Đúng năm ngày kế đó, con đường của chúng tôi đi xuyên qua vùng mà ngày xưa Thánh Jean đã từng đi qua. Qua ngày thứ năm, chúng tôi đến nơi thôn ấp mà những người giữ ngựa đã ở lại để đợi chúng tôi.
Đức Tuệ Minh đã có mặt tại đây và kể từ lúc đó, cuộc hành trình được tương đối dễ dàng cho đến khi chúng tôi đến nơi làng của ngài sinh trưởng.
Khi gần đến làng, chúng tôi nhận thấy vùng này có khá đông dân cư, những đường lộ và đường mòn đều tốt hơn những đường mà chúng tôi đã đi qua từ trước đến giờ. Nhưng trong những giờ kế đó, chúng tôi đi qua một vùng cao nguyên lồi lõm với một địa thế vô cùng cheo leo hiểm trở.
Làng có tường đá bọc chung quanh như thành quách để làm hệ thống phòng thủ. Người ta nói rằng vùng này trước kia là nơi cư trú của một bộ lạc thổ dân sống biệt lập với thế giới bên ngoài; về sau họ đã dần dần biệt tích và không còn để lại dấu vết. Một thiểu số còn lại đã sáp nhập với những bộ lạc khác ở quanh vùng.
Đó là nơi quê hương của đức Tuệ Minh và là nơi mà các thành viên của tất cả các nhóm chúng tôi hẹn gặp lại nhau. Như đã nói, chúng tôi chia ra từng toán nhỏ để có thể khảo sát trên một vùng lãnh thổ rộng lớn hơn. Khi hỏi lại thì được biết rằng chúng tôi là toán đến đây trước tiên, và những toán khác cũng sẽ đến nơi nội trong ngày hôm sau.
Chúng tôi được hướng dẫn đến trú ngụ trong một ngôi nhà ba tầng lầu dựa vách tường làng. Người ta dọn cho chúng tôi một nơi tạm nghỉ khá tiện nghi và cho biết rằng bữa cơm chiều sẽ được dọn ra ở tầng dưới. Khi chúng tôi bước xuống tầng dưới thì thấy ngồi quanh bàn ăn có bà chị của đức Tuệ Minh, chồng bà, và hai người con mà chúng tôi đã gặp, cùng với đức Tuệ Minh cũng hiện diện tại đó.
Chúng tôi vừa dùng cơm chiều xong thì nghe có tiếng động trước sân nhà. Một dân làng đến cho hay rằng một trong các toán của chúng tôi vừa mới đến. Đó là toán của vị trưởng nhóm Tô Mặc. Người ta dọn bữa ăn chiều cho họ và sắp xếp cho họ nghỉ đêm cùng với chúng tôi.
Kế đó, tất cả chúng tôi đều bước lên trên nóc bằng của ngôi nhà. Tuy mặt trời đã lặn, nhưng bóng hoàng hôn hãy còn phảng phất và trời chưa tối hẳn. Trong khi chúng tôi đang bình luận về giá trị phòng thủ của bức tường rào chung quanh làng thì bà chị và cô cháu gái của đức Tuệ Minh đến với chúng tôi. Một lát sau đó, người anh rể và người cháu trai của ngài cũng đến. Chúng tôi nhận thấy các vị đều ra vẻ băn khoăn như đang mong đợi một điều gì, và bà chị của đức Tuệ Minh nói cho chúng tôi biết rằng chiều nay bà trông đợi cuộc viếng thăm của thân mẫu bà. Bà nói:
– Chúng tôi sung sướng đến nỗi cầm lòng không đậu, vì lòng yêu mến của chúng tôi đối với mẫu thân thật đậm đà biết dường nào. Chúng tôi yêu mến tất cả những người sống đời tâm linh cao cả, vì tất cả các vị ấy đều có tâm hồn cao quí và thiêng liêng. Nhưng mẫu thân chúng tôi còn có lòng từ bi, nhân hậu, vị tha, cứu đời đến nỗi chúng tôi không thể nào không yêu mến bà gấp ngàn lần. Vả lại, chúng tôi đối với bà còn có tình mẫu tử, cốt nhục. Chúng tôi biết rằng các ông cũng sẽ yêu mến bà như vậy.
Chúng tôi hỏi đức bà có thường đến đây không, thì được đáp:
– Có chứ! Mẫu thân thường đến vào bất cứ khi nào chúng tôi cần đến bà. Nhưng bình thường thì bà bận rộn nhiều công việc nên chỉ đến đây theo định kỳ mỗi năm hai lần, và ngày hôm nay chính là ngày thăm viếng định kỳ của bà. Lần này bà sẽ ở lại với chúng tôi một tuần. Chúng tôi sung sướng đến nỗi không còn biết làm gì trong khi chờ đợi.
Câu chuyện xoay qua những kinh nghiệm của chúng tôi kể từ khi chúng tôi chia nhau đi riêng từng toán, và cuộc thảo luận đang đến hồi sôi nổi hào hứng thì thình lình một cơn im lặng xâm chiếm lấy chúng tôi. Trước khi nhận biết điều đó, tất cả chúng tôi đều ngồi im không ai nói gì và cũng không ai nghĩ ngợi điều gì. Bóng tối của ban đêm đã bao trùm khắp nơi, và dãy núi Tuyết ở xa xa trông giống như một con quái vật khổng lồ.
Kế đó, chúng tôi nghe một tiếng động rất nhẹ. Một đám sương mù dường như đông đặc lại từ từ ở hướng đông của vách tường rào, rồi thình lình tượng thành một hình người rõ rệt. Trước mặt chúng tôi lúc đó là một người đàn bà nhan sắc diễm kiều bao phủ bởi một vầng hào quang sáng chói đến nỗi chúng tôi không thể nhìn thấy rõ.
