A. Học thuyết: Thuyết niệm Phật vãng sinh được giảng rõ trong các bộ
kinh căn bản của Tịnh độ tông. Theo thuyết này, chúng sinh dù tạo nhiều
ác nghiệp, chỉ cần có đủ niềm tin vào đức Phật A-di-đà, hết lòng xưng
niệm danh hiệu của ngài thì đều có thể được vãng sinh về thế giới của
ngài, tức là cõi Tây phương Tịnh độ, hay cõi Cực lạc.
Cơ sở của niềm tin này là 48 lời đại nguyện của đức Phật A-di-đà từ khi
ngài còn hành đạo Bồ Tát. Theo đó, khi ngài thành Phật, nếu có bất cứ
chúng sinh nào phát tâm cầu được sinh về cõi thế giới của ngài, thành
tâm xưng niệm danh hiệu của ngài, ngài sẽ hiện đến trước mặt người ấy
vào lúc lâm chung để tiếp dẫn cho được vãng sinh như nguyện.
Như vậy, điểm khác biệt căn bản giữa thuyết Tịnh độ với các thuyết khác
là niềm tin vào tha lực, kết hợp với tự lực của người tu. Nhờ có sự kết
hợp này, nên ngay cả khi người niệm Phật còn nhiều ác nghiệp vẫn có thể
được vãng sinh về cõi Phật, gọi là “đới nghiệp vãng sinh”.
Vì những chúng sinh còn nhiều ác nghiệp vẫn có thể vãng sinh, nên khi
sinh về cõi Phật cũng không phải tất cả mọi chúng sinh đều như nhau, mà
tùy theo hạnh nghiệp trước đó sẽ được hóa sinh vào một trong 9 phẩm. Tùy
theo mức độ tu tập và hạnh nghiệp, chúng sinh khi vãng sinh về cõi thế
giới Cực lạc sẽ hóa sinh từ bậc thấp nhất là Hạ phẩm, bậc trung bình là
Trung phẩm và bậc cao nhất là Thượng phẩm. Trong mỗi bậc đều có phân ra
từ Hạ sinh cho đến Trung sinh, rồi đến Thượng sinh. Như vậy, có cả thảy
là 9 bậc, từ Hạ phẩm Hạ sinh là thấp nhất cho đến Thượng phẩm Thượng
sinh là cao nhất.
Giáo lý Tịnh độ tông dạy rằng, con người vào thời mạt pháp, khi chánh
pháp đã suy vi, thường không có đủ căn lành và trí tuệ như các bậc hiền
thánh xưa kia. Vì vậy, việc tu chứng theo các pháp môn khác là cực kỳ
khó khăn. Trong khi đó, việc tu theo pháp môn niệm Phật không đòi hỏi
nhiều trí tuệ, chỉ cần có đủ quyết tâm và đức tin là bất cứ ai cũng có
thể thực hiện và đạt được kết quả viên mãn.
Điều này cũng ví như người muốn mang hòn đá nặng qua sông, nếu không có
sức mạnh thì không thể làm nổi. Nhưng nếu biết dùng một chiếc thuyền,
đặt hòn đá lên trên đó thì có thể nhẹ nhàng chèo đi mà vẫn đưa hòn đá
được sang bên kia sông! Chiếc thuyền của người tu Tịnh độ chính là
nguyện lực của đức Phật A-di-đà. Nếu người tu biết nương vào đó thì dù
sức yếu vẫn có thể làm được việc rất khó làm, nghĩa là được sinh về cõi
Phật.
Thật ra, tất cả các tông phái khác nhau của đạo Phật cũng đều có yếu tố
đức tin vào chư Phật. Điều khác biệt ở đây là Tịnh độ tông nhấn mạnh vào
đức tin này nhiều hơn, và không chỉ tin vào đức Phật, mà còn là tin vào
nguyện lực tiếp dẫn rất cụ thể của ngài.
Một điểm rất đáng chú ý là giáo lý của Tịnh độ tông hoàn toàn không
tương phản hay làm ngăn ngại việc tiếp nhận giáo lý của các tông phái
khác. Chính điểm đặc biệt này đã khiến cho Tịnh độ tông ngày càng thâm
nhập rất sâu vào tất cả các tông phái khác, và việc niệm Phật dần trở
nên một pháp môn quen thuộc đối với tất cả mọi tín đồ Phật giáo.
Từ khoảng sau thế kỷ 9, ngay cả Thiền tông cũng có nhiều bậc đại sư cổ
xúy việc “Thiền-Tịnh song tu”, nghĩa là kết hợp cả việc tu thiền và việc
niệm Phật cầu vãng sinh. Khuynh hướng này hiện đến nay vẫn còn phổ biến
ở hầu hết các chùa.
B. 48 đại nguyện của đức Phật A-di-đà: Đức tin căn bản của Tịnh độ tông
được dựa trên nguyện lực của đức Phật A-di-đà. Vì thế, nội dung 48 lời
nguyện của ngài từ khi còn hành đạo Bồ Tát là rất quan trọng để giúp
người niệm Phật sinh khởi lòng tin. Bốn mươi tám lời đại nguyện này được
ghi chép đầy đủ trong Đại A-di-đà kinh. Trong kinh Vô Lượng Thọ cũng có
đủ 48 lời nguyện này, nhưng sự sắp xếp trật tự có phần khác và nội dung
cũng có phần giản lược hơn. Để giúp quý độc giả tiện việc tham khảo,
chúng tôi chọn dịch và giới thiệu nội dung 48 lời nguyện này theo kinh
Đại A-di-đà, bản Hán văn do Quốc học Tiến sĩ Vương Nhật Hưu đời Tống
hiệu chỉnh và biên tập.
Đại nguyện thứ nhất: Sau khi ta thành Phật, nguyện cho nhân dân trong
cõi nước của ta tránh khỏi ba đường ác: Địa ngục, Ngạ quỉ, Súc sanh, cho
đến không có các loài trùng bọ biết bò, biết bay, biết động đậy... Nếu
không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ nhì: Sau khi ta thành Phật, nguyện cho trong cõi nước của
ta không có nữ giới. Tất cả chư thiên, loài người cho đến các loài trùng
bọ biết bò, biết bay, biết động đậy... trong vô số thế giới khác, nếu
được sinh về cõi nước của ta đều sẽ hóa sinh ra từ hoa sen quý trong hồ
nước bằng bảy báu. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ ba: Sau khi ta thành Phật, nguyện cho chúng sinh trong
cõi nước của ta khi muốn ăn liền có trăm vị ngon lạ tự nhiên hiện ra
trong bát quý bằng bảy báu. Sau khi ăn xong thì bát ấy tự nhiên biến
mất. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ tư: Sau khi ta thành Phật, chúng sinh trong cõi nước của
ta khi cần đến y phục thì vừa nghĩ đến liền có ngay đúng như ý muốn,
không bao giờ phải cần đến những việc cắt, may, nhuộm, sửa... Nếu không
được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ năm: Sau khi ta thành Phật, nguyện cho trong cõi nước của
ta từ mặt đất lên tận hư không đều có những cung điện lầu gác xinh đẹp,
có đủ các hương thơm vi diệu hợp thành. Hương thơm ấy xông khắp các thế
giới trong mười phương. Những chúng sinh nào ngửi được mùi hương ấy đều
phát tâm tu theo hạnh Phật. Nếu không được vậy, ta quyết không thành
Phật.
Đại nguyện thứ sáu: Sau khi ta thành Phật, nguyện cho chúng sinh trong
cõi nước của ta đều thương yêu kính trọng lẫn nhau, không có lòng ganh
ghét oán giận. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ bảy: Sau khi ta thành Phật, nguyện cho chúng sinh trong
cõi nước của ta đều không có các tâm tham lam, sân hận và si mê. Nếu
không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ tám: Sau khi ta thành Phật, nguyện cho chúng sinh trong
cõi nước của ta đều cùng một tâm lành, không nghi ngờ lẫn nhau. Có điều
gì vừa muốn nói ra thì tự nhiên đều hiểu được ý nhau. Nếu không được
vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ chín: Sau khi ta thành Phật, nguyện cho chúng sinh trong
cõi nước của ta đều không nghe biết đến những danh từ chỉ sự bất thiện,
huống chi là thật có những điều ấy. Nếu không được vậy, ta quyết không
thành Phật.
Đại nguyện thứ mười: Sau khi ta thành Phật, nguyện cho chúng sinh trong
cõi nước của ta đều biết rõ thân thể là hư huyễn, không có tâm tham đắm.
Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ mười một: Sau khi ta thành Phật, nguyện cho chúng sinh
trong cõi nước của ta tuy có phân ra loài người và chư thiên khác nhau,
nhưng đều có hình thể toàn một màu vàng ròng, vẻ mặt đoan chánh đẹp đẽ,
không ai có những nét xấu xí. Nếu không được vậy, ta quyết không thành
Phật.
Đại nguyện thứ mười hai: Sau khi ta thành Phật, ví như chư thiên và loài
người trong khắp vô lượng thế giới mười phương, cho đến các loài trùng
bọ biết bò, biết bay, biết động đậy... thảy đều được sinh làm người, đều
tu tập chứng quả Thanh văn, Duyên giác, đều tu thiền đạt đến mức nhất
tâm, rồi cùng nhau muốn tính đếm tuổi thọ của ta. Tính đếm như vậy trong
cả ngàn muôn vạn kiếp cũng không một ai có thể biết được. Nếu không được
vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ mười ba: Sau khi ta thành Phật, ví như chư thiên và loài
người trong khắp vô lượng thế giới mười phương, cho đến các loài trùng
bọ biết bò, biết bay, biết động đậy... thảy đều được sinh làm người, đều
tu tập chứng quả Thanh văn, Duyên giác, đều tu thiền đạt đến mức nhất
tâm, rồi cùng nhau muốn tính đếm số chúng sinh trong cõi nước của ta.
Tính đếm như vậy trong cả ngàn muôn vạn kiếp cũng không một ai có thể
biết được. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ mười bốn: Sau khi ta thành Phật, nguyện cho chúng sinh
trong cõi nước của ta đều có thọ mạng dài lâu vô số kiếp, không ai có
thể tính đếm được. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ mười lăm: Sau khi ta thành Phật, nguyện cho chúng sinh
trong cõi nước của ta thảy đều được thọ hưởng những sự khoái lạc không
khác gì các bậc tỳ-kheo đã dứt sạch lậu hoặc. Nếu không được vậy, ta
quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ mười sáu: Sau khi ta thành Phật, nguyện cho chúng sinh
trong cõi nước của ta đều trụ nơi địa vị chánh tín, lìa xa mọi tư tưởng
điên đảo, phân biệt, các căn đều tịch tĩnh, dừng lắng cho đến lúc đạt
được Niết-bàn. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ mười bảy: Sau khi ta thành Phật, sự thuyết giảng kinh
điển và tu hành đạo pháp đều nhiều hơn gấp mười lần so với chư Phật. Nếu
không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ mười tám: Sau khi ta thành Phật, nguyện cho tất cả chúng
sinh trong cõi nước của ta đều rõ biết hết thảy những kiếp quá khứ, biết
được mọi sự việc đã xảy ra trong trăm ngàn muôn ức na-do-tha kiếp.
Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ mười chín: Sau khi ta thành Phật, nguyện cho tất cả chúng
sinh trong cõi nước của ta đều được thiên nhãn, nhìn thấy khắp trăm ngàn
ức na-do-tha thế giới. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ hai mươi: Sau khi ta thành Phật, nguyện cho tất cả chúng
sinh trong cõi nước của ta đều được thiên nhĩ, nghe được tiếng thuyết
pháp của trăm ngàn ức na-do-tha chư Phật. Nghe rồi liền có thể nhận lãnh
làm theo. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ hai mươi mốt: Sau khi ta thành Phật, nguyện cho tất cả
chúng sinh trong cõi nước của ta đều được tha tâm trí, rõ biết được tâm
niệm của hết thảy chúng sinh trong trăm ngàn ức na-do-tha thế giới. Nếu
không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ hai mươi hai: Sau khi ta thành Phật, nguyện cho tất cả
chúng sinh trong cõi nước của ta đều được phép Thần túc, chỉ trong
khoảng thời gian của một niệm có thể vượt qua được trăm ngàn ức
na-do-tha thế giới. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ hai mươi ba: Sau khi ta thành Phật, danh hiệu của ta vang
truyền khắp vô số thế giới trong mười phương. Hết thảy chư Phật trong
các thế giới ấy, mỗi vị đều ở giữa đại chúng mà xưng tán công đức của ta
cùng ca ngợi cõi thế giới thù thắng của ta. Hết thảy chư thiên, loài
người, cho đến các loài trùng bọ biết bò, biết bay, biết động đậy... khi
nghe được danh hiệu của ta, chỉ cần phát khởi tâm lành mừng vui hoan hỷ,
thì hết thảy đều sẽ được sinh về thế giới của ta. Nếu không được vậy, ta
quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ hai mươi bốn: Sau khi ta thành Phật, hào quang trên đỉnh
đầu của ta chiếu sáng rực rỡ nhiệm mầu, vượt hơn ánh sáng của mặt trời
mặt trăng đến trăm ngàn vạn lần. Nếu không được vậy, ta quyết không
thành Phật.
Đại nguyện thứ hai mươi lăm: Sau khi ta thành Phật, hào quang của ta
chiếu sáng đến khắp những chỗ tối tăm u ám trong vô số cõi thế giới,
khiến cho đều sáng rực. Hết thảy chư thiên và loài người, cho đến các
loài trùng bọ biết bò, biết bay, biết động đậy... khi được thấy hào
quang của ta rồi thảy đều sinh khởi lòng từ, muốn làm việc thiện, rồi
tất cả đều được sinh về thế giới của ta. Nếu không được vậy, ta quyết
không thành Phật.
Đại nguyện thứ hai mươi sáu: Sau khi ta thành Phật, chư thiên và loài
người trong vô số cõi thế giới, cho đến các loài trùng bọ biết bò, biết
bay, biết động đậy... khi được hào quang của ta chiếu vào thân thể liền
được thân tâm từ hòa hơn cả chư thiên. Nếu không được vậy, ta quyết
không thành Phật.
Đại nguyện thứ hai mươi bảy: Sau khi ta thành Phật, chư thiên và loài
người trong vô số cõi thế giới, nếu có ai phát tâm Bồ-đề, vâng giữ trai
giới, thực hành sáu pháp ba-la-mật, tu các công đức, hết lòng phát
nguyện được sinh về thế giới của ta, thì khi người ấy lâm chung ta sẽ
cùng với đại chúng hiện đến trước mặt, tiếp dẫn người ấy sinh về thế
giới của ta, làm bậc Bồ Tát trụ ở địa vị không còn thối chuyển. Nếu
không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ hai mươi tám: Sau khi ta thành Phật, chư thiên và loài
người trong vô số cõi thế giới, nếu có ai được nghe danh hiệu của ta
liền thắp hương, dâng hoa, dùng các thứ đèn đuốc, cờ phướn trang nghiêm,
cúng dường trai tăng, xây dựng chùa tháp, giữ gìn trai giới thanh tịnh,
làm các việc thiện, một lòng nhớ nghĩ đến ta, cho dù chỉ trong một ngày
một đêm không gián đoạn, cũng chắc chắn sẽ được sinh về cõi thế giới của
ta. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ hai mươi chín: Sau khi ta thành Phật, chư thiên và loài
người trong vô số cõi thế giới, nếu có ai hết lòng tin tưởng muốn được
sinh về cõi thế giới của ta, chỉ cần niệm rõ lên danh hiệu của ta mười
tiếng, hết thảy liền được sinh về cõi thế giới của ta, chỉ trừ ra những
kẻ phạm vào năm tội nghịch
[52] hoặc phỉ báng Chánh
pháp. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ ba mươi: Sau khi ta thành Phật, chư thiên và loài người
trong vô số cõi thế giới, cho đến các loài trùng bọ biết bò, biết bay,
biết động đậy... nếu như trong tiền kiếp đã từng làm các việc ác, nay
được nghe danh hiệu của ta liền hết lòng sám hối, quay sang làm thiện,
vâng giữ giới luật, thọ trì kinh điển, phát nguyện được sinh về thế giới
của ta, thì khi lâm chung liền không bị đọa vào trong ba đường ác, thẳng
tắt một đường sinh về thế giới của ta, mọi chỗ mong cầu đều được như ý.
Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ ba mươi mốt: Sau khi ta thành Phật, chư thiên và loài
người trong vô số cõi thế giới, nếu ai được nghe danh hiệu của ta liền
cúi đầu sát đất lễ lạy cung kính, mừng vui tin tưởng phát tâm ưa muốn tu
theo hạnh Bồ Tát, liền được hết thảy chư thiên và người đời kính trọng.
Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ ba mươi hai: Sau khi ta thành Phật, hết thảy nữ nhân
trong vô số cõi thế giới, nếu được nghe danh hiệu của ta liền mừng vui
tin tưởng, phát tâm Bồ-đề, sinh lòng chán ghét thân nữ. Sau khi lâm
chung liền không còn phải thọ sinh làm thân nữ. Nếu không được vậy, ta
quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ ba mươi ba: Sau khi ta thành Phật, những chúng sinh nào
sinh về cõi thế giới của ta đều là hàng Bồ Tát Nhất sinh bổ xứ,
[53]
trừ ra những vị có phát nguyện sinh về những thế giới khác để giáo hóa
chúng sinh, tu hạnh Bồ Tát, cúng dường chư Phật liền được tùy ý sinh về
phương ấy. Ta sẽ dùng sức oai thần khiến cho vị ấy giáo hóa được hết
thảy chúng sinh đều phát khởi lòng tin, tu hạnh Bồ-đề, hạnh Phổ Hiền,
hạnh tịch diệt, Phạm hạnh thanh tịnh, hạnh cao trổi nhất, cùng với hết
thảy các hạnh lành. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ ba mươi bốn: Sau khi ta thành Phật, những chúng sinh nào
ở thế giới của ta muốn sinh về thế giới khác liền được như ý nguyện
nhưng không còn phải đọa vào trong ba đường ác. Nếu không được vậy, ta
quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ ba mươi lăm: Sau khi ta thành Phật, các vị Bồ Tát trong
thế giới của ta dùng đủ loại hương hoa, cờ phướn, trân châu, chuỗi ngọc,
cùng với đủ mọi thứ phẩm vật cúng dường, muốn hiện đến vô số cõi thế
giới để cúng dường chư Phật, liền chỉ trong khoảng thời gian của một bữa
ăn có thể hiện đến đủ khắp mọi nơi. Nếu không được vậy, ta quyết không
thành Phật.
Đại nguyện thứ ba mươi sáu: Sau khi ta thành Phật, các vị Bồ Tát trong
thế giới của ta nếu muốn dùng đủ mọi thứ phẩm vật cúng dường để cúng
dường vô số chư Phật trong mười phương, liền tức thời hiện đến trước các
vị Phật ấy với đầy đủ mọi thứ phẩm vật. Cúng dường rồi, ngay trong ngày
ấy chưa đến giờ thọ trai đã kịp trở về. Nếu không được vậy, ta quyết
không thành Phật.
Đại nguyện thứ ba mươi bảy: Sau khi ta thành Phật, các vị Bồ Tát trong
thế giới của ta thọ trì kinh pháp, tụng đọc, giảng thuyết, liền có đủ
biện tài trí huệ. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ ba mươi tám: Sau khi ta thành Phật, các vị Bồ Tát trong
thế giới của ta có thể giảng thuyết hết thảy các pháp, được biện tài trí
huệ không hạn lượng. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ ba mươi chín: Sau khi ta thành Phật, các vị Bồ Tát trong
thế giới của ta đều được sức mạnh như lực sĩ Kim cang na-la-diên ở cõi
trời, thân thể đều toàn một màu sáng đẹp như vàng tử ma, có đủ ba mươi
hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, giảng kinh hành đạo không khác gì chư
Phật. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ bốn mươi: Sau khi ta thành Phật, cõi thế giới của ta
thanh tịnh soi chiếu khắp vô lượng thế giới trong mười phương. Các vị Bồ
Tát nếu muốn nhìn vào trong cây quý để thấy được hết thảy những cõi Phật
trang nghiêm thanh tịnh trong khắp mười phương, liền tức thời nhìn thấy
hiện ra đầy đủ như trong tấm gương sáng ở ngay trước mặt. Nếu không được
vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ bốn mươi mốt: Sau khi ta thành Phật, những vị Bồ Tát
trong cõi thế giới của ta, dù có ít công đức cũng có thể thấy biết được
cây bồ-đề nơi đạo tràng của ta cao đến bốn ngàn do-tuần. Nếu không được
vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ bốn mươi hai: Sau khi ta thành Phật, hết thảy chư thiên
và loài người cùng với vạn vật trong cõi thế giới của ta đều trang
nghiêm thanh tịnh, sáng suốt đẹp đẽ, hình dáng và màu sắc đều đặc biệt
kỳ diệu, nhiệm mầu tinh tế đến mức không ai có thể nói hết được. Chúng
sinh dù có đạt được thiên nhãn cũng không thể phân biệt gọi tên hay tính
đếm được hết mọi thứ trong thế giới của ta. Nếu không được vậy, ta quyết
không thành Phật.
Đại nguyện thứ bốn mươi ba: Sau khi ta thành Phật, hết thảy chúng sinh
trong cõi thế giới của ta, tùy theo chí nguyện, nếu muốn nghe pháp liền
tức thời được nghe. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ bốn mươi bốn: Sau khi ta thành Phật, hết thảy hàng Bồ Tát
hay Thanh văn trong cõi thế giới của ta đều có đủ trí huệ, thần lực,
trên đỉnh đầu cũng có hào quang chiếu sáng, tiếng nói phát ra vang rền,
lưu loát, giảng kinh hành đạo đều không khác với chư Phật. Nếu không
được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ bốn mươi lăm: Sau khi ta thành Phật, các vị Bồ Tát ở
những phương khác được nghe danh hiệu của ta đều quy y tinh tấn, đều
được phép Tam-muội thanh tịnh giải thoát. Các vị trụ yên nơi phép
tam-muội này thì chỉ trong thời gian một ý niệm khởi lên đã có thể cúng
dường vô số chư Phật mà vẫn không rời khỏi thiền định. Nếu không được
vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ bốn mươi sáu: Sau khi ta thành Phật, các vị Bồ Tát ở
những phương khác được nghe danh hiệu của ta đều quy y tinh tấn, đều
được phép Tam-muội Phổ đẳng, từ đó cho đến khi thành Phật luôn thường
được nhìn thấy vô số chư Phật. Nếu không được vậy, ta quyết không thành
Phật.
Đại nguyện thứ bốn mươi bảy: Sau khi ta thành Phật, các vị Bồ Tát ở
những phương khác được nghe danh hiệu của ta đều quy y tinh tấn, liền
được ngay địa vị không còn thối chuyển. Nếu không được vậy, ta quyết
không thành Phật.
Đại nguyện thứ bốn mươi tám: Sau khi ta thành Phật, các vị Bồ Tát ở
những phương khác được nghe danh hiệu của ta đều quy y tinh tấn, liền
được ngay các bậc nhẫn nhục từ thứ nhất, thứ hai cho đến thứ ba,
[54]
đều được phép Tam-muội thanh tịnh giải thoát. Các vị trụ yên nơi phép
tam-muội này thì chỉ trong thời gian một ý niệm khởi lên đã có thể cúng
dường vô số chư Phật mà vẫn không rời khỏi thiền định. Nếu không được
vậy, ta quyết không thành Phật.