Hãy nhớ rằng, có đôi khi im lặng là câu trả lời tốt nhất.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Hạnh phúc chân thật là sự yên vui, thanh thản mà mỗi chúng ta có thể đạt đến bất chấp những khó khăn hay nghịch cảnh. Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Ngủ dậy muộn là hoang phí một ngày;tuổi trẻ không nỗ lực học tập là hoang phí một đời.Sưu tầm
Người ta vì ái dục sinh ra lo nghĩ; vì lo nghĩ sinh ra sợ sệt. Nếu lìa khỏi ái dục thì còn chi phải lo, còn chi phải sợ?Kinh Bốn mươi hai chương
Chớ khinh thường việc ác nhỏ mà làm; đốm lửa nhỏ có thể thiêu cháy cả núi rừng làng mạc. Chớ chê bỏ việc thiện nhỏ mà không làm, như giọt nước nhỏ lâu ngày cũng làm đầy chum vại lớn.Lời Phật dạy
Nếu chúng ta luôn giúp đỡ lẫn nhau, sẽ không ai còn cần đến vận may. (If we always helped one another, no one would need luck.)Sophocles
Người khôn ngoan chỉ nói khi có điều cần nói, kẻ ngu ngốc thì nói ra vì họ buộc phải nói. (Wise men speak because they have something to say; fools because they have to say something. )Plato
Mục đích của đời sống là khám phá tài năng của bạn, công việc của một đời là phát triển tài năng, và ý nghĩa của cuộc đời là cống hiến tài năng ấy. (The purpose of life is to discover your gift. The work of life is to develop it. The meaning of life is to give your gift away.)David S. Viscott
Nếu người có lỗi mà tự biết sai lầm, bỏ dữ làm lành thì tội tự tiêu diệt, như bệnh toát ra mồ hôi, dần dần được thuyên giảm.Kinh Bốn mươi hai chương
Hãy nhã nhặn với mọi người khi bạn đi lên, vì bạn sẽ gặp lại họ khi đi xuống.Miranda

Trang chủ »» Danh mục »» Rộng Mở Tâm Hồn »» Giảng giải Kinh Hoa Nghiêm »» Giảng giải Kinh Hoa Nghiêm - Tập 51 »»

Giảng giải Kinh Hoa Nghiêm
»» Giảng giải Kinh Hoa Nghiêm - Tập 51

Donate

(Lượt xem: 15.050)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       

Giảng giải Kinh Hoa Nghiêm - Giảng giải Kinh Hoa Nghiêm - Tập 51

Font chữ:



SÁCH AMAZON



Mua bản sách in

Xin mời quý vị mở Kinh văn trang 28, chúng ta sẽ bắt đầu xem từ dòng thứ nhất:

[Kinh văn nói rằng:] "Lại có vô số các vị Chủ hỏa thần, như là Phổ Quang Diệm Tạng Chủ hoả thần, Phổ Tập Quang Tràng Chủ hoả thần... (đều cùng nhau hội tụ đến nơi này).

Vị thứ ba là: Đại Quang Phổ Chiếu Chủ hỏa thần. Nói "đại quang" hay hào quang chiếu sáng lớn lao, đó là hình dung trí tuệ sẵn có đầy đủ trong bản tánh của mỗi chúng ta, chỉ riêng trí Bát-nhã này của tự tánh mới có khả năng soi chiếu rộng khắp cùng hư không pháp giới. Tác dụng của sự "chiếu soi" ấy chính là làm sinh khởi mối tương quan cảm ứng giao hòa trong đạo thể. Cho nên, tất cả chúng sinh ba đời trong mười phương, mỗi khi khởi tâm động niệm, tạo tác hành vi, đều không ra ngoài hào quang soi chiếu của chư Phật.

Không chỉ là những tâm niệm của chúng sinh trong hiện tại, mà cho đến trong vô số kiếp trước đây, mỗi một tâm niệm nhỏ nhặt tinh tế của phàm phu chúng ta đều nằm trong ánh hào quang Bát-nhã ấy, chư Phật đều rõ biết. Phàm phu chúng ta nghe qua lời ấy, đọc thấy những câu chữ ấy, thì cho là hết sức hy hữu, hết sức kỳ lạ, không thể suy lường. Nhưng trong thực tế thì mười phương ba đời đều cùng một tánh thể, không có trước sau, không có rộng hẹp, không có sâu cạn, nếu như từ nơi sự soi chiếu sáng suốt của tự tánh Bát-nhã mà quán chiếu mọi hiện tượng, thì hết thảy đều là cảnh giới chân thật nhất như, như trong Kinh văn Đại thừa đã giảng rõ.

Nhân vì các vị [Chủ hỏa thần] này có năng lực công đức lớn lao, nên cùng với tất cả chúng sinh khởi lên mối tương quan tác dụng trong sự cảm ứng giao hòa. Các vị Chủ hỏa thần là tượng trưng cho sự hỗ trợ, cứu giúp chúng sinh phá trừ mê chướng, khai mở giác ngộ. Cửa ải mê chướng đã phá tung rồi thì hết thảy nghiệp chướng, phiền não, tập khí xấu ác mới có thể đoạn trừ đạt được giác ngộ. Giác ngộ rồi mới có thể đạt đến sự an vui chân thật.

Chúng sinh phàm phu khi chưa dứt trừ hết phiền não, tập khí xấu ác, thì cùng với chư Phật Như Lai không thể khởi sinh mối tương quan cảm ứng, nay tôi xin đem ý nghĩa đó nói rõ với tất cả quý vị, rằng tâm thức của chúng ta hiện nay, đối với cảnh giới chứng ngộ của Như Lai thật không tương ưng. Trong Kinh điển Đại thừa có dạy rằng, mỗi một niệm lành nhỏ nhặt của chúng sinh cũng đều có thể cảm động đến chư Phật, Bồ Tát. Nói một niệm là chỉ cho khoảng thời gian rất ngắn, chỉ một sát-na, nghĩa là hết sức ngắn ngủi. Nói việc lành nhỏ nhặt là chỉ cho một ý niệm hiền thiện hết sức tinh vi, tế nhị. Vậy chúng ta hãy thử hình dung, một niệm lành nhỏ nhặt, vi tế như thế, một niệm lành thật nhỏ như thế, liệu mỗi chúng ta có được hay chăng? Có thể nói, tất cả chúng sinh đều có được cả. Vậy thì tại sao chúng ta lại không thể cảm động chư Phật, Bồ Tát hiển hiện tại đây? Đó thật sự không phải lời Phật dạy có sai lầm, mà đều do chúng ta hiểu sai về ý nghĩa của "một niệm lành vi tế".

Thực tế mà nói, mỗi một chúng sinh phàm phu như ta, cho đến cả những chúng sinh đang ở trong địa ngục, đều có đầy đủ căn lành phước đức như nhau, huống chi là chỉ một niệm lành nhỏ nhặt! Vậy tại sao chúng sinh vẫn mãi đắm chìm vào ba đường ác? Đó là vì, tuy sẵn có căn lành, sẵn có phước đức, nhưng kinh văn cũng từng dạy rằng: "Hết thảy chúng sinh dù sẵn có trí tuệ, đức tướng giống như chư Phật, chỉ do vọng tưởng, chấp trước nên không thể hiển lộ rõ ràng." Nếu dừng mọi vọng niệm, dứt trừ nghiệp chướng, thì đạo lý giác ngộ ngay nơi ấy hiển bày.

Do đó mà biết rằng, kinh văn ở trên nói đến một niệm hiền thiện trong hiện tại, không chút che chướng, hoặc ví như có che chướng thì cũng chỉ là hết sức mỏng manh, yếu ớt, ví như áng mây nhẹ trôi giữa trời xanh, chỉ một làn gió thổi qua cũng có thể hoàn toàn tan biến, được như vậy thì mới có thể cảm động được chư Phật Bồ Tát hiển hiện tại đây.

Lại nữa, vì sao nói đến một niệm hiền thiện? Vì một niệm hiền thiện ấy chính là sự chiếu soi sáng suốt của tánh đức. Ví như đức Phật Thích-ca Mâu-ni vào ba ngàn năm trước, đã giáng hạ đản sinh nơi thế gian này như thế nào? Vì thế gian này có sự hiện hữu của một niệm hiền thiện, nên cảm ứng được đức Phật hiện thân ứng hóa, vì chúng sinh nơi này có thể dùng thân Phật để hóa độ, nên ngài liền hóa hiện thân Phật đến đây để hóa độ chúng sinh. Tuy thị hiện thân Phật, nhưng ví như người có căn lành mà không nhận biết được Phật, thì cũng không thể theo Phật xin nghe giáo pháp, cuối cùng cũng không thể học làm theo Phật. Nên biết rằng khi đã khởi sinh một niệm hiền thiện, Phật hiện thân ứng hóa, thì ngay vào lúc ấy, nhất định sẽ có chư Phật, Bồ Tát hóa hiện đến để hỗ trợ, giúp đỡ cho những chúng sinh có căn lành phước đức thuần thục.

Kinh văn từng giảng rằng, chư thần lúc ban sơ đạt được thần lực sinh lên năm cõi trời Bất hoàn, cũng gọi là Ngũ tịnh cư thiên. Chư thiên ở các cõi trời Tịnh cư thảy đều là những người tu hành đã chứng đắc thánh quả. Mặt khác, trong kinh luận cũng nói rằng những vị chứng đắc ba thánh quả đó thảy đều là thánh nhân chứng đắc ba thánh quả Tiểu thừa. Các vị ấy đều quán sát thấy biết đức Phật đã ứng thân hóa hiện nơi thế gian này, nhưng chúng sinh ở thế gian không biết thưa thỉnh Phật thuyết pháp, nên các vị ấy liền hiện thân đến để thưa thỉnh, thay cho chúng sinh ở thế gian này mà thưa thỉnh.

Không chỉ là như thế, chúng ta trong đạo Phật cũng thường nghe nói rằng, "Một vị Phật ra đời, có ngàn vị Phật đều ủng hộ." Vô số chư Phật Như Lai có thể thị hiện thành ngoại đạo, quốc vương, đại thần, trưởng giả, cư sĩ... cho đến thị hiện thành đồng nam, đồng nữ... Mỗi mỗi hình tướng như vậy đều đã từng thường xuyên thị hiện, đều có công năng tác dụng giáo hóa. Ta thường nghe ở thế gian, có những bậc trí tuệ sâu rộng, những kẻ học vấn quảng bác, những người nhiều đức độ, năng lực, thảy đều tìm đến quy y Phật, kề cận bên Phật, làm đệ tử Phật. Tạo ra được chuyển biến cho xã hội, đều là từ nơi một niệm hiền thiện của chúng sinh thành thục, cảm ứng được Phật hóa hiện đến.

