Kẻ không biết đủ, tuy giàu mà nghèo. Người biết đủ, tuy nghèo mà giàu. Kinh Lời dạy cuối cùng
Chúng ta trở nên thông thái không phải vì nhớ lại quá khứ, mà vì có trách nhiệm đối với tương lai. (We are made wise not by the recollection of our past, but by the responsibility for our future.)George Bernard Shaw
Yêu thương và từ bi là thiết yếu chứ không phải những điều xa xỉ. Không có những phẩm tính này thì nhân loại không thể nào tồn tại. (Love and compassion are necessities, not luxuries. Without them humanity cannot survive.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Mỗi ngày, hãy mang đến niềm vui cho ít nhất một người. Nếu không thể làm một điều tốt đẹp, hãy nói một lời tử tế. Nếu không nói được một lời tử tế, hãy nghĩ đến một việc tốt lành. (Try to make at least one person happy every day. If you cannot do a kind deed, speak a kind word. If you cannot speak a kind word, think a kind thought.)Lawrence G. Lovasik
Hãy cống hiến cho cuộc đời những gì tốt nhất bạn có và điều tốt nhất sẽ đến với bạn. (Give the world the best you have, and the best will come to you. )Madeline Bridge
Như đá tảng kiên cố, không gió nào lay động, cũng vậy, giữa khen chê, người trí không dao động.Kinh Pháp cú (Kệ số 81)
Chúng ta có thể sống không có tôn giáo hoặc thiền định, nhưng không thể tồn tại nếu không có tình người.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Như cái muỗng không thể nếm được vị của thức ăn mà nó tiếp xúc, người ngu cũng không thể hiểu được trí tuệ của người khôn ngoan, dù có được thân cận với bậc thánh.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Sự ngu ngốc có nghĩa là luôn lặp lại những việc làm như cũ nhưng lại chờ đợi những kết quả khác hơn. (Insanity: doing the same thing over and over again and expecting different results.)Albert Einstein
Cỏ làm hại ruộng vườn, sân làm hại người đời. Bố thí người ly sân, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 357)
Điều quan trọng không phải là bạn nhìn vào những gì, mà là bạn thấy được những gì. (It's not what you look at that matters, it's what you see.)Henry David Thoreau
Trang chủ »» Danh mục »» »» Pháp Hoa Văn Cú - Tập 3 »» 20. Giải thích phẩm Bồ Tát Thường Bất Khinh »»
Xem Mục lục
KINH VĂN
Phẩm Bồ Tát Thường Bất Khinh, thứ hai mươi.
Giải thích tên phẩm
[Bất khinh nghĩa là không khinh thường, xem nhẹ.] Trong tâm thường hiểu nên bất khinh; bên ngoài cung kính cảnh nên bất khinh; thân thực hành công hạnh bất khinh; miệng nói lời dạy người bất khinh; người đời gọi tên là Bất Khinh.
Về ý nghĩa “hiểu nên bất khinh”, luận Pháp hoa nói rằng: “Vị Bồ Tát này rõ biết chúng sanh đều có tánh Phật nên không dám khinh thường.”
Tánh Phật có 5 loại. Tánh Phật chánh nhân thông suốt từ bản nguyên xa xưa đến ngày nay; tánh Phật duyên nhân và tánh Phật liễu nhân là chủng tử vốn sẵn có, không phải ngày nay mới có. Tánh Phật quả và tánh Phật quả quả là [chúng sanh] nhất định đều sẽ được, quyết không hư dối. Đây gọi là “nhận hiểu nên bất khinh”.
Dùng sự nhận hiểu như trên mà ứng xử với người khác, [biết rằng] họ cũng đều [có đủ tánh Phật] như vậy. Đây gọi là bên ngoài “cung kính cảnh nên bất khinh”.
Vì cung kính người ngoài như vậy, cho nên gọi là “công hạnh bất khinh”. Nói rõ điều này cho người khác biết nên gọi là “dạy người bất khinh”.
Thuở xưa, những kẻ hủy báng dựa theo việc này để gọi tên người, ngày nay những vị chép kinh dựa theo việc này để gọi tên phẩm kinh.
