6] Sáu ý nghĩa giảng rộng này đã được nêu ra trong phần giảng giải ở trước, bao gồm: Thứ nhất, xưng tán chánh pháp [của Phật] là ít có. Thứ hai, [Phật] giảng thuyết không hư dối. Thứ ba, trừ bỏ pháp phương tiện. Thứ tư, chỉ bày pháp chân thật. Thứ năm, nêu năm sự uế trược để giải thích về pháp quyền biến phương tiện. Thứ sáu, chọn trừ hư ngụy, nêu cao chân thật.
[7] Tức là các nghĩa giáo nhất, lý nhất, hành nhất và nhân nhất.
[8] Văn Cú nói là “從譬如下 - tùng thí như hạ”. Tuy nhiên, đây là câu kệ mở đầu phần trùng tụng phía sau, ở trang 13c, d.19, kinh văn đã dẫn. Và như vậy không thể nói “竟願時賜與 - cánh nguyện thời tứ dữ” (nguyện đến lúc ban cho), bởi vì câu này nằm trong phần văn trường hàng phía trước chứ không phải sau câu kệ vừa nói. Do vậy, theo ý nghĩa đang nói thì đây phải là câu kinh văn trường hàng mở đầu thí dụ về ông trưởng giả.
[9] Kinh Pháp hoa đã dẫn, trang 12c, d.17: “願時賜與 - nguyện thời tứ dữ”.
[10] Kinh Pháp hoa đã dẫn, trang 12c, d.18: “舍利弗!爾時長者各賜諸子等一大車 - Xá-lợi-phất! Nhĩ thời trưởng giả các tứ chư tử đẳng nhất đại xa”.
[11] Kinh Pháp hoa đã dẫn, trang 13a, dòng thứ nhất: “諸子各乘大車,得未曾有 - chư tử các thừa đại xa, đắc vị tằng hữu”.
[12] Kinh Pháp hoa đã dẫn, trang 13a, d.2: “是長者等與諸子 - thị trưởng giả đẳng dữ chư tử...” Văn Cú trích lại nhầm một chữ, đổi chữ dữ - 與 trong kinh văn thành chữ tứ - 賜.
[13] Kinh Pháp hoa đã dẫn, trang 13a, d.3: “寧有虛妄不?- ninh hữu hư vọng phủ?”
[14] Huyền Sướng (玄暢), sinh năm 416, viên tịch năm 484. Ngài họ Triệu, là người Kim Thành, Hà Tây. Ngài xuất gia ở Lương Châu, hiệu là Tuệ Trí, về sau đến Bình Thành theo học với ngài Huyền Cao mới đổi hiệu là Huyền Sướng.
[15] Chưa biết rõ về vị này, chỉ biết là đệ tử của ngài Tuệ Viễn (334-416).
[16] Nếu đúng như Văn Cú chép ở đây gồm 1 khổ kệ (4 câu) thì còn có 22 câu không thấy kể vào. Đó là từ câu “Như nghi thức thuyết pháp...” cho đến câu “Hiếm hơn hoa ưu-đàm”, trước khi đến câu “Các ông chớ hoài nghi” của phần thứ mười. Tuy nhiên, theo ý nghĩa được giải thích ở đây là “chúng sinh hoan hỷ” thì e rằng Văn Cú đã chép nhầm, không phải 1 khổ kệ mà phải là 6 khổ rưỡi, tức 26 câu.
[17] Nguyên tác dùng “十九句 - thập cửu cú“ không hẳn là chỉ 19 câu văn. Đây là dẫn theo cách phân chia các ý trong phần kinh văn này của ngài Quang Trạch.
[18] Bốn lỗi như trên là nói bốn sự khác biệt vừa nêu, bao gồm các ý nghĩa khác biệt là: 1. Tiền hậu (trước-sau), 2. Đại tiểu (lớn-nhỏ, Đại thừa-Tiểu thừa), 3. Nhân quả (nguyên nhân-kết quả) và 4. Hữu vô (có-không).
[19] Tức là chỉ cho những cách hiểu của các vị Pháp Dao, Huyền Sướng, Long Sư, Quang Trạch vừa trình bày ở phần trên.
[20] Ở đây dùng lại ý nghĩa “ba lần thuyết pháp” đã giảng ở trước. Lần thứ nhất là thuyết chánh pháp cho hàng thượng căn, lần thứ hai là thuyết thí dụ cho hàng trung căn và lần thứ ba là thuyết nhân duyên cho hàng hạ căn.