Nêu ra một niệm hiền thiện vi tế như thế, quả thật không phải là điều mà chúng ta có thể hình dung thấu suốt hết được. Trong Phật pháp đặc biệt có kinh Vô lượng thọ, chỉ xét riêng đề kinh Vô lượng thọ đã nêu lên hết sức rõ ràng, với chúng ta về cương lĩnh của người tu tập là: thanh tịnh, bình đẳng và giác ngộ. Tuy nêu ra ba điều ấy, nhưng thật ra phải hiểu là tuy ba mà một, tuy một mà ba. Hơn nữa cũng có thứ lớp. Thứ lớp sinh khởi như thế nào? Từ nơi tâm thanh tịnh mà sinh khởi, đó là đối với hạng căn tánh trung bình hoặc thấp kém mà nói. Nếu quả là bậc có căn tánh cao tột, ắt có thể từ ngay nơi tánh giác mà hạ thủ công phu. Cho nên trong ba cửa: thanh tịnh, bình đẳng và giác ngộ, bậc căn tánh cao tột có thể từ nơi cửa giác ngộ mà bước thẳng vào. Như Phật giáo Trung Hoa có Thiền tông, Tánh tông, các tông phái ấy đều từ nơi cửa giác ngộ mà vào. Còn về Giáo tông thì có các tông phái từ nơi chánh môn, định môn, tức là dựa theo giới và định mà bắt đầu vào đạo. Tịnh độ tông từ cửa thanh tịnh mà vào, nghĩa là từ nơi tâm thanh tịnh mà khởi sự tu tập. Do đó mà biết rằng, lìa khỏi các yếu tố giác ngộ, chân chánh và thanh tịnh là đi ngược lại với cương lĩnh: thanh tịnh, bình đẳng và giác ngộ. Như thế thì cho dù sẵn có căn lành phước đức trong hiện tại, cũng hoàn toàn không có phương tiện để làm khởi sinh tác dụng cảm ứng giao hòa với chư Phật Bồ Tát. Đó là một đạo lý chắc chắn mà chúng ta không thể không rõ biết. Đó cũng chính là điều căn bản nhập môn của Phật pháp Đại thừa. Bất luận là đối với Giải môn hoặc Hạnh môn, nếu không dùng nhận thức chân thật để cầu học thì chẳng có cửa nào để vào đạo cả. Đó là ý nghĩa công dụng khởi sinh của "Đại Quang Phổ Chiếu".

Nay chúng ta lại xem tiếp đến danh hiệu của vị thứ tư. [Danh hiệu của vị này là] Chúng Diệu Cung Điện Chủ hỏa thần. Nói "cung điện" là biểu thị cho từ bi, cho sự che chở, nuôi dưỡng, trước đã từng giảng rõ với quý vị rồi. Nói "chúng" có nghĩa là số đông. Nói số đông tức là theo nơi sự tướng mà nói. Sự tướng vô lượng vô biên, nhưng dù cảnh giới nào thì cũng đều từ nơi thức tánh của chúng sinh biến hiện mà có. Theo như kinh Đại thừa có nói khái quát thì khắp mười pháp giới đều y theo pháp chân chánh mà trang nghiêm, đó cũng chính là giảng về ý nghĩa số nhiều. Không chỉ có sự vật hình tướng là nhiều, mà thuyết lý tương ứng cũng nhiều. Có sự ắt có lý tương ứng, lý nương theo sự nên cả hai đều vô cùng phức tạp.

Mỗi một vị Phật ra đời giáo hóa trong một đại thiên thế giới, chúng ta thường nói "ba ngàn đại thiên thế giới", nhưng thật ra chỉ là một đại thiên thế giới mà thôi, cũng gọi là một cõi Phật. Nay chúng ta xem trong kinh văn có vô lượng vô biên các đức Phật Như Lai, hay nói cách khác, thì các cõi Phật hay đại thiên thế giới cũng phải là vô lượng vô biên. Mỗi một cõi Phật đều có đủ mười pháp giới, nên số lượng mười pháp giới lại càng nhiều hơn nữa, thật không thể dùng con số mà biểu đạt hết được, rất nhiều.

Lại nói đến một chữ "diệu" hay là mầu nhiệm, quả thật có ý nghĩa rất sâu xa, Trong kinh Bát-nhã thường nói rằng: "Tánh tướng đồng như nhau, sự lý vốn chẳng phân hai", như thế gọi là mầu nhiệm. Vậy ai là người có thể thấy biết được như vậy? Chính là bậc giác ngộ mới có thể thấy biết được như thế, thật hết sức mầu nhiệm. Nhưng các vị thấy biết được những gì? Đó là thấy được cội nguồn xưa nay, sự tướng cũng chính là tánh thể, tánh thể chính là sự tướng, sự ấy là lý, mà lý chính là sự. Vậy tánh thể vốn đã thanh tịnh, có lẽ nào sự tướng lại không thanh tịnh? Lý vốn là rỗng không vắng lặng, có lẽ nào sự tướng lại chẳng rỗng không vắng lặng? Do đó mà thấy biết được rằng, bản thể của hết thảy mọi hiện tượng, của tất cả các pháp đều là rỗng không vắng lặng.

Đạo lý là như vậy, nhưng sao chúng ta ngày nay nhận biết hết thảy mọi thứ đều chẳng thấy đó là không? Thế là vì sao? Xin nói rõ cùng quý vị, đó là do thức tình mê muội nên chẳng thấy được bản thể là không. Trừ ra một điểm ấy, thì phàm phu chúng ta so với cảnh giới của chư Phật Như Lai đâu có gì khác biệt? Hoàn toàn không có khác biệt. Chúng ta xem trong kinh thấy nói tuổi thọ của chư Phật Như Lai là vô lượng. Nhưng chúng ta hiện nay, có chúng sinh nào lại không có tuổi thọ vô lượng? Tôi nói như vậy hẳn là quý vị không thể nào tin được, rõ ràng trước mắt nhìn thấy xác thân này chỉ mấy mươi năm đã đến lúc chết, thế thì tuổi thọ vô lượng thế nào được? Đó là vì quý vị không xét cho thật rõ, không nhận biết được rằng xác thân này vốn chỉ là giả dối, thân này vốn thật chẳng phải là ta.

Nay hãy lấy một ví dụ để so sánh làm rõ, xác thân này của chúng ta đây thật chẳng khác gì y phục khoác lên trên người. Mỗi chúng ta đều như pháp thân thanh tịnh, y phục thì mỗi ngày đều thay đổi. Quý vị hẳn không thể cho rằng những y phục ấy thọ mạng ngắn ngủi, hoàn toàn không phải vậy. Chúng ta ở trong mười pháp giới, xả bỏ xác thân này, thọ nhận xác thân khác, thảy đều giống như thay đổi y phục mà thôi. Những xác thân ấy không phải là ta, không phải là bản ngã chân thật, cái ngã chân thật có tuổi thọ vô lượng. Quý vị đã nhận biết rằng chư Phật Như Lai có tuổi thọ vô lượng, thì trong chúng ta đây há có người nào lại không có tuổi thọ vô lượng hay sao? So với chư Phật Như Lai, ta có khác biệt ở điểm nào? Khác biệt ở điểm là, chư Phật Như Lai sử dụng trí tuệ sáng suốt, còn phàm phu chúng ta thì để cho tình thức sai sử, hư hỏng xấu ác, luôn để cho cảm xúc mê muội làm chủ.

Nếu theo trong Phật pháp mà nói thì chư Phật Như Lai vận dụng được bốn trí Bồ-đề, còn phàm phu chúng ta thì bị xoay chuyển trong tám thức, năm mươi mốt tâm sở. Sai biệt là ở đó, còn ngoài ra thật không còn có sai biệt nào khác, cho nên gọi là hết sức mầu nhiệm. Ví như quý vị quả thật giữ lòng chân chánh minh bạch, đạt được giác ngộ, khế nhập cảnh giới chư Phật, thì tâm thức của quý vị làm sao có thể không thanh tịnh? Tâm thanh tịnh ở nơi cảnh giới của chúng sinh thì cảnh giới của chúng sinh là thanh tịnh, nhất định không thể nhiễm ô. Thiền tông do nơi ý này mà có câu rằng: "Thong dong chơi giữa muôn hoa, dù một phiến lá cũng không chạm vào." Ý nghĩa như thế có thể gọi là sự nhiệm mầu của mọi pháp môn, mới quả thật là từ bi chân chánh.

Trong đạo Phật thường dạy rằng: "Từ bi là gốc, phương tiện là cửa vào." Theo như hai câu ấy thì chính là đạt đến ý nghĩa của "chúng diệu cung điện". Thế nhưng trong đạo Phật cũng thường nghe nói rằng: "Giàu từ bi mang tai họa, nhiều phương tiện phải suy đồi", mà nói như vậy cũng đúng. Vậy thế nào là "Giàu từ bi mang tai họa, nhiều phương tiện phải suy đồi"? Đó là nói lòng từ bi mà dựa trên những vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, thì phương tiện ắt phải hư hoại, suy đồi. Nếu tâm từ bi tương ưng với sự giác ngộ, chân chánh, thanh tịnh, từ bi tương ưng với thanh tịnh, bình đẳng, giác ngộ, thì đó mới thật là căn bản, mới đúng thật "Từ bi là gốc, phương tiện là cửa vào".

Vì thế phải xét kỹ xem sự tu tập tương ưng với những gì, nếu tương ưng với chư Phật Bồ Tát thì đó đúng là căn bản của Phật pháp, đích thật là lối vào pháp Phật. Nếu như tương ưng với phiền não, thì đó là sai lầm, rốt lại sẽ tạo thành vô số tội nghiệp, đó chính là chỗ khởi sinh khác biệt giữa chư Phật với chúng sinh, giữa phàm với thánh. Cho nên việc tu tập trong Phật pháp, bất luận là theo pháp môn nào bất luận là tông phái nào, dù Đại thừa cũng tốt, Tiểu thừa cũng tốt, dù theo Hiển giáo cũng tốt, Mật giáo cũng tốt, tất cả tông phái đều có cùng một nguyên tắc chung, một nguyên tắc vĩnh viễn không thay đổi, đó là giới, định, tuệ; đó là giác ngộ, chân chánh, thanh tịnh; là những điều không thể thay đổi. Có thể tương ưng với những điều này thì đó là pháp Phật. Không tương ưng với những điều này thì đó là tà pháp, là pháp của ma.

Phật dạy như thế, ma cũng nói như thế, vậy phân biệt thế nào là ma? Nói ma đó chính là sự cong vạy khuất tất, chính thân tâm của quý vị nhận lấy sự cong vạy khuất tất. Tâm không an ổn vì tâm cong vạy khuất tất, thân không an ổn cũng vì thân cong vạy khuất tất. Nếu tương ưng với giác ngộ, chân chánh, thanh tịnh, thì nhất định sẽ được thân tâm an ổn. Đó là điều mà những người học Phật chúng ta nhất định phải nhận thức thật rõ ràng, thì sự tu học Phật pháp của chúng ta mới có thể đạt được lợi ích chân thật. Lợi ích chân thật đó không phải là sự thăng quan phát tài, không phải là được hưởng thụ năm món dục, sáu trần cảnh, thật không phải vậy. Lợi ích chân thật chính là đạt được tâm địa thanh tịnh, trí tuệ tăng trưởng, đối với hết thảy nhân vật, sự việc, ngoại duyên trần cảnh, đều nhận hiểu rõ ràng minh bạch, đó gọi là lợi ích chân thật. Sáng suốt hiểu được như thế rồi sau mới có thể thấu triệt rõ ràng việc tu nhân chứng quả, con đường tu tập tự nhiên sáng tỏ rõ ràng. Đó mới chính là ngay trong đời này, được đi vào Phật pháp, đạt được lợi ích công đức thù thắng, người học Phật không thể không rõ biết.

