Bản dịch Anh ngữ của tập sách Bardo Thődol do W. Y. Evans Wentz xuất bản 
		năm 1927, đặt nhan đề là The Tibetan Book of the Death (Luận vãng sanh 
		Tây Tạng). Đó là một tập luận không chỉ được các nhà nghiên cứu Phật 
		giáo Đại thừa quan tâm, mà nhờ vào tính chất nhân ái đậm đà cũng như 
		những quan điểm sâu sắc về tâm linh con người trong đó, nó còn được tất 
		cả những ai đi tìm ý nghĩa của đời sống đều quan tâm đến. 
		Từ ngày được xuất bản, tập luận này đã trở thành một người bạn đồng hành 
		thân thiết của tôi. Tôi phải cám ơn tập sách này, không những về những 
		đề xuất, về những hiểu biết, mà cả về những chứng ngộ quan trọng. Không 
		giống như “Sách dành cho người chết” của Ai Cập mà người ta có thể bàn 
		luận rất nhiều hoặc cũng có thể rất ít, Luận vãng sanh - Bardo Thődol 
		này chứa đựng một quan điểm mà con người có thể liễu ngộ được. Quan điểm 
		đó nói với con người và không nói với thánh thần hay với loài vật ngu 
		độn. Quan điểm đó là tinh hoa của lý luận tâm lý Phật giáo, và vì thế ta 
		có thể nói, có trình độ hơn hẳn “Sách dành cho người chết” của Ai Cập.
		
		Không phải chỉ các vị ác thần, các vị thiện thần cũng chính là biến hiện 
		của tâm tư con người. Đó là một tư tưởng mà thật ra những người châu Âu 
		có hiểu biết đều sẽ thấy là tất nhiên, vì họ chỉ cần nhớ lại những suy 
		nghĩ giản đơn của chính mình. Nhưng chính những người châu Âu đó lại 
		không thể xem các vị thần, những biến hiện giả hiệu đó, đồng thời lại 
		cũng là rất thực. Còn Bardo Thődol lại chấp nhận điều mâu thuẫn đó, vượt 
		xa những người châu Âu dù dày dạn hay non nớt, nhất là trong những quan 
		điểm siêu hình. 
		Trong Luận vãng sanh này, điều tiên quyết bàng bạc khắp nơi là không hề 
		có quan điểm nhị nguyên, cũng như tư tưởng cho rằng có sự khác nhau về 
		chất giữa các tầng lớp ý thức, và từ đó có sự khác nhau về các thực thể 
		siêu hình. Quan điểm tuyệt vời “vừa thế này, vừa thế kia” là nền tảng 
		của cuốn sách lạ lùng này. 
		Đối với những triết gia châu Âu, có lẽ điều này không được thoải mái 
		lắm, vì họ thích sự rõ ràng và dứt khoát. Cho nên có người dám nói rằng 
		“Thượng đế không có thật” và người khác thì quả quyết rằng “Thượng đế có 
		thật”. Những người này sẽ nghĩ gì với quan điểm sau đây trong Luận vãng 
		sanh: “Hãy nhận ra tánh không các thức của ngươi chính là Phật tánh. Hãy 
		xem Phật tánh là ý thức của chính ngươi. Hãy tinh tấn an trụ trong ý 
		thức đó của chư Phật.” Tôi e rằng quan điểm này sẽ không làm cho các nhà 
		triết học cũng như thần học châu Âu thấy hài lòng. 
		Luận vãng sanh Bardo Thődol hết sức đậm màu tâm lý học, nhưng có kẻ vẫn 
		còn mơ màng trong thời Trung cổ, thời kỳ tiền tâm lý học, trong đó chỉ 
		có những khẳng định được nêu lên, lý giải, bảo vệ, phê phán và biện 
		luận, rồi các cơ quan chức năng sẽ gạt bỏ qua một bên.
		Các quan điểm siêu hình chính là khẳng định của tâm linh, vì vậy có tính 
		tâm lý. Đối với tư tưởng châu Âu thì sự thực hiển nhiên này, hoặc quá 
		hiển nhiên, nên họ bỏ qua; hoặc họ phủ định một cách hồ đồ. Đối với tư 
		tưởng châu Âu, khi nói đến chữ tâm lý, người ta hầu như muốn nói chỉ tâm 
		lý thôi. Khái niệm tâm thức được xem như một cái gì rất nhỏ nhoi, yếu 
		kém, riêng tư, chủ quan, và tương tự như thế. Người ta thích dùng chữ 
		tinh thần hơn, làm như là có một tinh thần chung nhất, thậm chí một tinh 
		thần tuyệt đối. Có lẽ đây là một sự đền bù cho quan điểm nhỏ nhoi đáng 
		thương khi nói về tâm thức. Có lẽ cũng vì lý do đó mà Anatole France, 
		trong tác phẩm Ile des Pingouins đã cho Catherine d’Alexandrie khuyên 
		Chúa như sau: “Ngài hãy cho họ một linh hồn, nhưng một ít thôi.” Một câu 
		nói có giá trị cho nền văn minh châu Âu.
		Tâm thức chính là kẻ, xuất phát từ niềm sáng tạo tiên thiên, đã nói lên 
		những khẳng định siêu hình; tâm thức đặt định những giá trị siêu hình. 
		Tâm thức không phải là điều kiện cho các thực tế siêu hình, tâm thức 
		chính là các thực tế siêu hình.
		Với việc xác minh những sự thật tâm lý lớn lao đó, luận vãng sanh Bardo 
		Thődol khởi đầu không phải bằng những lời tiễn biệt xuống mồ, mà là 
		những lời khai thị cho người chết, bằng sự hướng dẫn cho những diễn biến 
		nhanh chóng của giai đoạn mang thân trung ấm, tức là khoảng 49 ngày từ 
		lúc chết đến lúc tái sanh. 
