Xin mời quý vị mở bản kinh ra, trang 29, phần nói về Chủ Không Thần. Hôm qua tôi đã giới thiệu đến vị thứ năm, Quảng Bộ Diệu Kế Chủ không thần. Hôm nay chúng ta xem tiếp đến vị thứ sáu:
[Vô Ngại Quang Diệm Chủ không thần]
Trong danh hiệu này, chữ "quang" và chữ "diệm" đều biểu trưng cho trí tuệ. Từ đây chúng ta có thể nhận hiểu được rằng mỗi thành phần trong đại chúng, về cơ bản đều không thể xa lìa trí tuệ. Cho nên giới, định, tuệ là căn bản trong Giáo pháp mà đức Thế Tôn dạy cho tất cả chúng sinh. Chúng ta có thể gọi đó là giáo nghĩa cơ bản. Ở đây, quan trọng là hai chữ "vô ngại". Trí tuệ và thể tính tương ưng là vô ngại. Ngày nay chúng ta không những bị chướng ngại trong tất cả những gì mình làm, mà trí tuệ của chúng ta cũng bị chướng ngại. Loại trí tuệ này trong Phật Pháp gọi là "thế trí biện thông", tức là trí thông minh của thế gian. Tại sao trí tuệ này lại bị chướng ngại? Vì không lìa khỏi ý thức. Nói cách khác, kẻ phàm phu không chỉ trong một đời này, mà đời đời kiếp kiếp luôn chịu sự khống chế của ý thức, không có cách nào vượt qua được phạm vi của ý thức.
Ý thức đương nhiên có sự chướng ngại, cho dù trong luận Duy thức dạy chúng ta rằng, công năng của thức thứ sáu, hay ý thức, là rất lớn, hướng ngoại có thể duyên với hư không pháp giới, có thể duyên với mười pháp giới, hướng nội thì có thể duyên đến a-lại-da thức. Nhưng ý thức không thể duyên đến phạm vi bên ngoài của a-lại-da thức. Phạm vi bên ngoài của a-lại-da thức chính là tự tính, là bản tính chân như. Nói cách khác, ý thức không thể duyên đến bản tính chân như. Nói cách khác nữa, ý thức không thể minh tâm kiến tánh được. Nó có năng lực duyên với mười pháp giới, nhưng không có năng lực duyên với pháp giới nhất chân. Cho nên nói rằng ý thức có sự chướng ngại.
Đây là pháp được giảng cho người tu hành chân chính, không thuộc cảnh giới phàm phu chúng ta. Phàm phu chúng ta, khởi tâm động niệm thảy thảy đều có chướng ngại, sao có thể nói là không chướng ngại? Phật dạy rằng chúng ta xưa nay vốn không có chướng ngại, vậy tại sao hiện tại thấy có chướng ngại? Được bao người có khả năng tĩnh tâm suy xét kỹ việc này? Việc này nếu không quán sát, suy xét thật kỹ lưỡng thì sẽ vĩnh viễn không tìm được cách nào để đột phá, vượt qua chướng ngại.
Quý vị có thể quán sát, suy xét, đây chính là sự giác ngộ được giảng giải trong Phật pháp, cũng là chỗ khác biệt giữa Bồ Tát với phàm phu. Trong thực tế, kẻ phàm phu tâm ý thô thiển, cho rằng chướng ngại như vậy là chuyện bình thường, vì ai mà không có chướng ngại? Do đó mà đâu đâu cũng thành chướng ngại. Trong tư duy, tưởng tượng có chướng ngại, trong ngôn ngữ có chướng ngại, trong việc làm có chướng ngại, có vẻ như là chuyện đương nhiên phải vậy, hết thảy chúng sinh đều sống trong chướng ngại, ta làm sao có thể là ngoại lệ?
Cách suy nghĩ như thế là của phàm phu. Phật và Bồ Tát không phải vậy, các ngài nhất định phải tìm cho ra nguyên nhân của chướng ngại, nguồn gốc của chướng ngại, sau đó trừ sạch những nguyên nhân, nguồn gốc ấy, khôi phục lại cảnh giới không chướng ngại. Trong kinh Hoa Nghiêm này giảng rằng “sự vô ngại, lý vô ngại, lý sự vô ngại, sự sự vô ngại”, pháp giới không chướng ngại đó chính là chân chánh thường tại.
Làm sao khế nhập vào cảnh giới như thế? Cần phải có trí tuệ, và trí tuệ phải tương ưng với tính Không, thì quý vị mới có thể khế nhập. Có trí tuệ mà không tương ưng với tính Không thì quý vị vẫn như trước, không thể khế nhập. Như vậy hạng người nào [có thể khế nhập]? Ở trong ba cõi thì không cần phải nói đến. Nay chỉ nói đến những vị vượt ngoài ba cõi, như A-la-hán, Bích Chi Phật, Bồ Tát, các vị Phật mà tông Thiên Thai gọi là thuộc Tạng giáo, thuộc Thông giáo, tất cả đều chưa lìa khỏi mười pháp giới. Các vị này đều có trí tuệ, vậy tại sao có trí tuệ mà không thể vào được pháp giới không chướng ngại?
Pháp giới không chướng ngại cũng gọi là pháp giới không thể nghĩ bàn. Phẩm cuối cùng của kinh này, trong bản 40 quyển [do ngài Bát-nhã dịch], tựa đề các phẩm đều có câu "Nhập bất tư nghị giải thoát cảnh giới”. Giải thoát thì không có chướng ngại, nên cảnh giới giải thoát không thể nghĩ bàn cũng là vô ngại. Trong đề kinh thì câu này là phần đối tượng sở nhập, tiếp theo ghi “Phổ Hiền hạnh nguyện” là đối tượng năng nhập.
Trong các hạnh nguyện của ngài Phổ Hiền, mỗi nguyện đều tương ưng với tánh Không, nên ngài có thể nhập cảnh giới ấy. Phiền não lớn nhất của chúng ta ngày nay là không tương ưng với tánh Không. Trong kinh Kim Cang nói là "sinh tâm từ nơi không chỗ trụ", không chỗ trụ chính là tánh Không. Như chúng ta hôm nay đều là có chỗ trụ. Chúng ta đều nói là “nên không có chỗ trụ”, nhưng từ trước đã sớm có chỗ trụ rồi. Vậy trụ ở chỗ nào? Trụ ở chỗ "nên không có chỗ trụ", ngay đó đã trụ vào rồi. Vì sao gọi là trụ? Vì phân biệt vướng mắc nơi hình tướng. Chúng ta nói “sinh tâm không chỗ trụ”, chẳng phải đã vướng mắc ngay vào chỗ “sinh tâm không chỗ trụ” đó rồi sao? Như vậy là đã vướng mắc nơi hình tướng rồi. Như vậy là không tương ưng với tánh Không, do đó đương nhiên quý vị phải có chướng ngại. Nếu chân chánh tương ưng với "sinh tâm không chỗ trụ" thì trong tâm hoàn toàn không có ý niệm, đó mới thật sự gọi là vô trụ. Khởi lên một ý niệm là hỏng rồi.
Đai sư Huệ Năng dạy rằng "xưa nay không một vật", lời ngài dạy không sai. Chúng ta xem Đàn kinh, vừa đọc qua câu "xưa nay không một vật" thì trong tâm đã có một vật rồi. Có vật gì trong tâm? Đó là có câu "xưa nay không một vật". Trong tâm ngài thật sự là xưa nay không một vật, còn chúng ta ngày nay vừa nghĩ đến câu này thì trong tâm đã có ngay cái "xưa nay không một vật", như thế là đã có rồi.
Cái khó của Bát-nhã chính là ở chỗ này. Cho nên chúng ta học Bát-nhã, học qua mấy chục năm mà vẫn có chướng ngại. Do đó mới biết rằng, lìa bỏ hình tướng, buông xả tất cả quả thật rất khó! Sự việc này, lý lẽ này, quả đúng là chỉ có thể dùng tâm ý lãnh hội, không thể dùng lời truyền đạt. Đáng sợ nhất là ngay sau khi ta tiếp xúc [với trần cảnh] liền khởi sinh phân biệt bám chấp, liền khởi tâm động niệm, vậy là hỏng rồi. Không khởi tâm, không động niệm, không phân biệt, không chấp trước, đó là trí tuệ Bát-nhã hiện tiền vốn sẵn đủ của tự tính, nhất định là tương ưng với Tứ vô ngại. Chỉ cần khởi tâm động niệm là đã rơi vào ý thức, liền có chướng ngại. Điều này chúng ta cần phải thấu triệt, hiểu rõ.
Bây giờ nói sang vị thứ bảy.
[Vô Ngại Thắng Lực Chủ không thần]
Trong đức hiệu của vị Bồ Tát trước đây thì sự biểu trưng nhấn mạnh ở trí tuệ Bát Nhã, còn đức hiệu vị này thì nhấn mạnh ở đức năng, năng lực của ngài. Trong chữ “thắng lực”, thắng là thù thắng. Những gì là năng lực thù thắng? Trong giáo pháp Đại thừa thì cương lĩnh tu tập của Bồ Tát là sáu ba-la-mật. “Quang Diệm” là Bát-nhã ba-la-mật, “Thắng Lực” là năm ba-la-mật trước đó, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, đều đạt đến mức thù thắng không gì sánh kịp.
Làm sao biết được là ngài đã đạt đến chỗ thù thắng không gì sánh kịp? Bởi vì ngài đạt đến chỗ vô ngại. Bố thí ba-la-mật vô ngại, Trì giới ba-la-mật cũng vô ngại; nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, tất cả đều vô ngại. Vô ngại tương ưng với trí tuệ Bát-nhã, Bát-nhã lại tương ưng với tính đức. Thể tính là rỗng không vắng lặng, tương ưng với rỗng không vắng lặng. Vì vậy các hạnh bố thí, trì giới, nhẫn nhục của vị Bồ Tát này đều là ngay trong cuộc sống hằng ngày. Trong cuộc sống hằng ngày, mỗi mỗi vấn đề nhỏ nhặt đều tương ưng với tính Không. Thật sự mà nói, đó chính là đạt được đại tự tại, là giải thoát chân chánh. Đó là chân chánh đạt đến đời sống của chư Phật Như Lai. Nay xem lại tự thân chúng ta có chuyển biến hay không? Một khi chuyển biến liền được đại tự tại. Thật sự mà nói, chúng ta đọc kinh Bát-nhã, đọc kinh Hoa Nghiêm, cần phải thấu triệt được sự chuyển biến đến mức nào. Người đời nay nói pháp là đi vào thực tế, trong Phật pháp gọi là chuyển biến, phải làm sao đi vào trong cuộc sống hằng ngày.