Bây giờ nói đến danh hiệu của vị thứ năm là Vô Tận Quang Kế Chủ hỏa thần. Nói "vô tận" là hàm ý không thể đo lường, có nghĩa là không có chỗ dừng lại. Nói "quang" là chỉ cho trí tuệ, sẵn có trong tự tánh của chúng sinh, quả thật là chân chánh vô tận. Không chỉ có trí tuệ là vô tận, đức hạnh năng lực cũng là vô tận, sắc tướng cũng là vô tận. Các vị này có thể ở trong mười pháp giới mà tùy loại hiện thân sắc tướng vô tận; có năng lực thị hiện, nên đức hạnh năng lực vô tận; lại có năng lực tùy cơ thuyết pháp, hiển bày ánh sáng trí tuệ vô tận, cứu giúp, hỗ trợ cho tất cả chúng sinh đều khai mở phát lộ được trí tuệ, đức hạnh, năng lực trong tự tánh của mình.

Chúng sinh được chứng quả, thành Phật, chư Phật Bồ Tát không lấy đó làm công lao là ý nghĩa thế nào? Vì hết thảy mọi sự thành tựu của chúng sinh đều do nơi tự tánh sẵn đủ, không phải do nơi bên ngoài. hoàn toàn không phải do chư Phật Bồ Tát mang đến sự giác ngộ cho chúng sinh. Chư Phật Bồ Tát cứu độ, giúp đỡ chúng sinh đạt được giác ngộ, không phải là có được từ bên ngoài, mà là tự tánh của chúng sinh vốn sẵn có đủ. Chúng ta hiện nay nhìn thấy chúng sinh chịu nhiều khổ não, phiền não của chúng sinh thật không cùng tận, điều đó cũng không sai. Khổ não của chúng sinh không cùng tận là vì đâu? Vì mê lầm nên đem trí tuệ đức hạnh năng lực vô tận mà biến thành phiền não khổ nạn. Một khi đạt đến giác ngộ, liền có thể mang những phiền não khổ nạn vô tận ấy mà chuyển hóa thành đức tướng, trí tuệ, làm cho chuyển biến. Cho nên người học Phật, đặc biệt là theo giáo pháp Đại thừa, nhất thiết phải thấu hiểu rõ ràng về sự chuyển biến lớn lao như thế.

Do đâu mà khởi sự chuyển biến? Phải từ nơi mỗi một ý niệm mà khởi sự chuyển biến. Chúng ta hiện nay dẫy đầy những ưu tư lo nghĩ, dẫy đầy những phiền não, dẫy đầy phân biệt, đủ loại chấp trước vướng mắc, như vậy làm sao đem hết những thứ ấy, chuyển hóa thành các phẩm tính: thanh tịnh, bình đẳng, giác ngộ? Quý vị vốn đã sẵn thành công rồi. Bậc thượng căn nghe pháp, đâu nhất thiết phải ngày ngày đều nghe kinh? Trong Lục Tổ Đàn Kinh, chúng ta đã thấy có Đại sư Vĩnh Gia Huyền Giác, tìm đến Tào Khê để cầu được Lục tổ chỉ dạy, đối đáp chẳng mấy câu đã đạt được thiền cơ. Trong đạo Phật nói đến việc khế hợp, ngay khi vừa nghe qua đã thấu triệt đạt ngộ. Đại sư ngay khi ấy xin từ biệt quay về. Lục tổ hỏi ngài sao quay về nhanh thế? Việc đã xong, không cần thiết phải lưu lại đó nữa. Lục tổ lưu ngài lại một đêm, sáng hôm sau liền quay về sớm. Vì thế, ở đạo trường Tào Khê ngài có danh xưng là "Nhất Túc Giác", nghĩa là "một đêm giác ngộ". Ngài ở lại thêm một ngày, ấy là vì Lục tổ có ý lưu giữ. Ví như không lưu giữ, thì dù một ngày ngài cũng không ở lại. Thật khác với chúng ta đây, ngày ngày đều nghe kinh, năm này sang năm khác mà mê muội vẫn hoàn mê muội.

Cho nên, việc nghe kinh nhất thiết phải nhận hiểu được, nhận hiểu tức chuyển hóa được cảnh giới. Lúc tụng đọc Kinh điển tức là đang ở trong Pháp hội, cho đến những pháp hội cầu siêu, cúng thí cô hồn, Mông Sơn thí thực, những Phật sự như thế, các bậc tôn đức xưa kia đều dạy chúng ta phải "tùy văn nhập quán", nghĩa là theo văn kinh mà nhập vào quán niệm, có như vậy mới thực sự cảm được sự thọ dụng.

Thế nào là "theo văn kinh nhập vào quán niệm"? Đó là nói phải nương theo ý nghĩa kinh văn để quán niệm nhập vào cảnh giới trong kinh. Như khi quý vị tụng đọc kinh Hoa Nghiêm, tụng đọc phẩm Thập trụ, mà quý vị có thể tùy theo văn kinh nhập vào quán niệm, thì quý vị trở thành Bồ Tát Thập trụ. Quý vị tụng đọc phẩm Thập hạnh, thì quý vị sẽ là Bồ Tát Thập hạnh. Quý vị tụng đọc phẩm Thập địa, thì quý vị sẽ là Bồ Tát Thập địa. Như có thể tùy theo văn kinh nhập vào cảnh giới như thế, tụng niệm vừa xong một bộ kinh Hoa Nghiêm thì tự mình thành Phật, chắc chắn đúng thật như thế.

Mỗi ngày đều tụng niệm, mỗi ngày đều nhập vào cảnh giới trong kinh, hẳn quý vị sẽ hỏi như vậy liệu còn có thể thối chuyển hay chăng? Có thối chuyển, mà thối chuyển rất nhanh nữa. Vì sao lại thối chuyển? Vì phiền não, tập khí xấu ác hết sức nặng nề. Lúc nào nhìn ra quanh mình cũng thấy dẫy đầy những cám dỗ, năm món dục, sáu trần cảnh, nên tâm lại xao động, lại sinh phiền não, rốt cùng phải thối chuyển. Nhưng rồi hôm sau lại tụng niệm, lại nhập vào cảnh giới trong kinh, cứ như thế mà tiến rồi lùi, lùi rồi tiến... cho đến khi nào không còn thối chuyển nữa thì đó là quý vị đã thành công.

Đạt đến chỗ không còn thối chuyển thì gọi là chứng quả, trong đó lại phân ra có Vị bất thối, Hạnh bất thối, Niệm bất thối. Căn bản thấp nhất là Vị bất thối. Đạt đến Vị bất thối tức là nhất định không bao giờ còn quay trở lại sa đọa vào địa vị phàm phu. Hẳn quý vị sẽ hỏi, vào lúc ấy có còn phiền não hay không? Những kiến chấp sai lầm không còn nữa. Kiến chấp sai lầm, theo cách nói của chúng ta ngày nay thì gọi là những hiểu biết, tri thức sai lầm. Những điều ấy nhất định không còn nữa. Có thể nói là khi ấy thì những niệm tưởng sai lầm tuy vẫn còn, nhưng kiến chấp, tri thức sai lầm không còn nữa. Những gì là niệm tưởng sai lầm? Đó là những ý niệm tham lam, sân hận, si mê và kiêu mạn; những ý niệm ấy cũng vẫn còn. Những ý niệm ấy vốn là tập khí huân tập từ vô số kiếp đến nay, vẫn chưa dứt trừ hết được. Một khi quý vị có được sự thấy biết, tri kiến đúng thật, đó là quý vị đã chứng được Sơ quả của Tiểu thừa, cũng là chứng được địa vị không còn thối chuyển, là quả Tu-đà-hoàn của Tiểu thừa. Phiền não khi ấy tuy vẫn còn, nhưng liệu có tác dụng hay không? Xin thưa với quý vị là không có tác dụng.

Vì sao phiền não khi ấy không khởi sinh tác dụng? Vì hành giả có công phu tu định, có trí tuệ định lực, có khả năng khống chế, kiểm soát được phiền não, không để cho phiền não phát tác. Hành giả thật sự có được năng lực đó. Cho nên từ địa vị Sơ quả trở lên cho đến khi còn chưa chứng đắc Tứ quả A-la-hán, vẫn còn có những ý niệm tham, sân, si, mạn hết sức vi tế, nhưng chắc chắn không có những sự tướng, hành vi biểu lộ của tham, sân, si, mạn. Có thể nói cho dù thảng hoặc có khởi sinh những tập khí của tham, sân, si, mạn, nhưng tuyệt đối không có sự biểu lộ thành sự việc. Đó là vì định lực và trí tuệ của hành giả có đủ khả năng khống chế. Thẳng một đường tiến tới, phá trừ một tầng vô minh là chứng được một phần pháp thân, tập khí không còn, tất cả đều chuyển hóa, khi ấy có thể nói là một sự chuyển biến hết sức lớn lao, chuyển phiền não thành Bồ-đề, chuyển sinh tử thành Niết-bàn. Đương nhiên cũng sẽ chuyển thân nghiệp báo phàm phu này thành như trong kinh Vô lượng thọ có giảng, là thân Kim cang bất hoại, thân Vô lượng tướng hảo, chuyển cảnh giới nhơ nhớp uế trược này thành Tịnh độ.

Đó chính là một sự chuyển biến cực kỳ lớn lao. Chuyển biến ấy là tại nơi tâm, một khi trong tâm đã chuyển biến, thì bao nhiêu cảnh giới bên ngoài cũng đều chuyển biến theo. Vậy như chúng ta đây liệu có được năng lực tu tập chuyển biến như thế hay không? Như trên đã từng khẳng định, có lẽ nào trong chúng ta lại có bất kỳ người nào không có được năng lực tu tập ấy! Vậy tại sao không có sự chuyển biến? Đều tại vì trong tâm không có sự chuyển biến, nên dù rất muốn chuyển biến, cũng không hề chuyển biến được gì. Chẳng những không có chuyển biến, mà sợ rằng càng chuyển biến càng thêm sa đọa. Nguyên nhân là vì sao? Chúng ta hết sức mong muốn chuyển biến, hết sức mong muốn được thành Bồ Tát, hết sức mong muốn được thành Phật, hết sức mong muốn được vãng sinh về thế giới Cực Lạc, nhưng chính sự "hết sức mong muốn" đó của chúng ta, chung quy chỉ là ý niệm tà vạy, chỉ là sai lầm. Trong tâm thanh tịnh, lẽ nào lại còn có cái ý niệm "hết sức mong muốn"? Nếu tâm đã không thanh tịnh, quý vị làm sao có thể thành tựu? Phải như thế nào mới được thành tựu? Không có ý niệm mong muốn, ấy là được thành tựu. Nhưng nếu quý vị chỉ nghe lời tôi nói, chỉ bám chấp vào câu "không có ý niệm là thành tựu", thì làm sao có thể thành tựu? Ví như có chỗ được thành tựu, rốt lại cũng chỉ là pháp ngoại đạo mà thôi.