Kinh Kiến thật Tam-muội[1] nói: “Đức Phật vì phụ vương mà nói: ‘Hết thảy đều là Phật.’ Vua hỏi: ‘Hết thảy chúng sanh tức là Phật sao?’ Đức Phật đáp: ‘Nếu đúng như thật nhìn thấy chúng sanh, ngay nơi đó tức là Phật.’”
Riêng tôi cho rằng, suy theo câu này thì nếu không đúng như thật nhìn thấy Phật, ngay nơi đó tức không phải là bậc thánh.
Ví như người mới học bắn tên, nhắm bắn vào đích thì đa phần bắn trật, ít khi trúng; nếu lấy mặt đất làm đích bắn thì không có mũi tên nào lại không trúng. [Cũng vậy,] nếu [lấy mục tiêu là] phân biệt hiền thánh thì phải rõ biết ai đúng, ai sai, [rất dễ nhầm lẫn]; nhưng nếu quán xét như thật thì ngay nơi đó [tất cả đều] là Phật.
Phần trước là giải thích theo nhân duyên, phần sau là giải thích theo Viên giáo. Đại lược là như vậy.
Phẩm này dẫn người làm chứng, chứng minh 5 hạng người [thọ trì kinh Pháp hoa] có công đức sâu dày, phước báo của sáu căn rất lớn. [Đức Phật dạy:] “Thuở xưa ta tùy hỷ [với kinh Pháp hoa], nên được phước báo hiện đời và đời sau.” Đó là để khuyến khích, thúc đẩy sự lưu thông kinh điển.
KINH VĂN
Lúc bấy giờ, đức Phật bảo Bồ Tát Đắc Đại Thế:[2] “Ông nên biết rằng, nếu có tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di nào thọ trì kinh Pháp hoa mà bị người khác dùng lời ác độc mắng chửi, hủy báng, thì kẻ đó sẽ bị tội báo nặng nề như đã nói ở trước, còn công đức của người trì kinh thì như ta vừa nói, sẽ được mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý thanh tịnh.”
Kinh văn phẩm này có cả trường hàng và kệ tụng. Phần kinh văn trường hàng chia làm 3 tổng đoạn. Tổng đoạn thứ nhất nêu hai ý, chỉ rõ cả tội và phước đã nói ở phẩm trước. Tổng đoạn thứ hai nêu hai ý, mở bày cả sự tin nhận và sự hủy báng trong phẩm này. Tổng đoạn thứ ba nêu hai ý, khuyên dạy cả hai hướng thuận và nghịch ở phẩm sau.
[Tổng đoạn thứ nhất] nêu hai ý chỉ rõ. Trước chỉ rõ tội báo, như đã nói trong phẩm Pháp sư. Tiếp theo chỉ rõ phước báo, như trong phẩm Công đức [pháp sư] đã nói. Phần này y theo kinh văn có thể hiểu được.
KINH VĂN
“Này Đắc Đại Thế! Thuở xa xưa, cách đây vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn a-tăng-kỳ kiếp, có đức Phật hiệu là Oai Âm Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Kiếp đó tên Ly Suy, cõi nước tên Đại Thành, đức Phật Oai Âm Vương ở giữa cõi đời ấy vì hàng trời, người, a-tu-la thuyết pháp: Vì những người cầu Thanh văn nói pháp Tứ đế để thoát khỏi sinh già bệnh chết, đạt đến Niết-bàn; vì những người cầu Duyên giác nói pháp Thập nhị nhân duyên; vì các Bồ Tát gieo nhân Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nên nói pháp sáu ba-la-mật để rốt ráo được trí tuệ Phật.