Đức hiệu của hai vị Bồ Tát hợp lại thì nêu đủ sáu ba-la-mật, có thể nói tinh yếu đều là ở chỗ vô ngại. Chúng ta ngày nay, bất luận là thực hành trí tuệ, hay năm ba-la-mật trước đó, đều có chướng ngại. Thế nào gọi là bố thí ba-la-mật? Dùng hai chữ "bố thí" thì người đời hiện nay rất khó lý giải, thường cho rằng bố thí là đến chùa chiền hay miếu mạo, cúng vào một ít tiền, gọi đó là bố thí. Kỳ thật, cách giải thích này sai không thể tưởng. Bố thí, nếu dùng ngôn ngữ hiện đại là phục vụ. Phục vụ, bất luận là có được trả công hay không, nếu có trả công thì là phục vụ có lương, nếu không trả công thì gọi là phục vụ không lương, chúng ta gọi là làm việc nghĩa, phục vụ vì nghĩa, tất cả đều gọi là bố thí.
Bố thí có trả công được ít phước báo, bố thí không nhận công, làm vì việc nghĩa thì phước báo nhiều. Nếu có thể [bố thí với tâm] tương ưng tánh Không thì phước báo vô lượng vô biên, cho dầu có hay không có trả công thì phước báo vẫn là vô lượng vô biên. Có thể tương ưng với tánh Không thì đó là Bồ Tát chân chính, chân chính là hạnh Bồ Tát.
Tu học Bố thí ba-la-mật, như lời dạy của Bồ Tát Phổ Hiền, phải “không gián đoạn, không mệt mỏi” mới hiển thị được sức mạnh thù thắng không ngăn ngại. Không những tâm nguyện bố thí không gián đoạn, mà việc làm bố thí cũng không gián đoạn, luôn diễn ra như [mọi việc trong] sinh hoạt đời sống hằng ngày của chúng ta.
Tôi nhớ trước kia có lần đến giảng ở Houston (Texas). Sau buổi giảng, có vị nữ đồng tu nêu lên một vấn đề. Bà này đơn cử một trường hợp làm thí dụ: “Người phụ nữ nội trợ trong gia đình phải tu hạnh Bồ Tát như thế nào? Tu đạo Bồ Tát như thế nào?” Câu hỏi của bà rất hay, nêu lên một thí dụ rất điển hình.
Người nội trợ trong gia đình phải bận rộn từ sớm đến tối, lo toan mọi việc trong nhà, mỗi ngày đều phải làm những công việc như nhau. Lâu ngày hẳn sẽ khởi tâm oán trời trách người, ôm trong lòng nỗi bất mãn. Nếu được học Phật pháp và thông hiểu Đại thừa, tư tưởng của bà sẽ thay đổi, mỗi ngày thực hiện những công việc ấy đều là tu tập sáu ba-la-mật, mỗi ngày trải qua bao nhiêu sự việc đều là Bồ Tát đạo, là Phật đạo. Như vậy ngày ngày bà đều có được sự vui thích không gì bằng, chẳng khác gì chỗ không biết mệt mỏi của Bồ Tát Phổ Hiền.
Tư tưởng thay đổi chuyển biến, công việc thì không thay đổi gì, vẫn cứ như bình thường. Tư tưởng chuyển biến rồi thì kết quả hoàn toàn khác biệt. Từ sáng sớm quét dọn nhà cửa, làm sạch sẽ trong nhà, sắp xếp mọi thứ chỉnh tề ngăn nắp, khiến hết thảy mọi người trong nhà đều cảm thấy thư thái, đó là quý vị đã tu tập bố thí ba-la-mật đối với mọi người trong nhà. Vừa rồi ta nói [bố thí là] phục vụ, đó là quý vị vì người trong nhà mình phục vụ, dùng sức lực của mình bố thí, dùng trí tuệ của mình bố thí. Dùng sức lực là thuộc về tài thí, dùng trí tuệ là thuộc về pháp thí, dùng tình thương lo lắng chăm sóc cho mọi người trong nhà là thuộc về vô úy thí. Như vậy ba loại bố thí đều có đủ, đó là quý vị tu tập đối với chúng sinh trong một gia đình.
Nếu công việc của quý vị có trình tự, sắp xếp hợp lý, không hề rối loạn, đó là trì giới ba-la-mật, trì giới là giữ theo đúng pháp.
Nếu quý vị hết sức nhẫn nại, làm bất cứ việc gì cũng có tâm nhẫn nại, thì sự nhẫn nại đó chính là nhẫn nhục ba-la-mật. Ngày ngày đều làm những công việc giống nhau, năm này sang năm khác vẫn làm những công việc giống nhau, nhưng không thấy mỏi mệt, chán ghét, đó chính là nhẫn nhục ba-la-mật.
Không chỉ ngày ngày phải làm như vậy, mà còn luôn mong muốn cải tiến cho tốt hơn, hy vọng giúp người trong nhà có thể sống thư thái hơn, vui thích hơn, đó là tinh tấn ba-la-mật.
Quý vị là một người nội trợ trong gia đình, tự mình có chủ ý, tự mình quyết đoán làm chủ, không để hoàn cảnh làm cho dao động, không bị mọi việc chung quanh cám dỗ, mê hoặc, đó là thiền định ba-la-mật.
Quý vị có thể xem mọi người trong nhà là đối tượng để quý vị hóa độ, thì quý vị chính là Bồ Tát hóa hiện độ chúng sinh. Những chúng sinh ấy ngày ngày sống chung với quý vị, nên phải hóa độ họ trước.
Nếu quý vị rõ biết rằng tất cả người nhà đều là quyến thuộc trong đạo pháp, ban đầu là quyến thuộc trong tình thân gia đình, nay có thể biến thành quyến thuộc trong đạo pháp, đó là Bát-nhã ba-la-mật.
Quý vị có trí tuệ, quý vị lại nhận biết rõ ràng, sáng suốt. Gia đình của quý vị đã được chỉnh tề rồi, thì bao nhiêu gia đình khác đều noi theo đó, sẽ làm gương cho bao nhiêu gia đình khác. Bạn bè, thân thích của quý vị, láng giềng lối xóm của quý vị, không ai là không hâm mộ, không ai là không tán thán, phát tâm tìm đến noi theo quý vị, học hỏi theo quý vị. Như thế là quý vị đã dùng một gia đình mà hóa độ được rất nhiều gia đình. Nhà nhà đều được hóa độ, tức là cộng đồng xã hội được hóa độ. Mọi cộng đồng xã hội được hóa độ, tức là cả quốc gia được hóa độ, cả thế giới được hóa độ.
Vì thế, ngàn vạn lần quý vị cũng không được cho rằng mình làm người nội trợ thì chỉ biết giặt giũ quần áo, lo cơm nước. Giặt giũ quần áo, lo cơm nước như thế, công đức rộng lớn như hư không pháp giới. Tại sao vậy? Vì trong việc giặt quần áo, lo cơm nước ấy có đủ sáu ba-la-mật. Quý vị nghĩ xem có đúng không?
Những chuyện vụn vặt, đừng xem là nhỏ nhặt, đó cũng là sự nghiệp của Bồ Tát. Trong sự nghiệp của Bồ Tát không có lớn nhỏ. Lớn tương ưng với tánh Không, nhỏ cũng tương ưng với tánh Không, nên không có lớn nhỏ, không có nặng nhẹ, vì trong đời sống hằng ngày, trong mỗi sự việc nhỏ nhặt, quý vị đều khế nhập vào pháp môn bất nhị. Pháp môn Bất nhị là pháp môn không chướng ngại, là cảnh giới không thể nghĩ bàn, là tương ưng với tánh Không. Người nội trợ trong gia đình là như thế. Công việc nội trợ trong gia đình nói gọn lại, như nấu cơm, xào rau, đều trọn đủ sáu ba-la-mật, quý vị xem có đúng vậy không? Quý vị có thể thấy ra được như vậy hay không?
Cho nên, một niệm giác ngộ là đang tu đạo Bồ Tát, là đang làm Phật, làm Bồ Tát. Một niệm mê lầm thì là phàm phu, từ sáng đến tối oán hận tự thân không có phước báo, trong nhà không có người giúp việc, không ai đến hầu hạ mình, tự mình phải đích thân xuống bếp, nói chung là không hài lòng, không tự nguyện. Đó là phàm phu, là bước vào sáu đường luân hồi. Quý vị thử nghĩ xem, hết thảy chẳng phải đều từ nơi một niệm chuyển biến mà thành khác biệt đó sao?
Do đó mà biết, bất luận chúng ta làm nghề gì, bất luận làm công việc gì, đều quan trọng ở nơi tư tưởng có chuyển biến hay không. Nếu tư tưởng tương ưng với Chủ không thần thì quý vị đang hành đạo Bồ Tát, đang tu sáu ba-la-mật, đang tu mười đại nguyện vương. Không chuyển biến được tư tưởng thì đó là đem tâm luân hồi tạo nghiệp luân hồi. Xin thưa với quý vị đồng tu rằng, sự khác biệt giữa phàm và thánh không nằm ở việc làm, mà ở tư tưởng khác biệt. Sự việc không có khác biệt, chỉ tư tưởng có khác biệt. Ngày nay thì mọi người đều cho là vì sự nhận biết vốn đã không tương đồng.