		Trước hết, đừng bận tâm đến quan điểm rất thông thường của phương Đông 
		là tâm thức sẽ tiếp tục sống sau khi chết. Với tư cách là độc giả của 
		luận vãng sanh, chúng ta rất dễ dàng tự đặt mình vào vị trí người chết, 
		và lắng nghe lời khai thị từ đoạn đầu tiên. Lời khai thị nói với chúng 
		ta, không phải khinh miệt mà là rất lễ độ:
		“Này thiện nam (hoặc tín nữ, nói rõ tên... ), giờ đây pháp thân đang 
		chiếu sáng rực rỡ trước mắt ngươi, hãy nhận biết rõ. Giờ đây thức của 
		ngươi đang trở về bản tánh chân như, rỗng không vắng lặng, vô ngã, vô 
		tướng, không màu sắc, không âm thanh. Nhưng tâm thức này không phải là 
		sự rỗng không của cái không, nó tự tại, diệu dụng, biến hóa không cùng. 
		Hai mặt này của chân như chính là từ bi và trí huệ, thể của nó là không. 
		Nó chính là pháp thân bất hoại. Sắc và không không rời nhau, trong dạng 
		hào quang rực rỡ, vô sanh vô tử. Đó cũng là Phật tính.” 
		Tri kiến này chính là pháp thân thường trụ của sự giác ngộ hoàn toàn. 
		Diễn tả trong ngôn ngữ chúng ta,
[47] đó là nguồn 
		gốc tạo nên mọi khẳng định siêu hình, nguồn gốc đó đang hiện rõ dưới 
		dạng trông thấy được của tâm thức. Tánh không là dạng có trước mọi hiện 
		tượng, có trước mọi cái dụng. Toàn bộ những hiện tượng khác nhau đều nằm 
		trong tâm thức.
		Luận vãng sanh nói tiếp:
		“Tâm thức chân thật của chính ngươi là rực rỡ, rỗng không và không khác 
		với Pháp thân bất hoại, vô sanh vô tử và chính là Vô lượng quang, Phật 
		A-di-đà.”
		Tâm thức thật sự không phải nhỏ bé, nó chính là pháp tánh rực rỡ. Người 
		châu Âu sẽ nghe lời khẳng định này một cách rất phân vân, nếu không muốn 
		nói là vô nghĩa; hoặc là họ sẽ chấp nhận nó một cách mù quáng và trở nên 
		điên rồ. Chúng ta khó có thể phán đoán điều này. Nếu chúng ta biết kiềm 
		chế để tránh khỏi sai lầm là bất cứ lúc nào cũng muốn làm một điều gì 
		đó, có thể chúng ta sẽ rút ra được một bài học quan trọng, hay ít nhất 
		thấy được tầm mức vĩ đại của luận vãng sanh Bardo Thődol, là tập luận 
		giúp cho người chết thấy được sự thật cuối cùng và cao cả nhất. Đó là: 
		Thượng đế là biến hiện và ánh sáng của chính tâm thức mỗi người. 
		Người phương Đông không bị cướp mất mặt trời, như người theo đạo Thiên 
		chúa, là người mà Chúa của họ bị cướp đi. Đối với người phương Đông, tâm 
		thức của họ chính là ánh sáng của Thượng đế và Thượng đế chính là tâm 
		thức. Nghịch lý này người phương phương Đông chịu đựng xem ra dễ dàng 
		hơn, hơn là Agelus Silesius
[48] đáng thương. (Vị 
		này ngày nay cũng không còn hợp thời trong ngành tâm lý học nữa.)
		Cần nói rõ với người chết về tâm thức của họ, vì cuộc đời thật ra đã nói 
		rõ với người đó tất cả những thứ khác. Trong cuộc sống, chúng ta va chạm 
		với rất nhiều chuyện đã an bày: phiền toái, bực mình... Và vì quá nhiều 
		chuyện, nên không mấy ai để tâm suy nghĩ xem ai là người đã gây ra những 
		chuyện này. Người chết được giải phóng ra khỏi những phiền toái của cuộc 
		đời, và luận vãng sanh dạy ta cần hỗ trợ cho sự giải phóng đó. Đặt mình 
		vào tâm thức người chết chúng ta sẽ học được bài học quí giá ngay trong 
		câu khai thị đầu tiên, là nguyên nhân gây ra mọi phiền toái trong cuộc 
		đời nằm ngay ở chính ta. Đó là một sự thật chưa hề được biết tới, mà qua 
		bao nhiêu chứng nghiệm lẽ ra chúng ta bắt buộc phải hiểu. Tuy thế, tri 
		thức này chỉ phù hợp cho những người biết lắng lòng, không còn quan tâm 
		tìm hiểu cuộc sống hiện tại; không phù hợp cho loại người có khuynh 
		hướng siêu hình, tin tưởng đến một đất thánh, tự nhận mình là Tri thức 
		của đời sống (Manda d’Hayye), như những người Mander.
[49] 
		Có lẽ cũng không quá sai khi cho rằng cả thế giới này cũng là một chuyện 
		đã an bày. 