Quý vị đều đã biết việc thuyết giảng giáo pháp khó khăn như thế nào, nhưng chỉ sợ nhất là người nghe lại khởi sinh nhận hiểu sai lầm. Trong Phật pháp nói "không có ý niệm" là chỉ cho những ý niệm tà vạy, những niệm tưởng sai lầm, nhưng vẫn có chánh niệm. Trong tông môn thường nói: "Vô niệm vi tông", nghĩa là lấy sự vô niệm làm tông chỉ. Quý vị nếu lấy sự vô niệm chân chánh ấy mà biến thành pháp định vô tưởng, giữ tâm trống rỗng, đó là hoàn toàn sai lầm. Vô niệm ở đây có nghĩa là không có những ý niệm tà vạy, những ý niệm xấu ác, nhưng vẫn có chánh niệm. Cũng một câu này, tiền nhân ngày trước đã từng giảng giải, đạt đến mức hết sức đơn giản, khiến người nghe qua liền nắm hiểu rõ ràng. Hiện tại thì giảng giải ngày thêm phức tạp, khiến người nghe thường bám chấp vào tên gọi, lời nói, khởi sinh những kiến giải sai lầm mê muội.

Cho nên Bồ Tát Mã Minh trong sách Khởi tín luận có dạy chúng ta những nguyên tắc nghe giảng pháp hết sức đúng đắn, hết sức cao minh. Ngài dạy chúng ta khi nghe giảng kinh phải lìa tướng ngôn thuyết, nghĩa là không được vướng mắc, bám chấp vào ngôn từ của người giảng kinh, không chấp trước. Phải lìa tướng danh tự khi nghe kinh, nghĩa là phải không vướng mắc, bám chấp vào những danh xưng, tên gọi mà người giảng kinh sử dụng, không vướng chấp những điều đó. Cuối cùng là phải lìa tướng tâm duyên khi nghe kinh, nghĩa là căn bản không được [dựa vào suy diễn, định kiến của mình mà] loại bỏ những tư tưởng, ý tứ trong lời giảng, phải lìa bỏ những nhận thức chủ quan của mình, đó là lìa tướng tâm duyên. Nghe kinh được như thế ắt được khai ngộ.

Chúng ta ngày nay nghe kinh mà không được khai ngộ, nguyên nhân đều do bám chấp hình tướng, bám chấp vào danh xưng tên gọi, bám chấp vào nhận thức chủ quan của mình. Chúng ta thất bại đều là do ở chỗ này. Lìa khỏi hình tướng mới có thể thấy được thể tánh, bám chấp vướng mắc nơi hình tướng thì không thể thấy tánh. Cho nên cần phải hiểu rõ rằng, hết thảy các pháp đều là không cùng tận. Không chỉ riêng có trí tuệ là không cùng tận, mà tất cả đều không cùng tận. Là những pháp nào? Hết thảy các pháp đều do nơi tự tánh biến hiện ra, cái năng biến là tự tánh vốn đã không cùng tận, nên đối tượng biến hiện là các pháp cũng là không cùng tận.

[Nói về danh hiệu] "Quang Kế", ánh sáng ở nơi ấy là hết thảy không cùng tận, nên dùng "quang" là ánh sáng để biểu trưng; "Kế" là hàm ý biểu thị sự cao tột, rõ ràng, ý muốn nói đức hạnh của vị này hết sức sáng tỏ rõ ràng, hết sức sáng suốt hiển lộ. Đó đều là những phẩm tính mà sáu căn của chúng ta có thể dễ dàng nhận biết, có thể dễ dàng tiếp cận được.

Bây giờ nói đến danh hiệu của vị thứ sáu là Chủng Chủng Diệm Nhãn Chủ hoả thần. "Chủng chủng" nghĩa là rất nhiều, ý muốn nói là không đo lường được, không thể đo lường, không cùng tận. "Diệm nhãn", diệm nghĩa là quang minh sáng tỏ, hay ngọn lửa quang minh. Hai chữ "diệm nhãn" này là muốn nói đến "Ngũ nhãn viên minh" trong giáo pháp Đại thừa, bởi "viên minh" cũng có hàm ý như "diệm nhãn". Trong kinh Hoa Nghiêm dạy rằng, Phật có mười loại mắt; kinh văn về sau cũng có giảng rõ. Vị này biểu trưng cho giáo pháp hết sức sáng tỏ, chúng ta cần phải dùng đến trí tuệ, đủ loại tuệ nhãn, để quán sát mọi sự trang nghiêm chân chánh, thì mới không rơi vào nhầm lẫn, sai lệch. Chư Phật Bồ Tát đều có năng lực quán sát ấy, còn phàm phu chúng ta thì không có năng lực quán sát ấy. Cho nên chúng ta thường nhìn nhận sai lầm, nhìn người sai lầm, nhìn sự việc cũng sai lầm, nhìn vạn vật cũng sai lầm. Nên trong sinh hoạt thường ngày chúng ta vẫn thường nhầm lẫn, sai lệch. Cho nên khi chúng ta tụng đọc đến đức hiệu cao quý của Bồ Tát, thì chúng ta phải thấy từ sâu trong lòng mình khởi lên sự xấu hổ, tàm quý, nhất định phải hết sức nỗ lực tu học.

Như Lai có năm loại mắt, kinh Hoa Nghiêm giảng mười loại mắt, làm thế nào để thành tựu? Căn bản vẫn là trí tuệ, vì thế nên tôn hiệu dùng chữ "Diệm Nhãn". Trí tuệ từ đâu sinh khởi? Chính là từ trong thiền định mà sinh khởi. Tịnh độ tông thường giảng về tâm thanh tịnh, rằng tâm thanh tịnh ắt cõi Phật thanh tịnh. Tâm thanh tịnh cũng chính là thiền định, tâm thanh tịnh là năng lực sinh khởi, mà vô lượng trí tuệ là đối tượng được sinh khởi. Tâm thanh tịnh từ đâu mà có? Chính là từ nơi sự trì giới mà có. Cho nên căn bản tu tập nói chung đều không ra ngoài Tam học, tức là Giới, Định và Tuệ.

Thế nào gọi là trì giới? Giới luật tức là những điều chư Phật Bồ Tát dạy dỗ khuyên răn chúng ta, dạy dỗ ngăn ngừa chúng ta. Trong hết thảy mọi kinh luận, có những lập luận, phương pháp, cảnh giác răn ngừa tất cả đều gọi chung là Giới. Chúng ta nên thường tụng đọc, nên nhận hiểu rõ ràng, nên y theo đó mà thực hành, như vậy gọi là trì giới.

Nhưng Kinh điển thì quá nhiều, mà đời sống của chúng ta thật ngắn ngủi, hữu hạn, làm sao có thể học cho hết? Điều đó cũng không sao cả. Thọ trì bất kỳ một bộ kinh luận nào đó cũng được rồi, vì pháp Phật là viên dung, Vì pháp Phật là hỗ tương quán thông, cho nên mỗi một kinh đều có ý nghĩa tương thông với hết thảy các kinh. Chúng ta cùng nhau tu học nơi này, đối với việc trì giới phải hết sức xem trọng, không được sơ sài xao nhãng. Đó chính là pháp căn bản trong sự tu học của chúng ta. Khi áp dụng trong những hoàn cảnh sinh hoạt hằng ngày cần phải giản lược, như quả thật có những khoản quá chi ly vụn vặt, điều này mục nọ quá nhiều, chúng ta không thể nhớ hết. Không thể nhớ hết, nên do nơi hình thức văn cú rườm rà mà không đạt được lợi ích. Càng đơn giản sẽ càng tốt hơn.

Ngày trước khi thành lập Tịnh tông Học hội, chúng tôi chỉ đề ra có 5 khoa mục thôi. Thật hết sức giản dị dễ nhớ, mọi người nhất định phải hết sức tuân thủ. Trong năm khoa mục thì mục đầu tiên là Tam phúc. Theo trong kinh Vô Lượng Thọ Phật có dạy ba điều, 11 câu.

Điều thứ nhất gồm 4 câu là: Hiếu dưỡng với cha mẹ, phụng sự bậc sư trưởng, giữ tâm từ không giết hại và tu tập Mười nghiệp lành. Chúng tôi đều ghi nhớ rất kỹ, nhớ rồi phải làm theo. Mỗi lúc khởi tâm động niệm, lời nói việc làm, đều không dám trái lời Phật dạy.

Điều thứ hai gồm 3 câu: Thọ trì Tam quy, đầy đủ các giới, không phạm các oai nghi.

Điều thứ ba gồm 4 câu: Phát tâm Bồ-đề, tin sâu nhân quả, tụng đọc Kinh điển Đại thừa, khuyến khích người tu tập.

Rất dễ nhớ. Dù bất cứ lúc nào, bất kỳ ở đâu, dù khi hành xử đối nhân tiếp vật, khởi tâm động niệm, nhất định không vi phạm vào, như thế gọi là trì giới.

Khoa mục thứ hai là Sáu hòa kính. Mọi sinh hoạt của chúng ta về mặt xã hội nhất định không bao giờ tách biệt với cộng đồng. Con người là loài sinh vật có tổ chức xã hội, không có cách nào rời khỏi cộng đồng xã hội mà có thể tự mình sinh hoạt tồn tại, không thể được. Khi sống chung cùng đại chúng, đức Phật có dạy chúng ta một số giới điều, nhất thiết phải tuân theo. Thứ nhất là "kiến hòa đồng giải", là thiết yếu để xây dựng một nhận thức chung Chúng ta nói chung đều có sự tương đồng, gần gũi về cách suy nghĩ, cách nhìn nhận sự việc, nên mới có thể cùng nhau chung sống. Như quả thật giữa ta và người khác có kiến giải không tương đồng, thì nhất định không thể cùng nhau chung sống, lẽ đương nhiên là như thế.

Phật giáo ở Trung Quốc vì sao phân chia thành 10 tông phái? Nói chung đều là do khuynh hướng chẳng tương đồng. Những người ưa thích tham thiền, nhất định lập thành một tông phái riêng. Đã lập một tông phái riêng rồi, thì người trong một tông phái ắt phải có tư tưởng, kiến giải tương đồng. Những người ưa thích pháp niệm Phật, có tư tưởng kiến giải tương đồng, ắt phải cùng đến Niệm Phật đường. Những người ưa chuộng sự nghiên cứu giáo điển, ắt phải có đạo trường để nghiên cứu giáo điển.