[21] Nguyên tác dùng “四人信解 - tứ nhân tín giải” (chỗ tin hiểu của bốn người), tức là chỉ bốn vị Đại Thanh văn gồm Tu-bồ-đề, Ca-chiên-diên, Ca-diếp và Mục-kiền-liên. Trong phẩm Tin hiểu, bốn vị này sau khi nghe Phật thụ ký cho ngài Xá-lợi-phất thuộc hàng Thanh văn thì vui mừng bày tỏ sự tin hiểu của mình trước đức Phật.
[22] Năm đường: tức cõi trời, cõi người, cõi địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh. Theo khái niệm này thì loài a-tu-la được xem là hiện hữu trong cả năm đường. Nếu tách riêng a-tu-la thì gọi là sáu đường (lục đạo).
[23] Văn Cú nói là bắt đầu từ câu “ngã dĩ Phật nhãn quán” (ta dùng Phật nhãn quán), nhưng như vậy không đúng với cách tính 4 khổ kệ cho đoạn này, mà phải gồm cả câu trước đó là “Xá-lợi-phất đương tri”.
[24] Giống như trước, Văn Cú nói bắt đầu từ câu “Ngã kiến Phật tử đẳng” (ta thấy những Phật tử) nhưng thật ra phải bắt đầu từ câu “Xá-lợi-phất đương tri” mới đúng là 6 khổ kệ.
[25] Tứ nhất: bao gồm lý nhất, nhân nhất, giáo nhất và hành nhất.
[26] Sáu nghĩa đã nói ở trước, bao gồm: 1. Xưng tán chánh pháp là ít có. 2. Phật giảng thuyết không hư dối. 3. Khai mở phương tiện. 4. Hiển bày lẽ chân thật. 5. Nêu năm sự uế trược để giải thích về quyền. 6. Chọn trừ hư ngụy, nêu cao chân thật.
[27] Ở đây phân chia lại khác với bên trên, thay vì 4 tổng đoạn thì chia tổng đoạn thứ tư thành 3 tổng đoạn, do đó thành 6 tổng đoạn.
[28] Tức là 2 câu và 1 chữ: “舍利弗當知, 我以佛眼觀,見 - Xá-lợi-phất đương tri, ngã dĩ Phật nhãn quán, kiến...”
[29] Lô-xá-na Phật (盧舍那佛), tức Tì-lô-giá-na Phật (毗盧遮那佛), phiên âm từ Phạn ngữ Vairocana, dịch nghĩa là “光明遍照 - quang minh biến chiếu” để chỉ trí tuệ Phật có thể soi chiếu cùng khắp, cũng được hiểu là Pháp thân Phật.
[30] Văn Cú dùng “老比丘像 - lão tỳ-kheo tượng“ (hình tượng vị tỳ-kheo già) là cách nói ngắn gọn, chỉ việc đức Phật thị hiện thân người bình thường, giáo hóa cho đến lúc già yếu rồi nhập Niết-bàn, không khác người bình thường.
[31] Văn Cú nói phần này là “半行 - bán hàng” (nửa khổ kệ) nhưng không đúng, vì theo cấu trúc đã phân chia ở trước thì chỗ này chỉ là 4 chữ và một câu.
[32] Đây là nói quan điểm của hạng ngoại đạo khổ hạnh gọi là Ngũ nhiệt chích thân ngoại đạo. Cách tu tập của họ là phơi mình dưới nắng nóng và đồng thời đốt lửa ở bốn phía chung quanh, cho nên gọi là “ngũ nhiệt”. Hạng ngoại đạo này tin rằng chịu đựng sự khổ hạnh như thế sẽ giúp họ thoát khổ ở thế gian.
[33] Nguyên tác dùng “六衰 - lục suy” (sáu pháp suy hao), chỉ sáu căn của chúng sinh khi chạy theo sáu trần cảnh thôi thúc chúng sinh tạo các nghiệp thiện ác khiến cho khả năng giác ngộ ngày càng suy hao.
[34] Văn Cú trích dẫn câu này là: “無五趣 五陰六衰 則是泥洹 - vô ngũ thú, ngũ ấm, lục suy tắc thị Niết-bàn“. Như vậy không đầy đủ và cũng không chính xác, vì nguyên văn trong kinh Phổ Diệu là: “不慕五趣, 以無五陰, 三毒, 六衰則是泥洹 - Bất mộ ngũ thú, dĩ vô ngũ ấm, tam độc, lục suy tắc thị Niết-bàn.” (Không tham luyến năm đường, do không có năm ấm, không có ba độc [tham, sân, si], không có sáu pháp suy hao, đó chính là Niết-bàn.) (ĐCT, T3, 186, tr.507c, d.24-25) Chúng tôi chuyển dịch theo đúng nội dung kinh văn.
[35] Đây là nói chúng sinh trong cõi địa ngục do nghiệp lực nên khi bị hành hình đến nỗi thân thể bị thiêu cháy hay băm nát nhưng cũng không mất hẳn mà lập tức sinh ra tiếp nối trở lại như cũ để tiếp tục thọ hình.