		Cần phải có một sự chuyển biến hướng nội rất mạnh mẽ, nhiều tâm lực, mới 
		có thể thấy được rằng thế giới là do chính tâm thức bày ra. Nếu thấy 
		được rằng chính ta là người bày chuyện, tâm tư ta sẽ được cảnh tỉnh một 
		cách trực tiếp hơn, sâu sắc hơn, mạnh mẽ hơn và thuyết phục hơn khi quan 
		sát hành động của chính mình. Nhưng đúng là bản năng thú vật trong con 
		người không chịu chấp nhận rằng chính mình đã bày biện ra cuộc sống. Vì 
		vậy, những tri thức nói trên thường gây ra những xáo trộn thầm kín, 
		thường kéo theo sự chết, tượng trưng cho cái chết của sự biến chuyển nội 
		tâm đó. 
		Quả thật, lời khai thị trong luận vãng sanh Bardo Thődol nhằm khơi mở 
		một tri kiến hoặc nhắc nhở cho người chết những gì đã học nơi bậc đạo sư 
		của mình trước đây. Bởi vì lời khai thị không gì khác hơn là chỉ đường 
		cho người chết khi đi vào cõi mang thân trung ấm, cũng như chỉ đường cho 
		người sống trong việc chuẩn bị để đi về thế giới bên kia, giống như một 
		số nền văn hóa thần bí khác, chẳng hạn như văn hóa Ai Cập hay Eleusin.
[50]
		
		Trước hết, khai thị cho người sống về thế giới bên kia không hề là cõi 
		chết theo ý niệm thông thường, mà là một sự chuyển biến hướng nội, là 
		một thế giới bên kia về mặt tâm lý. Nói theo cách hiểu của Thiên chúa 
		giáo là thoát khỏi mọi ràng buộc của thế gian và tội lỗi. Sự giải thoát 
		này là thoát ly khỏi trạng thái tối tăm và vô minh xưa cũ, để tiến tới 
		một trạng thái giác ngộ, xả bỏ, tự tại đối với một thế giới đã an bày.
		Như vậy, theo như cảm nhận của tiến sĩ Evans Wentz, luận vãng sanh Bardo 
		Thődol là một phương cách khai mở nhằm mục đích tìm lại tính chất thiêng 
		liêng của tâm thức đã mất sau cuộc tái sanh. 
		Người phương Đông thường bắt đầu lời khai thị với đoạn quan trọng nhất, 
		tức là với nguyên lý cuối cùng và cao tột nhất, mà người châu Âu hay có 
		khuynh hướng để vào phần cuối, như với Apuleius,
[51] 
		trong đó Lucius cuối cùng được tôn xưng làm anh hùng. Vì vậy, luận vãng 
		sanh Bardo Thődol bắt đầu bằng sự thể nhập chân như và chấm dứt bằng sự 
		tái sanh trong thai người mẹ. Ở phương Tây chỉ còn lại một phép mở đường 
		độc nhất, được bác sĩ áp dụng, đó là nghành Phân tâm học. Đây thật ra là 
		một phương pháp chữa bệnh dựa trên nguyên lý từ Socrates,
[52] 
		đi tìm những căn nguyên sâu kín của ý thức, khơi dậy những tâm tư còn mờ 
		nhạt, chỉ đang trong giai đoạn hình thành. Ai cũng biết rằng ngành Phân 
		tâm học xuất phát từ Freud
[53] và quan tâm chủ yếu 
		đến động cơ tình dục. Lĩnh vực này có vẻ như khớp với giai đoạn cuối 
		cùng của Sipa-Bardo, trong đó thần thức không nhận hiểu được những lời 
		khai thị qua các giai đoạn Tschikhai-Bardo và Tschőnyi-Bardo, bắt đầu sa 
		vào những ước mơ tình dục và bị lửa dục của nam nữ đang giao hợp lôi 
		kéo, trở thành bào thai và tái sanh trong thế giới này. Trong quá trình 
		đó, mặc cảm Odipus xuất hiện. Nếu nghiệp lực quyết định tái sanh làm nam 
		giới, bào thai yêu mến người mẹ tương lai của mình và từ chối người cha, 
		ngược lại người con gái tương lai sẽ yêu cha, ghét mẹ. 
		Người châu Âu lại xét quá trình phân tâm trong lĩnh vực đặc biệt của 
		Freud với một chiều ngược lại. Người ta đi ngược lại thời gian, tìm hiểu 
		những ẩn khuất tình dục của tuổi thơ ấu. Thậm chí người ta quan niệm 
		rằng chính sự sanh nở là cơn ác mộng của tất cả. Có người muốn đi xa 
		hơn, muốn làm nhớ lại giai đoạn trước khi sanh. Nhưng tới đó, phương 
		pháp duy lý châu Âu đã cho rằng không thể đi xa hơn được nữa. Đáng tiếc 
		thay! Giá như phương pháp phân tâm của Freud đi thêm một bước nữa. Nếu 
		được như thế, thì phương pháp này đã qua được phần sau của luận vãng 
		sanh, qua được Sipa-Bardo và tới chương sau của Tschőnyi-Bardo. Tuy 
		nhiên, với tư tưởng sinh học vốn có của người châu Âu, thử nghiệm đó 
		chắc chắn là không thành công, vì cần phải có một sự chuẩn bị hoàn toàn 
		khác về khoa học tự nhiên. 
		Nếu đi ngược lại thời gian một cách thực sự, người ta phải chấp nhận giả 
		thiết có một đời sống trước khi sanh, một thân trung ấm, nếu có ai khám 
		phá được một vài dấu vết của đời sống đó. Chúng ta không có gì chắc chắn 
		hơn ngoài một sự dự đoán về một biến cố nào đó lúc thai nhi hình thành, 
		và nửa tin nửa ngờ liệu giai đoạn sanh nở có phải chăng là một cơn ác 
		mộng, và giả thiết rằng toàn bộ đời sống chẳng qua chỉ là một cơn bệnh, 
		vì cuối cùng luôn luôn chấm dứt bằng sự chết!