Trung Quốc vào thời xưa phân chia các đạo trường, tự viện, nếu nói theo ngôn ngữ hiện đại thì đó là các trường học chuyên khoa vậy. Thí dụ như vào thời Tùy – Đường, nếu như ta muốn học tư tưởng Hoa Nghiêm, vậy phải học Hoa Nghiêm ở đâu? Phải đến Ngũ Đài Sơn. Ngũ Đài Sơn là thuộc Hoa Nghiêm tông, muốn học tư tưởng ấy thì phải tìm đến nơi ấy. Nếu muốn học tư tưởng Pháp Hoa, thì phải đến Chiết Giang, tại núi Thiên Thai. Nếu muốn học Pháp tướng Duy thức, thì phải đến chùa Từ Ân ở Trường An. Nếu muốn học về Giới luật thì phải đến núi Chung Nam. Những nơi như thế đều giống như các Đại học chuyên khoa, hoàn toàn không có sự lẫn lộn, không rối loạn.

Cho nên, người tu học nhất định phải chọn cho mình một pháp môn để đi vào. Vì sao vậy? Có như vậy mới dễ đạt được định, mới dễ được khai ngộ. Quý vị nhất định phải ghi nhớ kỹ nguyên tắc này. Nếu quý vị theo học nhiều môn, học lẫn lộn, thì tâm quý vị sẽ rối loạn, Quý vị sẽ không thể đạt được định, nên chắc chắn sẽ không thành tựu. Sở dĩ đức Phật thuyết dạy vô lượng pháp môn, là vì muốn cứu độ vô lượng chúng sinh có căn tánh chẳng giống nhau, không phải muốn cho quý vị phải theo học tất cả. Làm sao có chuyện vô lý như thế? Cũng tương tự như ở bậc đại học, người ta mở ra rất nhiều học viện, hàng mấy chục phân khoa, hàng mấy trăm chương trình khác nhau, không phải là buộc chúng ta phải theo học tất cả. Như quý vị muốn theo học tất cả, dù học đến bốn trăm năm cũng chẳng xong, có lý nào lại như vậy? Quý vị chỉ cần theo học một phân khoa thôi, học xong khoa ấy thì có thể đạt được học vị, không buộc quý vị phải theo học tất cả.

Cũng tương tự như vậy, kinh luận trong Phật pháp tuy có rất nhiều, nhưng đức Phật không buộc chúng ta phải học hết tất cả. Quý vị chỉ cần chọn lấy một pháp môn tu, như vậy là có thể thành tựu. Lại nói về việc chọn tu học một môn nào đó, ví như chúng tôi chọn tu học theo kinh Vô Lượng Thọ. Kinh Vô Lượng Thọ tại Trung Quốc hiện nay có đến 9 bản kinh khác nhau. Chúng tôi rất hài lòng với bản hội tập của Lão cư sĩ Hạ Liên Cư, vậy những ai cũng tán thành với bản hội tập này, ắt có thể cùng chúng tôi tu học. Ví như có người khác không tán thành với bản kinh này, lại chọn dùng bản kinh của Khang Tăng Khải, những người ấy sẽ tìm đến nơi khác tu học. Như vậy cũng tốt, cũng vẫn có thể được thành tựu. Như thế gọi là "kiến hòa đồng giải".

Cho đến như việc học kinh A-di-đà, nói chung thì mọi người đều học kinh A-di-đà, nhưng có thể có người thích bản chú giải của Đại sư Ngẫu Ích, lại có người chuộng bản sớ sao của Đại sư Liên Trì, những người như thế không cùng nhau bàn luận, ắt sẽ phân chia thành hai đạo trường. Nói chung vẫn là kinh A-di-đà, nhưng phần chú giải để y cứ lại không tương đồng, bậc thầy chọn theo cũng khác biệt. Người học "yếu giải" thì học theo Đại sư Ngẫu Ích, người học "sớ sao" thì học theo Đại sư Liên Trì. Tất nhiên phải phân chia thành hai đạo trường.

Cho nên thấy rằng, việc đạt được "kiến hòa đồng giải" là vô cùng quan trọng, Đây chính là nền tảng căn bản của sáu pháp hòa kính. Nhất định phải xây dựng được một nhận thức chung, thì đạo trường ấy mới có thể được hưng vượng, mới có thể thành tựu được cho đại chúng. Nói thành tựu đó, tức là chắc chắn đạt được Giới, Định, Tuệ. Đạo trường niệm Phật thì quyết định được vãng sinh, được địa vị Bất thối cho đến thành Phật, như thế gọi là thành tựu.

Thứ hai là "giới hòa đồng tu". Ở đây không nói đến giới theo nghĩa rộng, mà là theo nghĩa hẹp, tức là việc tuân thủ theo các nội quy, quy định của cộng đồng, đoàn thể. Nói chung mỗi một tập thể sống chung đều nhất thiết phải có nội quy, khuôn phép. Nội quy ấy nhất định phải dựa theo những điều thiết yếu trong sinh hoạt thực tế mà chế định ra, nhưng cũng có thể tùy theo từng thời điểm mà sửa đổi cho thích hợp. Chúng ta sinh hoạt trong một cộng đồng đều có nội quy phải tuân theo. Như thế gọi là "giới hòa đồng tu".

Thứ ba là "thân hòa đồng trú", "khẩu hòa vô tranh" và "ý hòa đồng duyệt". Những điều này đều là nói trong sinh hoạt thực tế phải sống chung hòa mục, hỗ trợ hợp tác cùng nhau.

Thực sự trọn làm theo được sáu pháp hòa kính này cũng không phải dễ dàng. Điều cuối cùng trong sáu pháp hòa kính là "lợi hòa đồng quân". Đó là những lời Phật dạy chúng ta, khi sống chung trong đại chúng nhất định phải tuân thủ theo sáu nguyên tắc hòa kính này.

Về việc sống chung một nơi, các bậc đại đức, tổ sư xưa nay có đề xướng lập Vân thủy đường, hiện nay gọi là nhà nghỉ tập thể, được tổ chức dựa theo hình thức như trong quân đội. Đại chúng đến giờ ngủ nghỉ ban đêm, đều phải cùng ngủ nghỉ một nơi, đều tuân theo quy củ nghiêm ngặt. Cùng ngủ một nơi là để mọi người có thể giúp nhau giám sát qua lại, mỗi người đều không thể không tuân theo quy củ. Nhất thiết không nên để cho mỗi người ngủ nghỉ riêng một phòng. Mỗi người ngủ nghỉ riêng một phòng, đóng cửa lại thì không ai biết được, khiến người ấy có thể dễ dàng sinh ra phóng dật, buông thả, lười nhác, hay nói cách khác, người ấy sẽ thối chuyển. Vì thế nên phải noi theo cách tổ chức của quân đội, khoảng mười, hai mươi người cùng ngủ nghỉ chung trong một phòng, cùng nhau giám sát, khuyến khích lẫn nhau. Mỗi người đều nương dựa vào đại chúng không để cho tự thân mình trở nên lười nhác, giải đãi, không để cho tự thân mình trở nên sa đọa. Điều này là hết sức quan trọng.

Nếu như lại cho rằng người đời nay có điều kiện vật chất dồi dào, đầy đủ hơn người xưa, nên mỗi người đều phải có một am thất riêng, có phòng ngủ riêng, thì bất luận quý vị có tu tập như thế nào, cũng nhất định không thể thoát ra khỏi sáu đường luân hồi. Điều đó là hoàn toàn đúng thật, không hề sai dối. Cứ lấy một người mà suy ra, một khi cửa phòng đóng kín lại liền lập tức thay đổi khác đi. Lại xét riêng một người mà nói, liệu quý vị có thể dễ dàng tu tập thành tựu chăng? Như có người lại hỏi rằng, tuy tôi đóng cửa phòng riêng nhưng vẫn luôn nghiêm chỉnh giữ theo quy củ thì sao? Cứ cho là bản thân mình có thể nghiêm chỉnh giữ gìn theo quy củ, nhưng làm sao có thể nói chắc được rằng người khác cũng có thể giữ gìn như vậy, làm sao biết họ có thể làm những điều gì? Phật, Tổ chế định quy củ cho chúng ta, đều vì lợi ích cho chúng ta, đều là vì giúp thành tựu cho chúng ta, tuyệt nhiên không phải muốn gây thêm phiền toái cho ta. Chúng ta cần phải hiểu rõ điều đó, cần phải cảm niệm ân đức của Phật, Tổ, không xem đó là chuyện gây thêm phiền toái.

Khoa mục thứ ba là Tam học, tức là Giới, Định và Tuệ, ba môn học. Khoa mục thứ tư là Sáu ba-la-mật, tức là các tiêu chí của hạnh Bồ Tát. Khoa mục thứ năm là mười nguyện lớn của Bồ Tát Phổ Hiền, chính là chỗ tu tập lên cao của hàng Bồ Tát.

Chúng tôi chỉ giữ theo năm khoa mục ấy, rất dễ nhớ, chỉ cần nói qua một lần thì ai ai cũng có thể ghi nhớ được. Mong rằng có thể ở mọi nơi mọi lúc, trong lúc đối nhân tiếp vật, ứng xử ở đời, khởi tâm động niệm đều giữ cho phù hợp với năm khoa mục đã nói trên, như thế gọi là trì giới. Trì giới đã được lâu ngày thì tự nhiên rồi quý vị sẽ được định.

Trong giai đoạn mới bắt đầu tu học, dù có dùng cách này hay cách khác để kiềm chế, kiểm soát bản thân, cũng đều cảm thấy không dễ dàng thoải mái. Nguyên nhân do đâu? Đó là do bình thường quý vị đã quen phóng dật, buông thả, đã quen tùy tiện, bây giờ nhất thời kiềm chế, ước thúc quý vị, bảo quý vị không được làm điều này, không được làm điều nọ, thì quý vị cảm thấy thật hết sức không thoải mái. Đây là một cửa ải, nhất định phải vượt qua mới có thể đạt được sự an định. Nếu như quý vị không thể vượt qua cửa ải đó, thì tâm thanh tịnh của quý vị không thể nào hiển lộ. Nói cách khác là phiền não của quý vị không được điều phục, cho nên quý vị vẫn còn phiền não, vẫn còn tạp niệm, vẫn còn vọng tưởng, vẫn còn phân biệt chấp trước.

Nói khác đi, cho dù quý vị có niệm Phật nhưng không thể được vãng sanh, không nắm chắc được sự thành tựu. Tình trạng như thế càng nghĩ đến càng thấy đáng sợ, vì chuyện vãng sanh không thể nắm chắc thì phải y theo lối cũ mà luân chuyển trong sáu đường luân hồi. Sáu đường luân hồi ấy trước đây chúng ta không hiểu biết, mơ mơ hồ hồ, từ nay về sau đã có sự hiểu biết rõ ràng, phải thấy rằng sáu đường luân hồi là hết sức đáng sợ, nhất định không để cho tiếp tục trôi lăn nữa. Nên nghĩ đến việc trong một đời này phải thực sự thoát ly ra khỏi sáu đường luân hồi.

