Tối hôm đó, họ dừng chân tại một quán trọ. Vì công chúa đã vét hết tiền
cho ăn mày, nên phải cầm cái vòng đeo tay cho chủ quán và bảo:
– Ông hãy đem chiếc vòng này đổi thành bạc và cho ta một căn phòng lớn.
Gã chủ quán nhìn sơ qua chiếc vòng thấy nét khắc rất tinh xảo, biết ngay
rằng đó là một vật rất quý giá, nên càng tỏ vẻ khúm núm và chiều đãi
khách quý hơn.
Đó là một căn phòng có cửa sổ nhìn ra sau vườn. Thoạt nhìn, khu vườn
được trồng tỉa rất tươm tất và thanh nhã. Góc vườn là một hòn non bộ với
thác nước chảy róc rách nghe rất vui tai. Tuy là nhân tạo, nhưng cách
kiến trúc cũng khá cầu kỳ. Chung quanh thác, chủ nhân trồng vài cây liễu
tô điểm thêm các loại hoa đủ màu thi nhau đua sắc. Công chúa rất ưa
thích hoa, nhất là các loài lan. Có những loại cánh nó mong manh nhỏ bé,
có loại trắng nuốt như ngọc.
Vẫn như thường lệ, công chúa cũng làm một chiếc giường nhỏ cho Ếch, nàng
vốn giàu tưởng tượng và có khiếu mỹ thuật, nên chiếc giường luôn luôn
được nàng tô điểm thêm bằng những cánh hoa. Sau khi về đến phòng, công
chúa cảm thấy mệt mỏi một cách lạ thường, nàng đi ngủ ngay, nhưng cũng
không quên chúc Ếch một đêm ngon giấc.
Từ khi gặp được thằng bé ăn mày, Ếch bỗng trở nên tư lự và ít nói. Công
chúa có hỏi điều gì thì cũng chỉ ậm ừ cho qua. Hình như trong tâm Ếch
dấy lên một nỗi muộn phiền nào đó. Công chúa tôn trọng nỗi buồn của bạn,
nên cũng không tò mò hỏi han thêm.
Còn Ếch thì bỗng thấy lòng mình chùng lại, chàng đột nhiên nhớ đến những
ngày tháng miệt mài trong thiền định, nhớ đến niềm cô tịch và mùi hương
trầm thơm ngát trong những buổi chiều nắng quải. Nhận ra cuộc đời muôn
mặt. Tình yêu, cái chết, niềm vui thiền định, nỗi cô đơn v.v... Tất
cả... tất cả... đều là những cảm giác cần phải chứng nghiệm và kinh qua.
Ngày xưa, trong những ngày tháng miệt mài đi sâu vào tâm thức, chàng
thường phải đối diện với nỗi cô đơn, những muộn phiền của ma ý, những
nỗi khắc khoải của các “công án” hóc búa như một mũi dao sắc đâm sâu
trong trái tim, rút ra cũng chẳng được, mà để nguyên như thế cũng chẳng
xong. Nhưng bù lại, chàng có được niềm an vui của thiền lạc.
Ngày ấy... Ôi! Sao mới có vài năm mà nghe chừng như cả thế kỷ. Ngày ấy,
trong những lúc tu tập, chàng đã say mê trong thiền lạc (đó cũng là một
“căn bệnh trầm kha” của người tu hành). Có những lúc chàng cảm thấy như
vong thân, không còn thấy sự hiện diện của sắc thân nữa, hình như nó
thành ánh sáng, hòa tan vào hư không. Những lúc như vậy, chàng cố gắng
an trú trong trạng thái đó càng lâu càng hay, rồi đâm ra sống xa vời với
thực tế. Không muốn xả thiền nữa, vì cứ hễ xả thiền, chàng lại phải trở
về với đời sống thực, đầy cấu nhiễm, đầy vọng tưởng xôn xao...
Rồi đến một đêm trời đầy sao như hôm nay. Oan khiên lại đến, chỉ vì một
niệm sân hận mà chàng phải mang thân ếch thế này...