		Vì thế, nền phân tâm học Freud chủ yếu là dừng lại ở những biến cố trong 
		Sida-Bardo, tức là những mơ ước tình dục và những khao khát không phù 
		hợp, gây ra sợ hãi và những tâm trạng dồn ép khác. Tuy nhiên lý thuyết 
		Freud là thử nghiệm đầu tiên của châu Âu, coi như là từ phía dưới, tức 
		là từ những khao khát thú tính, nhằm tìm hiểu lĩnh vực của tâm thức mà 
		Mật tông gọi là giai đoạn Sipa-Bardo. Một sự lo ngại có cơ sở đã ngăn 
		cản Freud đi vào lĩnh vực siêu nhiên. Căn cứ trên nền tâm lý của 
		Sipa-Bardo thì trong giai đoạn này thần thức bị tác động mãnh liệt của 
		cơn gió nghiệp lực, đưa đẩy đến nơi tái sanh. Tức là giai đoạn 
		Sipa-Bardo không cho phép thối lui được nữa, khác với giai đoạn 
		Tschőnyi-Bardo, bị thú tính kéo xuống, bị khao khát tái sanh kiềm hãm.
		
		Nói một cách khác, nếu dùng quan điểm sinh học mà đi vào khảo sát tâm 
		thức, thì ta sẽ kẹt trong cơ cấu ái dục và không thể đi lên, vì luôn 
		luôn rơi trở lại trong đời sống sắc thể. Vì vậy, với quan điểm của 
		Freud, không thể đánh giá tâm thức một cách tốt đẹp được. Đó là cách nói 
		“không gì khác hơn, ngoài... ” Cách đánh giá này về tâm thức, có người 
		diễn tả rõ rệt hơn, thẳng thắn và bất chấp hơn, thô bạo hơn... Nhưng 
		thật ra họ cũng không có suy nghĩ gì khác hơn. Và cái gọi là tinh thần 
		thì người ta lại mong ước một cách nghiêm túc, trân trọng. Nhưng ngay cả 
		sức mạnh của tinh thần này, người ta cũng phải nghi ngờ, như chính Max 
		Scheler
[54] đã đành phải làm. Có thể khẳng định 
		rằng, tinh thần duy lý của phương Tây trong ngành Phân tâm học đã đạt 
		được tới giai đoạn Sipa-Bardo, và đi tới quan điểm rằng tâm lý là một 
		vấn đề có tính chủ quan và riêng tư. Chỉ thế thôi, rồi dừng yên tại đó. 
		Dù vậy chúng ta đã đạt được nhiều thành quả với mức phát triển này, vì 
		ít ra ta cũng đi được một bước dài phía sau sự hiện hữu của ý thức. Đồng 
		thời, những hiểu biết này gợi cho ta một ý tưởng về việc nên đọc luận 
		vãng sanh như thế nào. Đó chính là phải đọc từ phía sau tới. Vì rằng, 
		nếu khoa học phương Tây cho phép ta hiểu đôi chút tính chất tâm lý của 
		giai đoạn Sipa-Bardo, thì đây là lúc chúng ta có thể hiểu được giai đoạn 
		ngay trước đó, giai đoạn Tschőnyi-Bardo.
		Giai đoạn Tschőnyi-Bardo là giai đoạn của nghiệp lực tác động. Nghiệp 
		lực là do tâm thức của đời sống trước đó in dấu lại. Quan điểm phương 
		Đông về nghiệp lực (Karma) là một khoa học về sự tiếp nối về mặt tâm lý, 
		dựa trên quan điểm tái sanh, tức là cho rằng tâm thức tiếp tục trường 
		tồn qua thời gian. Tri thức lẫn lý luận của phương Tây không theo kịp 
		quan điểm phương Đông này. Ở đây, chúng ta có quá nhiều những chữ “nếu” 
		và “nhưng”. Nhất là chúng ta hiểu biết quá ít ỏi về việc liệu tâm thức 
		cá nhân của mỗi người có còn tồn tại sau khi chết hay không. Cũng như 
		chúng ta biết rõ rằng không thể chứng minh được việc có Chúa hay không.
		
		Vì thế chúng ta có thể tạm chấp nhận một cách thận trọng quan điểm 
		nghiệp lực, với định nghĩa như là một sự kế tục về tâm lý hay di truyền 
		tâm lý. Có những di truyền tâm lý, cũng giống như di truyền về đặc tính, 
		về bệnh tật, về tâm tính, về tài năng... 
		Đó là những đặc trưng quan trọng của đời sống, có tác dụng về mặt tâm 
		lý, cũng tương tự như di truyền về thể chất thì có tác dụng về mặt thân 
		thể. Trong các loại kế tục tâm lý, có một loại đặc biệt không phụ thuộc 
		vào gia đình hay nòi giống. Đó là những sắp xếp rộng lớn thuộc loại tinh 
		thần, trong đó có một số nguyên lý (quan niệm của Plato), rồi dựa trên 
		những nguyên lý đó mà tinh thần bày biện ra những nội dung của chính 
		mình. 
		Ta có thể gọi những nguyên lý đó là chủng loại, tương tự như những chủng 
		loại lý luận luôn luôn hiện hữu mọi nơi, làm đầu mối cho mọi suy luận. 
		Chỉ có điều là các nguyên lý đó không phải chỉ là để suy luận thôi, mà 
		chúng còn là động cơ của hình dung và tưởng tượng. 
		Vì cơ cấu của sự tưởng tượng vốn nhiều hình ảnh, các nguyên lý đó đóng 
		vai trò tiên thiên của các hình ảnh đặc trưng mà tôi dựa theo cách nói 
		của người xưa để gọi lại là dạng thể uyên nguyên.
