Cả hai rời tiệm bán hương và đi xuôi vào dòng phố chính. Tuy gọi
là phố nhưng đây cũng còn là một tỉnh lỵ nhỏ gần bìa rừng, nên không đến
nỗi tấp nập như những đô thị lớn. Dù vậy, vì từ bé công chúa chỉ sống
quanh quẩn trong cung, cần gì cũng có kẻ hầu, người hạ, chẳng bao giờ có
dịp ra ngoài, nếu có thì cũng đi với phụ vương và mẫu hậu đến đúng nơi
muốn đến, tiền hô, hậu ủng, quân lính và cận vệ đầy chung quanh, xong
việc rồi về, không bao giờ được đi lang thang, thoải mái thế này. Nên
thấy cái gì cũng làm cho công chúa lạ lùng, tò mò muốn tìm hiểu. Nàng
cho rằng, mình đang lạc vào “thế-giới-bên-ngoài”, một thế giới rất kỳ lạ
và cũng rất thật, khác hẳn cái thế giới ngà ngọc trong cung.
Cả hai đi một đỗi thì thấy xa xa có một đám đông tụ tập, ồn ào. Công
chúa cũng chen chân vào xem cho biết. Hóa ra, đó là một gã Sơn Đông bán
thuốc đang ba hoa quảng cáo thuốc gia truyền mấy đời của cha ông gã. Gã
mặc một bộ đồ của con nhà võ, lưng thắt đai đen, dáng to lớn, khoẻ mạnh,
trên trán cột một giải khăn đỏ. Bên cạnh là một chiếc xe thổ mộ được kéo
bởi một con ngựa cột dây cương rất sặc sỡ, trên để vài chiếc thùng, một
chiếc mở rộng bày ra những túi thuốc tễ đen nhánh. Điểm đặc biệt thu hút
thiên hạ nhiều nhất là gã mang theo một con khỉ nhỏ, lông nó ngà ngà
vàng như râu bắp, trên người cũng được khoác một chiếc áo lòe loẹt như
kiểu một gánh xiếc rẻ tiền. Trông nó không đẹp nhưng vì biết làm trò và
khôn lanh nên cũng làm cho thiên hạ nhiều phen phải bật cười. Nó luôn
luôn nhảy nhót, chuyền từ vai gã bán thuốc rồi nhảy lên nóc chiếc xe thổ
mộ. Nhiệm vụ của nó là nhảy cẫng lên khi nghe tiếng trống và thanh la
đánh choang choảng, rồi sau đó ngả mũ chào thiên hạ và đi một vòng để
thâu tiền.
Tiếng gã Sơn Đông lơ lớ giọng chệt, rống lên quảng cáo thuốc, hai tay
hươi chập choả lên cao thỉnh thoảng chêm thêm một tiếng trống tùng tùng:
– Tùng... tùng...xoèng! Mại zô... mại zô... Bà con ơiiiii! Rẻ zồi... rẻ
zồi! Thuốc gia truyền mấy đời từ Sơn Đông tới. Bảo đảm, không hết không
tính tiền. Tùng... tùng... xoèng!
Gã nhào lộn mấy vòng rồi hươi hai cái chập chỏa lên cao đánh một cái
“xoèng”, rồi rống cổ quảng cáo tiếp.:
– Em nhỏ hay “lái” đêm, cho em nhỏ “ún” thuốc. Em nhỏ hết “lái” đêm...
Có tiếng ồm ồm như vịt đực từ trong đám thính giả:
– Vì em nhỏ... bí “lái”!
Đám người nghe như vậy cười rộ lên. Chính gã Sơn Đông cũng nhe hàm răng
vàng khè, cáu bẩn ra cười theo. Nhưng sau đó lại tròng thêm câu đính
chánh:
– Ầy... zààà ... Hông phải đâu à! Cái nị nói zậy là tội nghiệp ngộ lắm
ààà... Thuốc gia truyền của ông cha ngộ tài giỏi lắm! Em nhỏ nào mà uống
thuốc ngộ zồi là khỏi lái đêm, nhưng sáng mai vẫn lái được như thường
mà. Bảo đảm, bảo đảm! Không hết, ngộ không có lấy tiền mấy nị đâu!
Nói xong, gã lại nhào lộn mấy vòng. Con khỉ lập tức vỗ tay đôm đốp, nhảy
từ vai gã xuống đất, ngả cái mũ vừa đen, vừa bẩn đi một vòng để xin
tiền. Cũng có nhiều người vui vẻ bỏ vào vài đồng bạc cắc. Sau khi nhào
lộn thêm mấy vòng, gã lại quảng cáo tiếp:
– Tùng... tùng... xoèng! Em nhỏ hay khóc đêm... tùng...tùng... Cho em
nhỏ ún thuốc... tùng... xoèng... em nhỏ hết khóc đêm...