Nói đến "vô ngại thắng lực”, chúng ta có thể xem đó là năng lực, năng lực thù thắng không có chướng ngại. Khi nói tương ưng với không - không ở đây là tự tính chân không, chẳng phải ngoan không, ngoan không là không có gì cả, là trống không, không tương ưng được với ở đây, không thành tựu được sự nghiệp - thì cần phải tương ưng với tánh Không chân thật của tự tính.
Tiếp theo đây nói đến vị thứ tám.
[Ly Cấu Quang Minh Chủ không thần]
Ý nghĩa biểu trưng của đức hiệu này hết sức rõ ràng, hết sức sáng tỏ. Nói "ly cấu", thì cấu là ô nhiễm. Chúng ta hiện nay nói về sự ô nhiễm của thiên nhiên, của môi trường. Hiện nay mỗi khu vực, mỗi quốc gia đều chú ý đến việc bảo vệ môi trường. Thực sự là môi trường thiên nhiên ngày nay đã ô nhiễm một cách quá trầm trọng, các nhà khoa học đã lên tiếng cảnh báo. Nếu chúng ta không gấp rút làm gì để thay đổi sự ô nhiễm, thì theo sự tính toán của các nhà khoa học, trong 50 năm nữa địa cầu này sẽ không còn thích hợp để nhân loại cư trú. Theo dự báo của các nhà khoa học, lúc đó không những nước bị nhiễm độc không thể uống, mà không khí cũng nhiễm độc, quý vị không thở được nữa. Các vị ấy nói rất có lý, nhưng sự thật có đúng vậy hay không? Sự thật không như thế, vì 50 năm sau nữa, chúng sinh khi ấy sẽ có sức đề kháng mạnh hơn chúng ta, họ sẽ có thể sống được trong môi trường mà chúng ta không thể sống được. Lý lẽ này rất rõ ràng, quý vị suy nghĩ kỹ một chút sẽ hiểu được ngay.
Chúng ta sống trong điều kiện đô thị hiện nay, nói về vệ sinh, các thiết bị, điều kiện vệ sinh thật hết sức tốt, chúng ta sống trong điều kiện như thế lâu ngày đã quen. Nếu mang quý vị đến một nơi lạc hậu, chưa được phát triển ở Phi Châu, quý vị ở đó một ngày cũng khó chịu nổi, thật kinh khủng phải không? Thế mà những người dân bản xứ lại sống được ở đấy rất tốt. Những người ấy nếu đến chỗ chúng ta sống thì không có vấn đề gì, nhưng chúng ta đến chỗ họ sống một ngày lại không quen. Họ sống ở đấy, uống nước sông, nước rạch và có sức đề kháng. Chúng ta quá được nuông chìu, đã mất sức đề kháng rồi. Họ không cần khử trùng thức ăn vì bản thân họ có kháng thể. Còn chúng ta thì không được. Chúng ta sống trong hoàn cảnh đó nhất định sẽ ngã bệnh, vì không có khả năng đề kháng. Vì thế chúng ta có thể tưởng tượng được, 50 năm sau thế giới có trở nên cực kỳ ô nhiễm, con người sinh ra ở thời đại ấy cũng sẽ có những khả năng thích ứng để tồn tại. Nên tôi tin rằng nhân loại trên địa cầu sẽ không bị diệt chủng.
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni có dạy rằng, pháp Phật sẽ vận hành đến chín ngàn năm, thì làm sao có thể nói 50 năm sau địa cầu không còn thích hợp để nhân loại sinh tồn? Các nhà khoa học có quan điểm của họ, chúng ta thì nhìn theo một góc độ khác, thấy rằng con người vẫn có thể sống được trong hoàn cảnh nói trên.
Thật sự mà nói, xa lìa ô nhiễm là điều rất quan trọng, nhưng quan trọng nhất là sự ô nhiễm trong tâm, tinh thần ô nhiễm, tư tưởng ô nhiễm, kiến giải ô nhiễm, tính nghiêm trọng của các loại ô nhiễm này còn hơn cả sự ô nhiễm môi trường, ô nhiễm sinh lý. Trên thế giới này, những ai sáng suốt đều phải ý thức, cảm nhận được những ô nhiễm này là vô cùng nghiêm trọng. Những ô nhiễm này từ đâu đến? Thật sự mà nói, ngày nay trẻ con sinh ra vài tháng là đã bị ô nhiễm, chưa biết nói đã bị ô nhiễm. Qua sự tiếp xúc nào mà chúng bị ô nhiễm? Đó là tivi. Trẻ con tuy chưa biết nói nhưng đã mở mắt tròn xoe nhìn màn ảnh tivi. Những thứ diễn ra trên màn ảnh tivi toàn là liên quan đến chém giết, cướp bóc, dâm dục và dối trá. Trẻ con tuy chưa biết nói nhưng đã bị những thứ ấy gây ấn tượng, đã bị ô nhiễm rồi, thật kinh khủng!
Tại Đài Loan, 30 năm trước chính phủ đã đề xướng việc khôi phục văn hóa cổ truyền Trung Quốc, tiến hành vận động phục hưng văn hóa. Một hôm, có mấy quan chức của Bộ Giáo dục đến phỏng vấn tiên sinh Phương Đông Mỹ. Hôm ấy lại đúng lúc tôi cũng có mặt ở nhà giáo sư Phương. Những vị quan chức ấy trình bày ý định của chính phủ, muốn phục hưng nền văn hóa cổ truyền của Trung Quốc và thỉnh cầu giáo sư Phương cho ý kiến, làm sao để thực hiện việc này cho tốt. Khi họ trình bày vấn đề, giáo sư Phương lắng nghe xong, vô cùng nghiêm túc, lặng yên trong khoảng ít nhất cũng là 5 phút, rồi giáo sư mới bắt đầu nói: “Có phương pháp đấy. Thứ nhất là đóng cửa đài truyền hình Đài Loan. Thứ hai là đóng cửa luôn các đài phát thanh. Thứ ba là đồng loạt đình bản tất cả báo chí, tạp chí.” Các quan chức ấy nghe xong lắc đầu, nói không làm được. Giáo sư Phương nói: “Những thứ ấy ngày ngày phá hoại văn hóa truyền thống của Trung Quốc, nếu quý vị không đình bản, không trừ bỏ tất cả, thì việc phục hưng văn hóa Trung Quốc không thể thực hiện được.”
Câu trả lời hết sức dứt khoát ấy thật rất có lý. Tôi nghĩ rằng các vị quan chức ấy đi khắp nơi để thỉnh ý các học giả, chuyên gia, e rằng không một ai có thể nói được phương pháp như giáo sư Phương. Đó là cách nhận thức chân chính nhất đối với vấn đề. Đó chính là "ly cấu quang minh" đang được giảng giải ở đây. Đó là gốc rễ của sự ô nhiễm tư tưởng, kiến giải, tâm lý và tinh thần của đại chúng trong xã hội này. Quý vị muốn có tâm thanh tịnh thì phải nhổ bật gốc rễ ấy đi.
Chúng ta hiện nay nếu muốn đình chỉ, dứt trừ tất cả những thứ ấy đi cũng không thể, không làm được. Vậy phải làm sao đây? Chỉ cần tự mình không xem, không xem tivi, không nghe truyền thanh quảng cáo, không đọc báo giấy, tạp chí. Như thế có vị đồng tu sẽ hỏi, ông là một người hiện đại mà những thứ hiện đại ấy lại không biết đến, thì có thể xem là người hiện đại được chăng? Đúng vậy, chẳng thể xem là người hiện đại, nhưng làm người hiện đại khổ lắm, làm người hiện đại thì có gì tốt chứ? Nếu làm Phật, Bồ Tát hiện đại thì thiên hạ ngày ngày hưởng thái bình, ngày ngày không sinh sự, không sinh sự tức là thiên hạ được thái bình. Một khi quý vị xem báo là sinh đủ thứ chuyện, nhiều không biết hết, thiên hạ không được thái bình, thiên hạ đại loạn. Không xem báo thì thiên hạ thái bình, không sinh sự.
Nói cách khác, ngày ngày đều tiếp xúc với những phương tiện truyền thông như thế, người ta phải sống trong đời hỗn loạn, sống trong ngũ trược ác thế. Chúng ta lìa xa những thứ ấy rồi, ta sẽ được sống trong thời thái bình, ta sống trong đời thanh tịnh, không cùng một thế giới, cùng một lối sống với người khác. Hai thế giới khác nhau này lại ở chung một chỗ không thể chia tách, nhưng tâm thái hoàn toàn không giống nhau. Một đàng thì ngày ngày bị nhiễm ô không gián đoạn, một đàng thì xa lìa tất cả mọi ô nhiễm, làm sao có thể là giống nhau? Đó chính là cuộc sống thực tế của chúng ta ngày nay, cần phải hiểu cho thấu triệt việc tu học như thế nào, thì chúng ta mới biết được chỗ bắt tay khởi làm.
Trong bộ kinh này, ý nghĩa chữ "cấu", hay ô nhiễm, lại càng sâu xa hơn, rộng lớn hơn, vì trong kinh giảng giải về những phiền não do kiến giải, tư duy, phiền não do vô số trần cảnh, phiền não do vô minh. Chúng ta hiện nay chỉ có thể nói đến việc lìa xa những phiền não do kiến giải, tư duy ở mức độ thô thiển, nặng nề dễ thấy biết thôi. Đối với những phiền não do kiến giải, tư duy ở mức độ vi tế, nhỏ nhiệm, chúng ta đều không có khả năng nhận biết, quán sát. Các vị Bồ Tát thì đến chỗ này rồi còn phải lìa xa các phiền não do vô minh cực kỳ vi tế, mới hoàn toàn tương ưng với tự tính. Bởi vì các vị là Pháp thân Đại sĩ, không phải người thường. Huống chi các vị thần [giảng trong kinh] này, đích thật đều là hóa thân của chư Phật Như Lai hiện đến, đúng như ý nghĩa nên dùng thân nào để hóa độ chúng sinh, các ngài sẽ hiện thân ấy. Điều này là chân thật, không phải giả dối. Người biết tu hành chân chính thì có bao nhiêu chúng sinh trước mắt nhìn thấy, tôi đã từng nói với quý vị rồi, đều thật sự là chư Phật Như Lai thị hiện, phàm phu chỉ có duy nhất bản thân mình thôi, nên trong một đời này chắc chắn mình sẽ được hóa độ.