Tối hôm ấy, đang trong lúc thiền định thì chàng bỗng nghe tiếng ồm ộp
của một chú ếch. Hình như nó đang gọi bạn, hay đang hát. (Ta nên biết
một điều, khi tu hành đến mức độ có cảm giác vong thân, thì lúc đó tâm
thức khá thanh tịnh, có thể “đọc” được một chút tâm niệm của những chúng
hữu tình bình thường). Dưới ánh trăng, đó là một con Ếch màu xanh rêu
đậm, nó đậu trên một lá sen lớn, đang rống cổ lên “hát” say sưa. Để ý
kỹ, cũng thấy có nhịp điệu hẳn hòi, khi cao, khi thấp... Ban đầu, chàng
cũng không để ý lắm vì chàng vẫn thường quen với những âm thanh rỉ rả
của ve sầu, ếch, nhái. Nhưng dần dà, hình như âm thanh càng ồm ồm hơn,
tiếng kêu thật là nhức óc, xoáy tai, không thể tập trung vào thiền định
được nữa, chàng liền từ từ xả thiền...
Đêm hôm sau, cũng đang trong công phu thiền định, thì chú ếch hôm qua
lại nhảy lên lá sen ấy, cũng cất tiếng kêu. Độ một lúc thì có tiếng ếch
thứ hai đáp lại, có lẽ đó là một chị ếch, nên âm thanh vừa ngắn lại vừa
trong. Cả hai khấy động sự yên tĩnh trong đêm khuya, chàng có cảm tưởng
chúng nó đang say sưa hoà nhịp, kẻ tung, người hứng, như đang khiêu vũ
với nhau bằng âm thanh ồm ộp ấy, như muốn trêu tức chàng...
Lòng xôn xao không chủ định. Chàng lại xả thiền...
Đêm thứ ba, rồi đêm sau, đêm sau nữa.... Gần cả tuần lễ chàng không cách
gì thiền định được, cứ hễ sắp nhập thiền thì tiếng ếch lại kêu. Riết
rồi, tâm bị phân. Đầu óc chàng trở nên... rình rập và chờ đợi âm thanh
ấy đến. Càng chờ đợi, chàng càng nóng nảy, tâm càng vọng động.
Sang đến đêm thứ mười lăm, đêm đó lại là ngày rằm, ánh trăng chan hoà
khắp nơi, mặt trăng to như chiếc bánh treo lơ lửng trên không. Lòng dặn
lòng rằng đêm nay ta quyết chí nhập thiền và đóng hết tất cả các giác
quan để không bị quấy nhiễu nữa... Canh một qua đi trong yên lặng, sang
đến đầu canh hai thì tiếng ếch bất thình lình lại nổi lên. Lần này như
ròn rã, như chát chúa, như muốn trêu tức chàng. Đêm nay, chỉ có tiếng
kêu của một chú ếch. Kêu một lúc, nó ngừng bặt, rồi bất thình lình, nó
nhảy từ hòn đá phía bên kia bờ rạch qua sát phía bên chỗ chàng đang ngồi
cách khoảng gang tay, kêu lên một tiếng “ộp” lớn.
Không thể chịu đựng được nữa, chàng lập tức xả thiền và vói ngay hòn đá
bên cạnh đập mạnh xuống. Con ếch chết tức thì... Còn chàng thì choáng
váng, bần thần. Phần vì sự hối hận lên đến tột đỉnh vì đã phạm giới sát.
Phần vì xuất thiền quá nhanh nên kinh mạch bị rối loạn, chàng thấy bầu
trời quay cuồng như mình đang bị xoáy trong một cơn lốc lớn. Chàng cố ôm
lấy xác ếch cầu nguyện trước khi ngã quỵ xuống và ngất đi...
Tỉnh dậy, thấy mình biến thành con ếch nhỏ (Do vì công phu tu hành, nên
có đuợc tam sắc cực kỳ đẹp mắt và vẫn còn nói được tiếng người) Nghe đâu
đây trên không trung có một tiếng nói rất mơ hồ nhưng rõ rệt:
– Ngươi phải chịu quả báo làm thân ếch trong ba năm. Phải lăn lộn vào
dòng đời để học được thế nào là lòng yêu thương, bác ái... Trừ phi ngươi
gặp được một người yêu thương và cải hóa được tâm hồn khô cằn chỉ cầu
trí huệ của ngươi thì mới được trở lại làm người trước khi thời hạn chấm
dứt...