[55] 
		Có so sánh các tôn giáo và các huyền thoại xưa cũ, mới thấy đây thật là 
		một kho đầy của quí. Cũng như trong ngành phân tâm học, sự tồn tại song 
		hành của những quan niệm, những nguyên lý phải dẫn đến giả thiết cho 
		rằng tâm thức con người dường như rất giống nhau qua nhiều thời đại và 
		nơi chốn. Rõ rệt là những dạng thể uyên nguyên bất cứ lúc nào và ở đâu 
		cũng đều có thể sản sanh ra lại, mặc dù không có ai lưu truyền. Cơ cấu 
		tâm lý cơ bản của con người giống nhau một cách lạ lùng, như là nhân 
		trạng bên ngoài. 
		Dạng thể uyên nguyên có thể được xem là cơ sở của nền tâm lý tiền duy 
		lý. Các yếu tố đó được kế thừa, các dạng thể đó giữ nguyên vẹn hình 
		thái, mặc dù mới đầu chưa có nội dung gì rõ rệt. Nội dung đó từ từ được 
		định hình trong mỗi người, mà kinh nghiệm cá nhân sẽ được chứa đựng 
		trong các dạng thể uyên nguyên đó. Nếu như dạng thể uyên nguyên nói trên 
		là không giống nhau và không sẵn có trong mỗi người, thì làm sao giải 
		thích được luận vãng sanh Bardo Thődol luôn luôn giả định rằng người 
		chết không biết mình đã chết, và điều đó cũng thường được quả quyết 
		trong các thứ văn chương, từ tầm thường nhất đến cao xa nhất ở châu Âu, 
		châu Mỹ? 
		Mặc dù Swedenborg
[56] đã nói đến điều này, nhưng 
		tác phẩm của ông ta không được lưu hành rộng rãi, nên những kẻ tin nhảm 
		nhí vào chuyện đồng bóng ít gặp phải khó khăn. Một mối liên hệ cụ thể 
		giữa Swedenborg và Bardo Thődol thì không thể có, nhưng quan niệm cho 
		rằng người chết cứ tiếp tục sống cuộc sống của họ, không biết rằng mình 
		đã chết là một quan niệm đã có từ xa xưa, hầu như ở khắp nơi trên thế 
		giới. Đó chính là một dạng thể uyên nguyên như đã nói ở trên, mà ai cũng 
		giật mình nhớ lại một khi thấy ma quỷ hiện hình. Điều đáng lưu ý là, 
		hiện tượng ma quỷ xảy ra ở khắp nơi trên thế giới có nhiều điểm giống 
		nhau. Tất nhiên tôi đã biết qua nhiều giả thiết giải thích hiện tượng 
		này, nhưng tôi không chấp nhận chúng. Tôi chỉ chấp nhận giả thiết là có 
		một sự kế tục tâm lý của tâm thức, trên cơ sở đó các biến cố xảy ra hầu 
		như định đoạt sẵn. 
		Tương tự như các bộ phận của cơ thể không phải bất định và tiêu cực, mà 
		là những cơ quan năng động, cung cấp cho cơ thể vai trò không thể thiếu 
		của mình, thì các dạng thể uyên nguyên cũng là một loại bộ phận tâm lý 
		năng động, điều khiển tâm thức một cách hết sức tích cực. Vì vậy tôi gọi 
		các dạng thể uyên nguyên này là vua của tiềm thức.
[57] 
		Tôi gọi tầng lớp sâu kín của tâm thức, thứ tầng lớp xuất phát từ các 
		dạng thể chung nhất, là tiềm thức tập thể.
[58]
		Theo tôi biết, không có sự kế tục về ký ức, nhưng rõ rệt có sự kế tục về 
		các dạng thể. Các dạng thể này mới đầu không có nội dung, không có những 
		kinh nghiệm chủ quan. Chúng chỉ trở thành ý thức, khi kinh nghiệm cá 
		nhân làm chúng hiện hình. Như chúng ta đã thấy, tâm lý Sipa chính là sự 
		thèm khát được sống và được tái sanh.
[59] Vì vậy, 
		giai đoạn này không chấp nhận một cảnh giới siêu chủ quan,
[60] 
		trừ phi tâm thức đó chối từ không muốn thác sanh vào thế giới có ý thức.
		
		Theo luận vãng sanh, trong mỗi giai đoạn Bardo, thần thức đều có thể thể 
		nhập pháp thân, với điều kiện là thần thức người chết không chạy theo ái 
		dục của mình, thể hiện bằng những ánh sáng mờ đục. Nói trong ngôn ngữ 
		của chúng ta, điều đó không gì khác hơn là hãy chống lại những thiên 
		kiến duy lý và hãy từ bỏ cái ngã chấp vốn là nền tảng của lý luận. Đây 
		là một sự đầu hàng có di hại nặng nề trước sức mạnh khách quan của tâm 
		thức, đây là một cách chết. Điều đó mang ý nghĩa chấm dứt sự điều khiển 
		đời sống bằng ý thức duy lý, với tinh thần trách nhiệm cao, và tự đặt 
		mình dưới điều mà luận Bardo Thődol gọi là “ảo giác của nghiệp lực”. Ảo 
		giác nghiệp lực nói lên một tư tưởng hay một thế giới quan hết sức phi 
		duy lý, hoàn toàn không phù hợp với lý trí thông thường, mà xuất phát từ 
		một sự tưởng tượng quá mức. Đó chẳng qua là một giấc mộng, một sự mơ 
		tưởng. Một con người bình thường không ai có thể chấp nhận được, tư 
		tưởng đó không khác gì tư tưởng của một người điên. Thông thường, ta chỉ 
		cần nhận xét một câu “tâm hồn kém cỏi” về tư tưởng đó là đủ. 