Liệu có phải là Đức Phật đã miễn cưỡng dạy ta tu hành như thế? Miễn cưỡng dạy ta pháp quán tưởng như thế? Nếu cho rằng chư Phật Bồ Tát, các bậc thiện tri thức đã ép buộc ta phải tu học như thế, dạy chúng ta phải gượng ép quán tưởng như thế, thì cách hiểu ấy vẫn có thể giải thích được, chẳng phải là không giải thích được. Đó là đối với người mới học mà dạy như thế. Hay nói cách khác là đối với chúng sinh trong sáu đường mà dạy như thế. Cũng là lời dạy như thế nhưng dùng với nghĩa cạn.
Còn như nói với quý vị rằng đó là chân thật, quyết định không hề giả dối, thì đó là dùng với nghĩa thâm sâu. Vậy lời dạy [với nghĩa thâm sâu] như thế là Phật dạy cho những ai? Đó là Phật dạy cho hàng tứ thánh trong pháp giới, cho hàng Pháp thân Đại sĩ. Đó là chân thật, ngàn vạn lần chân thật chuẩn xác, không một mảy may giả dối, chính xác đúng thật [tất cả chúng sinh đều] là chư Phật Như Lai thị hiện. Chính như trong phẩm cuối của bản kinh này, Thiện Tài Đồng tử 53 lần tham học, thị hiện làm người vô tâm, các vị đều là Phật, Bồ Tát.
Hẳn sẽ có người nói, tôi thấy tất cả chúng sinh đều hữu tâm, sao thầy lại nói họ vô tâm? Trong kinh, Phật và Bồ Tát dạy chúng ta rằng, những chúng sinh ấy quả thật là vô tâm, nhưng ta không phát hiện ra, không thấy ra được như vậy. Chúng ta chỉ thấy được phần thô thiển, chỉ thấy được vẻ bên ngoài mà thôi. Vẻ ngoài thì các vị ấy đều đang diễn kịch, diễn cho chúng ta xem, để chúng ta xem rồi sẽ giác ngộ. Chúng ta thấy được những gì mà giác ngộ? Chúng ta phải thấy được sáng tỏ minh bạch những gì? Phải thấy được rằng các vị ấy đang thị hiện trước mắt chúng ta, chính là họ có sự gia trì của chư Phật Như Lai. Người thế tục thường nói đến chuyện quỷ nhập, quả là có chuyện ấy. Cũng theo ý nghĩa như thế, chư Phật Bồ Tát nhập thân chúng sinh. Chư Phật Bồ tát nhập thân họ để biểu diễn cho chúng ta xem. Khi ta giác ngộ rồi, tất cả chúng ta đều giác ngộ rồi, chư Phật Bồ Tát sẽ rời đi. Vậy sao lại không chân thật?
Bởi vì hết thảy biểu hiện của những chúng sinh khác, hữu tâm cũng là vô tâm, hữu ý cũng là vô ý; khi sáu căn của chúng ta tiếp xúc với sáu trần, nếu có thể quán chiếu được như vậy thì con đường Bồ-đề của chúng ta thuận buồm xuôi gió, đâu phải cần nhiều thời gian để thành Phật? Người niệm Phật cầu vãng sinh, cầu lên quả vị bất thối, thành Phật, thì phẩm vị chắc chắn cao, tại sao vậy ? Vì niệm niệm tương ưng với tính đức, trong tự tâm hiển lộ sự thành kính viên mãn, đối với người, đối với sự vật sự việc đều một lòng chân thành. Đối với người hiền thiện, người tốt đã chân thành, mà đối với người xấu ác, người lừa dối ta, người hãm hại ta, cũng chân thành. Tại sao vậy? Vì khi lừa dối, hãm hại ta, họ cũng là Phật Bồ Tát thị hiện để giúp ta cắt đứt phiền não. Khi thị hiện cảnh giới hiền thiện, các ngài giúp ta lìa xa phiền não tham ái, khi thị hiện cảnh giới xấu ác, làm nhục ta, hủy báng ta, hãm hại ta, các ngài giúp ta lìa xa cảnh giới sân hận. Quý vị lúc nào cũng quán tưởng được như vậy, chẳng phải là ngay trong lúc sáu căn tiếp xúc với sáu trần cảnh đều là đang tu tập sáu ba-la-mật đó sao? Không có những cảnh giới như thế trước mắt, thì sáu ba-la-mật cùng muôn công hạnh biết do đâu mà sinh khởi?
Trong Kinh điển rốt cùng đều dạy chúng ta một nguyên tắc chung cho sự tu hành, gọi là "lịch sự luyện tâm". Lịch là kinh lịch, trải qua; sự là chỉ chung tất cả con người, sự vật, sự việc, nghĩa là chúng ta phải ngay trong lúc trải qua sự tiếp xúc với mọi người, mọi sự vật, sự việc mà luyện tâm. Luyện cái gì? Đó là luyện tâm chân chánh. Đại sư Thiện Đạo dạy chúng ta rằng: "Hết thảy mọi việc đều khởi làm từ tâm chân thật." Chính là đạo lý này. Được như vậy rồi thì sự xa lìa cấu nhiễm của quý vị mới có thể hoàn toàn thanh tịnh.
Phải biết rằng, bảy loại tình cảm như mừng, giận, buồn, vui, yêu, ghét, ham muốn, thảy đều là bụi trần ô nhiễm, không chỉ những điều mà mọi người đều thấy là phiền não, ngay cả sự chán ghét, tâm hoan hỉ cũng là phiền não. Chỉ cần trong tâm có xao động đều là phiền não, đều gọi là ô nhiễm, cho nên khi lìa xa ô nhiễm, phải lìa xa đến mức hoàn toàn thanh tịnh.
Xa lìa ô nhiễm là sự sám hối chân chính, là sự tu hành chân chính. Cho nên trong đời sống hằng ngày, trong giao tiếp ứng xử với hết thảy mọi người, mọi lúc, mọi nơi, đối với hết thảy sự vật sự việc, cần phải tu luyện tâm thanh tịnh của chính mình, đó là điều trọng yếu!
Lại nói về sự tướng, đức Phật đã dạy chúng ta tu tập Mười nghiệp lành, đó là chỗ trước nhất để bắt đầu. Chúng ta muốn đối trị phiền não, đối trị bảy tình cảm, năm món dục, muốn khôi phục tự tính thanh tịnh bình đẳng, nhất định không thể xao nhãng, xem thường Mười nghiệp lành.
Tu nghiệp lành và trì giới có sự khác biệt, dù sự tướng có vẻ như giống nhau. Những điều trước tiên trong Mười nghiệp lành là không giết hại, không trộm cắp, không tà dâm. Năm giới cũng dạy không giết hại, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ và không uống rượu. Dường như là giống hệt như nhau.
Nhưng điều mục kể ra tuy giống nhau mà sự dụng tâm tu tập không giống nhau, mục đích không giống nhau. Với người tu trì Năm giới, thì mục đích của việc trì giới là để đạt định, nên chỗ dụng tâm và kết quả của họ không tương đồng [với người tu nghiệp lành]. Mục đích của việc tu nghiệp lành là để được phước, quan trọng là cầu phước báo, nên không nhắm đến đạt định. Vì thế, trì giới được công đức, còn tu nghiệp lành được phước đức, hai điều đó không tương đồng. Về sự tướng thì giống nhau, nhưng dụng tâm khác nhau, chỗ tâm nguyện, mong cầu cũng khác nhau. Một bên là pháp thế gian, một bên là pháp xuất thế. Năm giới là pháp xuất thế, Mười nghiệp lành là pháp thế gian. Cho nên, khi chúng ta muốn giảng nói về cả hai pháp trên, nhất định phải nhận biết đúng thật thì mới nói rõ được.
Không giết hại: Trong giới không giết hại bao hàm việc không quấy nhiễu, không làm hại đến tất cả chúng sinh. Nếu có một chúng sinh nào vì ta khởi sinh phiền não, tức là ta đã phá giới. Trong việc này, trên phương diện sự tướng mà nói thì rất vi tế, không thể không rõ biết. Một khía cạnh khác của việc không giết hại là tâm nhân từ, chỉ đơn thuần không giết hại là tiêu cực, nhất định phải có cả sự nhân từ, tử tế và chân thành. Chúng ta thường nói trung hậu, nhân từ, nếu quý vị làm được một trong các điều đó là đã có sự thành tựu, được phước đức. Người nhân từ được phước đức, người tử tế, chân thành cũng được phước đức.
Không trộm cắp: Hình tướng biểu lộ cực kỳ vi tế, dù đem bất kỳ điều nào trong số đó ra giảng giải thì vài tiếng đồng hồ cũng không giảng hết. Không chỉ là không trộm cắp, chúng ta còn phải nói đến đạo nghĩa, sẵn lòng giúp đỡ người khác, giúp thành tựu cho người khác, nhất quyết không bao giờ làm hại đến người khác...
Đó là những công hạnh vi tế trong đời sống hằng ngày của chúng ta, không thể không lưu ý. Những chỗ vi tế trong cuộc sống hằng ngày, nhỏ nhặt vụn vặt không thể nói hết, đức Phật khi giảng giải cho chúng ta chỉ nêu ra một số thí dụ điển hình mà thôi. Chúng ta từ những thí dụ đó phải suy tưởng đến toàn cảnh. Nghĩa là nêu lên một xét đến ba, nghe một phải biết mười. Trong kinh điển Đại thừa, đức Phật dạy: "Nghe một điều nhận hiểu được ngàn điều." Ta phải có khả năng đó. Theo như đã giảng thì ai ai cũng có đủ năng lực đó. Ngày nay ta không có được năng lực đó, là vì tập khí phiền não quá nặng nề, che chướng đi năng lực đó. Liệu có người nào lại không “nghe một điều nhận hiểu ngàn điều”? Nhưng người ít phiền não thì năng lực ấy liền hiển lộ trước mắt, người phiền não nặng nề thì không cách gì có được. Nên có thể thấy rằng phiền não là chướng ngại, quý vị không dứt trừ phiền não thì làm sao tu hành được? Phương pháp dứt trừ phiền não chính là trì Năm giới và tu Mười nghiệp lành, có thể giúp ta phá trừ những phiền não nặng nề nhất.