Từ đó, chàng đi lang thang đây đó. Tìm mãi bài học vỡ lòng về yêu
thương. Cho đến khi cơ duyên chín mùi thì gặp được nàng công chúa...
Ngày nay, càng đi sâu vào đời, nếm được hương vị của tình yêu trai gái
(mà ngày trước chàng rất... khinh bỉ và coi thường). Chàng cũng thấy
tình yêu kỳ diệu biết bao. Nó rất lung linh đẹp như một bức tranh cổ,
như hư, như thực...
Do sự tu tập thiền định khá thuần thục, nên khi dối diện với tình yêu
dành cho Công chúa, thỉnh thoảng trong lòng chàng lại nảy lên một sự
tiếc nuối trong những ngày tháng tu tập xưa. Sợ rằng nếu cứ đắm đuối
trong tình cảm bình thường của thế gian này, thì khó có thể đạt đến Giải
Thoát. (Chàng có biết đâu rằng, tình yêu trai gái chính là cái bóng
dáng, là “mặt bên kia” của lòng từ bi. Mà muốn có, bắt buộc ta phải đi
từ mức độ thấp nhất. Ít nhất cũng có được tình yêu – mà chàng cho là rất
“đời”–, rồi từ tình yêu ấy, đi xa hơn – trong một chánh kiến do sự tu
tập – dần dần sẽ trở thành tình bác ái, lòng vị tha, rồi lên cao hơn, sẽ
phải tu tập về tâm từ, tâm bi để có thể phát triển được tâm Bồ Đề).
Vì không biết được điều này, nên lòng chàng đang hoang mang giữa bờ mé
của Đời và Đạo. Chàng cảm thấy lòng mình dấy lên một tình cảm khó tả...
Một nỗi muộn phiền lảng vảng đâu đây...
***
Đêm đã rất sâu, bầu trời như trong hơn, những vì sao càng lung linh, lấp
lánh trên cao.
Đợi đến khi Công chúa đã ngủ say. Ếch lắc mình, chiếc áo khoác mang hình
ếch rớt xuống, chàng hiện lại nguyên hình người và lẻn ra sau vườn. Mùi
hương đêm chen lẫn với hương hoa thơm ngát một vùng. Chàng tần ngần
ngừng lại bên hòn non bộ cạnh thác nước nhân tạo. Tiếng róc rách của
nước làm chàng nhớ đến tiếng thác hùng vĩ hôm nào cùng công chúa trong
cánh rừng bên một chiếc hang nhỏ. Lòng xôn xao quá, mới đây mà đã trở
thành kỷ niệm. Rồi sẽ ra sao sau khi tìm được giáo pháp? Sớm muộn gì
cũng phải chia tay. Đời là vậy, khi hợp, khi tan... Nỗi buồn miên man vô
tận thường đi theo ngay sau bóng dáng của niềm vui. Chàng ngạc nhiên đến
tận cùng khi “ngắm nhìn” tâm thức mình lao xao đầy vọng tưởng. Thật ra,
trên mỗi bề mặt của tâm thức, dẫu là vọng hay chân cũng đều mang một
dáng dấp giá trị nào đó cần phải kinh qua. (Tặc lưỡi, chàng nghĩ) Hay ta
cứ đi sâu vào vọng cho đến tận cùng xem sao. Điều quan trọng là vào mà
còn tỉnh thức để đi ra mới thật là Đạo.
Đêm càng sâu...
Đâu đây, tiếng côn trùng rả rích giữa đêm khuya....
Ếch ngồi xuống chiếc bàn đá bên cạnh thác nước. Chàng khẽ hái một cánh
lá rồi thổi tâm lực vào đó. Lạ lùng thay, cánh lá biến thành một cái
khay con, trên có một bình rượu cổ cao và một cái chén nhỏ... Chàng lại
hái một cánh lá khác, trên còn đọng một hạt sương trong suốt như thủy
tinh, chàng nhẹ nhàng rót hạt sương vào bình và lắc khẽ. Lắc một lúc thì
nghe có tiếng nước dao động trong bình. Chàng lại hà thêm một làn hơi
vào miệng bình. Để mũi vào ngửi thoáng qua, mùi rượu thơm ngát tỏa lên.
Chàng mỉm cười, thong thả rót rượu ra cái chén nhỏ...
Hương đêm pha với hương rượu thơm thoang thoảng một vùng. Chàng thong
thả hớp từng hớp nhỏ, nhìn lên bầu trời đầy sao, tư lự... Chàng rút
chiếc sáo làm bằng trúc ra đưa lên môi, thổi lên một điệu nhạc nhẹ
nhàng... Nhưng chỉ thổi được một lúc, chàng lại lắc đầu, tâm thức hình
như đang xôn xao đầy vọng tưởng nên không thể thổi được một khúc nhạc
nào ra hồn. Lòng bâng khuâng muốn biết, duyên nghiệp giữa mình với nàng
công chúa kiếp trước ra sao?
Chàng lại rót rượu vào chén...
Lần này, chàng không uống, nâng chén rượu lên và nhìn xuống mặt rượu, mờ
mờ, chỉ thấy bóng của trăng... Chàng muốn tìm kiếm xem nghiệp duyên mình
với nàng công chúa trong những kiếp quá khứ. Dù biết rằng tâm lực còn
kém, khó có thể “nhìn” được tiền kiếp mình, nhưng chàng vẫn hy vọng có
thể nhìn thấy được ít nhiều một vài mảnh quá khứ. Chàng bắt đầu điều hòa
hơi thở, nhập định, chăm chú phổ tâm thức vào chén rượu. Độ khoảng một
trống canh thì... Ô kià, lạ lùng thay, mặt rượu trong chén hơi gợn sóng.
Bóng trăng xao động vỡ ra thành ngàn mảnh, mờ nhòa, rồi hiện ra một hình
ảnh khác ngày càng rõ dần...
***
Đó là hình ảnh một vị Bà La Môn áo vải, hình như còn rất trẻ. Chàng đang
đi trên một con đường dẫn vào một thành phố lớn. Trên người dính đầy bụi
đất như vừa trải qua một cuộc hành trình dài xa. Khuôn mặt người Bà La
Môn rất khôi ngô, với đôi mắt trong sáng luôn nhìn thẳng. Chàng có vẻ
hơi ngạc nhiên khi thấy dân chúng trong vùng rất nhộn nhịp. Mọi nơi, mọi
chốn, họ đều treo đèn kết hoa và có nhiều nơi còn thêm tiếng nhã nhạc
vang lừng... Điều lạ là trên con lộ chính dẫn vào thành phố, dân chúng
đứng bên đường ôm những bó hoa rực rỡ, có người còn cởi những chiếc áo
đắt tiền của mình trải trên mặt lộ như đang cung nghinh, chờ đợi một
nhân vật cực kỳ quan trọng nào đó đi qua. Người Bà La Môn nhìn quanh,
thấy cuối đường có một thiếu nữ đang ôm bảy cành hoa vô ưu đi ngược
chiều. Khuôn mặt nàng được phủ lên một tấm voan mỏng. Thấp thoáng qua
khuôn voan, chàng nhìn thấy đôi mắt nàng đang mơ màng nghĩ đến điều gì
đó – chắc hẳn là vui lắm – nên đôi môi mọng của nàng như muốn mỉm
cười...
– Này cô... (người Bà La Môn lên tiếng)
Thiếu nữ giật mình vì tiếng gọi của vị Bà La Môn trẻ. Nàng dừng lại, nụ
cười và đôi mắt mơ mộng chợt tắt, thay vào đó một khuôn mặt nghiêm
trang. Nàng chắp tay trước ngực như một lời chào:
– Xin lỗi. Ông cần gì?
– Trong thành này có chuyện gì sắp xảy ra mà dân chúng nhộn nhịp thế? Và
cô cầm bảy cành hoa vô ưu đi đâu vậy?
Thiếu nữ ngạc nhiên, nhìn vị Bà La Môn hỏi lại:
– Ông không biết sao? Hôm nay, đức Phật Nhiên Đăng sẽ đi ngang qua đây.
Bảy cành hoa vô ưu này là để dâng lên Ngài. Ngài là một vị Phật – Đấng
Nhất Thiết Chủng Trí - Thật may mắn cho ai có cơ duyên được gặp Ngài...
Người Bà La Môn trẻ nghe thiếu nữ nói đến một vị “Nhất Thiết Chủng Trí”
thì trong tâm sinh hoan hỷ tột cùng. Có phải đấy không? Chẳng phải chàng
đã từng lặn lội bao nhiên năm nay tìm thầy học đạo, tìm một vị “biết tất
cả các pháp” đó sao? Chàng nghe trong tâm rộn lên một niềm vui và đồng
thời muốn khởi tâm cúng dường vị Phật này. Chàng lần trong túi, biết
chắc rằng mình chỉ có vỏn vẹn mười hai đồng tiền vàng, số tiền này chàng
đã làm việc trong mười năm để có đủ tiền báo ơn thầy. Nhưng chuyện cúng
dường cho đấng Nhất Thiết Chủng Trí cần hơn. Nghĩ bụng, mình sẽ lấy số
tiền này mua hoa cúng dường Phật trước, rồi sẽ lại đi kiếm tiền để trả
ơn thầy sau. Hoan hỷ, chàng hỏi:
– Hãy chỉ cho tôi biết, cô mua hoa này ở đâu, vì tôi cũng muốn mua hoa
cúng dường Ngài...
– Rất tiếc, đây chính là bảy cành hoa cuối cùng tôi mua ở chợ. Bây giờ
không còn hoa để ông mua nữa đâu!
Nghe thiếu nữ nói vậy, vị Bà La Môn trẻ hơi thất vọng, rồi đề nghị:
– Hay là cô để lại tôi bảy cành hoa vô ưu này với mười hai đồng tiền
vàng nhé?
Thiếu nữ lắc đầu:
– Không được! Mười hai đồng tiền vàng chứ có đến trăm đồng tiền vàng tôi
cũng không bán!
Thấy thiếu nữ cương quyết, vị Bà La Môn lại đề nghị:
– Hay cô cứ cầm mười hai đồng tiền vàng này giữ riêng. Còn hoa thì cô có
bằng lòng cho tôi cùng chung cúng dường được chăng?
Nghe vị Bà La Môn đề nghị như vậy. Thiếu nữ mới nhìn thẳng vào mắt chàng
nghiêm trang hỏi:
– Nếu như chàng nói như vậy có nghĩa rằng chàng cũng muốn dính dáng đến
ta? Ta chỉ bằng lòng với một điều kiện thôi...
– !?
– Là chàng phải hứa đời đời kiếp kiếp sẽ làm chồng ta cho đến khi chàng
đạt giác ngộ và độ cho ta...
Nghe thiếu nữ nói vậy, người Bà La Môn chẳng chịu, lắc đầu nguầy nguậy:
– Không được, không được! Ta không thể hứa với nàng như thế. Vì tâm thức
của người nữ hay đa đoan lắt léo... Nàng sẽ cản trở con đường tu tập của
ta. Cản trở những hạnh ta muốn làm, như khi ta tu tập bố thí, có thể
phải bố thí tất cả của cải, ruộng vườn, nhà cửa, nhẫn đến cả cái thân
xác này nữa...
Thiếu nữ vẫn nghiêm trang:
– Ta sẽ nhẫn chịu được tất cả. Chỉ cần chàng hứa một lời...
– Ý nàng muốn bảo...?
– Phải, ta sẽ không bao giờ cản trở chàng trên con đường tu tập...
– Vậy thì tốt lắm! Nàng hãy mau đưa ta mấy cành hoa để ta đem đi cúng
Phật!
(Trích một điển tích trong kinh)
***
Mặt rượu lại gợn sóng, rồi các hình ảnh dần dần biến mất. Ếch cố dụng
tâm, nhưng cũng không thể nhìn thêm được chút nào...
Chàng tư lự, nhủ thầm: “À, hóa ra là thế! Trong một tiền kiếp nào đó, ta
và công chúa đã từng có những duyên nghiệp với nhau. Kiếp này gặp lại,
cùng nương nhau đi tìm giáo pháp...”
Chàng đưa ly rượu lên môi, nhấp một hớp, lòng bâng khuâng, bồi hồi với
duyên nghiệp trùng trùng...
Xa xa, ánh mặt trời đã le lói ló dạng ở phương Đông...
Thì ra, đêm đã tàn...
Một ngày mới lại bắt đầu...