		Sự sợ hãi và tối tăm của giai đoạn này nằm trong phần đầu của 
		Sipa-Bardo. Nhưng nội dung của Bardo này lại chứa đựng những dạng thể 
		uyên nguyên, những hình ảnh nghiệp lực, xuất hiện dưới dạng đáng sợ. Còn 
		giai đoạn Tschőnyi mang tính chất tâm lý nhiều hơn.
		Chúng ta đã đọc và nghe nhiều về sự nguy hiểm của Yoga, nhất là về cái 
		đáng sợ của phép luyện hỏa hầu.
[61] Có nhiều 
		người, vì khó khăn gì đó, phải dùng mọi cách biến thể, sống trong một 
		trạng thái tâm lý khác, đây là một nguy hiểm đáng sợ, phải tránh không 
		nên tham dự vào. Dù vậy cũng có lúc cần làm: đó là một sự can thiệp vào 
		số phận, chạm đến phần sâu thẳm nhất của con người, mở lối đi vào nguồn 
		gốc của khổ đau, mà tâm tư bình thường không ai dám nghĩ tới. Chính đây 
		là giai đoạn địa ngục trong Sipa-Bardo, Luận vãng sanh viết:
		“Rồi thần chết sẽ cột cổ ngươi, xé xác ngươi, ăn thịt ngươi... Nhưng 
		ngươi không thể chết, dù thân xác ngươi bị xé ra làm trăm ngàn mảnh...”
		Sự tra tấn này nói về tính chết nguy hiểm rất rõ rệt: đó là nói về sự 
		tan rã của “thân” trong giai đoạn trung ấm, trong đó tâm thức bỗng biến 
		thành một thân mong manh nhẹ bổng, không thể nhìn thấy được. Trong tâm 
		lý thì sự “xé xác” này chính là sự rời rã tâm lý, tâm hồn bị chia chẻ. 
		Chứng bịnh tâm lý thông thường này cũng hay bị gọi là “suy sụp tinh 
		thần”, thường là sự mất bản năng kiềm chế vốn xuất phát từ ý thức, cộng 
		thêm với trò chơi điên rồ của các ông vua trong tiềm thức.
		Giai đoạn chuyển tiếp giữa Sipa và Tschőnyi như thế là một khúc quanh 
		nguy hiểm của những khuynh hướng và sở cầu của ý thức, một sự chối từ sự 
		vững chắc của một cái tôi kiên cố, mà chấp nhận sự bất trắc của những 
		hình ảnh hỗn loạn đem lại. Freud mô tả cái tôi chính là “sào huyệt của 
		cái sợ”. Ông đã nói rất đúng và rất sâu sắc, một cách trực giác. Sự sợ 
		hãi mất mát chính mình rình rập sau mỗi cái tôi, và chính cái sợ này 
		biểu hiện thành đòi hỏi được có nhiều quyền năng, được sử dụng quyền 
		năng đó. Không có sự hình thành cá nhân nào thoát khỏi được khúc quanh 
		nguy hiểm này, vì trong toàn bộ tâm thức con người cũng có cái đáng sợ, 
		thế giới tầng dưới hoặc tầng trên của các vị vua tâm thức,
[62] 
		mà từ thế giới đó cái tôi đã sanh ra, vùng dậy tìm kiếm chút tự do giả 
		tạo. 
		Tất nhiên sự giải phóng này là một thắng lợi cần thiết, nhưng không phải 
		là một thắng lợi triệt để, vì cái tôi mới chỉ thiết lập được cái chủ 
		thể, mà chủ thể lại cần có khách thể mới ra nghĩa chủ thể. Thế giới 
		trước hết hiện ra khi chủ thể tự phóng chiếu ra ngoài. Chủ thể tự tìm và 
		tự thấy khó khăn của mình, kẻ thù của mình, người thân thương và những 
		gì quí báu, và hay nhất là biết rằng, tất cả những gì tốt xấu, có tính 
		chất tinh thần không phải là khách quan nữa. Ta có thể vượt lên, hủy 
		diệt hay hoan hỷ với chúng. 
		Nhưng tình trạng tuyệt vời này của chủ thể không kéo dài được lâu. Đã có 
		và có nhiều người đi tới cách nhìn cho rằng thế giới tự nó và sự cảm 
		nhận về thế giới vốn chỉ là một, là hiện thân của những gì rất sâu kín 
		trong tâm thức, của một thực thể siêu việt cái tôi. Theo Mật tông Tây 
		Tạng thì tri thức sâu kín này chính là Tschőnyi-Bardo, cho nên giai đoạn 
		này của thần thức cũng được mang tên là “giai đoạn cảm nhận được chân 
		như”.
		Chân như là đối tượng được cảm nhận trong giai đoạn Tschőnyi, như Luận 
		vãng sanh chỉ rõ trong phần cuối của Tschőnyi-Bardo, là “chân như của tư 
		tưởng”. Các dạng tư tưởng biến hiện thành hiện thực, tưởng tượng biến 
		thành hình ảnh cụ thể và những năng lực tưởng chừng như chỉ nằm trong 
		giấc mộng bỗng trỗi dậy. Trước hết hiện lên một tổng thể gồm toàn thần 
		chết và sau đó là 28 vị nữ thần quyền năng, đáng sợ; sau đó là 58 vị 
		thần uống máu.