Trong các phiền não, thực tế mà nói thì dễ tạo nghiệp nhất là lời nói. Trong kinh Vô Lượng Thọ có đề cập đến pháp tu hành căn bản là "khéo phòng hộ ba nghiệp". Cứ thuận theo từ ngữ thì nhất định phải nói là “thân khẩu ý”, nhưng trong kinh lại không thuận theo như thế mà đặt "khẩu" lên trước nhất. Kinh dạy: "Khéo phòng hộ khẩu nghiệp, đừng chê bai lỗi lầm của người khác."
Trong khẩu nghiệp thì nặng nhất là chê bai đâm thọc thị phi. Ví như trong một đạo tràng, quý vị nếu được gần gũi hơn đôi chút với người chủ trì, với người lãnh đạo, liền ở trước mặt người ấy thường đem những chuyện vụn vặt của người khác mà báo cáo, rằng người này không đúng, người kia không đúng... dường như chỉ duy nhất một mình quý vị, trừ quý vị ra thì người khác ai ai cũng có khuyết điểm cả. Một người lãnh đạo chân chính phải có trí tuệ, nếu không có trí tuệ thì không thể lãnh đạo đạo tràng. Người có trí tuệ chân chánh nhất định không nghe những lời gièm pha ấy. Cổ nhân có một câu nói rất hay: "Người đến nói chuyện thị phi, đó là người thị phi." Quý vị thử nghĩ xem, một người có tâm chân thành, một người có tâm nhân từ, trung hậu, làm sao có thể nói ra những lỗi lầm của người khác? Không chỉ là khi người khác không có lỗi lầm, cho dù nhìn thấy có lỗi lầm, người nhân hậu cũng không nói ra.
Vì thế, chúng ta cần phải biết rằng, nếu quý vị là người nhiều chuyện, ưa thích nói chuyện thị phi, thì trong đạo trường có những người trí tuệ, có những người đức hạnh, đối với quý vị sẽ hết sức dè dặt đề phòng. Khổ đau sẽ đến với chính quý vị, chẳng phải với người khác. Người bị tổn hại cuối cùng chính là quý vị. Đó là hiểu đúng như lời cổ nhân đã nói, quý vị đến nói chuyện thị phi, thì quý vị đích thật là người thị phi, lắm chuyện. Vì thế nên: “Miệng là cửa ngõ rước họa đón phúc.”
Một người lãnh đạo chân chính quan sát một con người, thật không giản đơn. Người ấy có mắt tuệ, người ấy đối với mỗi cá nhân [trong cộng đồng] có ưu điểm gì đều biết rõ, có khuyết điểm gì cũng hiểu rõ. Đối với những ưu điểm của quý vị thì dần dần giúp đỡ, hỗ trợ cho phát triển, đối với những khuyết điểm thì giúp cho sửa đổi, cải chính. Đó gọi là bậc thiện tri thức, đó gọi là từ bi chân chính, là trí tuệ chân thật. Cho nên những việc như thế, chúng ta không thể không thấu triệt rõ ràng. Nếu quý vị không rõ biết, chẳng những quý vị tu hành sẽ gặp chướng ngại, mà suốt đời quý vị, đối với những việc trong thế gian cũng luôn gặp chướng ngại.
Tiếp theo đây giảng đến một vị nữa:
[Thâm Viễn Diệu Âm Chủ không thần]
“Diệu âm” chỉ âm thanh thuyết pháp. Chư Phật, Bồ Tát, các vị Tổ sư, các bậc đại đức, vì tất cả chúng sinh mà giảng kinh thuyết pháp, nêu rõ các lý lẽ nhiệm mầu, hết thảy đều là diệu âm. Trong các diệu âm đó, vi diệu bậc nhất là âm thanh niệm Phật A-di-đà. Vì sao biết được? Tôi đi giảng kinh, đã giảng về điều này rất nhiều lần. Mười phương ba đời hết thảy chư Phật Như Lai, giảng kinh thuyết pháp cho tất cả chúng sinh, quy kết đến cuối cùng chính là một câu A-di-đà Phật. Cho nên nói rằng công đức niệm danh hiệu Phật không thể suy lường.
Trước hết, hãy nêu trường hợp đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Hết thảy giáo pháp ngài đã thuyết giảng trong 49 năm đều quy về nơi kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm. Hết thảy các kinh đều là quyến thuộc của kinh Hoa Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm là căn bản của tất cả các kinh, quy về đến chỗ căn bản chính là kinh này.
Kinh Hoa Nghiêm này nếu lại quy nạp lần nữa thì quy về kinh Vô Lượng Thọ. Đó là vì cuối cùng của bản kinh Hoa Nghiêm này là Thập đại nguyện vương lại dẫn đường về Cực Lạc. Các bậc đại đức đời Tùy, Đường thường nói rằng: “Hoa Nghiêm, Pháp Hoa mở đường đến Vô Lượng Thọ.” “Mở đường” là ý muốn nói gì? Chúng ta giảng kinh Phật thường phải phân chia làm ba phần: phần Tự, phần Chánh tông và phần Lưu thông. “Mở đường” chính là phần Tự. Hoa Nghiêm, Pháp Hoa đó là phần Tự. Kinh Vô Lượng Thọ là phần Chánh tông. Kinh A-di-đà là phần Lưu thông. Không sai vào đâu được. Đó là nói việc các kinh quy kết về kinh Vô Lượng Thọ.
Toàn bộ kinh Vô Lượng Thọ lại quy về 48 nguyện, 48 nguyện lại quy về nguyện thứ mười tám. Nguyện thứ mười tám nêu rõ việc niệm mười lần danh hiệu Phật nhất định được vãng sinh, cho nên nói rằng quy nạp đến cuối cùng là một câu A-di-đà Phật.
Đức Phật Thích-ca thuyết pháp 49 năm, quy kết như vậy. Tất cả chư Phật trong mười phương thế giới giảng kinh thuyết pháp cũng không vị nào không như vậy. Sự thù thắng của Tây phương Tịnh độ nào ai biết được? Chỉ Phật với Phật mới có thể thấu hiểu rốt ráo. Chúng ta sinh ra đời này, thực sự mà nói là hết sức may mắn mới biết được pháp môn này, vượt hơn tất cả các pháp môn, dù hết thảy các pháp môn khác cũng không thể sánh được.
Vẫn có không ít các vị đồng tu không nhận thức được pháp môn Tịnh độ, chỉ tu học theo pháp môn của họ, đối với Tịnh độ thì không biết đến, không tìm hiểu qua, không nghiên cứu. Trong quan niệm của các vị ấy thì pháp môn của họ là thù thắng, pháp môn Tịnh độ không được bằng. Tôi vào lúc còn trẻ cũng tưởng như vậy, trải qua hơn mười năm tu tập mới thông suốt rõ ràng. Sự thông suốt rõ ràng của tôi là nhờ rất nhiều vào kinh Hoa Nghiêm. Nếu không giảng kinh Hoa Nghiêm thì tôi không thấu rõ được những điều trên. Tôi chính từ trong kinh Hoa Nghiêm mà chứng biết được những điều chư vị Tổ sư, đại đức trong quá khứ đã từng thuyết giảng.
Tôi ở tại Đài Loan bắt đầu giảng kinh Hoa Nghiêm từ năm Dân quốc thứ 60 (1971), giảng qua 17 năm. Trong 17 năm đó cũng thường đi ra nước ngoài hoằng pháp, nên việc giảng kinh ngắt quãng không liên tục, 17 năm chỉ giảng được nửa bộ kinh, chưa lần nào giảng được trọn vẹn, thật hết sức ân hận. Lần này tôi phát nguyện thường xuyên cư trú nơi đây, không đi đâu cả, để giảng cho trọn vẹn bộ kinh này. Tôi dự tính là trong 5 năm có thể giảng xong. Nhưng giảng theo cách đang giảng đây, mỗi câu đều chi tiết tỏ tường, thì 5 năm giảng không xong. Quay lại giảng đến chỗ nào tôi đều thấy thích thú ở chỗ đó. Ở mỗi chỗ giảng giải chi tiết ra, đều giúp cho mọi người khởi tâm tôn trọng, rõ biết được trong mỗi danh hiệu kia đều hàm chứa rất nhiều ý nghĩa. Tôi đối với các danh hiệu ấy đều sinh tâm tôn trọng, không dám khinh thường, không dám xem nhẹ, khi ấy mới thực sự hiểu được rằng trong kinh văn mỗi chữ mỗi câu đều hàm chứa vô lượng nghĩa. Từ đó thấy rằng công đức danh hiệu là bậc nhất. Hết thảy chư Phật Như Lai trong mười phương thế giới giảng kinh thuyết pháp, bất luận là các vị giảng dạy nhiều hay ít pháp môn, không kể là thời gian lâu hay mau, cuối cùng đều quy kết về một câu A-di-đà Phật. Chúng ta nhất định phải nhận biết thật rõ ràng điều này.