[36] Tức là nói các loài chim, rồng v.v.
[37] Nguyên tác nói “能得解脫達分得正決定 - năng đắc giải thoát đạt phân đắc chánh quyết định”. Văn Cú Ký giải thích: “涅槃名解脫。所修善根不住生死名之為達。聲聞三生支佛百劫解脫之分, 名解脫分。得正決定者, 初果也。 - Niết-bàn danh giải thoát. Sở tu thiện căn bất trụ sinh tử danh chi vi đạt. Thanh văn tam sinh, Chi Phật bách kiếp giải thoát chi phần, danh giải thoát phần. Đắc chánh quyết định giả, sơ quả dã.” (ĐCT, T34, 1719, tr.250b, d.27-29.) Theo sự giải thích này thì biết Văn Cú muốn đề cập đến việc giữ hạnh thanh tịnh (không dâm dục) là nhân dẫn đến các quả giải thoát trong cả ba thừa.
[38] Nguyên tác nói “phi chúng sinh số”. Kinh Đại Bát Niết-bàn, quyển, nói: “穀米草木無命無我, 非眾生數。 - Cốc mễ thảo mộc vô mạng vô ngã, phi chúng sinh số.” (Lúa gạo cỏ cây không có sinh mạng, không có ngã, không được tính như chúng sinh.) Ở đây hàm nghĩa không phải chúng sinh hữu tình.
[39] Đoạn này Văn Cú nói rất rất sơ lược và khó hiểu: “初皆正語, 若受苦痛聲不復可分別。- sơ giai chánh ngữ, nhược thọ khổ thống thanh bất phục khả phân biệt.” Văn Cú Ký giải thích là: “初皆正語等者, 初至地獄如本有語, 後時但作波波等聲, 不復可辯。 - Sơ giai chánh ngữ đẳng giả, sơ chí địa ngục như bản hữu ngữ, hậu thời đãn tác ba ba đẳng thanh, bất phục khả biện.” (Ban đầu còn có thể nói năng, là khi mới đến địa ngục còn nói năng được bằng ngôn ngữ vốn có, về sau [khi bị hành hình] chỉ còn phát ra những tiếng lắp bắp lập cập, không thể phân biệt được.) (ĐCT, T34, 1719, tr.250c, d.16-17.)
[40] Văn Cú nói là “形傍行傍故名畜生 - hình bàng hành bàng cố danh súc sanh”, do đó chúng tôi chuyển dịch như trên. Tuy nhiên, theo từ điển Phật Quang thì chữ bàng (傍) dùng để chỉ loài súc sinh là bàng sinh (傍生), do mang nghĩa là nằm về một bên, không ngay chánh, và bàng sinh có nghĩa không thuộc về hai đường chánh là cõi trời và cõi người (非人天之正道- phi nhân thiên chi chánh đạo).
[41] Giải thích này của Văn Cú có lẽ dựa theo niềm tin của Ấn giáo chứ không phải Phật giáo. Truyền thuyết Ấn Độ tin rằng vào thuở ban sơ khai sinh thế giới thì loài quỷ có trước tiên, cho nên gọi là tổ phụ.
[42] Nguyên tác dùng “能修道得達分 - năng tu đạo đắc đạt phần”, theo ý nghĩa đã được giải thích ở trước.
[43] Phần trước thường dùng năm đường, tức không tính đến loài a-tu-la. Ở đây nói sáu đường (lục thú) nên gồm đủ cõi trời, cõi người, a-tu-la, địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh.
[44] Nguyên tác Văn Cú đến đây hết quyển 4, bắt đầu quyển 5.
[45] Vua Ác Sinh (惡生王), tức là vua Ca-lợi (哥利王), câu chuyện này cũng được nhắc đến trong kinh Kim Cang. Tên Phạn ngữ của vị vua này là Kaliṅgarāja, dịch theo ý nghĩa là “ác sanh”.
[46] Chỗ này Văn Cú dùng tên Câu-lân (拘鄰).
[47] Câu trả lời này nêu ra 6 lý do để giải thích, nhưng không nói đến việc chuyển pháp luân trước nhất với nhóm năm người của ông Kiều-trần-như, mà nói việc chuyển pháp luân trước nhất trong loài người. Văn Cú Ký giải thích rằng: “問雖涉五意正問人, 故皆以人答。 - Vấn tuy thiệp ngũ ý chánh vấn nhân, cố giai dĩ nhân đáp.” (Câu hỏi tuy có liên quan đến số năm người, nhưng ý chính là hỏi về người, cho nên đáp về con người.)