Mọi người trong nhà đều đổ xô về phía người đàn bà ấy, hai tay đưa thẳng ra phía trước và đồng thanh kêu to:
– Mẫu thân!
Bà Mã Ly nhẹ nhàng từ bờ tường bước xuống sân thượng và ôm hôn mỗi người trong thân quyến như mọi người hiền mẫu trong dịp tái ngộ với con cái. Kế đó, chúng tôi được giới thiệu với bà. Bà nói:
– À! Các ông là những huynh đệ từ nước Mỹ xa xôi đến đây để thăm viếng chúng tôi đó sao? Tôi rất sung sướng chúc mừng các ông. Chúng tôi ban rải tình thương cho tất cả, và nếu những người đàn ông sẵn lòng để cho chúng tôi tự nhiên, thì chắc hẳn là chúng tôi cũng ôm lấy họ trong vòng tay như tôi vừa đón mừng những người mà tôi gọi là thân bằng quyến thuộc. Vì thật ra chúng ta đều là thành phần của một gia đình, tức là đại gia đình nhân loại. Vậy tại sao chúng ta không thể sum họp với nhau như anh em một nhà?
Chúng tôi vừa nhận thấy rằng thời tiết miền núi về đêm khá lạnh. Nhưng khi đức bà Mã Ly xuất hiện thì sự hiện diện của bà tỏa ra một mãnh lực làm biến đổi bầu không khí nơi đây trở thành bầu không khí ấm áp của một đêm hè. Không khí dường như đượm mùi hương hoa. Một ánh sáng dìu dịu như ánh trăng rằm thấm nhuần mọi vật, và làm cho cảnh vật chung quanh được bao phủ trong một sự ấm cúng lạ lùng khó tả.
Tuy nhiên, các vị chân sư không biểu lộ một cử chỉ nào gọi là kiểu cách. Các ngài có một lối xử sự thật khả ái hồn nhiên và vô cùng giản dị. Có người đề nghị đi xuống nhà dưới. Đức bà Mã Ly và các bà phu nhân dẫn đường đi trước. Chúng tôi nối gót đi theo sau, và những người gia nhân đi sau cùng.
Trong khi chúng tôi đi xuống cầu thang như thường lệ, chúng tôi nhận thấy rằng bước chân chúng tôi dường như không gây một tiếng động nào, cho dù chúng tôi không hề cố gắng giữ im lặng. Một người trong chúng tôi còn thú thật là anh ta đã thử đi nặng bước nhưng cũng không gây ra tiếng vang. Dường như bàn chân chúng tôi đi không chấm đất trên sân thượng hay trên những nấc cầu thang!
Trên tầng lầu các buồng ngủ, chúng tôi bước vào một gian phòng trang hoàng rất đẹp và ngồi xuống. Chúng tôi liền nhận thấy một sự ấm áp dễ chịu và một ánh sáng dịu tỏa khắp phòng mà chúng tôi không hiểu từ đâu đến. Gian phòng đắm chìm một lúc trong cơn im lặng thâm trầm, kế đó đức bà hỏi thăm chúng tôi có chỗ nghỉ đàng hoàng tươm tất không, có được săn sóc tử tế không, và cuộc hành trình có làm chúng tôi được thỏa mãn không?
Chúng tôi nói chuyện về cuộc đời hằng ngày, và bà tỏ ra rất thông thạo. Kế đó câu chuyện xoay về vấn đề đời sống của chúng tôi trong gia đình. Đức bà kể tên họ của cha mẹ và anh chị em trong gia đình chúng tôi, và làm chúng tôi ngạc nhiên bằng cách diễn tả cuộc đời chúng tôi với từng chi tiết nhỏ mà không hỏi chúng tôi một câu nào. Đức bà kể về những xứ mà chúng tôi đã viếng thăm, những công trình mà chúng tôi đã thực hiện, và những lỗi lầm mà chúng tôi đã mắc phải. Đức bà không nói một cách mơ hồ theo cách làm cho chúng tôi phải gắng moi óc nhớ lại những kỷ niệm cũ, mà trái lại mỗi chi tiết đều rõ ràng dường như giúp chúng tôi sống lại những giai đoạn đã qua.
Khi kiếu từ để lui về phòng riêng, chúng tôi đều bày tỏ sự ngạc nhiên về tất cả những gì đã được tận mắt chứng kiến và nghe thấy. Các vị chân sư đều tỏ ra đầy nhiệt tình và vui tươi như đang ở độ tuổi đôi mươi, và sự vui tươi ấy thật là tự nhiên, không kiểu cách hay gượng ép chút nào. Trước khi chia tay để về phòng riêng, các vị còn cho chúng tôi biết rằng sẽ có đông quan khách đến dự bữa ăn tại quán trọ chiều hôm sau, và chúng tôi cũng được mời tham dự.
lll
Trưa hôm sau, tất cả các toán trong cuộc hành trình của chúng tôi đều đến nơi. Chúng tôi trải qua suốt buổi chiều hôm đó để đối chiếu những bản ghi nhận và thấy mọi sự việc đều khớp nhau một cách đúng đắn.
Khi mọi việc đã xong, chúng tôi được mời đi thẳng đến quán trọ để dùng cơm chiều. Khi đến quán trọ, chúng tôi thấy có độ ba trăm người ngồi chung quanh những bàn tiệc dài. Người ta dành cho chúng tôi những chỗ ngồi ở một đầu của gian phòng. Tất cả những bàn ăn đều có trải khăn bàn bằng vải trắng mịn rất đẹp, trên có bày chén đĩa bằng bạc và bằng sứ như một bữa dạ tiệc long trọng. Tuy nhiên, chỉ có một cái đèn nhỏ duy nhất để thắp sáng khắp phòng.