Quý vị không thực sự đủ năng lực thì không ra khỏi được, cho nên nhất định phải gắng sức tu hành chân chánh. Cho nên chúng tôi mới đem cương lĩnh tu tập ấy viết ra thành "Nguyên tắc tu hành của những người đồng học trong Tịnh tông Học hội". Bản văn ấy được in ấn ra rất nhiều, in thành dạng sách bỏ túi, mang theo rất thuận tiện. Các vị đồng học trong Ban Bồi huấn của chúng tôi thật hết sức từ bi, đã trích trong kinh Vô Lượng Thọ, lấy những lời dạy quan trọng soạn thành 60 điều, lại theo nội dung trong kinh "Phát khởi Bồ Tát thù thắng chí lạc" soạn ra thành 60 điều, hợp tất cả in chung thành một bản. Chúng tôi có thể căn cứ nội dung tập sách nhỏ ấy mà nhất nhất làm theo, như vậy cũng là chân chánh trì giới.

Quyển sách nhỏ ấy là bản kinh thực hành, mọi hành vi sinh hoạt thường ngày của chúng tôi đều nhất thiết phải phù hợp theo những tiêu chuẩn trong đó. Có như vậy thì việc niệm Phật cầu sinh Tịnh độ của chúng tôi mới có thể nắm chắc kết quả, con đường tu tập một đời của chúng tôi mới thực sự sáng suốt rỡ ràng. Tâm đã thanh tịnh rồi, tâm thanh tịnh thì khởi sinh tác dụng, đó là trí tuệ, khi ấy quý vị có thể đối với mười pháp giới được y chánh trang nghiêm, đối với mọi sự mọi vật đều có thể nhận biết được sáng suốt, đều có thể nhận biết một cách rõ ràng minh bạch mà không hề sai lệch, như thế là "chủng chủng diệm nhãn".

Tại cảnh giới ấy, chư thần đều là các vị pháp thân đại sĩ, đều là chư Phật Như Lai vì từ bi phương tiện hiện thân thuyết pháp. Vì thế nên cảnh giới của các vị này thật cao quý.

Vị thứ bảy là Thập Phương Cung Điện Như Tu Di Sơn Chủ hoả thần. Trong danh hiệu này có 8 chữ. "Thập phương cung điện", chúng ta nhìn qua mấy chữ này thì biết là cũng có công năng tác dụng như đã giảng trên, nhưng không phải về mặt lý tánh, mà là về mặt sự tướng. Đã nói mười phương tất nhiên bao hàm cả ba đời, những ý nghĩa này luôn đi cùng nhau, không thể chia tách. Cho nên nói ba đời, ắt trong đó cũng hàm ý mười phương, mà nói mười phương thì nhất định cũng bao hàm cả ba đời.

"Cung điện như Tu-di sơn", nói như núi Tu-di, đó là dùng tỷ dụ. Núi Tu-di là một ngọn núi cao nhất trong thế giới, là ngọn núi lớn nhất. Nói cung điện giống như núi Tu-di thì chúng ta có thể hình dung ra được về vị Chủ hỏa thần này rồi. Oai đức của vị này phải rất lớn, rất nhiều; phước báo của vị này cũng phải rất lớn, rất nhiều. Nên vị ấy mới cư ngụ trong cung điện cao lớn giống như núi Tu-di. Điều quan trọng nhất ở đây là chúng ta phải nhận ra được ý nghĩa biểu trưng trong danh hiệu đó.

Nói "cung điện" là biểu trưng cho tâm từ bi, cho sự hộ niệm hết thảy chúng sinh. Ý nghĩa thực sự trong danh hiệu này chính là hiển thị tâm đại từ đại bi, Đối với hết thảy chúng sinh ba đời trong mười phương đều đem tâm đại từ đại bi mà bố thí cho. Quý vị có thể sẽ thắc mắc rằng, chúng ta hiện nay khổ nạn quá nhiều, nhưng chư Phật Bồ Tát dường như không hề có lòng từ bi bảo hộ, nhớ nghĩ đến chúng ta, không hề có lòng từ bi giúp đỡ bảo bọc chúng ta, cứ để cho chúng ta phải gặp quá nhiều khổ nạn. Sự thật ấy phàm phu như chúng ta thất rất khó mà nhận hiểu được, Chư Phật Bồ Tát quả thật luôn đem lòng từ bi bố thí cho chúng sinh, luôn mang đến cho chúng sinh sự an ổn không sợ sệt. Chư Phật Bồ Tát ứng hóa hiện thân chính là đại từ đại bi. Chư Phật Bồ Tát không ứng hóa hiện thân cũng là đại từ đại bi. Lòng từ bi của chư vị quả thật là bao trùm khắp cả mười phương, ba đời.

Vì sao nói rằng chúng sinh Phật Bồ Tát dù hiện thân hay không hiện thân cũng đều là biểu lộ lòng từ bi? Chư Phật Bồ Tát nếu ứng hóa hiện thân, đó là do cảm ứng mà hóa hiện đến; chúng sinh có tâm thành cảm động thì chư vị lập tức ứng hiện, có cảm có ứng. Khi ấy các ngài hóa hiện đến ắt có thể thành tựu cho hết thảy chúng sinh. Nếu chúng sinh không có tâm thành cảm động, các ngài không thể ứng hiện đến. Nếu có hóa hiện đến, chẳng những hết thảy chúng sinh không đạt được sự lợi ích, mà ngược lại còn do đó mà tạo ra vô lượng vô biên tội nghiệp. Vì sao vậy? Vì khi ấy chúng sinh không nhận biết được chư Phật, Bồ Tát, nên sinh ra phỉ báng Phật, phỉ báng Pháp, phỉ báng Tăng-già, như vậy chẳng phải là làm cho chúng sinh càng nặng thêm tội nghiệp đó sao? Vì thế mà các ngài không hóa hiện đến. Cho nên không hóa hiện đến chính là do lòng đại từ đại bi, tránh cho những chúng sinh kia không tạo thêm tội nghiệp, ý nghĩa là như thế.

Chúng ta phải hết sức tĩnh tâm sáng suốt mà quán sát, suy ngẫm thật sâu xa để nhận hiểu thì mới biết được lòng từ bi của các ngài. Các ngài luôn hành xử theo chân lý thể tánh, không phải theo cảm xúc tình trần. Các ngài chắc chắn không hành xử theo tình cảm trần tục, vì các ngài đều đã đạt trí tuệ viên mãn. Thật ra, cho dù chư Phật, Bồ Tát không hóa hiện thân Phật, Bồ Tát xuất hiện nơi thế gian, các ngài cũng vẫn dùng đủ các hình tướng khác nhau để hiện thân, chẳng hạn như hiện thân trời, người, quỷ thần... cho đến hiện thân các loài động, thực vật... rốt cùng các ngài vẫn không bao giờ bỏ rơi chúng sinh. Cho nên, chư Phật Bồ Tát vẫn luôn hóa thân thị hiện khắp quanh ta, chỉ vì chúng ta phàm phu mắt thịt không nhận biết được.

Sự tướng như thế, lý lẽ như thế, quá rõ ràng không cần phải nói. Những việc như thế từ xưa nay sách vở điển tịch ghi chép rất nhiều, chúng ta chỉ cần có chút lưu tâm đến việc nhận hiểu, tụng đọc, rồi suy ngẫm kỹ mà quán sát tinh tế quanh ta, dù không nhận biết được ắt cũng có sự cảm nhận, đích thật là chư Phật Bồ Tát không hề lìa bỏ chúng ta. Đó chính là ý nghĩa của danh hiệu "Thập Phương Cung Điện Như Tu Di Sơn Chủ hoả thần".

Danh hiệu của vị thứ tám là "Uy Quang Tự Tại Chủ hoả thần". Nói "uy" nghĩa là uy đức, nói "quang" là ý quang minh, soi chiếu sáng suốt. Uy đức và quang minh có sự thọ dụng của tự mình, có sự thọ dụng của người khác. Dù là tự mình thọ dụng hay người khác thọ dụng cũng đều được ung dung tự tại. Nếu như chúng ta phân tích hai từ này ra để tìm hiểu ý nghĩa, thì uy đức là thuộc về phương tiện khéo léo, thiện xảo, còn quang minh là trí tuệ sáng suốt soi chiếu. Trong đó bao gồm cả Thật trí, Quyền trí, Căn bản trí, Hậu đắc trí, trọn vẹn đầy đủ. Do đó mà tự mình thọ dụng hay giúp người khác thọ dụng cũng đều được tự tại không ngăn ngại.

Vậy chúng ta nên học tập theo như thế nào? Đức hiệu tôn quý của vị Bồ Tát này có vận dụng được vào thực tế sinh hoạt đời sống của chúng ta hay không? Uy không có nghĩa là uy phong lẫm lẫm, không phải là khiến cho người khác phải sợ sệt mình, không phải là những ý nghĩa ấy. Uy có nghĩa là khiến cho người khác phải cung kính ngưỡng mộ, tức là uy đức. Có thể khiến cho người khác kính ngưỡng, nhất định phải có đức hạnh. Đức hạnh như thế, nhất định phải được đại đa số người đời thừa nhận, thì mới có thể khiến cho đại chúng cung kính ngưỡng mộ. Cổ nhân nói rằng: "Có tâm thành bên trong thì mới thể hiện ra hình tướng bên ngoài." Nền tảng căn bản của uy đức chính là sự chân thành. Những lời dạy của đức Phật chính là nền giáo dục của bậc Đại thánh.

Bậc thánh hiền dựng nền giáo dục của thế gian, ở Trung Quốc trong hơn hai ngàn năm qua, đa số mọi người đều khẳng định chính là Khổng tử, Mạnh tử. Đa số mọi người đều khẳng định rằng Khổng, Mạnh đích thực là bậc thánh hiền ở thế gian. Các vị hoàn toàn không có lòng riêng tư, chỉ một dạ chân thành, dạy dỗ tất cả chúng sinh. Nội dung giáo dục là giúp cho mọi người rõ biết về chân tướng vũ trụ nhân sinh, còn mục đích của sự giáo dục ấy là giúp cho mọi người đều biết cách ứng xử giữa người với người, như thế là mục đích của giáo dục. Con người phải ứng xử như thế nào với vạn vật, phải ứng xử như thế nào với trời đất, quỷ thần, mục đích của giáo dục chính là ở đó. Người với người có thể ứng xử tốt với nhau, quan hệ giao tiếp mới được tốt đẹp. Bất luận là trong sinh hoạt thường ngày hay trong công việc, sự nghiệp, đều được thuận lợi, xuôi buồm thuận gió, quý vị sẽ luôn được rất nhiều người giúp đỡ, hỗ trợ. Quý vị sẵn lòng giúp đỡ người khác, thì người khác cũng sẵn lòng giúp đỡ quý vị. Quan hệ giữa con người với nhau là hết sức quan trọng. Sau đó mới nói đến quan hệ giữa con người với thế giới tự nhiên.