Lại cái giọng bỡn cợt lúc nãy nổi lên:
– Vì em nhỏ... câm! Hi...hi..hi!
Lần này, thiên hạ cười rộ hơn lần trước. Nhìn lại, đó là một gã hán tử
vừa cao, vừa gầy. Hắn đứng lẫn trong đám người quây chung quanh. Hắn vừa
nói, vừa cười, khuôn mặt búng ra đầy chất tếu. Trông hắn không có vẻ gì
muốn phá gã Sơn Đông, nhưng cái tính tếu không chừa được nên ngứa miệng
cứ chỏ mỏ vào mà phá gã.
Gã Sơn Đông bán thuốc chắc là đã gặp những tình cảnh “cười ra nước mắt”
như thế này rồi nên vẫn lờ đi, lấn át sự trêu chọc của gã hán tử bằng
cách đánh thùng thùng liên tiếp trên mặt trống. Nhào lộn thêm mấy vòng
rồi hươi hai cái chập chỏa lên làm một cái xoèng!
– Bà con ơi! Mại dzô... mại dzô!
Nói rồi, gã cầm mấy bọc thuốc tễ đen nhánh mang đến từng người mời chào.
Nhưng chẳng ai dám mua cả, vì dù gã có bảo đảm rằng thuốc hiệu nghiệm,
nhưng lời nói đùa của gã hán tử cũng làm cho thiên hạ ái ngại. Mà nếu
thuốc không hiệu nghiệm thì kiếm gã đâu mà bắt đền?
Công chúa đứng xem mà cười khúc khích. Nàng không thể ngờ thế giới ngoài
cung cấm lại vui và náo nhiệt đến thế. Đang ồn ào vui vẻ, bỗng dưng có
tiếng còi tu huýt của đám vệ binh đằng xa dồn dập ùa tới. Đám đông chạy
toán loạn, gã Sơn Đông cũng vội vã đóng sập thùng bán thuốc rồi nhảy
phóc lên con ngựa, cong lưng quất thật mau trước khi vệ binh ập tới bắt.
Chiếc xe thổ mộ chao đảo, xộc xệch, bị kéo lê theo sau. Con khỉ nhảy tót
lên vai gã Sơn Đông ngoác miệng ra cười và vỗ tay đôm đốp. Không khí
nhốn nháo chỉ trong vòng vài phút thì không còn ai ở đó nữa. Một vài
người vệ binh chạy vụt qua công chúa cố đuổi theo gã Sơn Đông. Nhưng
chân chạy đâu nhanh bằng ngựa, nên chỉ thoáng chốc gã đã mất hút tận
cuối đường.
Còn lại công chúa và Ếch. Nàng rẽ qua con đường nằm ngang đi vào nơi có
những ánh đèn thấp thoáng. Buổi tối, những tiếng rao, tiếng cười, tiếng
nói v.v... tạo nên một âm thanh hỗn độn, ầm ì... Ngoài đường xuất hiện
khá nhiều ăn mày, lem luốc, bẩn thỉu. Đôi khi chạy theo chân du khách
liều lĩnh nắm áo nài nỉ xin ít tiền xu. Đôi khi họ tụ tập ở những vỉa hè
gần các quán rượu (nhất là những nơi có bày những chiếc bàn trước cửa
tiệm), chờ cho thực khách vừa ăn xong đứng dậy là trờ tới, tranh nhau
nhặt những đồ ăn thừa hay húp ít nước súp còn đọng trong tô.
Nhìn cảnh đói khổ của người dân, công chúa bỗng thấy dậy trong tim một
nỗi thương tâm tha thiết. Lần vào túi, tiền bạc cũng chẳng còn bao
nhiêu, mà nếu công khai cho chác nhiều khi lại để lộ chân tướng. Nên
nàng không dám làm gì cả, chỉ biết cầu nguyện cho họ vơi bớt được ít
nhiều nỗi đói khổ mà thôi...
Đang ngẩn ngơ, bỗng công chúa thấy một đứa nhỏ chỉ khoảng độ 7,8 tuổi.
Chẳng hiểu chuyện gì đã xảy ra mà nó bị cụt hai chân lên đến bẹn. Nó
phải nằm trên một tấm ván vuông dưới có bốn bánh xe và di chuyển bằng
hai tay đẩy mạnh xuống mặt đất. Thân hình nó gầy gò, yếu đuối. Mặt mũi
lem luốc, trên người mặc một chiếc áo rách tả tơi... Động mối thương
tâm, công chúa vội vã đi theo nó, gọi khẽ:
– Em nhỏ... em nhỏ... Chờ ta với...(vừa nói, công chúa vừa lần tay trong
túi lấy hết mớ bạc vụn cầm trong tay) Khi nó ngừng lại, nàng cúi xuống
dúi vào tận tay nó mớ bạc vụn. Khi nó ngước mặt lên, cả Ếch và công chúa
đều “Ồ” lên một tiếng lớn...