“Này Đắc Đại Thế! Đức Phật Oai Âm Vương sống thọ qua số kiếp bằng số cát của bốn mươi muôn ức na-do-tha con sông Hằng; Chánh pháp trụ thế số kiếp bằng số hạt bụi nhỏ của một cõi Diêm-phù-đề; Tượng pháp trụ thế số kiếp bằng số hạt bụi nhỏ của một cõi Tứ thiên hạ. Đức Phật ấy làm lợi ích cho hết thảy chúng sinh, rồi sau đó diệt độ. Sau khi Chánh pháp và Tượng pháp diệt hết, trong cõi nước đó lại có Phật ra đời, cũng hiệu là Oai Âm Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Lần lượt tiếp nối ra đời hai muôn ức đức Phật đều cùng một danh hiệu như vậy.
“Khi đức Phật Oai Âm Vương đầu tiên đã diệt độ,[3] chánh pháp diệt mất. Trong thời gian tượng pháp, các tỳ-kheo tăng thượng mạn có thế lực lớn. Bấy giờ, có vị tỳ-kheo Bồ Tát tên là Thường Bất Khinh.”
Tổng đoạn thứ hai [gồm 3 đoạn], nêu hai ý mở bày cả sự tin nhận và sự hủy báng. Phần này nêu nguồn gốc sự việc và kể lại chuyện tiền thân của Phật.[4]
[Đoạn thứ nhất] nêu nguồn gốc sự việc thì nêu rõ thời gian, danh hiệu, tên thời đại, tên nước, việc thuyết pháp v.v. Tất cả đều y theo kinh văn có thể hiểu được.
[Đoạn thứ hai] từ câu “Khi đức Phật Oai Âm Vương đầu tiên” trở đi, kể chuyện tiền thân Phật, lại chia làm 3 tiểu đoạn. Thứ nhất, nói rõ về thời gian. Thứ hai, từ câu “trong thời gian tượng pháp” trở đi, nêu cả hai danh xưng để gọi người. Những kẻ hủy báng thời ấy được gọi là tăng thượng mạn, người tin nhận được gọi là Thường Bất Khinh.
KINH VĂN
“Này Đắc Đại Thế! Do nhân duyên gì vị ấy có tên gọi là Thường Bất Khinh? Vì vị tỳ-kheo này mỗi khi gặp các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di đều lễ bái ngợi khen xưng tán rằng: ‘Tôi hết sức cung kính các ngài, không dám khinh thường. Vì sao vậy? Các ngài đều thực hành đạo Bồ Tát, đều sẽ thành Phật.’
“Nhưng vị tỳ-kheo này không chuyên tụng đọc kinh điển, chỉ thực hành việc lễ bái; thậm chí khi từ xa nhìn thấy bốn chúng cũng cố đến gần để lễ bái, ngợi khen xưng tán rằng: ‘Tôi không dám khinh thường, các ngài đều sẽ thành Phật.’
Đoạn thứ ba từ câu “Này Đắc Đại Thế! Do nhân duyên gì…” trở đi, nêu cả hai ý được và mất, lại chia thành 2 tiểu đoạn.
Tiểu đoạn thứ nhất nêu những chỗ được của người tin nhận. [Đó là] được tông chỉ rộng lớn của phần chính thuyết và được lợi ích vi diệu của phần lưu thông.
“Có tên gọi Thường Bất Khinh” là nhân nhất; “mỗi khi gặp các vị…” là lý nhất; “đều lễ bái ngợi khen xưng tán” là hành nhất; “và nói rằng” là giáo nhất. Đây chính là tứ nhất trong giáo pháp “khai quyền hiển thật”.[5]
Từ câu “thậm chí khi từ xa nhìn thấy” trở đi là căn bản lý nhất; “cũng cố đến gần lễ bái” là căn bản hành nhất; “và nói rằng” là căn bản giáo nhất; thiếu phần nhân nhất, nhưng nghĩa này có thể hiểu được. Đây chính là tứ nhất trong phần giáo pháp “khai cận hiển viễn”.[6]
Kinh văn nói “không chuyên tụng đọc kinh điển, chỉ thực hành việc lễ bái”, đây là địa vị của người ban sơ khởi tâm tùy hỷ. Tùy hỷ vì hết thảy các pháp đều có tính an vui, đều là một tướng thật. Tùy hỷ vì hết thảy mọi người đều có ba loại tánh Phật. “Tụng đọc kinh điển” là tánh Phật liễu nhân; “đều thực hành đạo Bồ Tát” là tánh Phật duyên nhân; “không dám khinh thường” lại “hết sức cung kính” là tánh Phật chánh nhân.