[63] Dù hình ảnh ma quỷ hết sức lộn 
		xộn, ở đây ta có thể xác định một số qui luật. Đó là các vị thần với 
		quyến thuộc của mình hiện ra từ bốn phương trời và có màu sắc huyền bí 
		khác nhau. Rõ nét dần là các vị thần hợp thành những linh phù,
[64] 
		gồm có bốn màu sắc hợp lại. Bốn màu sắc dựa trên bốn trí:
		– Màu trắng: Đại viên cảnh trí
		– Màu vàng: Bình đẳng tánh trí
		– Màu đỏ: Diệu quán sát trí
		– Màu xanh lục: Thành sở tác trí
		Trong mức độ cao hơn, thần thức biết rằng những hình ảnh cụ thể thật ra 
		là do chính thần thức phóng ra, và bốn trí trói trên chính là khả năng 
		tâm lý của chính thần thức. Nói đến đây, chúng ta đã vào hẳn trong nền 
		tâm lý học của Mật tông, mà tôi đã bàn đến trong cuốn Das Goheimnis der 
		Goldenen Blte,
[65] do Richard Wilhelm xuất bản.
		Đi ngược cuốn sách, sau giai đoạn Tschőnyi là đến lúc hình ảnh chư Phật 
		hiện ra: Phật Bất Không Thành Tựu màu xanh lục, Phật A-di-đà màu đỏ, 
		Phật Bảo Sanh màu vàng, Phật Bất Động màu trắng, và cuối cùng là pháp 
		thân thanh tịnh màu xanh ở trung tâm của linh phù, xuất phát từ trái tim 
		của đức Phật Đại Nhật.
		Với sự xuất hiện các vị Phật, nghiệp lực và ảo giác của nó chấm dứt, tâm 
		thức giải thoát khỏi mọi ràng buộc của sắc giới và trở về với pháp giới 
		vô sanh vô tử. Như thế, đi ngược cuốn sách, ta đạt tới giai đoạn 
		Tschikai, giai đoạn lúc cái chết vừa đến.
		Tôi cho rằng như thế là đã giới thiệu khá đủ về nội dung tâm lý của cuốn 
		Luận vãng sanh Bardo Thődol này. Cuốn luận trình bày một phương thức 
		khơi mở, ngược lại với cách nhìn của Thiên chúa giáo chuẩn bị cho một 
		cuộc sống vật chất. Đối với người châu Âu duy lý, có lẽ nên khuyên rằng, 
		nên quay ngược cuốn luận Bardo Thődol này và lắng nghe sự mô tả những 
		biến cố, đồng thời thay các vị thiện thần, ác thần trong Tschőnyi-Bardo 
		bằng các biểu hiện của Thiên chúa tùy ý. 
		Trong mọi trường hợp, diễn tiến của các biến cố đi song hành với hiện 
		tượng luận của tiềm thức châu Âu, khi tiềm thức đó bị phân tích. Trong 
		quá trình phân tích thế nào cũng xảy ra những diễn biến của tiềm thức. 
		Điều đó khá tương tự với quá trình khai thị hay điểm đạo trong các tôn 
		giáo. Tất nhiên là trong tôn giáo không còn sự tự động phát khởi mà thay 
		vào đó bằng những biểu tượng có tính chất truyền thống, ví dụ như trong 
		cách tu tập của Ignatius hay trong thiền định quán tưởng Yoga của Mật 
		tông Phật giáo.
		Cách xoay ngược tập luận do tôi đề nghị chẳng qua chỉ là để dễ hiểu hơn, 
		tất nhiên không nằm trong dụng ý của tập sách. Ngay cả việc phân tích 
		tâm lý tập luận này, nhiều lắm cũng chỉ đạt được mục đích phụ của các 
		ngài Lạt-ma. Mục đích chính của tập luận hiếm có này - xa lạ đối với 
		những trí thức châu Âu của thế kỷ 20 - là cố sức giảng giải cho người 
		đang chết. Đối với người châu Âu, nhà thờ Thiên chúa là nơi độc nhất 
		trên thế giới còn nói điều gì đó với người đang chết. Trong đạo Tin 
		Lành, chỉ còn một vài nơi quan tâm tới người chết, vốn không hay biết họ 
		đã chết. Ngoài ra, tại phương Tây chúng ta không có gì có thể so sánh 
		được với luận Bardo Thődol, trừ ra một vài tập sách bí mật, không dành 
		cho quảng đại quần chúng hoặc cho khoa học. Theo truyền thống của chúng 
		ta, có lẽ cũng phải liệt kê tập luận Bardo Thődol này vào loại mật thư. 
		(Xem bài dẫn nhập của Evans Wentz). 
		Tập sách này chủ yếu quan tâm lo lắng cho người chết, kéo dài sau cả cái 
		chết. Sự cúng tế thông thường cũng bắt nguồn từ niềm tin rằng tâm thức 
		con người còn tồn tại sau khi chết. Về mặt tình cảm thì người sống ai 
		cũng có mong ước làm được gì đó cho người chết. Đó là một nhu cầu cơ 
		bản, dù cho người duy lý nhất cũng sẽ nghĩ tới khi người thân hay bạn bè 
		của mình mất đi. Vì vậy chúng ta có biết bao nhiêu phong tục xoay quanh 
		cái chết, dù cho sự giải thích có phần khác nhau. 
		Ngoài các lễ cầu hồn của nhà thờ Thiên chúa thì cách lo lắng cho người 
		chết của chúng ta dừng lại ở mức độ thấp kém nhất, không phải vì chúng 
		ta không tin là tâm thức còn tiếp tục sống, mà là vì ta cắt bỏ quá nhiều 
		– một cách duy lý – yêu cầu của tâm thức. Chúng ta làm như mình không hề 
		có nhu cầu tâm thức, và vì cũng không thật tâm cho rằng còn lại gì đó 
		sau cái chết. Vì thế, ta không làm gì cả! Còn những tâm lý ngây thơ thì 
		chúng ta lại tin là thật và vun đắp. Chẳng hạn như ở Ý, những nhà mồ rất 
		đẹp, đẹp một cách đáng sợ. Về các buổi cầu hồn thì mức độ có cao hơn, 
		dành nhiều tình cảm tha thiết cho người chết chứ không phải để khóc lóc 
		cho thỏa lòng. 