Trên khuôn mặt lem luốc bẩn thỉu của đứa bé, Công chúa nhìn thấy một đôi
mắt rất trong sáng. Đôi-mắt-thiên-thần. Trong đôi mắt đó, không có sự
hiện diện của khổ đau và đói khát. Đứa bé nhoẻn miệng cười, một nụ cười
bao dung và hình như trong ánh mắt có một chút gì tinh quái, lung
linh...
***
Cả hai chưa hết bàng hoàng vì ánh mắt của đứa bé. Không một lời cảm ơn,
nó phóng về phía con đường hẻm chênh chếch trước mặt. Ếch thì thầm:
– Ta hãy theo dõi xem nó đi đâu...
– Được!
Công chúa vội vã bước theo. Nhưng đường trong hẻm chằng chịt, lại tối.
Thoáng một cái đã không thấy bóng dáng nó đâu cả. Đi thêm một đỗi, công
chúa sợ lạc bèn bảo:
– Ta đã mất dấu nó rồi. Thật tiếc! Phải trở ra thôi trước khi bị lạc.
Ếch biểu đồng tình:
– Phải! Cũng không nên cố tìm hiểu một sự thật cuối cùng. Vì đôi khi,
chúng ta chưa có đủ duyên nên dù có muốn tìm hiểu cũng không được. (đổi
giọng) Công chúa cũng nhận ra điều ta thấy chăng?
– Ý Ếch muốn nói, cặp mắt trong sáng như thiên thần của thằng bé?
– Phải! Ta trộm nghĩ, có lẽ nó không phải là một người bình thường đâu!
– Vậy thì nó là ai?
– Chưa biết được! Nhưng trong kinh sách thường bảo, chư Phật và chư Đại
Bồ Tát thường xuất hiện trong các cõi nhiều như bụi để cứu độ chúng
sanh. Nhất là cõi người, vì cõi người là một nơi nằm giữa bờ mé của
thiện và ác. Lại nữa, con người có được trí thông minh vừa đủ để có thể
tu tập đạt đến Giác Ngộ. Về việc độ sanh, thì các ngài có rất nhiều
phương tiện thiện xảo. Tùy theo đối tượng độ sanh mà ứng biến một cách
tương ứng. Chẳng hạn như các ngài có thể thị hiện làm một gã ăn mày ghẻ
lác, một vị vua, một người bán hàng rong, một kẻ cướp v.v... Nhẫn đến
một người kỹ nữ... Tuỳ mọi cơ duyên để hóa độ. Tuy nhiên trong sáu cõi
(Trời, Người, A Tu La, Địa ngục, Ngạ quỷ và Súc sanh) cõi người là có
nhiều cơ duyên hơn cả. Vì sao? Vì cõi Trời sung sướng quá nên không ai
muốn tu. Còn ba cõi xấu ác như Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh thì ngu si,
không có trí huệ, và vì quả báo sâu dày nên khó tu, khó độ. Đó là nói
trên nguyên tắc thôi. Nhưng vì lòng từ bi vô giới hạn, các ngài vẫn thị
hiện trong tất cả các cõi để tùy duyên mà hóa độ chúng sanh một cách
không nhàm mỏi...
– Như vậy, ý Ếch muốn nói thằng bé ta vừa gặp có thể là một bậc Bồ Tát
hay sao?
– Cũng có thể. Nhưng theo ta nghĩ, có lẽ đó là một vị ẩn sĩ tu lục độ đã
thuần, đắc được nhiều thần thông, vì cơ duyên nào đó, ngài đã hạ sơn để
cứu độ cho một vài người. (trầm ngâm một lúc) Không biết công chúa có
thấy không? Lúc đứa bé ngước nhìn, ta thấy trong ánh mắt có một chút hóm
hỉnh với nụ cười trên môi và toàn thân thì toả hào quang...
– Ồ! Thật vậy sao? (tặc lưỡi) Tiếc quá, phải chi mình có thể đuổi kịp
được Ngài, vấn nạn về đạo pháp.
– Có lẽ chúng ta không có đủ duyên, nên Ngài không cho gặp hoặc thời cơ
chưa chín mùi. Nếu quả thực như thế thì dù có cưỡng cầu cũng chẳng được
gì...