Cung kính người, cung kính pháp, không khởi tâm tranh giành, đó là ý nghĩa tùy hỷ. Không khinh thường, kính trọng sâu xa là ngồi tòa Như Lai; nhẫn nhục với sự đánh đập, mắng chửi là đắp y Như Lai; giữ tâm từ bi thường hành trì không bỏ tức là vào nhà Như Lai.
Lại nữa, “hết sức cung kính” là nghiệp của ý; nói “không dám khinh thường” là nghiệp của miệng; “cố đến gần lễ bái” là nghiệp của thân. Ba nghiệp này đều kết hợp với tâm từ bi, tức là hạnh an vui thệ nguyện. Ba nghiệp, bốn hạnh[7] như vậy, nếu không phải lợi ích nhiệm mầu của sự lưu thông [kinh điển] thì phải gọi là gì?
KINH VĂN
“Trong bốn chúng có những người giận dữ, khởi tâm không thanh tịnh, dùng lời độc ác mắng nhiếc rằng: ‘Tỳ-kheo ngu si này từ đâu đến? Tự nhiên lại nói “tôi không khinh thường các ông” rồi thụ ký chúng ta sẽ thành Phật. Chúng ta không cần sự thụ ký hư dối này.’
“Trải qua nhiều năm như vậy, vị ấy thường bị chửi mắng[8] vẫn không sân hận, luôn nói rằng: ‘Các ngài sẽ thành Phật.’ Khi nói như vậy, thường bị những người khác dùng gậy đuổi đánh, dùng ngói đá ném, vị ấy liền chạy tránh ra xa rồi dừng lại, vẫn lớn tiếng nói: ‘Tôi không dám khinh thường, các ngài đều sẽ thành Phật.’ Vì thường nói như vậy nên những tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di tăng thượng mạn đặt tên vị ấy là Thường Bất Khinh.
Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Trong bốn chúng có những người…” trở đi, nêu những chỗ mất của người hủy báng. “Giận dữ, khởi tâm không thanh tịnh” là không thọ nhận tứ nhất. “Mắng nhiếc rằng: ‘Tỳ-kheo ngu si’” tức là nói không có trí tuệ. Trí tuệ rõ biết lý tánh, đã nói không có trí tuệ tức là không thọ nhận lý nhất. Mắng nhiếc tỳ-kheo là không thọ nhận nhân nhất. Hỏi “từ đâu đến” tức là không thọ nhận hành nhất. “Không cần sự thụ ký hư dối” là không thọ nhận giáo nhất. “Trải qua nhiều năm như vậy, vị ấy thường bị chửi mắng” là kết lại những người này không thọ nhận tứ nhất trong phần giáo pháp “khai quyền hiển thật”.
“Chạy tránh ra xa rồi dừng lại, vẫn lớn tiếng nói” cũng là nghĩa không thọ nhận. Đây là nói không thọ nhận tứ nhất của bản địa[9] trong giáo pháp “khai cận hiển viễn”.
“Thường nói như vậy” là kết ý người tin nhận vẫn tin sâu không dứt. Bốn chúng “đặt tên vị ấy là Thường Bất Khinh” là kết ý người hủy báng vẫn không ngừng hủy báng.
Hỏi: Đức Thích-ca ra đời còn do dự chưa thuyết dạy [về tánh Phật], Bồ Tát Thường Bất Khinh chỉ vừa mới gặp một lần đã hấp tấp nói ra điều đó là sao?
Đáp: Vì [thính chúng] vốn đã có chút ít căn lành, cho nên đức Thích-ca tạm dùng Tiểu thừa để dẫn dắt giúp đỡ. [Đối với thính chúng] vốn chưa có căn lành, Bồ Tát Thường Bất Khinh mới dùng thẳng Đại thừa để mạnh mẽ đối trị. Đại lược là như vậy.