Quý vị hãy thử xem tình trạng của chúng ta hiện nay, thật hết sức đáng sợ. Đối với sự giáo dục của các bậc thánh hiền xưa, thì ngày nay đều làm ngược lại, cho nên xã hội đại loạn. Xã hội rối loạn là do quan hệ giao tiếp của con người suy đồi, mỗi người chỉ biết mưu cầu lợi ích riêng cho bản thân mình, phá hoại lợi ích của người khác, vậy thì làm sao đạt được? Cho đến cả những người cầm quyền trị nước, cũng đều theo quan niệm như thế, chỉ biết quan tâm đến lợi ích của đất nước mình, không quan tâm đến lợi ích của những nước khác. Như vậy thế giới làm sao có thể hòa bình? Làm sao có thể ổn định? Quả thật không thể được.

Chúng ta nhất định phải biết quan tâm đến lợi ích của bản thân đồng thời với lợi ích của người khác. Chúng ta phải biết quan tâm đến lợi ích của đất nước mình đồng thời với lợi ích của bất kỳ quốc gia nào khác trên thế giới. Chúng ta phải cùng nhau phát triển, cùng nhau đạt đến sự phồn vinh, phải hỗ trợ, hợp tác với nhau thì thế giới mới có thể hòa bình, xã hội mới có thể ổn định, mới có thể thể phồn vinh, thịnh vượng. Nếu chỉ được riêng bản thân mình mà không có người khác, hậu quả thật không dám nghĩ đến.

Chúng ta ngày nay không biết cách quan hệ giao tiếp cho tốt đẹp, nên tạo ra rất nhiều sự bất đồng, sản sinh rất nhiều mâu thuẫn. Quan hệ với thiên nhiên thì trái ngược nguyên tắc, làm hủy hoại sự cân bằng sinh thái tự nhiên, đều là vì chỉ quan tâm đến lợi ích riêng của bản thân, không quan tâm đến sự cân bằng sinh thái tự nhiên. Chúng ta hủy hoại tất cả, hủy hoại cả địa cầu này, làm sinh ra biết bao tai biến, mang đến bao nhiêu là họa hại, đều là do ta không biết noi theo tự nhiên mà hành xử, không có sự hiểu biết rõ ràng.

Chúng ta xem báo thấy tin tức ở Trung Hoa đại lục, hiện nay đã có sự phản tỉnh, nhận biết rằng việc chặt phá cây cối quy mô lớn trên vùng thượng lưu Trường giang với nạn lụt hiện nay có quan hệ mật thiết cùng nhau. Cho nên đến lúc này mới đưa ra điều lệnh, dù một cây cũng không cho phép chặt phá nữa. Điều đó có ý nghĩa gì? Đó là quan hệ giữa con người với cây cối đã không được tốt đẹp. Hiện nay nền giáo dục không nghiên cứu kỹ về điều này. Nói sâu xa hơn nữa, điều mà con người hiện nay cho là mê tín, thật ra không mê tín chút nào. Vì quả thật có trời đất, quỷ thần, không hề sai dối. Người xưa nói "Trên đầu ba thước có thần minh", có chỗ nào sai dối? Chỉ khi quan hệ giữa con người với quỷ thần được tốt đẹp, chúng ta mới có thể được hưởng những ngày thái bình an ổn thực sự. Đó chính là mục đích của giáo dục.

Nếu như quý vị có thể thông đạt, có thể thấu hiểu rõ ràng, thì mới có thể tự biết mình phải làm thế nào. Phật giáo dạy cho chúng ta một nguyên tắc, chính là một nguyên tắc quan trọng tối yếu. Phật dạy chúng ta phải biết quán chiếu chân thật, phải biết buông xả, thì khi ấy mới có thể đạt được uy đức quang minh viên mãn. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni là người đã thực sự buông xả, cả đời ngài chỉ có ba tấm y với một bình bát, hoàn toàn buông xả. Nói một cách khác, ngoài những thứ căn bản tối cần thiết cho đời sống, thì dù một mảy mảy xa xỉ cũng không có, người như vậy là thực sự buông xả.

Lẽ đương nhiên chúng ta cũng không thể hoàn toàn học làm theo như đức Phật Thích-ca. Vì sao vậy? Chúng ta sinh ra vào thời đại khác biệt, hoàn cảnh sinh hoạt cũng khác biệt. Vào thời đại đức Phật, ngài sinh ra ở địa phương như thế, môi trường khí hậu như thế, hoàn cảnh tự nhiên như thế, cho phép ngài có thể áp dụng nếp sinh hoạt như thế, mỗi ngày đều mang bát đi khất thực, chỉ ăn một lần trong ngày. Khí hậu khi ấy thì chỉ ba tấm y là vừa đủ, đêm về ngủ nghỉ thì dùng ba tấm y đó mà che đắp, làm chỗ ngồi nằm.

Quý vị đều biết, hiện nay người ta thường mang tọa cụ đặt phía trước mặt khi lễ Phật, thật không phải vậy. Ngọa cụ không phải để dùng khi lễ Phật, ngọa cụ là để trải ra trên mặt đất khi cần ngủ nghỉ. Do đó mới gọi là ngọa cụ, thật không phải để dùng vào việc lễ Phật. Sinh hoạt như vậy thật là hết sức đơn giản. Chúng ta cần phải nhận hiểu rõ nguyên tắc, nguyên lý này, người tu hành, bất luận là tại gia hay xuất gia, nếu muốn đạt được sự giải thoát chân thật không ngăn ngại, thì cần phải giữ theo nếp sống hết sức đơn giản.

Xin thưa cùng quý vị, nếp sống đơn giản nhất chính là nếp sống khang kiện, tốt cho sức khỏe nhất. Vì sao vậy? Đó là vì giữ được tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh thì thân được thanh tịnh, thân tâm thanh tịnh thì môi trường, cảnh giới quanh ta được thanh tịnh, do đó chính là nếp sống khang kiện, tốt nhất cho sức khỏe. Không ưu tư lo nghĩ, không ràng buộc câu thúc, như thế là đã buông xả được. Buông xả thì nhất định phải quán chiếu. Thế nào gọi là quán chiếu chân thật? Là đối với hết thảy vạn sự vạn vật, đều nhận biết một cách đúng thật, rõ ràng minh bạch, như thế là trí tuệ, là phóng chiếu quang minh.

Đức Phật Thích-ca Mâu-ni giảng kinh thuyết pháp, không hề có sự chuẩn bị từ trước. Có người đến thưa hỏi, thì ngay khi thưa hỏi lập tức giải đáp. Giải đáp rồi, lúc đó cũng chẳng hề có sự ghi chép lưu lại. Sau khi đức Phật nhập diệt rồi, các vị đệ tử mới mở hội kết tập Kinh tạng. Chúng ta thấy, đức Phật Thích-ca Mâu-ni hoàn toàn không có mang theo bản kinh sách nào trên tay, hoàn toàn không có. Đức Phật Thích-ca cũng không hề dùng đến giấy bút, không hề có. Trí tuệ của ngài như biển lớn, không điều gì là không biết, không việc gì là không làm được, là do đâu mà có? Chính là do quán chiếu như thật mà có, do buông xả mà có. Một khi quý vị có thể chân chánh buông xả, chân chánh quán chiếu như thật, thì đức năng, trí tuệ sẵn có đầy đủ trong tự tánh của quý vị sẽ hiển bày, không có giới hạn, sử dụng vĩnh viễn không bao giờ hết. Vậy có chỗ nào cần phải chuẩn bị? Thật không có lý như vậy.

Hãy xem chúng ta ngày nay học tập Kinh điển thật quá khổ sở. Chẳng những Phật xưa nhìn thấy ắt phải bật cười, mà các vị đệ tử Phật nếu như nhìn thấy hẳn cũng bật cười. Vào thời đức Phật, những người theo học, mỗi khi nghe Phật giảng kinh thuyết pháp, hoàn toàn không dùng giấy bút ghi chép. Vậy sao các vị ấy chỉ một lần nghe đều có thể ghi nhớ? Hơn nữa lại còn có thể nhớ mãi không quên. Sau khi đức Phật nhập diệt, kết tập Kinh tạng, các vị đều có thể mang những lời Phật từng thuyết dạy ra tụng đọc lại đủ cả. Các vị ấy hoàn toàn không có ý muốn học thuộc lòng, nhưng đó là năng lực tự nhiên của tự tánh hiển lộ. Các đệ tử thường đi theo là một ngàn hai trăm năm mươi vị. Quý vị ở đây đọc trong Kinh văn thường biết, có thể nói điều này đã quá quen thuộc, rằng các vị đệ tử ấy đều là thuộc hàng Tiểu thừa. Nhưng trong Kinh điển đức Phật cũng cho chúng ta biết rằng, các vị ấy thảy đều là chư Phật, Bồ Tát, các bậc Pháp thân Đại sĩ thị hiện, chẳng phải thực sự là người thuộc hàng Tiểu thừa.

Do đó trong Kinh điển Đại thừa chúng ta thường thấy nói rằng: "Các vị đều là bậc Đại A-la-hán". Nói "Đại A-la-hán", chữ "đại" đã nêu lên cho chúng ta biết một cách rõ ràng, rằng các vị ấy chẳng phải hàng Tiểu thừa, quả thật là Đại thừa. Đại thừa A-la-hán là những vị nào? Bồ Tát ở địa vị Pháp vân địa được xưng là Đại thừa A-la-hán, tức là Bồ Tát ở địa vị thứ mười trong Thập địa. Vì danh xưng A-la-hán có ý nghĩa là "vô học", nghĩa là không còn gì phải học, cho nên các vị ấy đã hoàn tất mọi việc, sự tu học đã hoàn tất trọn vẹn. Trong giáo pháp Tiểu thừa, bậc tu chứng trọn vẹn được xưng là A-la-hán. Trong giáo pháp Đại thừa, bậc tu chứng trọn vẹn được xưng là Đại A-la-hán, tức là Bồ Tát ở địa vị Pháp vân địa. Do đó mà có thể biết rằng, trong số 1.250 vị đệ tử kia, những vị có quả vị thấp nhất cũng đều phải là hàng Bồ Tát Thập địa thị hiện đến cõi này. Chư vị Cổ Phật vì lòng từ bi thị hiện ở thế gian không ít. Đức Thế Tôn không nói rõ cho chúng ta biết, chỉ nói có chừng ấy vị thôi. Nhưng nói chung vẫn có thể biết rằng các vị Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên đều là các vị Cổ Phật thị hiện trở lại, há phải người bình thường được sao? Các vị đều là thị hiện để hỗ trợ cho việc giáo hóa chúng sinh của đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Sau khi đức Phật diệt độ, các vị ấy lo việc kết tập Kinh tạng đem Giáo pháp của Phật để lại mà lưu truyền cho đời sau. Những việc như thế của các ngài, chúng ta cần phải nhận hiểu thật rõ ràng, minh bạch. Cương lĩnh tu tập của các vị ấy cũng vẫn là quán chiếu như thật, buông xả. Chúng ta nên từ nơi ấy mà khởi sự công phu tu tập.