Tôi có người bạn, có thể nói là quan hệ thân thiết nhất trong số các vị xuất gia, là Pháp sư Diễn Bồi. Tôi từ hồi mới học Phật đã biết ông ấy. Lúc chưa xuất gia đã đến nghe ông ấy giảng kinh. Ông ấy trụ trì chùa Thiện Đạo, Đài Bắc, lúc ấy chỉ vừa khoảng hơn 40 tuổi. Ông ấy hơn tôi 10 tuổi, cũng có thể lúc đó chưa đến 40 tuổi. Tôi hơn 20 tuổi học Phật, chắc là ông ấy lúc đó chưa đến 40. Ông ấy giảng kinh thì tôi ngồi ở hàng ghế đầu. Chúng tôi hết sức quen thuộc với nhau. Đến khi tôi xuất gia, thường đi đây đó giảng kinh. Ông ấy cũng là người giảng kinh, nên quan hệ giữa chúng tôi so với người khác càng thêm mật thiết hơn. Những năm đầu tiên tôi mới đến Tân-gia-ba, ông ấy vừa nghe tin liền ra phi trường đón tiếp. Khi tôi đến thì ông ra đón, khi tôi đi thì ông đến tiễn. Ông ấy tu theo pháp Tịnh độ Di-lặc, tôi tu theo Tịnh độ Di-đà, chúng tôi hai người đường hướng khác nhau. Ông ấy đối với Tịnh độ Di-đà rất ít tìm hiểu qua, những kinh điển thuộc pháp môn này ông xem rất ít, không dụng công tu tập. Nhưng đối với Pháp tướng Duy thức thì ông dụng công hết sức sâu xa, hết sức tinh cần nỗ lực. Có thể nói vào thời đại chúng ta, nói về giảng giải Pháp tướng Duy thức thì ông ấy là bậc nhất, ông thật sự rất có công phu tu trì.
Có thể nói tôi không đi theo con đường của ông ấy, vì sao vậy? Vì con đường ấy hết sức phức tạp, kinh điển nhiều quá, thật không dễ đọc. Đọc kinh Di-đà thì hết sức giản đơn mà thành tựu lại vượt hơn nhiều. Kinh Vô Lượng Thọ thì mọi người đều hết sức quen thuộc. Nội dung kinh Vô Lượng Thọ, nửa bộ sau Phật đối đáp với Bồ Tát Di-lặc, nửa bộ trước đối đáp với Tôn giả A-nan. Từ phẩm 32 về sau là đối đáp với ngài Di-lặc, đức Phật Thích-ca đem pháp môn này phó thác cho Bồ Tát Di-lặc. Bồ Tát Di-lặc trong tương lai ở ba hội Long Hoa, nhất định đều thuyết giảng kinh Vô Lượng Thọ. Theo chuẩn mực phải giảng ba lần, nếu ngài không giảng đủ ba lần, đó là đã cô phụ sự phó thác của Phật Thích-ca. Đức Phật Thích-ca suốt đời giảng kinh, đối với các kinh đều chỉ giảng qua một lần, riêng kinh Vô Lượng Thọ này là giảng nhiều lần. Vì thế, chúng ta tin chắc là Bồ Tát Di-lặc sẽ giảng kinh này ít nhất cũng ba lần. Tương lai rồi sẽ có người ghi chép kinh này nơi pháp hội của ngài, chúng ta có thể hình dung được điều đó. Hơn nữa, Bồ Tát Di-lặc nhất định phải rất thường đến thế giới Tây phương Cực Lạc. Thế giới Tây phương Cực Lạc là trường Đại học của Phật giáo, chúng ta hết sức tin tưởng rằng, người giảng dạy môn Duy thức ở thế giới Cực Lạc nhất định là Bồ Tát Di-lặc. Chúng ta đến được thế giới Tây phương Cực Lạc có rất nhiều điều thù thắng. Chúng ta đối với Bồ Tát Di-lặc thân cận như thế nào? Chúng ta là đệ tử của đức Phật A-di-đà. Bồ Tát Di-lặc đến thế giới Tây phương Cực Lạc dẫn dắt chúng ta, vậy ngài đến với thân phận gì? Là đến trường học. Cho nên chúng ta với ngài là ngang hàng, đứng ngồi ngang nhau. Nếu quý vị sinh về cõi Tịnh độ của ngài Di-lặc, thì quý vị là học trò của ngài, thấp hơn một bậc. Chúng ta hình dung đến lý lẽ như thế rồi, thì chúng ta không sinh về Nội viện cõi trời Đâu-suất, chúng ta sinh về thế giới Cực Lạc thôi. Sinh về thế giới Cực Lạc thì ngày ngày đều được cùng Bồ Tát Di-lặc gặp gỡ, nếu muốn đến chơi Nội viện cõi trời Đâu-suất cũng không có vấn đề gì. Chỉ cần nói với Bồ Tát Di-lặc rằng: “Hôm nay tôi sẽ đến thăm viếng đạo trường của ngài.” Bồ Tát Di-lặc sẽ hết sức vui mừng đón tiếp chúng ta. Còn như các đệ tử ở Nội viện Đâu-suất muốn đến thế giới Cực Lạc thì không thể dễ dàng, không đơn giản chút nào. Việc ấy đem ra tính toán rõ ràng, thì điều nào lợi ích lớn hơn?
Chúng ta làm đệ tử đức Phật A-di-đà thì hết thảy chư Phật Như Lai đều tôn trọng. Vì sao vậy? Vì mọi người đều tôn trọng Phật A-di-đà, tán thán Phật A-di-đà là “hào quang tôn quý nhất, hơn hết trong chư Phật”. Bởi vậy nên đệ tử của Phật A-di-đà được yêu chuộng nhất, khi đi đến một thế giới nào, bất cứ vị Phật nào nhìn thấy đệ tử của Phật A-di-đà, đều sẽ đặc biệt chiêu đãi quý vị, đều mời quý vị ngồi lên tòa trên, còn đệ tử của các vị ấy thì ngồi hàng thấp hơn, quý vị ngồi tòa trên, vì quý vị là đệ tử của Phật A-di-đà. Chúng ta cần phải hiểu rõ được như thế, thì mới thấu triệt được ý nghĩa “âm thanh nhiệm mầu sâu xa” chính là một câu Phật hiệu.
Chúng ta hôm nay ở Niệm Phật Đường Tứ Lâu này, các vị đồng tu cùng niệm Phật, một câu Phật hiệu không chỉ chấn động khắp tam thiên đại thiên thế giới, tam thiên đại thiên thế giới chỉ là một phần rất nhỏ, mà tận cùng hư không, khắp thảy pháp giới, tất cả chư Phật Bồ Tát đều nghe biết, tất cả chư Phật Bồ Tát đều gia hộ độ trì, đều bảo vệ giúp đỡ, cho nên đạo tràng này mới có được sự hiển lộ thù thắng như hôm nay. Đó không phải là do năng lực tự thân của chúng ta, chính là nhờ được sự gia trì của tất cả chư Phật Như Lai.
Hôm nay vào khoảng quá trưa, có mấy vị đồng tu ở Hoa Kỳ đến, gặp tôi để từ biệt. Các vị ngày mai sẽ lên đường, rời Tân-gia-ba quay về lại Hoa Kỳ. Các vị ấy đã tu tập niệm Phật tại Niệm Phật Đường này được mấy hôm rồi, hết sức thành thật nói với tôi rằng, nhất định phải đến Niệm Phật Đường này rồi, tự thân mới thể nhận, mới hiểu được. Nếu như không đến Niệm Phật Đường này niệm Phật qua mấy ngày, thì dù tôi có giảng thế nào các vị ấy cũng không thể hiểu được.
Các vị đồng tu ở bên Hoa Kỳ có nghe nói vậy, liền bảo các vị này ghi hình lại rồi mang băng ghi hình về bên ấy. Các vị đến nói với tôi về giải pháp đơn giản ấy. Tôi liền thật tình bảo họ, quý vị có xem băng ghi hình ấy cũng chẳng ích lợi gì. Vì sao vậy? Vì không thể nào thể nhận, hiểu được. Nhất định phải tự thân đến đây thực hành niệm Phật, thì mới biết rằng Niệm Phật Đường này so với các Niệm Phật Đường khác không hề giống nhau. Do đâu mà có sự không giống nhau? Vì Niệm Phật Đường này được tất cả chư Phật gia trì, còn những Niệm Phật Đường khác rất khó được như vậy.
Nói như thế thì lẽ nào chư Phật Như Lai có tâm thiên lệch? Các vị lại riêng yêu thích Niệm Phật Đường này hay sao? Thật không phải vậy, mà là do tâm chân thành. Những người niệm Phật ở Niệm Phật Đường này có tâm chân thành, nên có sự cảm ứng giao hòa trong đạo thể. Tại Niệm Phật Đường này, từ lúc phát khởi, lúc chủ trì thực hiện, cho đến lúc tiến hành thì mỗi người đều dùng tâm chân thành mà thực hiện công việc, hết thảy đều vô ngã, vô tư, nên mới có được sự cảm ứng giao hòa trong đạo thể. Ví như chỉ có một chút tư tâm, một mảy may cầu danh lợi, thì không thể có sự cảm ứng. Đạo lý nằm ở chỗ đó. Tôi hy vọng rằng người ở các nơi khác đến đây niệm Phật, niệm qua một ngày, niệm qua một tháng, thì trong tâm của quý vị đều sẽ tự nhiên hiểu rõ được rằng, chỉ có sự chân thành, thanh tịnh, từ bi mới có thể chiêu cảm, chư Phật, Bồ Tát mới có thể ứng hiện, mối cảm ứng giao hòa trong đạo thể mới được thành tựu như ở đạo trường này.
Cho nên quý vị cần phải chắc chắn phát khởi được tâm chân thành, rồi mới quay về địa phương của mình mà kiến lập đạo trường. Những đạo trường như vậy được xây dựng càng nhiều thì người niệm Phật càng nhiều, có thể giúp tiêu trừ được kiếp nạn của thế gian này, công đức không thể nghĩ bàn, âm thanh mầu nhiệm thật sâu xa. Không chỉ âm thanh niệm Phật tương ưng với tự tính, danh hiệu A-di-đà Phật cũng là một đức hiệu tương ưng với tự tính, cho nên trong kinh luận cũng nói rằng: “Tự tính là Di-đà, riêng tâm này là Tịnh độ.” Niệm Phật A-di-đà là niệm tự tính, cũng là niệm chân như, cũng là niệm bản tính, cho nên công đức vô lượng vô biên. Không chỉ được bản nguyện của đức Phật A-di-đà gia trì, mà còn là hết thảy chư Phật Như Lai, hết thảy Bồ Tát, hết thảy thiện thần trong mười phương, không một vị nào là không hoan hỷ, không một vị nào là không ủng hộ.
Rất đáng tiếc là những người có thể giảng giải rõ ràng, minh bạch về điều này thật không nhiều lắm. Các bậc đại đức xưa kia tuy đã chú giải hết sức tường tận, chi tiết trong kinh luận, nhưng chúng ta xem qua không thấu triệt, không hiểu ra được. Cho nên hiện tại chúng ta đã thành lập Ban Bồi huấn, hy vọng các vị đồng học tham dự vào Ban Bồi huấn sẽ nỗ lực nhận hiểu chân thật. Chúng ta cần phải báo đáp ơn Phật, phải báo đáp ơn chúng sinh. Muốn báo ơn Phật thì phải y theo lời Phật dạy tu hành. Muốn báo ơn chúng sinh thì phải mang những ý nghĩa này thuyết giảng trước đại chúng cho rõ ràng, minh bạch, giúp mọi người biết chọn theo pháp môn này, được thành tựu trong một đời.
Hôm nay các vị [trong Ban Bồi huấn] có một số đến từ biệt, phải quay về Hoa Kỳ. Tôi nhân đó bảo họ rằng, không chỉ chúng tôi hoan nghênh mọi người đến Tân-gia-ba niệm Phật, mà cũng hoan nghênh cả các vị đồng tu tuổi trẻ, bất luận là xuất gia hay tại gia, đến Tân-gia-ba để tham gia vào Ban Bồi huấn. Ban Bồi huấn của chúng tôi có thể xem xét mở ra lần thứ năm, lần thứ sáu, chúng tôi có thể mở các khóa niệm Phật ngắn ngày, hoặc hai tháng, hoặc ba tháng. Chúng tôi huấn luyện, bồi dưỡng cho các vị đồng học chân chánh phát tâm học giáo pháp thuộc các nơi ngoài nước, hy vọng các vị ấy học xong có thể quay về để tuyên dương giáo pháp, quay về để giảng kinh. Khi các vị ấy đến rồi, chúng tôi sẽ phân lớp, soạn chương trình học.
Tương lai sau khi đạo trường mới ở thôn Di-đà được mua xong, sẽ có rất nhiều phòng học. Ai sẽ là người đến dạy? Quý vị hôm nay ngồi đây đều sẽ là thầy dạy cả, không cần thiết tôi phải đến dạy, tôi không đến dạy. Sau khi tôi phân chia các nhóm người học, quý vị sẽ đến dạy, quý vị đều là thầy cả. Cho nên các vị đồng học cần phải nhận biết để chuẩn bị, chuẩn bị lên lớp dạy. Quý vị chỉ cần một ngày chuẩn bị là xem như xong rồi, có thể lên lớp dạy được rồi, chúng ta bắt đầu chiêu sinh. Như vậy rất tốt, đối với quý vị là rất tốt, người dạy người học cùng phát triển. Chúng ta cùng nhau mang giáo pháp Tịnh độ hoằng dương đến với toàn thế giới, hoan nghênh những người trẻ tuổi ở khắp nơi đến đây tham học. Người nào không phát tâm giảng kinh, mời đến Niệm Phật Đường niệm Phật, chúng ta đối với lý thuyết và thực hành đều tương ưng, đều xem trọng như nhau. Đó chính là ý nghĩa của âm thanh nhiệm mầu sâu xa, ý nghĩa không hề cùng tận.
Không chỉ riêng niệm Phật là âm thanh nhiệm mầu sâu xa, chúng ta bình thường khởi sinh một vọng tưởng, nói nhỏ với nhau điều gì đến mức vài người thì nghe được, người thứ ba không thể nghe được, nhưng lời thầm thì ấy, âm thanh ấy vẫn là cực kỳ sâu xa, vẫn chu biến cùng khắp hư không pháp giới. Cho nên, nói đến âm thanh thì hết thảy âm thanh đều mầu nhiệm, nói đến hình sắc thì hết thảy hình sắc đều mầu nhiệm, không một chỗ nào là không mầu nhiệm. Nếu chúng ta quả thật khởi tâm động niệm mà không đạt đến chỗ sâu xa, thì người ở thế giới Tây phương Cực Lạc làm sao lại biết được? Nhưng chúng ta khởi tâm động niệm thì người nơi ấy đều biết. Chúng ta nói chuyện thầm thì, có thể người đối diện không thể nghe thấy, nhưng người ở thế giới Tây phương Cực Lạc lại tức thời nghe được rõ ràng, nên quý vị có thể biết được tất cả âm thanh đều là mầu nhiệm, đều là sâu xa.
Cũng giống như trước đây tôi từng nói với quý vị về xung động tư tưởng của chúng ta. Một số các khoa học gia cũng nói về xung động tư tưởng. Trong Phật pháp chúng ta còn nói về xung động của tâm. Trong tâm ta khởi sinh động niệm, đều có những xung động. Xung động đó cũng giống như điện, giống như ánh sáng, lan đi cực nhanh, tốc độ hơn cả ánh sáng hay sự truyền điện. Điện và ánh sáng khi truyền đi càng xa thì càng yếu đi, điều đó mọi người đều biết. Nhưng các xung động của tâm, của tư tưởng thì xa đến đâu cũng tới được, tốc độ cực nhanh đến mức không thể nghĩ bàn, tựa như chỉ trong nhất thời đã chu biến khắp cả hư không pháp giới, mà cường độ hoàn toàn không thay đổi, vì thế mới có thể có tác dụng khởi sinh sự cảm ứng giao hòa trong đạo thể với tất cả chư Phật. Chúng ta cần phải hiểu rõ ràng ý nghĩa này.
Đã nhận biết rõ ràng về sự thật như vậy, quý vị làm sao có thể không hết sức lưu tâm đến mọi sự khởi tâm động niệm của mình? Không thể cho rằng chúng ta khởi tâm suy nghĩ thì người khác không biết, vì hết thảy chư Phật đều rõ biết cả. Quý vị chỉ có thể lừa dối những kẻ hồ đồ, những kẻ ngu si thôi, còn đối với chư Phật Như Lai là những bậc thông minh sáng suốt, không thể nào lừa dối được. Không chỉ đối với các vị ta không lừa dối được, ngay cả đối với quỷ thần gần kề cũng không lừa dối được. “Trên đầu ba thước có thần minh”, chúng ta sao có thể không cẩn thận, không hết sức lưu tâm?
Tiếp theo đây nói đến vị cuối cùng.
[Quang Biến Thập Phương Chủ không thần]
Tâm tính vốn thanh tịnh, thanh tịnh thì phóng quang. “Quang” hay ánh sáng, chính là trí tuệ Bát-nhã vốn sẵn đủ trong tự tính. Ánh sáng có hai loại, một là ánh sáng thanh tịnh vốn có đủ trong tự tính. Ánh sáng thanh tịnh thì không có xung động. Quý vị phải hiểu rằng, không có xung động thì hoàn toàn tự nhiên chu biến khắp cùng hư không pháp giới, đó là chân tâm. Kinh Bát-nhã giảng về căn bản trí, căn bản trí là gì? Căn bản trí là trí vô tri, là không biết. Bát-nhã vốn vô tri, vô tri là căn bản trí. Vô tri là trí tuệ không có xung động. Không có xung động, đó là thể tính, là bản thể của pháp giới, đồng với hư không, chu biến khắp pháp giới.
Khi căn bản trí ấy khởi sinh tác dụng liền có xung động, khởi sinh tác dụng liền thành hậu đắc trí, không gì là không rõ biết. Xung động ấy cũng giống như tôi vừa mới nói trên, khởi tâm động niệm liền chu biến khắp pháp giới. Sự thật như vậy cũng không khác với giảng giải của các khoa học gia, nhưng các khoa học gia không nói được đến mức rõ ràng, đến mức thấu triệt như vậy. Ngày nay các khoa học gia chỉ có thể nhận biết được một loại xung động tư tưởng thôi. Xung động tư tưởng đó là gì? Chính là tám thức. Nói thật ra, trong tám thức thì thức thứ tám, a-lại-da thức, các nhà khoa học không biết đến. Họ chỉ biết được đến thức thứ sáu là ý thức và thức thứ bảy thôi, liền kề với thức thứ bảy thì họ hoàn toàn không biết. Trong Kinh điển của đạo Phật, thì kinh điển Tiểu thừa chỉ giảng đến thức thứ sáu, kinh điển Đại thừa mới giảng đến thức thứ tám.
Xung động tư tưởng là thuộc về thức, không thuộc về tính. Trong tính là trí tuệ, là bất động, căn bản thì sáu căn của chúng ta đều không tiếp xúc đến được, đều bất động, không tiếp xúc đến được, chỉ có thiền định thâm sâu mới vào được cảnh giới ấy. Trong kinh Phật có dạy, công phu thiền định đến mức nào thì vào được cảnh giới ấy? Đó là Bồ Tát ở địa vị thứ tám thuộc Viên giáo. Địa vị thứ tám gọi là Bất động địa, có thể thấy được cảnh giới ấy, thấy được bản thể của tự tính bất động, thấy được tính thể. Nói cách khác, từ địa vị thứ bảy trở về trước đều không thấy được. Như thế gọi là chân chánh nhập Phật cảnh giới, cho nên có thể “quang biến thập phương”, nghĩa là chiếu sáng khắp mười phương.
Thể tính vốn xưa nay soi chiếu, chu biến. Tác dụng của nó, như vừa giảng, bất luận là Phật Bồ Tát khởi sinh tác dụng, hay phàm phu chúng ta khởi sinh tác dụng, thì hết thảy cũng đều soi chiếu khắp mười phương. Thực sự là, chúng ta khởi sinh mỗi một vọng tưởng, hết thảy đều chu biến khắp cùng hư không pháp giới. Cho nên các bậc thánh nhân dù là ở thế gian hay xuất thế gian, đều khuyên bảo chúng ta, dạy dỗ chúng ta phải hết sức thận trọng lưu tâm những khi ở một mình. Thận trọng khi ở một mình, đó là những lúc không có ai nhìn thấy, quý vị chỉ một mình ở một nơi, không có người nào nhìn thấy cả, thì quý vị phải hết sức cẩn thận, không thể nhân đó mà buông thả phóng túng. Vì sao vậy? Vì chúng ta cho rằng ở đó không có ai nhìn thấy, một mình ở trong phòng riêng kín đáo, cửa nẻo đều đã đóng kín cẩn thận, nhưng kỳ thật chư Phật Bồ Tát, các vị quỷ thần đều nhìn thấy rõ ràng. Tường vách, cửa nẻo của quý vị đều không thể ngăn che được các vị ấy. Các vị ấy đều có thể nhìn thấu, dù có chạy khắp đó đây đều không ngăn tránh được.
Mọi người đều biết, quỷ thần có thiên nhãn, thiên nhãn có thể nhìn xuyên qua hết thảy các thứ chướng ngại, nên các vị ấy nhìn thấy hết. Lại như những vị chứng đắc cao thì không cần phải nói nữa, ngoài thiên nhãn ra các vị còn có tuệ nhãn, pháp nhãn, Phật nhãn. Kinh Hoa Nghiêm nói có mười loại mắt. Quý vị làm sao có thể che giấu, lừa dối? Không thể che giấu lừa dối, nên quan trọng nhất là phải giữ tâm thanh tịnh không nhiễm ô, phải chân chánh thanh tịnh, dù đối với các pháp thế gian hay xuất thế gian đều không nhiễm trước. Đối với hết thảy các pháp, trong đó đều không có sự phân biệt, không chấp trước. Quý vị giữ được thân tâm thanh tịnh thì cảnh giới sẽ thanh tịnh, thì quý vị mới được chư Phật hộ niệm, mới được hết thảy các vị trời, rồng, quỷ thần ủng hộ. Đức hiệu của Bồ Tát trong đoạn này là giới thiệu cảnh giới như thế.
Bây giờ chúng ta xem dưới đây đoạn tổng kết.
[Các vị như thế làm bậc đứng đầu, số lượng không thể tính hết.]
Đó là tổng kết về đại chúng dự hội, số lượng là vô lượng vô biên không thể tính đếm.
Tiếp theo là một câu xưng tán đức hạnh:
[Tâm thức các vị đều lìa mọi cấu nhiễm, rộng lớn, sáng suốt và thanh khiết.]
Trong sự xưng tán đức hạnh này, Đại sư Thanh Lương trong phần chú giải có đặc biệt lưu ý chúng ta. Sự lưu ý của ngài tuy không nhiều nhưng cực kỳ trọng yếu: “Nếu tình thế tục khởi sinh rối loạn, sẽ che lấp đi tính không vốn có.” Câu này nói đến phàm phu chúng ta, không chỉ là trong sáu đường, mà cả hàng Tứ thánh pháp giới trong Mười pháp giới, cũng đều không sáng suốt. Trong đó, cần chú ý đến chữ “tình”. Tình là tình cảm, quý vị cần hiểu rõ. Tình là mê muội, cảm tình làm việc là mê, không phải trí tuệ, là tình mê muội.
Chư Phật Bồ Tát so với chúng ta không giống nhau. Chư Phật Bồ Tát không dùng mê tình, các ngài dùng trí tuệ. Trí tuệ là gì? Nhắc lại với quý vị, trí ấy là tình chân chánh, là chân chánh, không phải giả dối, là giác ngộ. Do đó có thể biết rằng, tình với trí cũng chỉ là một. Tình giác ngộ thì gọi là trí, cũng là trí tuệ. Mê muội không trí tuệ thì gọi là tình, nên tình với trí vốn chỉ là một.
Cho nên đạo Phật giảng rằng phiền não với Bồ-đề chỉ là một, chẳng phải hai. Khi giác ngộ rồi, sinh tử gọi là Niết-bàn, phiền não gọi là Bồ-đề, tình gọi là trí. Khi còn mê muội, trí gọi là tình, Bồ-đề gọi là phiền não, Niết-bàn gọi là sinh tử, tên gọi không giống nhau.
Giới hạn phân biệt giữa chúng sinh với Phật chỉ ở nơi một niệm mê muội hay giác ngộ. Một niệm giác ngộ, quý vị liền thành Phật. Một niệm mê muội, quý vị là phàm phu. Chúng ta có tâm chân thành, tâm thanh tịnh, liền cũng đồng như chỗ Bồ Tát Đại Thế Chí nói: “Nhiếp hết sáu căn, niệm niệm thanh tịnh nối nhau.”
Nhiếp hết sáu căn, nhiếp đó là thâu nhiếp, nghĩa là thu hồi hết sáu căn về. Thế nào gọi là thu hồi về? Mắt không hướng ra bên ngoài nhìn ngó, đó là nhãn căn được thu hồi về. Tai không hướng ra bên ngoài nghe ngóng đó đây, đó là nhĩ căn được thu hồi về. Khi sáu căn đều được thu hồi về, thì tâm của quý vị được chuyên nhất, nhất tâm. Nhất tâm xưng niệm một câu A-di-đà Phật, nhất tâm niệm Phật A-di-đà, đó gọi là giác ngộ. Một niệm tương ưng như thế là một niệm Phật, niệm niệm đều tương ưng như thế thì niệm niệm đều là Phật. Một niệm tương ưng như thế của quý vị, thâu nhiếp hết thảy sáu căn liền tương ưng, cùng với giác ngộ tương ưng.
Nếu quý vị không thu hồi được sáu căn, thì quý vị ngồi trong Niệm Phật Đường này niệm Phật, mắt lại nhìn qua song cửa hướng ra bên ngoài xem có chuyện gì không, tai cũng hướng ra bên ngoài lóng nghe xem có âm thanh gì không, thì tâm của quý vị không chuyên nhất, quý vị niệm Phật hiệu không có sự tương ưng. Cho nên bước vào Niệm Phật Đường phải buông xả hết muôn duyên, dù chuyện gì cũng đều không nghĩ tưởng đến, dù chuyện gì cũng đều không nhìn ngó, dù chuyện gì cũng đều không lóng nghe, chỉ chuyên tâm lắng nghe tiếng niệm Phật, chuyên chú nhìn tượng Phật.
Cho nên trong Niệm Phật Đường này treo hình tượng Phật ở khắp mọi nơi. Trong Niệm Phật Đường có nhiều cột, ban đầu Lý cư sĩ bàn với tôi viết một số câu đối liễn treo nơi cột, để nhắc nhở sách tấn mọi người. Đến phút cuối cùng tôi chuẩn bị viết ra thì hốt nhiên nghĩ lại không viết. Nếu như viết ra những câu nhắc nhở sách tấn treo lên, mọi người nhìn thấy đều sẽ bị phân tâm, khiến cho sự niệm Phật của quý vị trở thành rối loạn. Do đó phút cuối cùng liền đổi sang tất cả đều dùng hình tượng Phật A-di-đà treo lên khắp nơi, nên bất kể quý vì có nhìn ra hướng nào cũng đều là đối diện trước hình tượng Phật A-di-đà, như vậy rất tốt. Tượng Phật treo khắp trong nhà niệm Phật, quý vị nhìn thấy nhiều tượng Phật như thế, liền khởi sinh ý nghĩ trong số đó nhất định phải có một vị là chính mình, như vậy thật thù thắng biết bao. Cho nên trong Niệm Phật Đường mà ba chữ “Niệm Phật Đường” cũng không thể treo lên, vì treo để làm gì? Mọi người nhìn thấy liền tán ý, phân tâm.
Đó là nói với quý vị đừng phân biệt, đừng chấp trước, đừng xen tạp, đừng hoài nghi, phải nhất tâm xưng niệm, đó là chân thành niệm. Do đó mới có được sự cảm ứng không thể nghĩ bàn. Đó là chỗ đặc sắc của Niệm Phật Đường này. Các niệm Phật Đường khác bên trong đều treo những câu đối liễn, khiến người ta phân tâm, như vậy làm sao có sự cảm ứng? Chúng ta đã hiểu rõ được điều đó.
Cho nên, tình là những tình cảm phiền não bên trong, trần là những sự cám dỗ bên ngoài. Trong có phiền não, ngoài có sự cám dỗ, bản tính của quý vị liền mê muội, cảnh giới rỗng không vắng lặng trong tự tính của quý vị liền mất đi. Đại sư Thanh Lương dạy chúng ta tất yếu phải khai mở trí tuệ. Trí tuệ đã khai mở rồi, cảnh giới tự nhiên chuyển biến.
Vậy dùng phương pháp nào để khai mở trí tuệ? Trí tuệ phải từ trong thiền định khởi sinh. Chúng ta niệm Phật cũng là tu tập thiền định. Trong kinh Đại Tập, đức Phật dạy rằng: “Niệm Phật là pháp thiền hết sức sâu xa mầu nhiệm.” Không phải pháp thiền thông thường, mà là pháp thiền hết sức sâu xa mầu nhiệm. Do đó người niệm Phật thành tựu so với tham thiền là thù thắng hơn. Một câu Phật hiệu đó niệm lâu ngày, hoàn toàn tự nhiên đạt đến Niệm Phật Tam-muội, khiến cho bao nhiêu vọng tưởng phân biệt chấp trước của quý vị hết thảy đều được điều phục. Tuy có vọng tưởng phân biệt chấp trước nhưng không thể khởi sinh tác dụng, đó gọi là “đới nghiệp vãng sinh”, đó gọi là công phu chuyên nhất thành khối, công phu niệm Phật của quý vị đã được thành tựu hiệu quả.
Tâm chuyên nhất lại khởi sinh trí tuệ. Khi có sự nhất tâm thì tình trần tự nhiên không còn hiện hữu, như khói tan mây tản, cảnh giới rỗng không vắng lặng trong tự tính của quý vị tự nhiên hiển bày. Quý vị chân chánh thành tựu được ý nghĩa biểu trưng của Chủ không thần.
Hôm nay thời gian đã hết, chúng ta chỉ giảng đến đây thôi.