KINH VĂN
“Khi vị tỳ-kheo ấy sắp qua đời, từ trên không trung được nghe đủ hai mươi ngàn muôn ức bài kệ trong kinh Pháp hoa mà Phật Oai Âm Vương đã thuyết giảng trước đây, có thể thọ trì được tất cả, liền đạt được nhãn căn thanh tịnh, nhĩ căn, tị căn, thiệt căn, thân căn, ý căn đều thanh tịnh như trước đã nói. Đạt được sáu căn thanh tịnh rồi, lại tăng thêm tuổi thọ đến hai trăm muôn ức na-do-tha tuổi, rộng vì người khác thuyết giảng kinh Pháp hoa này.
“Khi ấy, những người tăng thượng mạn trong bốn chúng: tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, trước đây khinh thường vị tỳ-kheo ấy, đã đặt tên là Bất Khinh, nay thấy vị ấy đạt được sức đại thần thông, sức biện tài nhạo thuyết, sức tịch tịnh an định, được nghe thuyết giảng liền tin phục theo học.
“Bồ Tát ấy giáo hóa ngàn muôn ức chúng sanh, khiến cho trụ trong đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Sau khi qua đời, [lại lần lượt tái sinh] được gặp hai ngàn ức vị Phật, đồng một danh hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh, ở trong pháp hội của chư Phật ấy thuyết giảng kinh Pháp hoa này.
“Do nhân duyên ấy, lại được gặp hai ngàn ức vị Phật, đồng một danh hiệu là Vân Tự Tại Đăng Vương, ở trong pháp hội của chư Phật ấy cũng thọ trì, tụng đọc, vì bốn chúng mà thuyết giảng kinh này, nên thường được nhãn căn, nhĩ căn, tị căn, thiệt căn, thân căn, ý căn thanh tịnh, thuyết pháp giữa bốn chúng với tâm không sợ sệt.
“Này Đắc Đại Thế! Đại Bồ Tát Thường Bất Khinh ấy, cúng dường biết bao nhiêu đức Phật như thế, cung kính, tôn trọng, ngợi khen xưng tán, gieo trồng các căn lành, về sau lại được gặp ngàn muôn ức đức Phật, lại cũng ở trong pháp hội của chư Phật ấy thuyết giảng kinh điển này, thành tựu công đức, liền được thành Phật.”
Tổng đoạn thứ ba từ câu “Khi vị tỳ-kheo ấy sắp qua đời” trở đi, [gồm 2 đoạn] nêu cả hai ý về quả báo của người tin nhận và kẻ hủy báng.
Đoạn thứ nhất chia làm 2 tiểu đoạn. Thứ nhất là nêu quả báo; thứ hai là tóm kết nêu việc xưa và nay.
Tiểu đoạn thứ nhất luận về người tin nhận, có 3 loại quả báo. Thứ nhất là ngay đời này được sáu căn thanh tịnh; thứ hai là tái sinh được gặp đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh; thứ ba là về sau còn được gặp 2.000 ức vị Phật.
“Sức đại thần thông” là thân nghiệp thanh tịnh; “sức biện tài nhạo thuyết” là khẩu nghiệp thanh tịnh; “sức tịch tịnh an định” là ý nghiệp thanh tịnh. Đại lược là như thế.
KINH VĂN
“Đắc Đại Thế! Ý ông nghĩ sao? Bồ Tát Thường Bất Khinh thuở ấy nào phải ai khác, chính là ta đó. Nếu như đời trước ta không thọ trì, tụng đọc kinh này, vì người khác giảng nói, thì không thể nhanh chóng thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Ta ở đạo tràng của chư Phật trước đây thọ trì tụng đọc kinh này, vì người khác giảng nói, cho nên mới nhanh chóng thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”
Tiểu đoạn thứ hai tóm kết, có 2 phân đoạn.
Phân đoạn thứ nhất nêu việc tóm kết, y theo kinh văn hiểu được.
Phân đoạn thứ hai từ câu “Nếu như đời trước ta không...” trở đi, nêu việc tin nhận để khuyến khích thuận theo, y theo kinh văn có thể hiểu được.