Sau khi chúng tôi đã ngồi xuống được chừng hai mươi phút, tất cả các chỗ ngồi đều đã đủ quan khách, trừ ra một vài chỗ còn trống ở rải rác đó đây, một cơn im lặng thâm trầm ngự trị khắp phòng và trong khoảnh khắc một ánh sáng nhạt mờ đã tỏa ra khắp chốn. Ánh sáng ấy càng lúc càng tỏ rạng thêm, dường như có hàng nghìn bóng đèn điện được ẩn giấu một cách khéo léo ở quanh đây và từ từ được thắp lên.
Gian phòng trong giây lát đã trở nên sáng rực, và tất cả các đồ vật đều chiếu rạng ngời. Sau đó, cơn im lặng kéo dài độ một khắc đồng hồ; rồi dường như có một đám sương mù từ từ đông đặc lại. Chúng tôi nghe một tiếng động nhẹ giống như ngày hôm trước, rồi thình lình xuất hiện bà Mã Ly, thân mẫu của đức Tuệ Minh.
Đám sương mù tan dần, và chúng tôi thấy cùng đứng rải rác trong gian phòng, bà Mã Ly và mười một người khác, gồm có chín người nam và hai người nữ. Tôi không biết dùng danh từ nào để diễn tả cái đẹp của cảnh tượng ấy. Thật không phải là quá đáng nếu tôi nói rằng những nhân vật ấy đã xuất hiện như một đoàn thiên thần, nhưng không có cánh.
Các vị đứng yên trong một lúc, đầu hơi nghiêng về phía trước, trong một cử chỉ chờ đợi. Kế đó, vang lên những âm thanh của một ban hợp ca vô hình kèm theo một điệu nhạc thanh tao huyền diệu nhất mà người ta có thể tưởng tượng. Tôi đã từng nghe nói về những nhạc điệu thần tiên, nhưng chưa hề được nghe bao giờ; có lẽ cho đến ngày hôm ấy tôi mới biết thế nào là những âm thanh của cõi trời.
Có thể nói rằng chúng tôi nghe nhạc điệu ấy mà có cảm giác như cất nhẹ mình lên khỏi mặt ghế! Sau bản hợp ca, mười hai vị bèn bước đến chỗ ngồi của mình. Chúng tôi lại có dịp nhận thấy rằng các vị bước đi êm như ru, không gây tiếng động nào, tuy rằng các vị không tỏ ra một cố gắng đặc biệt nào để giữ im lặng.
Khi các vị đã an tọa, một đám sương mù giống như lúc nãy lại xuất hiện, và lại tan dần, rồi mười hai vị khác nữa xuất hiện, gồm có một người nữ và mười một người nam, trong số đó có vị tác giả các văn kiện cổ mà tôi đã nói đến.
Các vị đứng yên một lúc, và giọng hợp ca vô hình lại trỗi lên một lần nữa. Sau bài hát, mười hai vị bước đến chỗ ngồi và cũng không gây một tiếng động nào. Khi các vị vừa an tọa, đám sương mù lại xuất hiện một lần thứ ba, và khi nó vừa tan thì mười ba vị khác đứng xếp thành hàng, sáu người nam và bảy người nữ, xuất hiện ở đầu kia của gian phòng. Ở chính giữa là một thiếu nữ rất trẻ, chỉ độ dưới hai mươi tuổi, với ba người nam và ba người nữ đứng hai bên. Tất cả những người nữ đã xuất hiện cho đến khi đó đều rất đẹp, nhưng người thiếu nữ này lại còn đẹp hơn tất cả các vị khác!
Mười ba vị đến sau cũng đứng yên một lúc, đầu hơi nghiêng, và nhạc điệu lại trỗi lên lần nữa. Sau vài điệp khúc, tiếng hợp ca lại hòa điệu với âm nhạc.
Chúng tôi đứng dậy, và trong khi nhạc khúc vẫn tiếp diễn, dường như chúng tôi thấy hàng ngàn hình bóng thần tiên vừa múa lượn chung quanh vừa hát theo một lượt. Không có giọng hát nào buồn, cũng không có một âm điệu bi thương. Nhạc điệu trỗi lên với những âm thanh vui tươi nhẹ nhàng, xuất phát tự tâm hồn và truyền cảm đến người nghe, làm cho tâm hồn chúng tôi được nâng cao dần cho đến khi chúng tôi có cảm giác như lâng lâng thoát tục.
Sau điệu hợp ca, mười ba vị mới đến sau bước tới chỗ ngồi và an tọa, nhưng nhãn quang chúng tôi không thể tách rời khỏi nhân vật ở chính giữa. Người thiếu nữ đẹp tuyệt trần này tiến đến bàn của chúng tôi cùng với hai người nữ khác đi kèm hai bên. Thiếu nữ ngồi xuống ở đầu bàn của chúng tôi cùng với hai vị đi kèm.
Người ta nhanh chóng mang đến một chồng đĩa đặt ở phía bên trái người thiếu nữ. Ánh sáng trong phòng như mờ hẳn đi trong một lúc, rồi chúng tôi nhận thấy chung quanh mỗi người trong ba mươi sáu vị đã xuất hiện đều có một vầng ánh sáng làm cho chúng tôi ngạc nhiên, và một vầng hào quang đẹp lộng lẫy chói sáng trên đầu của vị nữ quí khách danh dự. Trong cử tọa, chúng tôi là những người duy nhất bị xúc động sâu xa bởi cảnh tượng này, còn những vị khác thì không tỏ vẻ gì ngạc nhiên cả.
Khi tất cả mọi người đều an tọa, cơn im lặng kéo dài một lúc trong gian phòng, kế đó phần đông những người có mặt đều cất tiếng hợp ca một nhạc khúc vui tươi dưới sự điều khiển của ba mươi sáu vị đã xuất hiện. Khi bài hợp ca chấm dứt, vị nữ quí khách danh dự đứng dậy đưa hai bàn tay ra, thì thấy xuất hiện trên tay cô một ổ bánh mì nhỏ dài độ ba tấc rưỡi, đường kính độ năm phân tây. Mỗi người trong 36 vị đều đứng dậy, bước đến gần bà, và nhận được một ổ bánh mì tương tự. Kế đó, các vị đi vòng quanh tất cả các bàn để phân phát cho mỗi người một mẩu bánh mì.
Người thiếu nữ cũng làm như vậy ở tại bàn chúng tôi. Vừa phân phát bánh mì cho chúng tôi, cô vừa nói:
– Các bạn có biết chăng, đấng toàn năng toàn giác luôn sẵn có trong các bạn cũng như trong tất cả mọi người! Các bạn có biết chăng, tâm thức các bạn vốn luôn trong sạch, hoàn hảo, tốt đẹp và thiêng liêng. Vì thế, về bản chất thì tự thân các bạn chính là một đấng toàn năng, toàn giác. Tâm thức các bạn vốn tinh khiết, toàn hảo, thánh thiện, thiêng liêng và hợp nhất với toàn thể vũ trụ, vạn hữu. Và mỗi người trong chúng ta đều sẵn có khả năng đạt đến sự hợp nhất thiêng liêng đó.
Sau khi đã trao cho chúng tôi mỗi người một mẩu bánh mì, người thiếu nữ ấy trở lại chỗ ngồi và ngồi xuống. Ổ bánh mì nhỏ của cô vẫn còn nguyên vẹn như trước khi chia cho chúng tôi.
Khi phần khai mạc chấm dứt, thức ăn bắt đầu được mang đến. Thức ăn được chứa trong những cái tô lớn có đậy nắp. Những tô này xuất hiện trước mặt các vị nữ khách dường như được đặt bởi những bàn tay vô hình. Người thiếu nữ mở nắp tô để sang một bên, và bắt đầu múc thức ăn ra đĩa. Sau khi múc đầy đĩa, cô lại đưa sang cho hai vị nữ khách ngồi hai bên, và hai vị này chuyền các đĩa thức ăn đến khắp các bàn, và trong chốc lát tất cả quan khách đều được cung cấp thức ăn đầy đủ. Khi đó, quan khách bắt đầu ăn và nhận thấy thức ăn rất ngon.
Khi bữa ăn vừa bắt đầu, Tô Mặc lên tiếng hỏi thiếu nữ rằng theo cô thì đức tính nào của con người là cao quí nhất. Không chút do dự, cô đáp ngay:
– Tình thương!
Kế đó, cô nói tiếp:
– Trong sâu thẳm tâm hồn của mỗi con người đều sẵn có một vườn cây trái tốt tươi thơm ngọt. Những trái cây trong vườn ấy phong phú và tốt lành, có thể đáp ứng với mọi sự mong muốn chính đáng của con người, nhưng loại trái cây ngon lành và bổ dưỡng nhất trong số đó chính là tình thương! Những người nhận thức được bản chất chân thật của tình thương đã định nghĩa rằng đó là điều cao cả nhất trên thế gian.
Tôi xin nói thêm rằng, tình thương là liều thuốc có sức mạnh hàn gắn và cứu chữa lớn nhất trên đời. Tình thương luôn đáp ứng với mọi sự đau khổ của người khác. Người ta có thể sử dụng tình thương chân thật để thỏa mãn tất cả những sự mong ước của nhân loại và loại trừ mọi sự buồn thảm, tai ách, cũng như những sự lầm than thống khổ của người đời. Nhờ hiểu biết và sử dụng tình thương chân thật, chúng ta có thể tạo ra những ảnh hưởng tinh tế và không có giới hạn, giúp chữa lành tất cả những vết thương của thế gian, cả về thể xác lẫn tinh thần.
Tình thương chân thật có thể làm chuyển hóa mọi sự xấu ác, có thể hàn gắn mọi sự xung đột, bất hòa, cũng như có thể xóa bỏ trạng thái vô minh và tội lỗi của nhân loại. Khi tình thương chân thật được chan hòa khắp chốn, nó làm khơi dậy cả đến những cảm xúc khô khan tẻ lạnh của lòng người, xóa bỏ được mọi nỗi khốn khổ của cuộc đời. Tình thương chân thật có thể cứu chuộc mọi tội lỗi của nhân loại và chuyển hóa toàn bộ thế gian này như một phép mầu.
Tình thương là một đấng toàn năng ngự trị trong tâm thức mỗi người, vốn trường cửu, vô biên, bất biến, vượt ngoài mọi sự giới hạn của trí óc con người. Khi bạn bị đè bẹp dưới áp lực nặng nề của cuộc sống hằng ngày, bạn sẽ cần đến tình thương để xoa dịu. Khi bạn muốn có lòng can đảm và sức mạnh tinh thần để đối phó với những khó khăn trắc trở trong cuộc đời, bạn sẽ cần đến tình thương để mang lại nghị lực. Khi bạn đau ốm, sợ hãi, bạn sẽ cần đến tình thương để khơi dậy sức mạnh từ nội tâm; và trong tất cả những trường hợp đó, bạn sẽ vượt qua một cách dễ dàng nếu như trong lòng bạn đã thực sự hiện hữu một tình thương chân thật.
Khi bạn ban rải tình thương đến mọi người khác, đó là bạn đang mở rộng cửa kho báu vô tận chứa đầy những vật quý giá nhất trên cõi đời này. Bởi vì không một vật báu nào có thể quý giá hơn tình thương. Người nào đã biết thương yêu đồng loại, không thể không thật lòng chia sẻ những gì mình có với người khác. Nhưng cho đi như vậy tức là nhận lại. Đó là quy luật tự nhiên của tình thương chân thật. Một mặt, khi bạn thật lòng mang tất cả những gì mình có ra để chia sẻ cho người khác, bạn đã nuôi lớn tâm hồn cao đẹp của mình bằng một thứ dưỡng chất tinh thần mà không gì thay thế được. Tâm hồn bạn trở nên cao đẹp, mạnh mẽ và sáng suốt hơn. Và đó là điều mà bạn nhận lại, vốn có giá trị cao hơn rất nhiều so với những của cải vật chất mà bạn mang ra chia sẻ. Mặt khác, theo luật nhân quả thì những gì bạn mang ra cho người khác không bao giờ thật sự mất đi, mà chúng sẽ chính là tác nhân mang lại cho bạn một cách tự nhiên những giá trị vật chất tương ứng.
Tình thương mang đến cho chúng ta những giá trị mà sự nỗ lực theo mọi hướng khác đều không thể có được. Điều quan trọng nhất mà tất cả chúng ta đều có thể dễ dàng nhận thấy khi thực hành thương yêu là sự an ổn và thanh thản trong tâm hồn. Chúng ta sẽ không còn khao khát mong cầu những giá trị vật chất hữu hình hữu hoại, mà luôn tự mình hướng đến sự thương yêu chia sẻ mọi nỗi khổ đau cùng người khác. Điều đó mang lại cho chúng ta cảm giác đầy đủ và thỏa mãn với điều kiện vật chất trong hiện tại, ngay cả khi ta có là người nghèo nhất trên đời này!
Chúng ta thường thấy có những người luôn lao chao, bôn tẩu, hy vọng sớm có được sự yên tĩnh trong tâm hồn bằng cách thực hiện một vài công trình nào đó, hay tìm sự yên vui trong việc chiếm hữu một tài sản vật chất nào đó, mà tài sản ấy hiển nhiên là một vật hữu hình hữu hoại. Chúng ta thấy những người ấy bỏ cả cuộc đời để theo đuổi cho đến khi đạt được những mục đích đó, nhưng rốt cuộc thì họ vẫn không được thỏa mãn! Có người tưởng rằng họ cần có nhiều nhà cửa, đất ruộng; có người nghĩ rằng họ cần có một gia tài to lớn; những người khác cho rằng cần có sự hiểu biết và kiến thức dồi dào... Tất cả những người ấy đều không biết rằng, mọi nỗ lực theo đuổi của họ đều không thể mang đến sự an ổn và thanh thản trong tâm hồn. Họ không biết rằng, tất cả những gì họ mong muốn vốn luôn sẵn có trong mỗi con người, và chỉ cần chúng ta biết quay lại với tự tâm mình, nuôi dưỡng một tình thương chân thật với muôn người, muôn loài, thì tất cả những giá trị khác đều sẽ tự nhiên có được.
Thiếu nữ im lặng trong một lúc, kế đó một người trong chúng tôi đứng dậy nêu câu hỏi về luật tương đối và được cô giải đáp thỏa đáng. Câu chuyện chấm dứt tại đó.
Bữa ăn chiều đã xong, người ta dọn bàn ghế ra khỏi phòng. Khi đó, bắt đầu một giai đoạn giải trí có múa hát và âm nhạc. Âm nhạc cũng là những khúc hợp ca tự nhiên trỗi lên giữa không gian vô hình, và tất cả chúng tôi cùng nhau trải qua một giờ vui vẻ trước khi chia tay.
Chúng tôi ở lại làng này ba ngày. Trong thời gian đó, chúng tôi có dịp gặp lại một số lớn những vị khách quý đã xuất hiện trong đêm trước.
Chiều ngày thứ ba, các vị xin cáo biệt và hứa sẽ gặp lại nhau tại căn cứ điểm mùa đông của chúng tôi, kế đó các vị biến mất dạng.
lll
Sáng hôm sau, chúng tôi rời khỏi làng và đi trong ba ngày theo con đường mòn xuyên qua một vùng núi non gồ ghề hiểm trở, dân cư thưa thớt đến nỗi chúng tôi phải dựng lều để ngủ lại qua đêm.
Chúng tôi không mang theo lương thực, nhưng mỗi khi cần ăn uống thì luôn có sẵn đầy đủ đồ vật thực. Khi chúng tôi vừa sửa soạn ngồi ăn thì những thức ăn liền xuất hiện đầy đủ. Không bao giờ chúng tôi phải thiếu thức ăn.
Chiều ngày thứ ba, chúng tôi đến một vùng cao nguyên rộng lớn, rồi đi xuống dần để đến được nơi thôn ấp mà chúng tôi muốn viếng. Kể từ đó, con đường đi vượt qua một vùng phì nhiêu và đông dân cư.
Chúng tôi chọn thôn ấp này làm căn cứ mùa đông vì nó ở ngay trung tâm của vùng mà chúng tôi đến viếng. Chúng tôi hy vọng rằng điều ấy sẽ tạo cho chúng tôi cơ hội hằng mong ước là có dịp kéo dài hơn sự tiếp xúc hằng ngày với các vị chân sư.
Một số lớn những vị chân sư mà chúng tôi đã gặp ở rải rác nhiều nơi hiện đang sống tại làng này và tất cả đều có lời mời chúng tôi đến viếng. Chúng tôi có cảm giác rằng trong khi lưu trú tại làng này vào mùa đông, chúng tôi sẽ có nhiều cơ hội tốt để quan sát cuộc sống hằng ngày của các ngài một cách gần gũi hơn.
Chúng tôi đến làng này ngày 20 tháng 11, và từ căn cứ đó chúng tôi mở một loạt những cuộc xuất hành quanh vùng cho đến khi tuyết rơi làm mọi sự di chuyển trở nên khó khăn.
Chúng tôi được cung cấp chỗ ở tiện nghi, dân làng niềm nở tiếp đón, và chúng tôi cũng dễ dàng hòa nhập với cuộc sống dân làng. Tất cả các nhà đều mở rộng cửa đón chúng tôi. Chúng tôi cũng nhận thấy rằng ở đây mọi nhà đều không đóng cửa, vì dân làng xem tất cả mọi người đều là anh em.
Kế đó chúng tôi được mời đến ở tại nhà của một phụ nữ được kính trọng trong làng này. Chúng tôi đã có dịp gặp bà ở vùng biên giới. Vì chúng tôi đã có chỗ ở yên ổn, chúng tôi nghĩ là không cần thiết phải quấy rầy bà, nhưng bà khẩn khoản mời mọc và nói rằng việc chúng tôi đến cư trú sẽ không gây phiền hà gì cả. Bởi đó, chúng tôi dọn hành lý sang ở tại nhà bà cho đến cuối cuộc hành trình.
Tôi không thể quên cuộc gặp gỡ đầu tiên của chúng tôi với người phụ nữ này trong một tỉnh nhỏ ở vùng biên giới. Khi bà được giới thiệu với chúng tôi lần đầu tiên, chúng tôi đều ngỡ rằng đó chỉ là một thiếu nữ chừng mười tám tuổi, và là một thiếu nữ rất đẹp. Nhưng tất cả chúng tôi đều hết sức ngạc nhiên khi được biết rằng bà là một phụ nữ lớn tuổi và là một trong những nhà giáo mô phạm được kính trọng nhất trong vùng ấy. Bà đã dành trọn cuộc đời vào việc phụng sự kẻ khác.
Khi chúng tôi được sống cạnh bà hằng ngày, chúng tôi mới hiểu tại sao bà được kính trọng đến như thế. Trong lần gặp gỡ đầu tiên, chúng tôi được tiếp xúc với bà trong hai tuần liên tiếp, nhưng cá tính của bà chỉ biểu lộ thật sự rõ ràng khi chúng tôi được sống tại nhà bà. Sự thật là, khi được tiếp xúc với bà thì người ta không thể nào không yêu mến và kính trọng. Vả lại, càng biết rõ hơn về các vị chân sư như bà thì sự yêu mến và kính trọng lại càng tăng thêm gấp bội.
Chúng tôi ở tại nhà người phụ nữ đáng kính này và dùng cơm chung bàn mỗi ngày kể từ đầu tháng 12 năm 1895 đến tháng 4 năm 1896. Nhờ đó, chúng tôi có dịp quan sát tỉ mỉ đời sống của bà và nhiều vị chân sư khác cư ngụ tại làng này. Chúng tôi nhận thấy tất cả đều là những nếp sống lý tưởng.
lll
Thời gian trôi qua mau cho đến cuối tháng 12 năm đó. Chúng tôi nhận thấy một số đông người kéo đến làng này để dự một cuộc lễ chỉ dành riêng cho các vị chân sư.
Ngày nào người ta cũng giới thiệu với chúng tôi thêm những người lạ mặt. Tất cả đều nói được tiếng Anh, và chúng tôi có cảm giác như mình đã hòa nhập hoàn toàn với sinh hoạt của cả làng.
Một ngày nọ, chúng tôi được cho hay rằng cuộc lễ sẽ diễn ra trong đêm cuối năm và chúng tôi được mời đến dự. Người ta nói thêm rằng, tuy cuộc lễ không nhằm dành cho người ngoại quốc, nhưng nó cũng không phải là một cuộc hội họp riêng tư. Cuộc hội họp được tổ chức nhằm mục đích qui tụ những người đang tu tập theo một đời sống tâm linh, những người đã hiến mình cho lý tưởng ấy và đã có những tiến bộ khả quan để có thể khẳng định chắc chắn là sẽ mãi mãi sống cuộc đời thánh thiện.
Những vị chân sư tụ họp về đây đều đã đạt đến một trình độ tâm thức cao cả hơn người thường và hiểu rõ được con đường tu tập trong suốt cuộc đời còn lại. Cuộc hội họp này vẫn thường được tổ chức vào ngày cuối năm ở một nơi đã định sẵn từ trước.
Năm ấy, địa điểm hành lễ được chọn lựa là nơi thôn ấp chúng tôi đang trú ngụ. Buổi sáng của ngày bắt đầu cuộc hội họp, ánh bình minh thật trong sáng nhưng tiết trời lạnh đến khoảng dưới không độ.
Tất cả chúng tôi đều bồn chồn chờ đợi, với cảm giác rằng đêm hôm ấy sẽ mang lại một kinh nghiệm mới nữa thêm vào những sự việc lý thú đã xảy ra trong chuyến hành trình của chúng tôi.
Chúng tôi đến nơi hội họp vào lúc tám giờ tối và thấy đã có khoảng hai trăm người tề tựu tại đó. Gian phòng được trang trí rất đẹp và được thắp sáng bằng phương pháp huyền diệu như đã mô tả trước đây. Chúng tôi được biết rằng chính bà chủ nhà của chúng tôi sẽ chủ trì cuộc hội họp.
Bà đến sau chúng tôi ít lâu, và khi bà bước vào gian phòng, tất cả chúng tôi đều khen thầm sự trẻ trung và kiều diễm của bà. Bà mặc một chiếc áo dài trắng rất đẹp nhưng không có vẻ phô trương theo cách để làm cho người khác chú ý đến mình. Bà lẳng lặng bước lên một cái sàn gỗ và bắt đầu diễn thuyết. Bà nói:
– Hôm nay tất cả chúng ta hội họp về đây với mong muốn được hiểu rõ ý nghĩa của sự chuyển hóa từ một trạng thái tâm thức thấp kém lên một trạng thái tâm thức siêu việt hơn. Chúng tôi xin chúc mừng những ai trong quí vị đã thực hiện được phần nào sự chuyển hóa đó. Trước tiên, quí vị đã đi theo con đường này do bởi sự mến mộ những gì chúng tôi đã đạt được. Ban đầu quí vị có thể đã theo dõi những điều đó một cách ngạc nhiên và có phần sợ hãi, vì thấy rằng những điều đó có vẻ như rất nhiệm mầu, huyền bí. Nhưng giờ đây thì hầu hết quí vị đã thấy rằng đó chỉ là những điều rất tự nhiên, tất yếu sẽ đạt đến nhờ một nếp sống thánh thiện.
Vào giờ phút này, quí vị đã biết chắc rằng chúng tôi không có thực hiện một phép lạ nào cả. Quí vị đã hiểu cái ý nghĩa tâm linh thật sự của những gì mà quí vị đang tu tập. Chuyển hóa từ một trạng thái tâm thức thấp kém lên một trạng thái tâm thức cao hơn có nghĩa là nhận rõ tính chất giả tạm của thế giới vật chất dẫy đầy những xung đột và va chạm, để chấp nhận vươn đến một tâm thức Bồ-đề hay tâm thức giác ngộ, tỉnh thức. Khi đó, chúng ta sẽ nhận biết tất cả đều là hoàn hảo, hòa hợp và toàn thiện. Đó tức là quay về với nếp sống tự nhiên, không còn buông thả theo những tham vọng ngu si và vô lý. Nếp sống tham lam ích kỷ chính là đi ngược lại với tự nhiên. Đó là con đường chông gai, trắc trở và luôn dẫn ta đến chỗ sa đọa, trói buộc. Con đường thuận theo chân tánh tự nhiên sẽ thật dễ dàng và luôn dẫn ta đến chỗ toàn thiện, toàn mỹ, thanh thản, giải thoát! Người nào nhận biết rõ và đi theo con đường hướng thượng đó tức là sống trong trạng thái tâm thức của sự tỉnh thức, giác ngộ hay tâm thức Bồ-đề.
Chúng ta đang ngồi quanh những dãy bàn đã bày sẵn thức ăn. Đây là một cơ hội hiếm hoi khi tất cả chúng ta được tụ họp cùng nhau trong một bữa tiệc. Đây không phải là một bữa tiệc tầm thường như cách hiểu của người đời. Đây là một bữa tiệc biểu lộ năng lực tỉnh thức và tu tập của mỗi chúng ta trong suốt thời gian qua, trên con đường hướng đến sự chuyển hóa của tâm thức phàm tục thành tâm thức Bồ-đề, giác ngộ. Chúng tôi tin rằng, một ngày kia tất cả những vị có mặt ở đây hôm nay đều sẽ hiểu rõ được ý nghĩa chân thật sự của của đời sống và tự mình giải thoát ra khỏi mọi sự trói buộc, hệ lụy của cuộc sống thế tục.
Trong số các vị chân sư đã đạt được nhiều kết quả khả quan trong sự tu tập chuyển hóa tâm thức, có năm vị sẽ đến dùng bữa chung với chúng ta hôm nay. Và trong số đó, có một vị nữ thánh mà tất cả chúng ta đều yêu kính, vì bà cũng là mẹ của một vị trong chúng ta và trước kia đã từng sống chung với chúng ta. (Dường như bà đang nhắc đến thân mẫu của đức Tuệ Minh.) Bây giờ, xin mời tất cả hãy ngồi vào bàn ăn...
Ánh sáng trong gian phòng bỗng mờ nhạt đi trong một lúc và tất cả quan khách đều ngồi trong sự im lặng hoàn toàn, đầu hơi nghiêng về phía trước. Kế đó, ánh sáng lại tỏ rạng. Năm vị chân sư đã xuất hiện trong gian phòng, ba vị nam và hai vị nữ. Tất cả đều mặc y phục trắng tinh và đều có một vẻ đẹp lộng lẫy, bao phủ trong một vầng hào quang sáng dịu.
Các ngài nhẹ nhàng bước tới, và mỗi vị lần lượt ngồi xuống chỗ ngồi còn để trống của họ ở đầu một bàn trong năm bàn dài. Đức bà Mã Ly, thân mẫu đức Tuệ Minh, ngồi nơi chỗ danh dự ở bàn chúng tôi, cùng với vị trưởng nhóm chúng tôi ngồi bên phải và đức Tuệ Minh ngồi bên trái.
Khi các ngài đã an tọa thì thức ăn bắt đầu xuất hiện. Bữa ăn giản dị nhưng rất ngon lành, gồm có bánh mì, rau đậu và trái cây. Những câu chuyện kế tiếp là những huấn thị chung cho mọi người tham dự cuộc lễ. Đó là những huấn thị bằng tiếng bản xứ, và Dật Sĩ dịch lại cho chúng tôi nghe. Đức bà Mã Ly nói sau cùng. Bà nói bằng tiếng Anh rất lưu loát và với một giọng thật trong trẻo, rõ ràng:
– Hằng ngày chúng tôi vẫn thường sử dụng những năng lực mà người đời có thể lấy làm sợ hãi, kinh dị hoặc chế giễu và nhạo báng. Nhưng chúng tôi luôn cố gắng sử dụng những năng lực ấy một cách tận tình để dẫn dắt người đời vào con đường tốt đẹp, hiền thiện. Tuy vậy, do những tư tưởng si mê của họ, người đời luôn gạt bỏ những sự việc toàn hảo vốn nằm sẵn trong tầm tay họ. Với năng lực của sự tỉnh thức và giải thoát, nhận thức của con người sẽ trở nên vô cùng chân xác và sống động. Điều đó có giá trị hơn hẳn so với những của cải vật chất mà họ đang theo đuổi và bám víu một cách tuyệt vọng, vì bản chất của chúng vốn là không thường tồn.
Người đời không biết rằng tất cả những của cải vật chất, chẳng hạn như những tiện nghi trong gian phòng này, hay ánh sáng, hơi ấm, và thậm chí đến những thức ăn được dùng mỗi ngày, đều không phải là những giá trị hiện hữu ngoài tâm thức! Chính tâm thức có khả năng tạo ra tất cả! Người ta có thể gọi tên nó là gì tùy ý, chẳng hạn như chân tánh, chân như, tánh Phật hay tâm Bồ-đề... Dù là với tên gọi nào, bản chất thực sự vẫn không thay đổi. Người tu tập xem đó như là quyền năng lớn nhất trong của vũ trụ. Khi nhận hiểu được bản tâm của mình, người ta có khả năng hành xử một cách vô cùng hữu hiệu.
Tâm thức ấy vốn rỗng rang và hoàn toàn im lặng, và khi người ta đạt đến nó sẽ không còn có sự loạn động, rối ren mà hiện nay dường như là tính chất thường xuyên của đời sống. Tâm thức ấy sẵn có nơi tất cả mọi người, luôn hiện hữu quanh ta và chỉ cần chúng ta biết quay về để nhận biết nó. Khi nhận biết được bản tâm, bạn sẽ thấy mọi việc thật ra vô cùng giản dị, rõ ràng hơn là bạn tưởng. Bạn sẽ thấy rằng tất cả những máy móc và phương tiện của đời sống văn minh thật ra vốn cũng chỉ là những sản phẩm được tạo thành từ tâm thức. Tuy nhiên, người đời không hiểu như thế, và họ cho rằng đó là những thực thể vật chất độc lập được họ sản xuất ra, và do đó họ rơi vào sự trói buộc bởi chính những vật chất hữu hình hữu hoại họ tạo ra. Nếu họ hiểu rằng tất cả đều phát xuất từ tâm thức, và chính sự hiển lộ của tâm thức đã tạo thành muôn hình vạn tượng trong vũ trụ, thì họ sẽ nhìn thấy mọi dạng vật chất vốn đều là toàn hảo, vì đó chỉ là sự hiển lộ của tâm thức mà thôi.
Đến đây, một người trong chúng tôi nêu câu hỏi rằng, những tư tưởng và lời nói có ảnh hưởng như thế nào đến cuộc đời của chúng ta.
Đức bà Mã Ly đưa tay ra, và một lúc sau đó một vật nhỏ xuất hiện trên tay bà. Bà nói:
– Khi tôi bỏ một viên sỏi trong chén nước lạnh này, viên sỏi rơi xuống nước tạo thành một trung điểm từ đó phát ra những làn sóng gợn đồng tâm. Những sóng gợn này càng lớn dần cho đến khi chúng đụng vào vành chén là giới hạn bên ngoài của chén nước. Theo mắt thường nhìn thấy thì những gợn sóng này dường như dừng lại khi chạm đến giới hạn. Nhưng thật ra, khi các gợn sóng chạm đến vành chén thì chúng không dừng ở đó mà dội ngược trở về tâm điểm nơi viên sỏi đã rơi xuống nước và chúng cũng không hề tạm dừng trong suốt quá trình, trước khi đạt tới điểm đó. Toàn bộ quá trình có thể xem là một hình ảnh mô tả chính xác về ảnh hưởng của tất cả những tư tưởng và lời nói của chúng ta. Tư tưởng và lời nói tạo ra quanh ta những ảnh hưởng theo từng vòng tròn càng lúc càng lớn dần, cho đến khi chúng chạm đến giới hạn là đối tượng của chúng. Khi ấy, chúng dội ngược trở về người đã phát ra chúng. Như thế, tất cả những tư tưởng và lời nói của chúng ta hướng đến một đối tượng nào đó, dù tốt hay xấu, sẽ có tác dụng ngược trở lại đến chính chúng ta một cách tương ứng với tính chất mà chúng đã được hình thành, nghĩa là sẽ mang lại cho chính chúng ta những kết quả tốt đẹp hoặc xấu ác...
Đức bà Mã Ly nói vừa dứt lời thì một khúc hợp ca huyền diệu lại bắt đầu trỗi lên. Lúc ấy là đúng nửa đêm cuối tháng mười hai và một năm mới đã bắt đầu.
Như thế là chấm dứt năm đầu tiên trong thời gian chúng tôi có hân hạnh được tiếp xúc với các bậc chân sư huyền diệu.