		Tuy nhiên, phải nói rằng điều quí giá nhất cho người chết chính là những 
		lời khai thị trong Bardo Thődol. Những lời đó phù hợp, chỉ thẳng vào 
		tình trạng đổi thay của người chết. Mỗi độc giả nghiêm túc sẽ tự đặt câu 
		hỏi, phải chăng các vị Lạt-ma khả kính sẽ nói về chiều thứ tư và nhờ thế 
		vén được bức màn bí mật của đời sống chúng ta?
		Nếu sự thật cuối cùng bao giờ cũng là một sự nhầm lẫn, phải chăng ta có 
		thể chấp nhận được một vài điều có thật trong cảnh thân trung ấm? Dù sao 
		đi nữa, cũng là một điều lạ lùng khi cho rằng cảnh tượng sau cái chết – 
		các tôn giáo có đủ mọi cách tưởng tượng về cảnh này – chủ yếu là một 
		giấc mơ đáng sợ, với diễn tiến ngày càng tệ hại hơn. Năng lực đạt đạo 
		cao nhất, không phải trong giai đoạn cuối của thân trung ấm, mà là ngay 
		từ đầu, ngay trong thời điểm của cái chết, và những gì xảy ra sau đó là 
		một sự trượt dần vào ảo giác và vô minh, cho tới lúc tái sanh vào thế 
		giới vật chất. 
		Như thế, mức độ cao nhất của tinh thần đạt được ngay vào cuối đời. Cuộc 
		đời con người là một phương tiện có thể đạt tới mức toàn giác, nhưng 
		chính những nghiệp lực làm cho thần thức người chết không nhận ra được 
		ánh sáng của tánh không, và vì thế lại rơi vào vòng sanh tử luân hồi, 
		không giải thoát khỏi ảo giác của sanh thành hoại diệt. Giai đoạn thân 
		trung ấm không phải là cảnh giới của ân sủng hay trừng phạt miên viễn, 
		mà chỉ là giai đoạn rơi xuống một đời sống mới, đời sống này mang con 
		người tới gần đích giải thoát thêm một bước nữa. Đây chính là mục đích 
		cao tột, cuối cùng của tất cả cố gắng trong kiếp người. Đây là một quan 
		điểm cao đẹp, phải nói đúng hơn là một quan điểm hướng thượng mạnh mẽ.
		Tình trạng ngày càng xấu đi của giai đoạn mang thân trung ấm được các 
		sách huyền bí phương Tây xác nhận, trong đó có cả những câu chuyện tầm 
		thường về việc trao đổi thông tin với người chết. Cách nhìn khoa học của 
		chúng ta tất nhiên không ngại ngùng cho rằng những chuyện ma quỷ đó chỉ 
		là phát ngôn của tiềm thức những ông đồng bà bóng và giới cầu cơ, và áp 
		dụng cách giải thích đó về cảnh tượng bên kia thế giới của luận vãng 
		sanh này. Rõ ràng, Luận vãng sanh cũng đã dựa trên những dạng thể uyên 
		nguyên của tiềm thức. Chúng ta, ở phương Tây, cũng có lý khi nói rằng 
		đằng sau những hiện tượng đó không phải là những thực tế vật chất hay 
		thực tế siêu hình gì cả, mà chỉ là những dạng thể của tâm thức biến hiện 
		ra. Liệu đó là cái gì, chủ quan hay khách quan được biến hiện thì chưa 
		rõ, nhưng quả là có biến hiện. Luận vãng sanh Bardo Thődol cũng không 
		nói nhiều hơn, vì chính năm vị Phật cũng là do tâm thức biến hiện, và 
		người chết nên nhận ra điều đó, nếu lúc còn sống người đó chưa từng nhận 
		ra rằng chính tâm thức mình và “đấng sáng thế” chỉ là một, không khác. 
		Thế giới của thần thánh ma quỷ không có gì khác hơn là tiềm thức tập thể 
		chứa đựng trong mỗi cái tôi. Nói ngược lại câu này sẽ là: Tiềm thức là 
		thế giới thần thánh ma quỷ nằm bên ngoài cái tôi. Muốn nói ngược như 
		thế, không cần trình độ khéo léo gì của tri thức cả, nhưng cần đến cả 
		một đời người, thậm chí có thể là nhiều đời, để càng lúc càng toàn diện. 
		Tôi cố tình không dùng từ toàn hảo, vì từ này sẽ đưa tới những khám phá 
		khác.
		Luận vãng sanh Bardo Thődol là một cuốn sách bí mật và sẽ tiếp tục bí 
		mật, dù ta có viết gì về nó. Vì muốn hiểu được nó, ta cần có một khả 
		năng tâm linh đặc biệt. Không phải ai cũng có, mà chỉ những ai có một 
		đời sống đặc biệt, một kinh nghiệm đặc biệt, mới có được khả năng tâm 
		linh đó. Cũng là một điều hay nếu về mặt nội dung và mục đích có được 
		nhiều cuốn sách “vô ích” như thế này, loại sách chỉ dành cho những người 
		không còn quá coi trọng những cái gọi là “lợi ích”, “mục đích”, “ý 
		nghĩa” của “nền văn hóa” hiện nay của chúng ta.