KINH VĂN
“Đắc Đại Thế! Bốn chúng tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di thuở xưa, khởi ý sân hận mà khinh thường ta nên trong hai trăm ức kiếp thường không được gặp Phật, không được nghe pháp, không được gặp tăng, ngàn kiếp ở trong địa ngục A-tỳ chịu những khổ não lớn lao. Khi tội nghiệp đã hết, được gặp lại Bồ Tát Thường Bất Khinh, giáo hóa theo đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Đoạn thứ hai từ câu “Đắc Đại Thế! Bốn chúng tỳ-kheo...” trở đi nêu quả báo của kẻ hủy báng, chia ra làm 2 tiểu đoạn. Thứ nhất nêu việc chịu quả báo; thứ hai tóm kết, nêu việc xưa và nay.
Tiểu đoạn thứ nhất nêu việc kẻ hủy báng nhận cả 2 loại quả báo thiện và ác. Vì chê bai nên chịu quả báo rơi vào đường ác. Được nghe nói về tánh Phật nên nhờ sức của trống độc[10] mà nhận quả báo thiện.
KINH VĂN
“Đắc Đại Thế! Ý ông nghĩ sao? Bốn chúng thuở xưa khinh chê vị Bồ Tát ấy nào phải ai khác, chính là những người nay đang ở trong pháp hội này. Đó là nhóm ông Bạt-đà-la năm trăm Bồ Tát, nhóm ông Sư Tử Nguyệt năm trăm tỳ-kheo, nhóm ông Ni-tư-phật năm trăm ưu-bà-tắc,[11] đều được bất thối chuyển đối với Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
“Đắc Đại Thế! Nên biết rằng kinh Pháp hoa này làm lợi ích lớn lao cho các vị Đại Bồ Tát, có thể giúp đạt đến quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Cho nên sau khi Như Lai diệt độ, các Đại Bồ Tát nên thường thọ trì, tụng, đọc, giảng nói, sao chép kinh này.”
Tiểu đoạn thứ hai tóm kết nêu việc xưa nay, lại chia thành 2 phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất tóm kết nêu việc xưa nay. Phân đoạn thứ hai từ câu “Đắc Đại Thế! Nên biết rằng…” trở đi là nêu việc nghịch để làm rõ việc thuận theo, khuyên thọ trì [kinh điển] để ngăn chặn sự hủy báng. Kinh này có sức mạnh lớn lao nên chiêu cảm được quả lớn lao, quan trọng là phải chuyên cần tu tập 5 loại thực hành.[12]
KINH VĂN
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa trên nên nói kệ rằng:
“Thuở quá khứ có Phật,
Hiệu là Oai Âm Vương.
Sức trí tuệ vô lượng,
Dẫn dắt mọi chúng sanh;
Chư thiên, người, rồng, thần,
Đều cùng nhau cúng dường.
Sau khi Phật diệt độ,
Lúc pháp Phật sắp diệt,
Có một vị Bồ Tát,
Hiệu là Thường Bất Khinh.
Khi ấy trong bốn chúng,
Đều bám chấp nơi pháp.
Bồ Tát Thường Bất Khinh,
Thường đi đến chỗ họ,
Nói lời cung kính rằng:
‘Tôi không dám khinh thường,
Các ngài đều tu đạo,
Tương lai sẽ thành Phật.’
Những người kia nghe vậy,
Đều khinh chê, mắng nhiếc;
Bồ Tát Thường Bất Khinh,
Nhẫn chịu được tất cả.
Khi tội nghiệp đã dứt,
Bồ Tát sắp mạng chung,
Được nghe kinh Pháp hoa,
Sáu căn liền thanh tịnh.
Liền được sức thần thông,
Tuổi thọ kéo dài thêm,
Lại vì những người khác,
Rộng thuyết kinh Pháp hoa.
Những người trước mê chấp,
Nay đều được Bồ Tát,
Giáo hóa cho thành tựu,
Trụ yên trong đạo Phật.