Pháp Phật gọi là "nội học", "nội" thì nhất định không thể hướng ra bên ngoài, hướng ra bên ngoài cầu tìm đó đây đều chẳng được, nên cần phải hướng vào bên trong tự tánh mà cầu. Là người Phật tử chân chánh, theo lời Phật dạy phải tụng đọc Kinh điển Đại thừa. Kinh điển Đại thừa có cần phải đọc chăng? Cần phải đọc. Phương pháp đọc như thế nào? Phải lìa bỏ hết thảy mọi vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, lìa tướng ngữ ngôn văn tự, lìa tướng danh xưng tên gọi, lìa tướng tâm duyên, nên đọc tụng theo cách như thế. Nay tôi thường tụng đọc Kinh điển, có cần thiết phải ghi nhớ hay không? Không cần ghi nhớ. Có cần phải tư duy, suy nghĩ hay không? Không cần tư duy suy nghĩ. Mỗi ngày tụng đọc, luôn luôn không cần ghi nhớ, luôn luôn không cần suy nghĩ, chỉ hết lòng cung kính tụng đọc, như thế là tu hành. Chỉ cần làm như thế là được.

Vì người khác giảng pháp phải như thế nào? Phải tùy theo thần thái biểu hiện của người mà giảng, tùy theo ánh mắt của người mà giảng. Không có sự chuẩn bị, không hề chuẩn bị, nêu chuyện đó đây đều phải sinh động, không phải cứng nhắc, mỗi câu mỗi chữ đều có thể giảng sâu, có thể giảng cạn, có thể giảng kéo dài, có thể lược ngắn. Nếu như quả thật cần phải lược giảng, một bộ kinh Hoa Nghiêm có thể giảng xong trong vòng ba tháng, rất nhanh, mỗi ngày giảng rất nhiều chương. Nếu giảng kỹ thì trong vài giờ đồng hồ chỉ giảng được mấy câu, như vậy cũng chưa phải là thật kỹ. Như thế là linh hoạt, sống động, không phải là cứng nhắc, khô chết.

Chúng ta học giáo pháp, khi có thể học một cách linh hoạt, sống động thì mới thành tựu. Học một cách cứng nhắc thì rất khó, không thể thành tựu. nhất định phải học một cách linh hoạt, sống động; học linh hoạt, vận dụng linh hoạt. Như vậy quý vị mới có thể đạt được sự tự do không ngăn ngại, đó là ý nghĩa của tôn hiệu "Uy Quang Tự Tại".

Bây giờ nói đến tôn hiệu của vị thứ chín: Quang Minh Phá Ám Chủ hoả thần. Tôn hiệu này hết sức rõ nghĩa, "quang minh" chính là trí tuệ, "ám" là tỷ dụ cho phiền não, vô minh. Trí tuệ khai mở rồi thì chuyển hóa phiền não thành Bồ-đề, Đó là ý nghĩa "quang minh phá ám". Hỏa thần, hỏa tức là quang minh. Lửa có thể soi chiếu phá trừ bóng tối, nên lấy ý đó mà nói. Cho nên chỉ có trí tuệ chân chánh mới có khả năng phá trừ được vô minh.

Tên gọi "vô minh" không thật rõ nghĩa. Thực tế mà nói, chúng ta vẫn thường đọc, thường nghe, nhưng nói đến ý nghĩa thì mơ hồ lẫn lộn, chung chung. Xin hỏi quý vị, ý nghĩa ấy có rõ ràng hay không? Mới nghe qua dường như là rõ, nhưng xem kỹ lại thì thật không rõ. Vậy biểu hiện của vô minh là gì? Nói cho dễ hiểu thì những vọng tưởng, phân biệt, chấp trước đều là biểu hiện của vô minh, là tướng hiển lộ của vô minh. Quý vị khởi sinh những thứ ấy ở nơi này nơi khác, quý vị quan sát thấy vô minh khởi sinh tác dụng, thấy tướng hiển lộ của vô minh. Do đó có thể biết được, sự dụng công tu tập chân chánh, người thực sự tu tập, cần phải ngay trong những sinh hoạt hằng ngày, nỗ lực hết sức để giảm thiểu những vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Dùng phương pháp nào để giảm thiểu? Liệu có người nào lại không hy vọng giảm thiểu? Lại không hy vọng đoạn trừ được hết những vọng tưởng, phân biệt, chấp trước như thế? Nhưng không đoạn trừ được. Càng nghĩ đến việc đoạn trừ thì chúng càng sinh khởi nhiều hơn. Ngay lúc không nghĩ đến việc đoạn trừ thì chúng dường như không có, mà càng nghĩ tưởng đến việc đoạn trừ thì chúng càng nhiều hơn.

Cho nên nhà Phật có đến tám vạn bốn ngàn pháp môn, rốt lại là tám vạn bốn ngàn loại phương pháp khác nhau, cách thức khác nhau, đều là để đoạn trừ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Chúng ta hôm nay chọn phương pháp trì danh niệm Phật. Chúng ta dùng phương pháp này để đoạn trừ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Trong tâm chúng ta thường luôn duyên theo chỉ một câu niệm Phật A-di-đà, dùng một câu niệm Phật A-di-đà đó mà đập tan hết vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Đó chính là nguyên lý của việc niệm Phật.

Niệm Phật muốn có kết quả nhất thiết phải rõ ràng, quý vị đều đã rõ biết. Niệm Phật có kết quả tức là phá tan được hết những vọng niệm, phân biệt, chấp trước của chính mình. Vọng niệm, phân biệt, chấp trước đã không còn, tâm thanh tịnh của quý vị liền hiển lộ hiện tiền, tự tánh sẵn đủ trí tuệ Bát-nhã hiển lộ hiện tiền. Sau đó, nếu quý vị đọc kinh, tu học, thậm chí trong sinh hoạt hằng ngày, mọi sự hành xử, đối nhân tiếp vật, đều có được trí tuệ sáng suốt. Đúng như Đại sư Huệ Năng từng nói: "Thường sinh trí tuệ". Ngược với lời ấy, chúng ta ngày nay từ sáng đến tối thường sinh phiền não. Cho nên ý nghĩa như thế cần phải thấu biết rõ ràng.

Bây giờ đến tôn hiệu của vị cuối cùng: Lôi Âm Điện Quang Chủ hoả thần. "Lôi âm" là tiếng sấm, là tỷ dụ cho việc thuyết pháp, đó là nói theo nghĩa cạn. Nếu nói theo nghĩa sâu xa hơn, trong hết thảy âm thanh, không có âm nào lại chẳng phải "lôi âm", chỉ vì chúng ta hiện nay chưa thể đạt đến cảnh giới như thế. Như trong kinh Lăng Nghiêm, Bồ Tát Quán Thế Âm "hướng tánh nghe vào trong để lắng nghe tự tánh, tánh ấy trọn thành đạo Vô thượng". Điều Bồ Tát nghe được đó, nhĩ căn đối với thanh trần, rốt lại không có gì không là thuyết pháp. Cho nên hết thảy âm thanh đều là thuyết pháp, hết thảy sắc tướng cũng là thuyết pháp. Ở nơi giảng pháp bình thường, cách thuyết pháp như thế quả thật rất khó có thể hiểu nổi. Trên hội Hoa Nghiêm thuyết giảng những lời như thế cũng có ít nhiều người thể hội được. Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật Tỳ-lô-giá-na thuyết pháp, trần thuyết sa thuyết, vô gián thuyết, cho đến hết thảy sáu trần đều thuyết pháp, đó chính là "lôi âm điện quang".

Điện quang cũng thuyết pháp, vậy điện quang thuyết với chúng ta pháp gì? Đó là thuyết với chúng ta: "Tất cả các pháp đều không thể nắm bắt." Kinh Kim Cang có thuyết: "như sương sa, điện chớp", đó là vì chúng ta giảng rõ sự thật, chân tướng, là không thể nắm bắt. Không chỉ là không thể nắm bắt, mà hơn nữa còn là không có chủ thể, vì chúng ta mà giảng rõ điều ấy. Cho nên, người thực sự nắm hiểu thì sáu căn tiếp xúc với sáu trần bên ngoài, không có gì là không khai mở sự giác ngộ. Có thể giúp chúng ta khai ngộ thì hết thảy đều là Phật pháp.

Cho nên nói, có một pháp nào lại không phải là Phật pháp? Xin hỏi quý vị, hiểu được hay không hiểu được? Các vị Tổ sư Thiền tông thường khi dò xét người học thì hỏi rằng: "Nhận hiểu được gì?" Quý vị nhận hiểu được hay không nhận hiểu? Nếu nhận hiểu được rồi thì đâu đâu cũng là đạo, bên trái bên phải đều là nguồn cội, há có một pháp nào lại không là Phật pháp? Nếu không nhận hiểu được thì trọn bộ kinh Đại phương Quảng Phật Hoa Nghiêm cũng không phải Phật pháp; tham thiền, niệm Phật cũng đều không phải là Phật pháp. Vì sao vậy? Vì quý vị ngay trong những pháp ấy mà sinh phân biệt, sinh chấp trước, sinh phiền não, sao có thể gọi đó là Phật pháp? Phật pháp là pháp trong lành mát mẻ, là pháp không ngăn ngại. Quý vị ở trong những pháp ấy không đạt được sự trong lành mát mẻ, không đạt được tự tại không ngăn ngại. Cho nên người nhận hiểu được rồi thì không một pháp nào không phải là Phật pháp, người không nhận hiểu được thì dù nhìn thấy đức Phật A-di-đà, Phật Tì-lô-giá-na hiện ra trước mắt họ, cũng đều không phải là Phật pháp, là do ý nghĩa như thế. Đó là ý nghĩa biểu trưng của tôn hiệu "Lôi Âm Điện Quang".

Các vị Bồ Tát như vậy làm bậc thượng thủ, không thể kể hết. Câu này có ý nghĩa tổng kết, muốn nói rằng số lượng các vị như thế là không thể suy lường. Cuối cùng là xưng tán đức độ của các vị. Ý nghĩa trong sự xưng tán đức độ như thế rất sâu rộng. Hôm nay thời gian đã hết, chúng ta chỉ giảng đến đây thôi.

« Sách này có 6 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Yếu lược các giai đoạn trên đường tu giác ngộ


Truyện tích Vu Lan Phật Giáo


Lục tổ Đại sư - Con người và huyền thoại


Truyện cổ Phật giáo

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 3.144.235.238 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

Việt Nam (273 lượt xem) - Hoa Kỳ (16 lượt xem) - Senegal (13 lượt xem) - Saudi Arabia (4 lượt xem) - Đức quốc (3 lượt xem) - Nga (2 lượt xem) - Hungary (1 lượt xem) - ... ...