[48] Nguyên tác dùng Thủ-đà-hội (首陀會), tức là tên khác của Ngũ tịnh cư thiên (五淨居天), cũng được gọi là Ngũ bất hoàn thiên (五不還天). Đây là các tầng trời cao nhất trong Sắc giới.
[49] Văn Cú Ký giải thích phần này rằng, nghiệp thiện là nhân đã tạo của vua Chuyển luân (thuộc bậc hạ); nghiệp khen ngợi là nhân đã tạo của ngài Kiều-trần-như (thuộc bậc trung) và nghiệp xưng tán cha mẹ thầy tổ là nhân đã tạo của Phật (thuộc bậc thượng).
[50] Cõi trời Hữu đỉnh (有頂天) là cõi trời cao nhất của Vô sắc giới. Do thuộc về cõi Vô sắc, hoàn toàn không còn có hình sắc, âm thanh... nên chư thiên ở đó không có nhãn thức, nhĩ thức...
[51] Phạm thiên được xem là vị đứng đầu thế giới Ta-bà, sống ở cảnh giới thanh tịnh, tức cõi trời Sơ thiền. Người tu tập từ bỏ dâm dục được gọi là Phạm hạnh, được hiểu là hạnh thanh tịnh. Giải thích của Văn Cú ở đây cho là do mối tương quan giữa ngài Kiều-trần-như chứng quả được thanh tịnh mà có âm thanh chấn động đến cõi Phạm thiên thanh tịnh.
[52] Nguyên tác dùng “尼吒 - Ni-trá”, tức là A-ca-ni-trá (阿迦尼吒), tên khác của tầng trời cao nhất trong Sắc giới mà ở trên đã gọi là Thủ-đà-hội.
[53] Bản Đại Chánh tạng ghi là “皆無機不得 - giai vô cơ bất đắc” rất tối nghĩa và dễ bị hiểu sai. Trong thực tế câu này là “giai vô cơ, bất đắc” và cả hai phần đều được dùng với cách nói lược. Diễn đạt một cách đầy đủ ý nghĩa ở đây thì “giai vô cơ” nghĩa là “đều không tìm thấy chúng sinh nào có căn cơ thích hợp” và “bất đắc” là “không thể dùng Đại thừa giáo hóa chúng sanh”.
[54] Văn Cú chép nhầm là “第二有二行 - đệ nhị hữu nhị hàng” (đoạn thứ hai có 2 khổ kệ), vì ở đây đã nói đến đoạn thứ ba, cho nên phải là “đệ tam hữu nhị hàng”.
[55] Những trích dẫn của Văn Cú thường chỉ lược ghi vài ba chữ, khi chuyển dịch chúng tôi ghi đủ nguyên câu kệ để độc giả dễ nhận hiểu.
[56] Nguyên tác dùng “偏真之理 - thiên chân chi lý” để chỉ chân lý được thuyết giảng bởi Tiểu thừa vốn có thiên lệch về lẽ không, chưa phải chân lý rốt ráo.
[57] Tứ môn (四門): bốn cửa, tức bốn cửa pháp hay bốn cửa vào đạo, bao gồm cửa pháp có (有門 - hữu môn), cửa pháp không (空門 - không môn), cửa pháp cũng có cũng không (亦有亦空門 - diệc hữu diệc không môn) và cửa pháp chẳng phải có chẳng phải không (非有非空門 - phi hữu phi không môn). Giáo lý tứ môn là đặc thù của tông Thiên Thai.
[58] Kiến đế (見諦): thấy được chân lý, ở đây là nói Tứ diệu đế. Kiến đế cũng có nghĩa là chứng đắc sơ quả, tức quả dự lưu trong bốn thánh quả Tiểu thừa.
[59] Văn Cú nói bắt đầu từ câu “ta thấy những Phật tử”, nhưng thật ra phần này bắt đầu từ câu trước đó: “Xá-lợi-phất nên biết.”
[60] Năm thừa ở đây chỉ thiên thừa, nhân thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ Tát Tạng giáo.
[61] Nguyên tác dùng Lục độ Bồ Tát, chỉ hàng Bồ Tát thuộc Tạng giáo tu tập sáu pháp ba-la-mật.
[62] Văn Cú dùng chữ “兼對 - kiêm đối” ý nói hàm nghĩa kèm theo, đối lại với nghĩa vừa nói, vì trong lời kệ chỉ nói “nếu không học không tu, thì không thể thấu hiểu” chứ không nói đến trường hợp “có học có tu”. Do vậy, đây là hàm ý được suy ra.
[63] Nguyên tác dùng “上法 - thượng pháp”, chỉ quả vị giải thoát tối thượng, Vô thượng.
[64] Đến đây là hết phần giảng giải về phẩm Phương tiện nhưng chưa hết quyển 5 của Văn Cú.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.108 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập