Nỗ lực mang đến hạnh phúc cho người khác sẽ nâng cao chính bản thân ta. (An effort made for the happiness of others lifts above ourselves.)Lydia M. Child
Con người sinh ra trần trụi và chết đi cũng không mang theo được gì. Tất cả những giá trị chân thật mà chúng ta có thể có được luôn nằm ngay trong cách mà chúng ta sử dụng thời gian của đời mình.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Cách tốt nhất để tiêu diệt một kẻ thù là làm cho kẻ ấy trở thành một người bạn. (The best way to destroy an enemy is to make him a friend.)Abraham Lincoln
Chúng ta nên hối tiếc về những sai lầm và học hỏi từ đó, nhưng đừng bao giờ mang theo chúng vào tương lai. (We should regret our mistakes and learn from them, but never carry them forward into the future with us. )Lucy Maud Montgomery
Trời sinh voi sinh cỏ, nhưng cỏ không mọc trước miệng voi. (God gives every bird a worm, but he does not throw it into the nest. )Ngạn ngữ Thụy Điển
Một số người mang lại niềm vui cho bất cứ nơi nào họ đến, một số người khác tạo ra niềm vui khi họ rời đi. (Some cause happiness wherever they go; others whenever they go.)Oscar Wilde
Việc đánh giá một con người qua những câu hỏi của người ấy dễ dàng hơn là qua những câu trả lời người ấy đưa ra. (It is easier to judge the mind of a man by his questions rather than his answers.)Pierre-Marc-Gaston de Lévis
Mục đích cuộc đời ta là sống hạnh phúc. (The purpose of our lives is to be happy.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Cuộc sống không phải là vấn đề bất ổn cần giải quyết, mà là một thực tiễn để trải nghiệm. (Life is not a problem to be solved, but a reality to be experienced.)Soren Kierkegaard
Chúng ta có lỗi về những điều tốt mà ta đã không làm. (Every man is guilty of all the good he did not do.)Voltaire

Trang chủ »» Danh mục »» Rộng Mở Tâm Hồn »» Giảng giải Kinh Hoa Nghiêm »» Giảng giải Kinh Hoa Nghiêm - Tập 53 »»

Giảng giải Kinh Hoa Nghiêm
»» Giảng giải Kinh Hoa Nghiêm - Tập 53

Donate

(Lượt xem: 4.321)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       

Giảng giải Kinh Hoa Nghiêm - Giảng giải Kinh Hoa Nghiêm - Tập 53

Font chữ:



SÁCH AMAZON



Mua bản sách in

Xin mời quý vị mở bản kinh ra, trang 29, dòng thứ hai từ dưới lên.

[Lại có vô số các vị Chủ Phong thần, như là Tịnh Quang Phổ Chiếu Chủ không thần, Phổ Du Thâm Quảng Chủ không thần, Sinh Cát Tường Phong Chủ không thần, Ly Chướng An Trụ Chủ không thần, Quảng Bộ Diệu Kế Chủ không thần, Vô Ngại Quang Diệm Chủ không thần, Vô Ngại Thắng Lực Chủ không thần, Ly Cấu Quang Minh Chủ không thần, Thâm Viễn Diệu Âm Chủ không thần, Quang Biến Thập Phương Chủ không thần. Các vị như thế đều làm người đứng đầu, số lượng không thể tính đếm hết, đều là những vị có tâm lìa cấu nhiễm, rộng lớn, sáng tỏ và thanh khiết.]

Về đoạn kinh văn trên, Đại sư Thanh Lương giảng rằng, các vị Chủ không thần là biểu thị cho tánh “Không” của các pháp. Nếu quả thật trong chỗ khác biệt ý nghĩa đó liền nói lên ý “biến hiện khắp nơi lìa cấu nhiễm” thì cách giảng giải của Đại sư Thanh Lương thật rất hay. “Không” chính là đối với tướng “có”, nói “không” là thuyết về tánh, nói “có” là giảng về hình tướng biểu hiện. Hình tướng biểu hiện thì vô lượng vô biên, trăm ngàn cách biến hóa, nhưng có thể nói rằng thể tánh vẫn là một. Tánh thể tuy là một, nhưng nếu như theo chỗ sinh khởi diệu dụng mà nói thì cách giảng của Đại sư Thanh Lương rất hay. “Biến hiện khắp nơi lìa cấu nhiễm”, lìa cấu nhiễm là hàm ý thông suốt rõ ràng, biến hiện khắp nơi là hàm ý chưa thông suốt rõ ràng. Nếu như lìa cấu nhiễm mà không thể biến hiện khắp nơi, thì đó chưa phải là tự tánh.

Nói về “lìa cấu nhiễm”, thì các pháp cấu nhiễm nhiều vô lượng vô biên. Quy về một chỗ thì đạo Phật xem nguồn gốc của tất cả pháp cấu nhiễm đều là từ nơi sáu căn tiếp xúc với sáu trần cảnh. Đối với sáu trần cảnh đó, phàm phu không thể không bị vướng chấp, nhiễm ô. Mắt tiếp xúc với trần cảnh là các pháp hình sắc. Tai tiếp xúc với trần cảnh là các pháp âm thanh. Cho đến ý căn tiếp xúc với trần cảnh là tất cả các pháp. Đối với các trần cảnh ấy, phàm phu đều khởi sinh sự phân biệt, rơi vào sự chấp trước. Một khi đã có sự phân biệt vướng chấp tức là ô nhiễm.

Sở dĩ sáu cảnh bên ngoài được gọi là “trần”, vì trần nghĩa là bụi bặm, biểu thị ý nghĩa “nhiễm ô”. Mắt nhìn thấy hình sắc, ngay nơi hình sắc ấy khởi sinh phân biệt, khởi sinh sự chấp trước, phân biệt đẹp hay xấu. Ngay trong sự chấp trước liền có đủ tham lam, sân hận, si mê, kiêu mạn cùng sinh khởi với sự chấp trước đó. Nếu như đối với một trần cảnh nào đó có thể không khởi sinh sự phân biệt, không khởi sinh sự chấp trước, thì đó gọi là lìa cấu nhiễm. Cảnh giới lìa được mọi sự cấu nhiễm cực kỳ vi tế chính là biến hiện khắp pháp giới, chính là chân thật tướng.

Biến hiện khắp pháp giới có được xem là thấy tánh hay không? Vẫn là không. Vì sao vậy? Trăm ngàn sự ô nhiễm, trong Kinh Phật vẫn thường giảng là tám mươi bốn ngàn trần lao phiền não. Nói tám mươi bốn ngàn cũng là một cách quy nạp, là muốn nêu lên cương mục tổng thể mà thôi, nếu nói chi tiết ra thì có đến vô lượng vô biên phiền não. Ví như quý vị có trừ được một mối, trừ được hai mối phiền não, thì so với vô lượng vô biên phiền não cũng thành như không đáng kể. Một, hai điều đã trừ được đó, tuy rằng cũng rất thù thắng tốt đẹp, nhưng có thể nói là quý vị vẫn bị nghiệp lực dẫn dắt giống như trước đây, vẫn bị nghiệp lực xô đẩy chuyển biến. Ý nghĩa chính là ở điểm này.

Có thể nói, ý nghĩa trên giúp chúng ta hiểu ra được một điều, một điều không thể không nắm rõ. Đó là đối với một, hai việc đã có thể không phân biệt, không chấp trước, vì sao đối với những việc khác lại vẫn phân biệt, vẫn chấp trước? Cho nên cần phải buông xả tất cả. Nhưng vì sao không thể buông xả tất cả? Vì quý vị không thấu triệt được sự thật chân tướng. Chân tướng là gì? Chân tướng là rỗng không vắng lặng. Tánh thể có khả năng hiện thành hình tướng vốn là không, tánh pháp là không. Còn tướng pháp như thế nào? Đạo Phật dạy rằng tướng pháp chẳng phải không, nhưng ý nghĩa đó cần phải thể hội cho rốt ráo, có thể từ nơi ý nghĩa đó không khởi sinh phân biệt chấp trước. Nếu có khởi sinh phân biệt chấp trước, thì tướng pháp ấy đã thật sự là chẳng phải không.

Tánh pháp chính là không, tướng pháp chẳng phải không, nhưng kỳ thật tướng pháp ấy lại chính là không. Tánh pháp năng sinh đã là không, tướng pháp sở sinh có lý nào lại là thật có? Lẽ nào lại chẳng phải không? Cho nên nói rằng tướng pháp là có, là chẳng phải không, ấy là giảng về cái huyễn tướng, huyễn tướng ấy là có. Tướng ấy có thể tồn tại hay không? Tướng ấy không thể tồn tại, cho nên nói tướng là không, vì tướng của pháp căn bản vốn là không tồn tại. Tướng pháp hiện ra đó trong mỗi sát-na đều có sinh diệt, đồng thời sinh diệt, đó là theo tướng mà giảng như trên. Chúng ta nhất thiết phải hết sức lưu tâm suy xét kỹ để thể hội được sự thật chân tướng ấy, thì mới không còn bị ngoại cảnh xô đẩy chuyển biến.

Kinh Lăng Nghiêm dạy rằng: “Chuyển được ngoại cảnh, tức đồng Như Lai.” Phàm phu như chúng ta thật hết sức đáng thương, nên trong kinh thường nói rằng “rất đáng thương xót”. Vậy chúng ta có điều gì đáng thương xót? Điều đáng thương xót đó là chúng ta đều bị ngoại cảnh xô đẩy chuyển biến, không biết được rằng ngoại cảnh đó đều là giả tạo, mọi cảnh giới vốn đều là không. Điều đó cần phải lưu tâm quán sát cho thật kỹ, hết thảy pháp năng sinh, sở sinh, năng biến, sở biến, đó chính là đạo lý lớn lao, là pháp căn bản của cả thế gian và xuất thế gian. Cho nên đạo Phật dạy rằng: “Muôn pháp đều không, nhân quả chẳng phải không.”

Hẳn chúng ta sẽ thắc mắc rằng, nhân quả há chẳng phải là một pháp trong muôn pháp hay sao? Đừng nhầm lẫn chỗ này. Nhân quả đúng là một pháp trong muôn pháp, muôn pháp đều là không thì nhân quả sao có thể ngoại lệ? Nhân quả không thể là ngoại lệ, vậy tại sao nói rằng “nhân quả chẳng phải không”? Nói nhân quả “chẳng phải không” là có hai ý nghĩa. Ý nghĩa thứ nhất là do có sự chuyển biến nên nói là “chẳng phải không”. Nhân chuyển biến thành quả, quả lại biến thành nhân, nhân với quả chuyển biến qua lại. Thấu triệt như vậy rồi, quý vị mới có thể hiểu được rằng khi nhân biến thành quả, đó là nhân không; quả lại biến thành nhân, vậy nên quả cũng là không. Như thế mới là chân tướng sự thật. Ý nghĩa thứ hai là do có sự tương tục nên nói là “chẳng phải không”, mãi mãi tương tục không gián đoạn trong sự biến hóa. Chúng ta xem kinh thường thấy rằng, trước khi đức Phật vì chúng sinh giảng thuyết Chánh pháp, ngài thường thị hiện một tướng lành nào đó. Mục đích của việc thị hiện tướng lành đó là để cho tất cả thính chúng có sự tỉnh giác lưu tâm. Những người có căn cơ nhanh lẹ sáng suốt, một khi thấy Phật thị hiện tướng lành như vậy liền rõ biết, liền giác ngộ, không đợi phải nghe thuyết pháp. Những kẻ căn cơ chậm lụt, si độn, thì khi thấy Phật thị hiện tướng lành như thế liền kinh sợ, hiếu kỳ, nhân đó mới tập trung tinh thần chờ nghe Phật thuyết dạy, giảng rõ, nên đối với họ là có tác dụng như vậy. Thông thường thì đức Phật dùng phương thức phóng tỏa hào quang, trong hào quang ấy lại hóa hiện ra cõi nước của của mười phương chư Phật, trăm ngàn sự biến hóa. Cho nên, nhân quả nằm trong sự chuyển biến, nhân quả nằm trong sự tương tục. Ở trên nói “trăm ngàn” không phải là số đếm, mà là cách nói hình dung, để mô tả rằng sự biến hóa của Phật là vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn.

Chúng ta thấu hiểu rõ ràng đạo lý đó, thấu rõ được sự thật, rõ biết các pháp đều là rỗng không vắng lặng, như vậy thì có gì tốt đẹp? Quả thật được như vậy là hết sức tốt đẹp. Kinh Kim Cang đã dạy chúng ta rằng: “Nên sinh tâm từ nơi không có chỗ trụ.” Tâm thức quý vị liệu có thể là không có chỗ trụ hay chăng? Thế nào gọi là không chỗ trụ? Trong tâm quý vị nếu có mảy may trói buộc, thôi thúc, thì đó đã là có chỗ trụ rồi, là trong chỗ niệm tưởng đã “có” rồi. Đã “có” liền lập tức có phiền não, vì sao? Tâm xưa nay vốn rỗng không vắng lặng, tánh pháp là không. Tâm cũng là tánh, tánh cũng là không. Dù nói tâm hay nói tánh cũng là cùng một ý, cho nên chúng ta nhất định phải thấu triệt rõ ràng rằng tâm thức xưa nay vốn rỗng không vắng lặng. Lục tổ Huệ Năng của Thiền tông giảng về điều này rất hay, rằng “xưa nay không một vật, chỗ nào bám bụi trần?” Bám bụi trần chính là nhiễm ô. Xưa nay vốn rỗng không tịch tĩnh, làm sao có thể bị nhiễm ô. Có, liền bị nhiễm ô; không, không thể nhiễm ô. Có, tức là trong tâm có trói buộc, thôi thúc, nghĩa là tâm có chỗ trụ. Trong tâm của hết thảy chúng ta hiện nay đều có nhân ngã, có thị phi, có phiền não, có ưu tư lo nghĩ, có trói buộc thôi thúc, có muôn hình vạn trạng, không thể nói hết. Đó chính là chỗ trong Phật pháp dạy rằng, trong thức a-lại-da tàng chứa vô lượng vô biên chủng chủng tập khí, gọi là có, quý vị liền rơi vào có. Trạng thái “có” như vậy rất đa dạng, đó là nhân, nhân ấy lại biến thành quả, rồi quả ấy lại biến thành nhân, nhân lại biến thành quả, nhân quả cứ tương tục tiếp nối như thế, chính là tạo nên hiện tượng luân hồi. Sở dĩ hết thảy chúng sinh trong sáu đường, từ vô lượng kiếp đến nay chịu sinh tử luân hồi, vĩnh viễn không có được cơ hội thoát ra, đó cũng chính là hiện tượng tương tục chuyển biến của nhân quả. Chúng ta đối với việc ấy không thấu hiểu được sự thật chân tướng. Một khi đã thấu triệt, hiểu biết rõ ràng chân thật, thì chúng ta cũng sẽ đạt đến không chỗ trụ.

Thấu hiểu rõ ràng tức là khán phá, không chỗ trụ tức là buông xả, đó chính là ý nghĩa mà trong kinh Bát-nhã đức Phật đã dạy chúng ta: “nên không có chỗ trụ”. Không có chỗ trụ cũng tức là buông xả hết. Buông xả hết rồi, Phật mới gọi là ta có sinh tâm. Buông xả rồi mới có thể thấy được đó chẳng phải là sự trống không, trống không đó là hư hoại, chẳng phải cái không chân thật, gọi là ngoan không. Hết thảy đều không, hết thảy đều chẳng có, đó cũng là sai lầm. Nếu quý vị nắm lấy cái không đó mà cho rằng hoàn toàn chẳng có gì cả, thì quý vị buông xả cái gì? Như vậy vô minh với phiền não đều không thể phá trừ, trong tương lai như vậy ví như quý vị có tu tập không bị lạc đường, bất quá cũng chỉ có thể sinh được lên cõi trời Vô tưởng mà thôi, tức là cõi trời Tứ thiền, hoặc giả sinh lên cõi trời Tứ không, cao nhất thì sinh lên được cõi trời Phi tưởng phi phi tưởng. Kết quả tu tập của quý vị chỉ có thể đến mức đó mà thôi, rốt lại không thoát ra khỏi sáu đường luân hồi.

Sở dĩ đạo Phật gọi là sinh tâm, đó là vì “sinh tâm” với “không chỗ trụ” cũng chỉ là một, chẳng phải hai. Không và có chẳng phân hai mới gọi là chân không. Nếu nói rằng “không” với “có” là hai điều khác nhau, thì quý vị đối với “không” và “có” đều không hiểu rõ được, mà đều rơi vào mê chấp trong cảnh giới đó. Đó là điều rất khó thấu triệt hiểu rõ, thật không dễ dàng để thể hội được sự thật chân tướng. Trong quan niệm của phàm phu chúng ta thì “không” với “có” vốn là hai điều khác biệt, không chẳng phải có, có chẳng phải không, làm sao có thể nhận rõ được rằng “không” với “có” là một, chẳng phải hai?

Nhân vì có với không chẳng phải hai, nên mới gọi là quý vị có sinh tâm. Sinh tâm như vậy có phải là đọa lạc hay không? Không hề đọa lạc, vì sự sinh tâm của quý vị hoàn toàn tương ưng với không có chỗ trụ. Nếu sinh tâm mà có chỗ trụ thì đó là hư hoại, tức là quý vị đã thối chuyển, quý vị đã hóa thành phàm phu. Nếu sinh tâm vẫn là không có chỗ trụ, thì không chỗ trụ đó chẳng chướng ngại việc sinh tâm. Đó chính là pháp giới Tứ vô ngại như trong kinh Hoa Nghiêm: lý sự vô ngại thì lý là không, sự là có; lý sự vô ngại thì sinh tâm chẳng ngại không chỗ trụ, không chỗ trụ chẳng ngại việc sinh tâm. Vậy sinh tâm gì? Đó là sinh tâm đại Bồ-đề, sinh tâm giáo hóa cứu độ hết thảy chúng sinh. Nếu nói cho thật cụ thể thì đó là sinh tâm Tứ hoằng thệ nguyện.

Tuy có sinh tâm nhưng trong sự sinh tâm ấy không hề có mảy may phân biệt chấp trước. Nếu có một niệm phân biệt chấp trước, đó là quý vị còn có chỗ trụ. Còn có chỗ trụ thì không phải Bồ Tát, nhất định là phàm phu. Phàm phu là chỉ hạng người nào? Trôi lăn trong sáu đường đều là phàm phu, Tứ thánh pháp giới cũng là phàm phu. Trong Phật giáo Đại thừa giảng rằng, chúng sinh trong sáu đường gọi là nội phàm; các vị Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát, Phật còn nằm trong Thập pháp giới gọi là ngoại phàm. Phân biệt nội phàm và ngoại phàm là dựa theo giới hạn của ba cõi, nghĩa là nằm trong ba cõi và vượt ngoài ba cõi. Chân chính siêu việt ra khỏi Thập pháp giới thì mới xưng là thánh, giới hạn phân biệt giữa phàm và thánh là ở chỗ đó. Cho nên trí tuệ chẳng phải là không mới có thể sinh tâm, vì trí tuệ Bát-nhã hiện tiền trong tự tánh, mới thị hiện ra những việc dứt ác làm thiện, rộng độ chúng sinh. Trong Tứ hoằng thệ nguyện thì việc đoạn trừ phiền não, tu học pháp môn, thành tựu Phật đạo, tất cả đều là thị hiện, dùng phương tiện như thế để giúp đỡ hỗ trợ tất cả chúng sinh đạt đến giác ngộ, giúp đỡ hỗ trợ tất cả chúng sinh tu hành chứng quả. Cho nên ý nghĩa của “không” là hết sức sâu xa.

Trong luận Đại trí độ và trong kinh Đại Bát Niết-bàn, đức Phật giảng về ý nghĩa của “không” có 18 loại, hoặc có 20 loại. Cho nên, trong giáo pháp Đại thừa thì nghĩa không là ý nghĩa khó nắm hiểu rõ ràng nhất. Nhưng có thể nói, người tu học Đại thừa thì nhất thiết phải hiểu rõ được nghĩa không, thì công phu tu tập mới có thể chân chính đắc lực, mới có thể thay đổi được quan điểm sai lầm từ vô thủy đến nay. Từ vô lượng kiếp đến nay, chúng ta luôn chấp trước rằng hết thảy các pháp đều là thật có, đó gọi là pháp chấp; chấp trước tự thân mình là thật có, bất luận là chấp trước nơi thân thể này hoặc chấp trước nơi thần thức, thì đó đều là ngã chấp. Do hai loại chấp trước như thế làm chướng ngại chúng ta, không thể minh tâm kiến tánh, làm chướng ngại chúng ta không thể siêu việt Thập pháp giới. Do chướng ngại của ngã chấp mà không thể thoát ly ra khỏi sáu đường luân hồi, nên vấn đề là rất nghiêm trọng. Các vị Chủ không thần là biểu thị cho ý nghĩa như thế. Nếu muốn xét theo các hiện tượng trong xã hội hiện nay, đại khái liên quan đến hư không, hiện có không ít các nhà khoa học về vũ trụ, không gian, nhưng rốt lại đó đều là hành nghiệp. Trong thực tế thì phân loại Chủ không thần này trong thế gian hiện nay của chúng ta không thể tìm ra hình thức nghề nghiệp nào tương đồng cả. Chúng ta cần phải hiểu rõ được ý nghĩa đó.

Bây giờ xin mời quý vị xem qua danh hiệu mười vị nêu trên và ý nghĩa biểu trưng.

Vị thứ nhất là Tịnh Quang Phổ Chiếu Chủ không thần. Trong danh hiệu này, tất cả đều nêu rõ đức tính, mà đức tính nêu rõ đó không phải của ai khác, chính là chân như bản tính của chính mình. Tự tính của mình xưa nay vốn thanh tịnh, nói thanh tịnh đó là có hàm ý chỉ rõ xưa nay vốn không bị nhiễm ô. Vốn là thanh tịnh nên trí tuệ Bát-nhã hàm chứa trong tự tính thường được phân thành hai trí là quyền trí và thật trí. Vị này có thể phóng hào quang, hào quang ấy lại có thể biến chiếu khắp hư không pháp giới, đó đều là khả năng sẵn có trong mỗi chúng ta. Hết thảy chúng sinh so với chư Phật Như Lai đều không phải hai, không khác biệt, nhưng trong tính đức hiện tại của chúng ta dù chỉ một phần tác dụng như thế cũng hoàn toàn không thấy. Như vậy có phải thực sự là không có hay chăng? Không phải, thật vẫn có tác dụng. Vậy do đâu không thấy có? Là vì chúng ta không biết được rằng tự thân chúng ta có những công năng tác dụng như thế, gọi là mê muội. Nếu đã mê muội, thực sự không khởi sinh được tác dụng, vậy có thể gọi đó là tự tính chăng? Có thể vẫn gọi là chân tính chăng? Nếu như chân tính vào lúc mê muội không khởi sinh được công năng tác dụng lại bị hư hoại đi, thật không có lý như vậy. Công năng soi chiếu thật vẫn có, chỉ là tự chúng ta không biết được. Vậy ai biết được? Chư Phật Như Lai đều biết được. Chư Phật Như Lai đều thấy được hết sức rõ ràng, hết sức minh bạch, cho nên chư Phật Như Lai mới khẳng định rằng tất cả chúng ta đều là Phật.

Đó chính là như trong kinh Hoa Nghiêm có dạy: “Hết thảy chúng sinh vốn đều đã thành Phật.” Quý vị có lý nào không phải là Phật? Quý vị đúng là Phật, nhưng sự thật là quý vị không hề biết quý vị là Phật, cho nên gọi là mê muội, cho nên gọi là chúng sinh, tuyệt đối không phải chúng sinh đem so với Phật lại là hai thể khác nhau. Nay nói với quý vị rằng chúng sinh với Phật không giống nhau, đó là quyền thuyết, chẳng phải chân thật. Đó là phương tiện mà thuyết, chẳng phải chân thật mà thuyết. Đó là tùy thuận chúng sinh mà thuyết, chẳng phải tùy thuận Phật mà thuyết. Nếu tùy thuận Phật mà thuyết, thì Phật chẳng thuyết pháp như thế. Phật thuyết rằng tất cả chúng sinh vốn đã thành Phật.

Kinh văn ở trên giảng qua mười loại tính đức, mỗi chúng ta hết thảy đều có đủ, không hề khiếm khuyết điểm nào. Nhưng ngày nay chúng ta không thể tự mình rõ biết, bị mất đi cả là do đâu? Mất đi các tính đức ấy đều là do một niệm mê chấp. Phật giảng rất rõ trong phẩm Xuất hiện của kinh này: “Hết thảy chúng sinh chỉ vì vọng tưởng chấp trước nên không thể chứng đắc.” Phật thuyết dạy như vậy rất rõ ràng. Không thể chứng đắc tức là không thể phát hiện ra, quý vị hoàn toàn không phát hiện ra rằng quý vị vốn xưa nay sẵn có trí tuệ lớn lao, công năng tính đức lớn lao như thế, quý vị không hề nhận biết được.

Vì sao không thể phát hiện? Vì quý vị có vọng tưởng, có phân biệt, có chấp trước, nên hoại mất là do nơi ấy. Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước từ xưa đến nay tồn tại đã lâu, không phải chỉ mới khởi sinh trong một đời, mà là tập khí tích tụ trong nhiều đời nhiều kiếp, từ vô thủy đến nay. Ngạn ngữ có câu: “Tập quen thành thói.” Chúng ta tập quen đã lâu, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước đã thành thói tật, thành tự nhiên, muốn dứt trừ cũng không dứt trừ được.

Vì sao nói rằng muốn dứt cũng không dứt được? Vì ý muốn dứt trừ đó cũng là vọng tưởng. Vọng tưởng làm sao có thể dứt trừ vọng tưởng? Vậy phải làm sao mới dứt trừ được? Không khởi ý tưởng liền dứt trừ được, khởi ý tưởng muốn dứt trừ liền không dứt trừ được. Khởi lên ý tưởng dùng phương pháp nào để dứt trừ, thì càng dứt trừ lại càng thêm nhiều hơn.

Cho nên Phật pháp dạy cho chúng ta một phương pháp tốt nhất, đó là niệm Phật A-di-đà. Đối với pháp này thì không khởi mọi niệm tưởng, cũng không khởi ý muốn dứt trừ phiền não, cũng không khởi ý muốn thành tựu đạo Bồ-đề, cũng không khởi ý muốn được nhất tâm bất loạn, hết thảy ý tưởng đều không sinh khởi. Trong ý niệm chỉ có duy nhất một câu niệm Phật A-di-đà, lâu ngày thì tự nhiên phiền não đều dứt hết, tự nhiên đạt đến nhất tâm bất loạn, hoàn toàn tự nhiên mà được thành tựu.

Bằng như niệm Phật với ý niệm chấp trước, nghĩ mình đã niệm qua suốt một ngày mà không được nhất tâm, niệm thêm ngày nữa lại cũng thấy mình chưa được nhất tâm, như vậy càng niệm càng thêm chấp trước nặng nề hơn, vĩnh viễn không thể đạt đến nhất tâm. Bồ Tát Giác Minh Diệu Hạnh dạy chúng ta rằng: Niệm Phật không được xen tạp. Chúng ta thì niệm Phật luôn có xen tạp, cầu được nhất tâm là xen tạp, cầu được vãng sinh cũng là xen tạp. Cho nên nói là phải thành tâm niệm. Thành tâm đó là, một câu A-di-đà Phật là một danh hiệu, danh hiệu đó nếu có bất cứ điều gì bên ngoài xen tạp vào đều không phải là thành tâm. Cho nên phải thấu triệt ý nghĩa thành tâm niệm Phật, thì hiệu quả thù thắng không gì so sánh được. Chúng ta tin chắc rằng có không ít các vị đồng tu tại Niệm Phật đường đã thể hội được điều này, đã đạt được pháp hỷ như thế, đều là nhờ vào sự thành tâm, nên quý vị mới đạt được sự thành tựu không thể nghĩ bàn. Chính vì không có sự thành tâm nên những tính đức sẵn có của chúng ta không thể được phát hiện, chúng ta không thể chứng đắc.

Đem so sánh đức hiệu này với cách nói hiện tại của chúng ta, thì chúng ta ngày nay thường nói tu đức, còn ở đây lại nói tính đức. Tính với tu trong những cách dùng này thật ra cũng không khác nhau.

Hai chữ “tịnh quang” chính là buông xả, khán phá. Buông xả, tức được thanh tịnh. Đối với hết thảy sự lý đều thấu triệt rõ ràng nên phóng tỏa hào quang. “Phổ chiếu” nghĩa là đối với hết thảy mọi người, hết thảy sự vật, sự việc trong môi trường hoàn cảnh hoạt thường ngày của chúng ta, đều có thể nhận biết rõ ràng, hết thảy đều buông xả. Buông xả nghĩa là không chút lưu tâm, tự nhiên nhận hiểu thấu triệt rõ ràng, điều đáng làm nhất định phải làm, điều không đáng làm thì không làm, luôn giữ làm theo những lời Phật dạy đối với người mới học. Đối với người mới học thì Phật dạy hết sức rõ ràng, ý nghĩa không quá sâu xa khó hiểu, như dạy chúng ta giữ theo năm giới, tu tập mười nghiệp lành, thật hết sức rõ ràng, đơn giản, nhưng đều tương ưng với tính đức. Bất luận là giản dị hay sâu xa, cũng đều tương ưng với tính đức, đó mới gọi là Phật pháp. Cho nên, bậc Bồ Tát Đẳng Giác trong sinh hoạt thường ngày cũng không lìa khỏi năm giới, mười nghiệp lành, đó mới thật là nhận biết thấu đáo con đường tu học, đạo lý nằm ở chỗ ấy, như thế gọi là sinh tâm. Trong tâm thanh tịnh sáng rõ, không nhiễm chút bụi trần, không chút vướng bận lưu tâm, như thế gọi là không chỗ trụ. Không chỗ trụ mà sinh tâm, sinh tâm từ nơi không chỗ trụ, trong sinh hoạt thường ngày vận dụng được như thế là tự tại không trói buộc.

Vị thứ hai là Phổ Du Thâm Quảng Chủ không thần. Nói “thâm quảng” tức là sâu rộng, không chỉ lý sâu rộng mà sự cũng sâu rộng, không chỉ tính sâu rộng mà tướng cũng sâu rộng, tác dụng cũng sâu rộng. Như bộ kinh này lấy đề kinh là Đại phương quảng Phật Hoa Nghiêm, trong đó ba chữ “Đại phương quảng” chính là nói về thể, tướng và đức dụng của vũ trụ nhân sinh. “Đại” là nói về tính thể, “phương” là nói về hiện tướng, “quảng” là nói về tác dụng. Do đó có thể biết rằng, thể tính, hiện tướng, tác dụng, hết thảy đều là sâu rộng không cùng tận. Đó là điều mà quý vị nhất định phải hiểu rõ, cái sâu rộng không cùng tận đó không hề tách rời với sinh hoạt thường ngày của chúng ta. Trong sinh hoạt thường ngày của chúng ta, mỗi mỗi sự vật, sự việc đều tương ưng với sự sâu rộng đó. Sâu rộng đó là “đại phương quảng”, tức là thể, tướng và dụng.

Nếu muốn lấy ví dụ trong kinh để làm rõ, hãy thử xét qua một sợi lông, một hạt bụi. Sợi lông, hạt bụi là tương ưng hay không tương ưng với sự sâu rộng? Phàm phu chúng ta đều thấy một sợi lông là hết sức bình thường nhỏ nhặt, có gì là sâu? Có gì là rộng? Nhưng trong kinh đức Phật giảng rằng: “Chư Phật Như Lai ở nơi đầu một sợi lông mở Pháp hội, tại nơi đó kiến lập đạo trường, giảng kinh thuyết pháp, làm lợi ích chúng sinh. Làm được như vậy mà sợi lông không hề phóng lớn, đạo trường cũng không hề thu nhỏ, như thế chẳng phải sâu rộng thì là gì? Vậy làm sao nhận hiểu được hiện tượng như thế? Đó gọi là xứng tánh. Xứng tánh thì không có lớn nhỏ, không có dài ngắn, không có trước sau, quý vị gọi đó là gì? Đó gọi là một pháp chân thật. Nếu như có lớn nhỏ, dài ngắn, trước sau, thì đó không phải là một pháp, mà là hai pháp. Hai pháp thì không phải là tự tính, vì tự tính là một pháp, là pháp chẳng phân hai. Điều đó nếu không thấu hiểu, dù có nghe cũng không hiểu rõ. Bởi vì ý nghĩa ấy quá sâu, quá rộng, nên quý vị nghe cũng không hiểu rõ. Quý vị cần phải nghe qua nhận hiểu rõ ràng, đó gọi là sâu rộng. Một sợi lông đã như vậy, một hạt bụi cũng là như vậy.

Chúng ta thử nghĩ xem ý nghĩa như thế là sâu rộng hay không sâu rộng? Ý nghĩa như thế quả thật rất khó thấu triệt. Cho dù trong kinh điển Phật đã nói ra đến trăm câu ngàn lời, giảng giải cho chúng ta hết sức chi ly, hết sức rõ ràng, nhưng chúng ta nghe qua rồi vẫn cứ mê muội, vẫn không nhận hiểu được những ý nghĩa đó. Điều đó giải thích thế nào? Vì không có khả năng nhận hiểu nên mới không nhận hiểu. Cứ theo đúng như phương pháp Phật dạy chúng ta, thì trước hết phải học tập, thông qua sự học tập rồi thì quý vị mới có khả năng nhận hiểu, cho nên nhất định phải trải qua sự học tập. Học tập ở đây có nghĩa là tu hành, tu sửa cho tâm thanh tịnh. Trong sự tu tập, chúng tôi đề xuất những điều cốt yếu là: chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác và từ bi. Trong sinh hoạt thường ngày, nếu chúng ta có thể luôn vận dụng những điều này vào việc hành xử, đối nhân tiếp vật, thì đó gọi là học tập. Trước khi học Phật như thế, chúng ta hành xử, đối nhân tiếp vật đều là sử dụng vọng tâm, ý tình hư dối, không hề chân thật, đều là nói ra những lời giả dối, hết thảy đều không có gì để tin cậy được. Vì sao mà tất cả đều là những lời giả dối? Vì quý vị dùng tâm hư giả, chẳng phải chân tâm. Từ vọng tâm xuất sinh thì tất cả đều là hư vọng, nên nói rằng tất cả những lời nói ra đều là giả dối cũng đâu có gì lạ? Vì tâm mà quý vị khởi dụng đó chính là vọng tâm. Từ nay về sau, chúng ta hãy sử dụng chân tâm. Thế nào là chân tâm? Chân tâm thì không có vọng niệm. Chân tâm cũng là tâm thanh tịnh, là tâm mà Đại sư Huệ Năng gọi là “xưa nay không một vật”. Tâm như vậy là bất biến, nếu có chỉ một vật trong tâm thì đó là biến đổi, tâm không có một vật thì là bất biến. Nói một cách khác, tâm thanh tịnh là không biến đổi, tâm bình đẳng là không biến đổi, tâm chính giác là không biến đổi.

Tâm si mê, tà vạy, nhiễm ô thì có lý nào lại có thể không biến đổi? Chúng ta nếu sử dụng tâm này để ứng đối với người khác thì không thể dựa vào, đối với tự thân mình cũng không thể dựa vào. Sáng ra tưởng chừng như hết sức kiên định, chưa đến trưa đã thay đổi chủ ý rồi. Tự mình đối với mình còn không thể đảm bảo chắc chắn, huống chi là đối với người khác? Chúng ta cần phải thấu triệt, phải hiểu rõ điều này. Hiểu được như vậy rồi, người khác đối tốt với ta thì vui vẻ đón nhận, chẳng có gì đáng nói, mà người khác đối xấu với ta cũng vui vẻ đón nhận, cũng chẳng có gì đáng nói. Vì sao vậy? Vì đối tốt với ta chẳng phải thực sự là tốt, đối xấu với ta cũng chẳng phải thực sự là xấu, hết thảy đều toàn là giả dối cả, đâu cần phải cho đó là thật.

Chúng ta suy xét ý nghĩa như vậy có phải là sâu rộng hay chăng? Quả thật như vậy. Chúng ta khởi dụng được chân tâm, đó là học tập, đó là tu hành. Tu hành ở chỗ nào? Ở ngay trong sinh hoạt thường ngày, trong sự đối nhân tiếp vật, phải nhận thức được điều này cho thật rõ ràng, thật minh bạch. Chúng ta tự mình khởi dụng chân tâm, còn phải làm sao khuyến khích khuyên bảo người khác khởi dụng chân tâm, như vậy gọi là cứu độ giáo hóa chúng sinh. Có người hiện chưa khởi dụng, chúng ta khuyên người ấy niệm Phật A-di-đà, nếu người ấy có thể thành tâm niệm Phật, thì tâm niệm Phật ấy đích thật là chân tâm, chẳng phải vọng tâm. Vì thế nên ở trong Niệm Phật đường có thể rèn luyện chân tâm. Chân tâm đã khởi tác dụng thì quý vị ra khỏi Niệm Phật đường vẫn có tác dụng.

Chân tâm hiện tiền, tác dụng là gì? Nhìn thấy hết thảy chúng sinh đều là Phật A-di-đà, đó là sự rèn luyện chân tâm đã có tác dụng. Nếu nhìn hết thảy chúng sinh đều không phải Phật A-di-đà, đó là công phu của quý vị chưa đầy đủ, còn sai lệch xa lắm. Vì sao vậy? Thấy tất cả chúng sinh đều là Phật A-di-đà, thì tâm chân thành, thanh tịnh, bình đẳng của quý vị đang hiện hữu. Quý vị quán sát, rèn đi luyện lại cũng chỉ là rèn luyện những điều đó thôi.

Chân tâm đã hiện tiền, thì Kinh điển của Phật, quý vị xem qua liền nhận hiểu thông suốt, không một chỗ nào vướng mắc trắc trở, không một điểm nào khó khăn chướng ngại. Vì sao vậy? Những điều đức Phật Thích-ca thuyết giảng đều là từ nơi chân tâm lưu xuất hiển lộ. Chúng ta ngày nay có chân tâm hiện tiền, so với tâm của Phật thật không khác biệt, nên từ trong tâm Phật nói ra điều này điều khác, chúng ta làm sao lại có thể không hiểu? Bằng như Phật dùng chân tâm, chúng ta dùng vọng tâm, thì không thể nào nhận hiểu biện biệt rõ ràng, không thể nào lý giải.

Dùng vọng tâm đối với vọng tâm không thể hiểu rõ. Đem chân tâm đối với vọng tâm, chân tâm có thể thấu suốt rõ ràng vọng tâm, nhưng vọng tâm không thể thấu hiểu được chân tâm. Vì thế nên đức Phật hiểu được tâm của tất cả chúng sinh, mà chúng sinh không thể hiểu được tâm Phật. Đó là sự thật chân tướng, sâu rộng vô cùng.

Chân tướng đã như vậy, còn vọng tướng thì sao? Xin thưa cùng quý vị, vọng tướng cũng sâu rộng vô cùng. Vì sao nói như vậy? Vì vọng vốn từ nơi chân mà biến hiện ra. Cái năng biến đã sâu rộng vô cùng, nên cái sở biến là vọng tướng đương nhiên cũng sâu rộng vô cùng. Về lý thì nói như vậy đã là thông suốt, còn về sự thì sao? Về sự cũng là như vậy. Nếu không phải là như vậy, thì khi chúng ta khởi vọng tâm, sinh vọng tưởng, làm vọng sự, vì sao chư Phật Như Lai trong khắp cùng hư không pháp giới đều có thể biết được? Chư Phật làm sao mà biết? Vì chư Phật đều biết được, nên có thể thấy rằng một khi chúng ta khởi sinh vọng tưởng, thì vọng tưởng ấy lập tức biến cùng khắp hư không pháp giới. Chúng ta phát sinh một luồng tư tưởng, luồng tư tưởng ấy lập tức biến hiện truyền khắp hư không pháp giới, hết thảy chư Phật Như Lai đều rõ biết, chư đại Bồ Tát đều rõ biết. Vì thế trong Phật pháp mới nói rằng: “Tất cả vọng là chân, tất cả chân là vọng, hết thảy sự là lý, hết thảy lý thành sự.” Câu này là chỉ thẳng vào cảnh giới nhất chân pháp giới, không phải thuộc cảnh giới mười pháp giới. Chúng ta tu học giáo pháp Đại thừa, nhất là tu học kinh Hoa Nghiêm này, nhất định phải từ phương hướng nhận hiểu như vậy mà khế nhập, lưu tâm suy xét kỹ lưỡng để thể hội. Thể hội không phải là nghiên cứu, không phải đem suy tưởng của chúng ta mà suy lường, vì suy lường không đến được. Nếu quý vị dùng suy tưởng, rơi vào ý thức, sẽ hóa thành chướng ngại. Phương pháp tốt nhất trong đạo Phật là gì? Phật dạy đó là sự thành tâm. Niệm Phật phải thành tâm, sinh hoạt cũng phải thành tâm. Phật giáo chúng ta sinh hoạt như thế nào, làm việc như thế nào, Kinh điển đạo Phật hết sức phong phú, đến những chỗ cực kỳ vi tế đức Phật đều có giảng rõ. Chúng ta nếu quả thật tụng đọc Kinh điển Đại thừa, theo nội dung trong kinh mà học tập cách sinh hoạt, học tập cách làm việc, học tập trong suốt một đời. Theo khuynh hướng như vậy thì mới có thể khế nhập được vào cảnh giới của chư Phật. Khế nhập cảnh giới chư Phật là qua sinh hoạt của Phật, đó chính là ý nghĩa “phổ du thâm quảng”. “Phổ” là rộng khắp, không có giới hạn, hư không không có giới hạn. “Du” là dùng với nghĩa nêu ra tỉ dụ, như du lịch, trải qua khắp nơi. Trong thực tế, mỗi một niệm tưởng đều biến hiện khắp mười phương pháp giới, mỗi một niệm tưởng đều tương ưng với thể, tướng, dụng của tự tính. Đó là những ý nghĩa biểu trưng của danh hiệu vị Bồ Tát này, thảy đều là sự thật chân tướng.

Vị thứ ba là Sinh Cát Tường Phong Chủ không thần. Hết thảy chúng sinh, đặc biệt là người Trung Quốc, cho đến người Ấn Độ thời cổ đại cũng không ngoại lệ, liệu có ai lại không mong muốn sự tốt lành? “Phong” nghĩa là gì? Ở đây là phong tục tập quán. “Sinh cát tường phong” là theo nơi kết quả mà giảng, đó là xã hội an ổn tốt lành, xã hội tốt đẹp. Ở đâu có xã hội như vậy? Theo như chúng ta đọc thấy trong Kinh điển, thì thế giới Tây phương Cực Lạc chính là “sinh cát tường phong” vậy, còn trong kinh Hoa Nghiêm này thì thế giới Hoa Tạng của Phật Tỳ-lô-giá-na là “sinh cát tường phong”, vì ở đó không một con người, sự vật nào là không tốt lành, đúng như trong kinh Địa Tạng tán thán là “đại cát tường vân”. “Phóng quang minh vân” là như ngay ở đầu kinh Địa Tạng đã mô tả là phóng mây lành lớn chói sáng viên mãn. Đó là một câu để nêu đại lược. “Đại viên mãn” là nói đại lược, tiếp theo sau giảng rõ với chúng ta mười câu nữa, trong mười câu đó lại cũng có mây lành lớn an lành, mây lành chói sáng. Cõi nước thật báo trang nghiêm của hết thảy chư Phật Như Lai đều có thể thông qua đó mà thấy được.

Vị Bồ Tát này vì sao sinh “đại cát tường phong”? Điều này có liên quan đến ý nghĩa danh hiệu “chủ không thần”. Nếu như tâm của hết thảy chúng sinh trong xã hội đều không phải là “không”, thì sự cát tường cũng không thể hiện hữu. Nếu tâm địa của mỗi chúng sinh đều là thanh tịnh, bình đẳng, trong tâm thanh tịnh không có mảy may ô nhiễm, trong tâm bình đẳng không có mảy may phân biệt, đó mới là “không”. Cho nên tâm thanh tịnh là không, tâm bình đẳng là không, tâm chính giác cũng là không.

Tánh giác vốn không động. Trong kinh Đại thừa đức Phật thường giảng rằng, vô minh có vọng động, tánh giác không động. Điểm khai thị trọng yếu này chúng ta cần phải ghi nhớ. Một khi tâm ta động, liền nhận biết được là do vô minh động. Còn chân tâm của chúng ta, trí tuệ Bát-nhã hay chánh giác vốn không động. Vì thế, trong sự tu học Phật pháp, bất luận là tông phái nào, bất luận là đạo trường nào, quan trọng là phải hợp theo Chánh pháp. Chúng ta nói đến Chánh pháp là, bất kỳ trường sở chân chánh nào giảng dạy Phật pháp, đều nhất định phải lấy việc tu tập định làm chủ yếu. Chúng ta tu tập trong Niệm Phật đường, đó là tu định. Thiền tông với người mới học dùng phương thức ngồi thiền để tu định. Chúng ta dùng phương pháp trì danh hiệu Phật cũng là để tu định. Pháp định được thành tựu thì gọi là Tam-muội. Tam-muội là Chánh thọ. Chúng ta dùng pháp niệm Phật để đạt đến Chánh thọ, cũng gọi đó là Niệm Phật Tam-muội.

Tâm cần phải có định, trong Luật tông giảng “Định và Giới”, quý vị trì giới thì được thanh tịnh. Người trì giới cũng không nhất thiết đã được định, nhưng người được định thì nhất thiết phải trì giới. Vì tâm người ấy thanh tịnh thì làm sao có thể phạm giới? Không thể có chuyện như vậy. Lại nữa, mục đích của trì giới là gì? Chính là vì muốn đạt được định. Nhân có giới mà được định, nhân có định mà khai mở trí tuệ, cho nên mục đích của trì giới là để đạt được định. Người trì giới mà không đạt được định, thì cũng giống như quý vị tu học, trải qua một khóa tu nhưng không có thành tích gì biểu hiện, không có thành tích gì cả. Lại cũng giống như một học sinh trải qua một khóa học, qua một học kỳ, nhưng dự thi không đạt nên cũng không có thành tích gì. Thành tích của người tu học giới luật là gì? Thành tích đó chính là đạt được định. Nói theo nội dung ta đang trình bày, thì đó là đạt được tâm thanh tịnh, đạt được tâm bình đẳng.

Thanh tịnh, bình đẳng đều là “không chỗ trụ”, chính giác, từ bi thuộc về “sinh tâm”. Nếu chúng ta dùng câu kệ trong kinh Kim Cang để nói thì đó chính là “không chỗ trụ sinh tâm”. Sinh tâm trí tuệ, thì trí tuệ quyết định không có nhiễm trước, nhiễm trước là không có trí tuệ. Từ bi cũng không có phân biệt nhiễm trước. Nếu trong từ bi có phân biệt nhiễm trước, thì không tương ưng với “không chỗ trụ”. Từ bi không tương ưng như thế, trong đạo Phật gọi là ái duyên từ bi, chúng sinh duyên từ bi, không phải đức đại từ đại bi của Như Lai. Đại từ đại bi của Như Lai thì tương ưng với “không chỗ trụ”, như chúng tôi đã đề xuất năm tâm thức: từ bi nhất định phải tương ưng với chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chính giác. Từ bi như vậy là đại từ đại bi. Nếu trong đó có mảy may phân biệt nhiễm trước, tức là rơi vào ái duyên từ, chúng sinh duyên từ, là tâm từ bi của hàng phàm phu. Cho nên, tâm địa chân chánh đạt đến thanh tịnh bình đẳng, lại phát triển hiển lộ trí tuệ, từ bi, mới có thể “sinh cát tường phong”. Có thể thấy chỉ một câu này là pháp môn của pháp thân đại sĩ, là trạng huống trong nhất chân pháp giới mà vị này an trụ.

Vậy trong sinh hoạt thường ngày của chúng ta, phải học tập ý nghĩa này như thế nào? Nhất định phải biết từ nơi chính bản thân mình mà sinh khởi, không được chạy theo cảnh giới bên ngoài. Nếu quý vị chạy theo cảnh giới bên ngoài, quý vị nhất định không làm được, sự tu học của quý vị sẽ sinh ra nhiều chướng ngại lớn lao. Đạo Phật dạy chúng ta Tam phúc, Lục hòa, chúng ta nhất định phải suốt đời vâng làm theo lời dạy đó, tuyệt đối không làm trái lại. Trải qua thời gian lâu dài, nhất định có sự chiêu cảm được người đồng đạo cùng nhau tu tập. Trước hết chỉ một mình ta khởi sự tu tập, sau đó sẽ chiêu cảm có được một nhóm đồng đạo cùng tu.

Hôm nay chúng ta ở trong Niệm Phật đường này, có rất nhiều vị đồng tu, đồng cảm, đặc biệt là có những vị từ nơi khác đến. Quý vị đến nơi này tu tập niệm Phật một ngày, một tháng, quý vị nhận ra rằng Niệm Phật đường này so với các Niệm Phật đường khác có sự khác biệt. Chúng tôi mang điều này nói với mọi người, mọi người rất khó thể hội được. Quý vị nhất định phải tự mình đến tại nơi đây, tu tập niệm Phật qua một tuần, một tháng, thì quý vị sẽ tự mình nhận hiểu rõ, phải tự thân mình thể nghiệm mới nhận hiểu được. Tôi từ khi còn trẻ đã hình dung ra một Niệm Phật đường nơi đây. Tôi có ghi chép ra điều đó, bản ghi chép cũ kỹ ấy hiện nay vẫn còn. Bức ảnh của tôi từ thời đó, có nhiều vị đồng tu cũng nhìn thấy. Vào năm 1961, tôi đã từng vẽ ra một bức họa đồ, hy vọng trong tương lai sẽ có được một Niệm Phật đường nơi đây. Ý tưởng đó đã trải qua hơn 30 năm rồi, há có thể là đơn giản sao? Hơn 30 năm, khắp nơi kêu gọi, khắp nơi mong cầu, điều đó mới thành sự thật tại đây, thật không thể nghĩ bàn. Trong đó có rất nhiều nhân duyên. Nhân duyên hội tụ thì đạo trường này mới có. Có phải lý tưởng ban đầu ấy nay đã thực hiện viên mãn? Chưa phải đâu. Lý tưởng ban đầu ấy khi vừa khởi sinh, đến khi thực hiện hoàn toàn nhất định so ra phải thù thắng hơn, chí ít cũng phải thù thắng hơn gấp chục lần.

Chiều tối hôm nay Lý cư sĩ không đến, ông ấy có nói với tôi xin vắng mặt. Ông ấy đang bận rộn với công việc chuẩn bị khai hội ở thôn Di-đà. Có được một vị Bồ Tát như thế, có thể nhớ mãi không quên pháp sự ấy, ghi khắc trong lòng, nhất định có thể thành tựu được. Sự thành tựu ấy tất nhiên không thể là ngẫu nhiên mà có. Vùng đất ấy đã mua được rồi, mua được với giá 25 triệu. Việc xây dựng lại trong tương lai phỏng chừng cũng mất khoảng 25 triệu nữa. Khi việc xây dựng đã hoàn tất, thì phần cơ sở vật chất của chúng ta mới đạt được lý tưởng. Đương nhiên chúng ta đều tin rằng phần nội dung hoạt động rồi cũng sẽ nhanh chóng thành tựu dễ dàng, cho đến toàn thế giới này bốn phương tám hướng có những người đồng tu niệm Phật, rồi đều sẽ về đây niệm Phật. Nơi đây biến thành một Niệm Phật đường của cả thế giới. Người đến đây niệm Phật, quan trọng nhất là có thể theo đúng lý, đúng pháp mà tu học, như đã nói là một khi vào Niệm Phật đường thì từ thân tâm cho đến thế giới hết thảy đều buông xả, chỉ nhất tâm chuyên niệm A-di-đà Phật. Như vậy quyết định sẽ được sinh về Tịnh độ. Chúng ta có được niềm tin như thế, thì nhất định sẽ được vãng sinh. Cho nên trong tương lai có thể Niệm Phật đường này, Đạo trường này sẽ là nơi tiếp dẫn chúng sinh cõi thế giới Ta-bà về thế giới Tây phương Cực Lạc, thật là một đạo trường thù thắng nhất.

Bậc cổ đức dạy rằng: “Mười người niệm Phật, mười người vãng sinh; trăm người niệm Phật, trăm người vãng sinh; vạn người tu, vạn người đến đích.” Như vậy có thể hình thành được một phong thái niệm Phật. Phong thái niệm Phật của Tân-gia-ba này, đó là quãng thời gian 11 năm mới hình thành được sự hưng thịnh như ngày nay, không phải ngẫu nhiên có được.

Khi tôi mới đến Tân-gia-ba thì vùng Đông Nam Á chưa thấy có người niệm Phật A-di-đà. Mỗi năm tôi đều đến giảng Kinh điển Tịnh độ. Bộ kinh đầu tiên tôi giảng là kinh Vô Lượng Thọ, giảng tại Thanh niên Hoằng pháp đoàn. Khi ấy, cư sĩ Lý Mộc Nguyên là Đoàn trưởng. Bộ kinh ấy chỉ giảng trong ba mươi ngày, mỗi ngày hai giờ, cộng là sáu mươi giờ, được ghi âm lại và phổ biến khắp thế giới. Đó là bài giảng sớm nhất, gồm 60 giờ giảng kinh Vô Lượng Thọ. Bài giảng ấy được lưu hành rất tốt, đặc biệt là tại Trung Quốc đại lục. Các vị đồng tu ở Tân-gia-ba qua bài giảng đó được kết nhân duyên thù thắng với đức Phật A-di-đà, việc giảng kinh của tôi tại nơi này cũng được kết nhân duyên, việc lưu hành cũng được kết nhân duyên thù thắng, đó là được sự gia trì của Tam bảo, sự ủng hộ của chư vị thiên, long.

Mỗi năm tôi đến đây giảng kinh thì số người đến nghe ngày càng tăng thêm. Khi tôi đến giảng lần thứ nhất, lần thứ hai thì công việc quảng bá đã hoàn tất. Lần thứ nhất đến đây, tôi vẫn còn nhớ, tôi đến trong mười ngày, giảng ở một số đạo trường, người đến nghe đại khái vào khoảng vài ba trăm người. Lần thứ hai tôi đến giảng kinh Vô Lượng Thọ, ngày đầu tiên có vài ba trăm người đến nghe. Chẳng bao lâu, khi giảng xong bộ kinh thì số người nghe đã lên đến sáu, bảy trăm người. Sau đó cách một năm, tôi lại đến giảng kinh, cư sĩ Lý Mộc Nguyên bảo tôi là không dám thông tin ra bên ngoài. Vì sao vậy? Vì sợ người đến nghe quá đông không có chỗ ngồi. Vì thế, kể từ lần thứ ba trở đi, chúng tôi không còn làm việc quảng bá thông tin nữa, chỉ báo cho những vị đồng tu biết rồi thông tin cho nhau thôi, thông tin nội bộ, không truyền ra bên ngoài, bởi sức chứa của nơi giảng kinh quá giới hạn. Vậy mà số người đến nghe giảng vẫn cứ ngày càng đông hơn, vì mọi người đối với đức Phật A-di-đà, đối với kinh Vô Lượng Thọ, đối với thế giới Tây phương Cực Lạc, dần dần đã có nhận thức rõ hơn, đã có niềm tin sâu vững hơn.

Khi Niệm Phật đường này vừa mở ra, ban đầu tôi hình dung hẳn chỉ khoảng vài ba mươi người tham gia. Không hề nghĩ đến khi khai trương Niệm Phật đường, tôi thỉnh một vị pháp sư đến để hướng dẫn mọi người niệm Phật, vị pháp sư ấy lại noi theo tôi đến chỗ giảng kinh, không đến Niệm Phật đường niệm Phật. Tôi phải nhiều lần phân tích, giảng giải rõ ràng với vị ấy, rằng công đức hướng dẫn mọi người niệm Phật so với công đức giảng kinh còn quan trọng, lớn lao hơn rất nhiều lần, rồi đưa vị ấy trở lại Niệm Phật đường. Tôi dẫn lời pháp sư giảng kinh là Đại sư Thanh Lương giảng giải kinh Hoa Nghiêm, nêu rõ các giai đoạn tin nhận, hiểu rõ, thực hành và chứng đắc. Việc giảng kinh của tôi chỉ khuyến khích mọi người bước vào giai đoạn tin nhận, giúp đỡ hỗ trợ để mọi người có thể hiểu rõ, còn Niệm Phật đường mới thực sự đưa mọi người vào giai đoạn thực hành, đưa mọi người đến chỗ chứng đắc. Công đức hướng dẫn niệm Phật của ông rất nhiều, rất lớn. Bởi người tin nhận và hiểu được thì rất nhiều, nhưng số người thực hành và chứng đắc thì rất ít. Cho nên khi vừa mở ra Niệm Phật đường, tôi đoán chừng số người tham gia tối đa cũng không quá vài ba mươi người. Ngày đầu tiên, Pháp sư Ngộ Toàn báo với tôi đã thừa ra đến 30 người, tôi hết sức kinh ngạc. Mới ngày đầu tiên mà đã thừa ra đến 30 người! Đến nay Niệm Phật đường của chúng ta mở ra chưa được 3 tháng, người tham gia đã chật chỗ, chen chúc nhau không di chuyển được, như vậy chứng minh rằng phong thái niệm Phật ở Tân-gia-ba này đã được thành tựu.

Đó chính là “sinh cát tường phong”, vì phong thái niệm Phật ấy là điều tốt lành nhất trong mọi điều tốt lành. Hy vọng đạo trường này sẽ thúc đẩy mạnh mẽ Phật giáo trên toàn vùng Tân-gia-ba, hy vọng tương lai ở mỗi đạo trường đều tu tập niệm Phật, mỗi một đạo trường đều có Niệm Phật đường. Tôi cũng có thể khẳng định rằng khi đại kiếp nạn của thế giới xảy ra, vùng Tân-gia-ba này nhất định sẽ không phải gặp tai nạn gì, quả thật là được chư Phật hộ niệm, được các vị thiện thần, thiên, long ủng hộ, đích thực là một vùng phúc địa.

Cư sĩ Lý Mộc Nguyên là người có năng lực và ý chí hết sức phi thường. Trong tay không có một đồng mà ông dám khởi xướng công trình xây dựng thôn Di-đà, chúng ta thật sự không thể không hết lòng kính phục. Nói thật ra, đó không phải là điều mà một người có thể dám đứng ra làm. Nhưng ông ấy có được khí phách lớn lao đó, là vì ông tin sâu nơi sự hộ trì giúp đỡ của đức Phật A-di-đà. Ông ấy từng nói với tôi rằng: “Bản thân tôi chẳng có chút phước báo gì, chỉ có đức Phật A-di-đà có phước lực lớn lao. Tất cả mọi việc tôi đều nương dựa nơi ngài.” Câu nói ấy hoàn toàn chính xác. Nếu quả chân chánh nương dựa nơi đức Phật A-di-đà thì không có bất cứ sự việc gì lại không thành tựu. Vậy phải nương dựa như thế nào? Phải y theo lời Phật dạy mà vâng làm, thì mới có thể tin cậy được. Chúng ta ngày nay mỗi một niệm tưởng trong tâm, mỗi một hành vi, việc làm, so với lời Phật dạy trong kinh đều khác biệt, cho nên không thể tin cậy được, không phải là chân chánh.

Nếu như quả thật là không chân chánh, trong đó có những ý niệm tư lợi, thu vén cho riêng mình, mà lại được thành công, có được nhiều thế lực giúp đỡ hỗ trợ, thì chúng ta cần phải hết sức đề cao cảnh giác. Vậy những thế lực nào đã giúp đỡ hỗ trợ? Chính là bọn yêu ma quỷ quái, chúng cũng có thần thông, cũng có sức mạnh, nên đến giúp đỡ hỗ trợ cho quý vị, làm cho tăng trưởng tâm tham lam, sân hận, si mê, kiêu mạn nơi quý vị. Cuối cùng thì sao? Cuối cùng thì đi đến kết quả làm cho quý vị nhà tan cửa nát, thương tổn nhân mạng, triệt để hủy diệt hết, đó là việc làm của ma. Bọn chúng ban đầu chầm chậm tiếp cận như thế, rồi đến cuối cùng sẽ hủy hoại quý vị. Điều này quý vị nhất thiết phải thấu triệt, hiểu rõ.

Thực hành đúng giáo lý, đúng Chánh pháp thì được Phật hộ trì giúp đỡ; không đúng giáo lý, không đúng Chánh pháp thì ví như có được thành tựu, cũng chính là Ma vương đứng phía sau giúp sức cho quý vị. Chúng ta học Phật, không thể không phân biệt rõ ràng điều đó. Cho nên ngày hôm nay có Sinh Cát Tường Phong Chủ không thần thực sự hiện diện trong sinh hoạt của đạo trường chúng ta, nên biết rằng tự thân chúng ta phải noi theo tính đức của vị này mà tu tập.

Vị thứ tư là Ly Chướng An Trụ Chủ không thần. Trong Phật pháp có dạy về hai chướng, ba chướng. Nói hai chướng là bao gồm phiền não chướng và sở tri chướng. Phiền não trong bản thân ta cũng là chướng ngại, thông thường nhất là chỉ cho kiến, tư phiền não. Đó là những kiến giải sai lầm, những tư tưởng sai lầm, chính là nguồn gốc sinh ra phiền não. Những kiến giải sai lầm có năm loại là: thân kiến, biên kiến, kiến thủ kiến, giới thủ kiến và tà kiến. Chữ kiến là chỉ kiến giải. Chúng ta đã giảng qua về sự nhìn nhận sai lầm. Quý vị đối với con người, sự vật, sự việc mà có sự nhìn nhận sai lầm, thì tất cả những sai lầm đó đều không ra ngoài năm loại vừa nêu. Bên ngoài, quý vị đối với tất cả các pháp khởi sinh niệm tưởng sai lầm, đó là phiền não.

Niệm tưởng sai lầm có năm loại: tham, sân, si, mạn, nghi. Tham, sân, si thường được nói đến nên mọi người ai cũng biết. Mạn là ngạo mạn. Nghi là đối với thánh giáo mà có sự hoài nghi, nghĩa là đối với giáo huấn của các bậc thánh hiền thế gian cũng như xuất thế gian, đối với Kinh điển của Phật, đặc biệt là đối với Kinh điển Đại thừa, với các kinh điển Tịnh độ dạy về vãng sinh, thông thường là chỉ đến ba kinh: kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật và kinh A-di-đà, đều là những kinh giảng về việc vãng sinh Tây phương Tịnh độ. Cho nên trong các bản chú sớ của người xưa thường đề cập đến các kinh vãng sinh, nêu giảng nhiều ý nghĩa, đều là chỉ đến ba kinh này. Hoài nghi, nghĩa là quý vị không tin hiểu việc niệm Phật, đối với cơ hội vãng sinh ngay trong đời này, thẳng đến địa vị bất thối, thành Phật, cho việc ấy là hư dối. Tư tưởng sai lầm này sẽ tạo thành chướng ngại lớn lao vô cùng, gọi là phiền não chướng. Những điều như trên đều thuộc về phiền não chướng.

Sở tri không phải là chướng, nhưng chúng ta đang nói đến sở tri chướng. Sở tri thì không phải chướng mà là trí tuệ. Bát-nhã vốn không nhận biết, nhưng sau khi khởi sinh tác dụng thì không gì là không nhận biết. Không gì không biết, đó là sở tri, là chỗ biết. Đức Phật giảng dạy cho chúng ta về hết thảy các pháp trong vũ trụ, nhân sinh, quý vị đều biết được, đều là chỗ biết của quý vị, nhưng có một điều quý vị không biết, là điều gì? Đó là trí tuệ, thần thông, đạo lực của quý vị so với chư Phật Như Lai vốn không hai không khác, nhưng trí tuệ ngày nay của chúng ta lại hoàn toàn không có. Thế nào là không có? Vì nhất định có sự chướng ngại ngăn che. Sự chướng ngại đó gọi là sở tri chướng. Sở tri là cái quý vị xưa nay vốn có, nhưng vì quý vị có chướng ngại, nên cái biết vốn có xưa nay hiện tại thành ra không biết. Chướng ngại đó gọi là vô minh. Vô minh là đối với các pháp không hiểu biết rõ ràng. Vô minh khởi sinh như thế nào? Vô minh từ nơi bất giác mà khởi sinh, do si mê, do không giác ngộ. Nên nói là “Một niệm bất giác mà có vô minh.” Vô minh là tướng động, là một niệm vọng động. Đó là vấn đề hết sức nghiêm trọng, trong Phật pháp xem vô minh là vấn đề bất ổn căn bản nhất. Tại pháp hội Lăng Nghiêm, Tôn giả Phú-lâu-na đã nêu ra vấn đề này. Ngài đề xuất vấn đề này như thế nào? Quý vị đều đã biết, kinh Lăng Nghiêm chính là nhằm khai mở trí tuệ.

Phật giáo Trung Quốc thường có câu: “Khai tuệ Lăng Nghiêm, thành Phật Pháp Hoa.” Vì sao kinh Lăng Nghiêm với kinh Pháp Hoa được nói đến như thế? Trong rất nhiều kinh luận Đại thừa, đức Phật thường giảng thuyết về việc tất cả chúng sinh tu hành chứng quả. Tuy giảng thuyết rất nhiều, nhưng Phật thường dạy rằng: “Kẻ nhất-xiển-đề không có tánh Phật”, như vậy họ không thể thành Phật. Nhất-xiển-đề là tiếng Phạn dịch âm, hàm nghĩa là không có căn lành. Theo ý nghĩa đã giảng đó thì người không có căn lành không thể thành Phật, còn những người có căn lành thì nói chung tất cả đều có thể thành Phật. Đó là điều đức Phật thường thuyết dạy.

Tại pháp hội Pháp Hoa, đức Phật Thích-ca lại mở bày phương tiện quyền thừa, nêu rõ ý nghĩa chân thật, nói ra nghĩa chân thật nhất. Nghĩa chân thật nhất là gì? Là kẻ nhất-xiển-đề cũng có tánh Phật. Cho dù không có căn lành nhưng vẫn có tánh Phật. Đã có tánh Phật thì nhất định là có thể thành Phật. Do đó mới có câu “thành Phật Pháp Hoa”, vì kinh Pháp Hoa giảng về ý nghĩa thành Phật, giảng đến ý nghĩa viên mãn nhất, triệt để nhất, rốt ráo nhất. Nhưng mọi người không nhất thiết phải nghe theo câu “Pháp Hoa thành Phật”, rồi vội vã niệm kinh Pháp Hoa thì đó là rơi vào sai lầm. Chân chánh giúp quý vị thành Phật là kinh Vô Lượng Thọ, niệm Phật A-di-đà sẽ quyết định thành Phật, quý vị cần nắm rõ điều đó, không được hiểu sai ý nghĩa.

Nói “khai tuệ Lăng Nghiêm” có rất nhiều ý nghĩa trong đó. Nội dung kinh Lăng Nghiêm đều là các đệ tử Phật cùng với đức Phật Thích-ca mở ra một pháp hội biện luận, phá trừ những điều che chướng. Chúng ta đừng ngoài nghe qua những lời biện luận ấy, chân chánh được khai mở trí tuệ, từ đầu đến cuối đều là những điều biện luận cực kỳ tinh tế sáng suốt. Vì thế, Tôn giả Phú-lâu-na lắng nghe cuộc vấn đáp giữa đức Phật Thích-ca và Tôn giả A-nan, cho đến quyển thứ ba thì trải qua bảy lần truy vấn về tâm, mười lượt chỉ bày cặn kẽ, Tôn giả A-nan liền được khai ngộ, thuyết kệ xưng tán Phật.

Tôn giả Phú-lâu-na đứng cạnh lắng nghe lại thấy hết sức khó hiểu. Vì sao vậy? Ngài A-nan chỉ mới chứng Sơ quả, nghe Phật giảng kinh thuyết pháp liền được khai ngộ. Tôn giả Phú-lâu-na đã chứng Tứ quả, thành A-la-hán, ngài A-nan chỉ chứng Sơ quả là Tu-đà-hoàn. Tứ quả A-la-hán nghe không hiểu, càng nghe càng thấy mê mờ nghi hoặc, nghi vấn khởi sinh trùng trùng, cho nên mới hướng về đức Phật xin được chỉ dạy, đề xuất vấn đề. Nguyên nhân việc này là do đâu? Là vì hết thảy chúng sinh căn tánh không giống nhau. Tôn giả A-nan có phiền não chướng nặng nề nhưng sở tri chướng nhẹ, cho nên nghe kinh được khai ngộ. Ngài không thể chứng quả thánh cao, là vì phiền não chướng nặng, do ngài không thể đạt định nên không thể chứng quả. Căn tánh của Tôn giả Phú-lâu-na so với ngài A-nan thì mỗi mỗi đều tương phản, vì phiền não chướng nhẹ, mà sở tri chướng lại nặng nề. Vì sở tri chướng nặng nên nghe kinh không thể hiểu; vì phiền não chướng nhẹ nên chứng được Tứ quả A-la-hán. Chúng sinh căn tánh không giống nhau, chúng ta xem trong kinh Lăng Nghiêm có thể thấy điều này hết sức rõ ràng.

Tôn giả Phú-lâu-na đã nêu ra với đức Phật Thích-ca một vấn đề hết sức trọng yếu. Vấn đề này là một nghi vấn lớn trong giáo lý đạo Phật, là một vấn đề hết sức căn bản. Đó là, vô minh đã khởi sinh như thế nào? Vô minh đã khởi sinh từ lúc nào? Do nguyên nhân nào mà vô minh khởi sinh? Tôi cho rằng đa số người học Phật đều vướng mắc vào vấn đề này. Trong quá khứ, tôi đến nhiều nơi giảng kinh, khi giảng đến vấn đề này thì có rất nhiều vị đồng tu đến hỏi tôi, hỏi rằng vô minh khởi sinh như thế nào? Bởi vì đó là căn nguyên của vũ trụ nhân sinh. Các nhà khoa học hiện nay đều tìm kiếm, nghiên cứu, thăm dò, muốn biết các tinh cầu đã hình thành giữa hư không như thế nào? Thế giới đã hình thành như thế nào? Sự sống đã khởi sinh như thế nào? Hết thảy đều muốn thăm dò, nghiên cứu vấn đề này.

Vấn đề này từ ba ngàn năm trước, Tôn giả Phú-lâu-na đã nêu ra với đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Câu hỏi của ngài hết sức toàn diện, rằng đối với hết thảy chúng sinh khi tu hành chứng quả thành Phật rồi, đoạn trừ hết vô minh, phá sạch vô minh, sau khi chứng đắc Pháp thân, thành Phật rồi, thì đến khi nào sẽ khởi sinh vô minh trở lại? Ngài đặt ra câu hỏi về vấn đề này, một câu hỏi thật hết sức chu đáo. Đối với vấn đề này, đức Phật Thích-ca trong kinh Lăng Nghiêm đã giải đáp hết sức tường tận, chi tiết. Phương pháp giải đáp của ngài là thế nào? Điều đó hôm nay tôi sẽ không giảng rõ, quý vị có thể tự mình đọc kinh Lăng Nghiêm, tự mình tham khảo. Nếu tôi giảng rõ vấn đề ở đây, thì hết sức có lỗi đối với quý vị. Vì sao vậy? Vì đó là làm bế tắc, ngăn trở tánh ngộ của quý vị, khiến cho quý vị trở nên hết sức khó ngộ. Cần phải để cho quý vị tự mình đọc kinh, tự mình nhận ra có chỗ tỏ ngộ. Vì thế nên trong giáo học Thiền tông, thực sự mà nói thì chỉ một, hai câu có thể giảng thông suốt, vậy vì sao không giảng? Cũng là để cho quý vị tự mình ngộ ra. Sau khi quý vị tự ngộ được rồi, quý vị mới trình chỗ ngộ ấy lên thầy mình, vị thầy sẽ ấn chứng cho quý vị. Vị thầy nhất định không bao giờ giảng rõ, chỉ vì quý vị mà ấn chứng thôi. Đó chính là phương pháp trong giáo học Tông môn, là phải để cho quý vị tự mình khế nhập vào cảnh giới giác ngộ. Nếu như giảng giải rõ ràng cho quý vị, quý vị nghe qua rồi, quý vị sẽ không thể tự mình thể nhập được vào cảnh giới giác ngộ. Đó chính là chỗ khác biệt giữa Thiền tông với Tịnh độ trong sự vận dụng phương pháp dạy người. Phương pháp của Thiền tông quả thật cao minh, mới để cho quý vị tự khế nhập vào cảnh giới giác ngộ như vậy.

Trong kinh Phật giảng giải hết sức rõ ràng, hết sức minh bạch, nếu quý vị xem qua mà không hiểu rõ thì phải xem lại. Xem lại một lần vẫn không hiểu rõ, thì xem lại hai lần. Hai lần vẫn chưa hiểu được thì xem lại lần thứ ba. Nếu quý vị mang kinh Lăng Nghiêm ra xem đi xem lại như thế ngàn lần, vài ngàn lần, dám chắc quý vị sẽ hiểu rõ được, sẽ có sự giác ngộ. Người xưa thường nói: “Đọc sách ngàn lần, ý nghĩa tự thấy rõ.” Quý vị cần phải kiên trì mà đọc, thì mới thấu rõ được ý nghĩa những lời Phật thuyết dạy. Vì thế trong sinh hoạt thực tế của chúng ta ngày nay, chúng ta cần phải hiểu rõ được ý nghĩa ly chướng là như thế nào. Trên đây đã giảng qua về hai chướng.

Nếu nói ba chướng thì bao gồm hoặc, nghiệp và khổ, đó là ba chướng. Hoặc, là mê hoặc. Nghiệp, là tạo nghiệp. Khổ, là chịu quả báo. Đó gọi là ba chướng. Ý nghĩa của ba chướng thật ra so với hai chướng đã giảng trên cũng là tương đồng. Khởi sinh mê hoặc là sở tri chướng. Tạo nghiệp, chịu quả báo là phiền não chướng. Trong bài kệ hồi hướng, chúng ta thường niệm rằng: “Nguyện tiêu tam chướng chư phiền não, nguyện đắc trí huệ chơn minh liễu.” Vậy dùng phương pháp gì để phá trừ ba chướng? Dùng giới, định và tuệ. Cho nên đức Phật giảng kinh thuyết pháp đều không ra ngoài Ba vô lậu học này: giới, định, tuệ, ba môn học. Dùng ba môn học phá trừ ba chướng.

Ở đây kinh giảng “ly chướng an trụ”, an trụ nghĩa là an trụ trong pháp không. Lìa các chướng, an trụ trong pháp không rồi, mới tương ưng được với Chủ không thần. Do đó mà biết rằng, ở đây giảng “ly chướng an trụ” chính là giống như trong kinh Kim Cang giảng “ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm”. Chúng ta cần phải an ổn trong chỗ vô trụ thì mới tương hợp. Đó là ý nghĩa mà danh hiệu Bồ Tát thứ tư dạy cho chúng ta.

Vị thứ năm là Quảng Bộ Diệu Kế Chủ không thần. “Diệu kế” là cách nói tỷ dụ. “Quảng bộ”, chữ quảng đồng một nghĩa với trước đây đã giảng là rộng khắp, đều là tương ưng với tánh pháp rỗng không vắng lặng. Rộng, tức là biến hiện khắp hư không pháp giới. Chữ bộ so với chữ du trong tôn hiệu thứ hai đã giảng trước đây rất gần, nhưng đặt nặng hơn về ý nghĩa hóa độ người khác. “Phổ du” đặt nặng hơn về ý nghĩa tự mình thực hành, “quảng bộ” đặt nặng hơn về ý nghĩa hóa độ người khác. Trước đây nói “sâu rộng” là tỷ dụ cho tánh pháp, là thể, tướng, đức dụng của tự tánh, còn “diệu kế” ở đây là tỷ dụ cho hai trí quyền và thật, đó là dùng trong phương diện giáo hóa chúng sinh.

Trong thế gian và xuất thế gian, pháp nào là cao quý nhất? Chính là trí tuệ. Vì thế, Phật pháp chính là pháp trí tuệ, Phật học chính là cái học về trí tuệ. Phật chính là tiêu biểu cho trí tuệ. Danh từ Phật-đà chính là trí tuệ, tánh thể cũng chính là trí tuệ. Tác dụng là giác ngộ. Giác là công dụng, trí là tánh thể. Các bậc cổ đức vì chúng ta giảng giải về danh xưng Phật, trong chữ trí giảng ra thành ba loại trí: nhất thiết trí, đạo chủng trí và nhất thiết chủng trí. Đó là tánh thể. Giảng về công dụng thì nói giác, gồm tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Như vậy là giảng về ba loại trí, ba loại giác. Quý vị hiểu rõ được hàm nghĩa của những danh từ ấy thì sẽ hiểu được Phật pháp giảng giải những gì. Đó là giảng về trí tuệ viên mãn, nên gọi đó là “diệu kế”. “Diệu kế” chính là hàm ý diệu cao. Hai trí quyền, thật đều là diệu. Chữ trí giảng rộng ra rất nhiều ý nghĩa, phần sau sẽ có nhiều chỗ quay lại giảng rõ.

“Quảng bộ” cũng hàm nghĩa tương tự như Bồ Tát Quán Thế Âm, ngàn nơi kêu cầu thì ngàn nơi ứng hiện. Bất cứ nơi nào chúng sinh có sự chiêu cảm thì Phật Bồ Tát liền lập tức hiện thân, không một nơi nào là không hiện thân, không có lúc nào là không hiện thân, sự cảm ứng giao hòa trong đạo tâm không thể nghĩ bàn, chỉ dùng hai chữ “quảng bộ” này để tạm hình dung. Cũng còn hàm nghĩa là chư Phật Như Lai có năng lực tùy căn cơ thuyết pháp, có tâm từ bi không bỏ chúng sinh. Trong đạo Phật thường giảng: “Cửa Phật chẳng bỏ sót một người nào.” Từ bi đến mức không thể hơn được nữa. Chỉ cần chúng sinh có sự chiêu cảm, Phật liền có sự ứng hiện. Chiêu cảm, không có nghĩa là chúng ta có sự mong cầu, nguyện vọng khẩn thiết, như vậy chưa đủ. Vì sao vậy? Những nguyện vọng, mong cầu đó đều là từ nơi vọng tâm khởi sinh. Phật đối với tâm giả dối đó của chúng ta, đối với tình ý hư dối giả tạo đó, thảy đều biết cả, biết một cách quá rõ ràng. Đem tâm hư dối mà mong cầu chỉ đủ cho Phật thấy nực cười, không hề quan tâm đến.

Nếu quả thật dùng tâm chân thật mà cầu, lập tức sẽ có cảm ứng. Một khi chân tâm hiển hiện, có thể tự thân chúng ta cũng không rõ biết. Nhưng nếu chúng ta có được một niệm chân tâm, thì thường xuyên cũng sẽ khởi niệm chân tâm, cho dù tự mình không rõ biết hết, nhưng chư Phật rõ biết tất cả. Rõ biết rồi, liền có sự ứng hiện. Vì thế có rất nhiều vị đồng tu, lúc mới học Phật mà đã gặp được rất nhiều điềm lành, đến kể lại với tôi, như thấy được tướng Phật, thấy được hào quang của Phật, ngửi được mùi hương lạ... hết sức hoan hỷ. Những vị ấy đến nay học Phật đã qua nhiều năm, nhìn chung lại chẳng gặp được điềm lành nào nữa cả, vậy là thối chuyển hay không thối chuyển? Đừng xem đó là thối chuyển. Chỉ là vì vào lúc mới học Phật, quý vị không hề khởi tâm học Phật, nên có thể là chủng tử Phật trong a-lại-da thức của quý vị ngẫu nhiên bất chợt hiện hành thôi, mà chủng tử ấy cực kỳ nhỏ yếu, tự thân quý vị không thể rõ biết được, nhưng chư Phật rõ biết. Vì thế Phật ứng hiện cho quý vị những điềm lành ấy, để quý vị cảm thấy kinh ngạc, lạ kỳ, rồi từ đó tăng thêm tín tâm. Một khi tín tâm của quý vị đã được vững vàng, Phật không cần phải ứng hiện nữa, bởi thường ứng hiện quá sẽ thành quái dị, chẳng phải việc tốt đẹp nữa. Không thể thường xuyên hiển hiện, sự cảm ứng không thể thường có, vì thường xuyên hiển hiện sẽ thành ma chướng. Điều này quý vị cần phải hiểu rõ. Không thể thường xuyên hiện hữu, bởi vì thường hiện hữu như thế chính là bất thường. Nếu quá thường xuyên được thấy Phật, Bồ Tát, thấy được các điềm lành, thì lúc đó quý vị phải nhớ đến lời dạy trong kinh Lăng Nghiêm: “Hết thảy các hình tướng đều là hư vọng.” Quý vị nhất định phải thấy như không thấy, căn bản là không nên quan tâm đến những cảnh giới tốt đẹp đó. Một khi chấp trước vào đó liền biến thành cảnh giới của ma. Quý vị nhất định phải thấu hiểu đạo lý đó. Trong kinh Lăng Nghiêm Phật dạy chúng ta cách cảnh giác phòng ngừa như thế, nhất định phải ghi nhớ. Hôm nay chỉ giảng đến đây thôi.

    « Xem chương trước «      « Sách này có 6 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Kinh Đại Bát Niết bàn Tập 1


Tư tưởng xã hội trong Kinh điển Phật giáo Nguyên thủy


Chớ quên mình là nước


Pháp bảo Đàn kinh

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 52.14.93.232 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

Việt Nam (273 lượt xem) - Hoa Kỳ (16 lượt xem) - Senegal (13 lượt xem) - Saudi Arabia (4 lượt xem) - Đức quốc (3 lượt xem) - Nga (2 lượt xem) - Hungary (1 lượt xem) - ... ...