Bồ Tát viên tịch rồi,
Gặp vô số chư Phật;
Nhờ giảng nói Pháp hoa,
Được vô lượng phước báo;
Dần dần đủ công đức,
Nhanh chóng thành quả Phật.
Thường Bất Khinh thuở trước,
Chính là ta ngày nay.
Còn bốn chúng thuở ấy,
Người bám chấp, mê pháp,
Được nghe Bồ Tát nói:
‘Đều sẽ được thành Phật.’
Nhờ vào nhân duyên ấy,
Được gặp vô số Phật.
Là Bồ Tát hội này,
Có nhóm năm trăm người;
Cùng với trong bốn chúng,
Có cư sĩ nam, nữ,
Nay đang ở trước Phật,
Cung kính nghe thuyết pháp.
Ta từ những đời trước,
Khuyên dạy những người này:
Nghe, thọ kinh Pháp hoa,
Là pháp tu bậc nhất.
Mở bày, giáo hóa người,
Khiến trụ nơi Niết-bàn;
Đời đời nên thọ trì,
Kinh điển bậc nhất này.
Vì qua ngàn muôn ức,
Số kiếp không nghĩ bàn,
Mới có thể được nghe,
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa;
Lại qua ngàn muôn ức,
Số kiếp không nghĩ bàn,
Các đức Phật Thế Tôn,
Mới thuyết giảng kinh này.
Cho nên người tu học,
Sau khi Phật diệt độ,
Nếu được nghe kinh này,
Đừng sinh tâm nghi hoặc;
Mà nên trọn một lòng,
Truyền rộng kinh điển này;
Đời đời luôn gặp Phật,
Chóng thành đạo Vô thượng.
Phần kệ tụng này có 19 khổ rưỡi kệ, chia làm 2 đoạn.
Đoạn thứ nhất có 15 khổ rưỡi, chỉ tụng về nhân quả của người tin nhận và kẻ hủy báng.
Đoạn thứ hai có 4 khổ kệ, tụng nghĩa khuyến khích thọ trì [kinh này]. Y theo kinh văn có thể hiểu rõ, không cần phải phân chia chi tiết.
“Đều bám chấp nơi pháp” là nói pháp không thể chỉ bày, nếu cố chấp nói là “có” tức là bám chấp nơi pháp; thậm chí cố chấp cho là chẳng phải có chẳng phải không cũng gọi là bám chấp nơi pháp. Kinh Phật tạng nói: “Dùng vòng đao giết hại hết người trong cõi Diêm-phù-đề, tội ấy cũng còn nhỏ nếu so với người dùng tâm bám chấp sở đắc mà thuyết giảng pháp Đại thừa, tội này lớn hơn.”[13] Đại lược là như vậy.
Luận Đại trí độ nói: “Kẻ chấp có cùng người chấp không tranh luận nhau, hoặc thậm chí người chấp chẳng phải có chẳng phải không tranh luận với người chấp có chấp không. [Tất cả đều] như [buộc quấn bằng] da bò, dây cỏ râu rồng,[14] không tránh khỏi tai họa.”
Trung luận nói:
“Chư Phật thuyết pháp ‘không’,
Vì giáo hóa chấp ‘có’;
Nếu lại bám chấp ‘không’,
Chư Phật không giáo hóa.”[15]
Nếu nói nhất định rằng các pháp ‘chẳng phải có chẳng phải không’ thì gọi là luận giải ngu si.”
Nếu để mất đi ý chỉ của bốn pháp tất đàn thì dù tự mình thực hành hay giáo hóa người khác cũng đều là bám chấp pháp. Nếu đạt được ý chỉ của bốn pháp tất đàn thì dù đối với tự thân mình hay người khác đều không còn bám chấp.
______________________
CHÚ THÍCH
[1] Kinh Kiến thật Tam-muội, tức Bồ Tát kiến thật Tam-muội kinh (菩薩見實三昧經), nay được tìm thấy là hội thứ 16: Bồ Tát kiến thật hội (菩薩見實會) trong kinh Đại Bảo Tích (大寶積經), quyển 61. (ĐCT, T11, 310)
[2] Bồ Tát Đắc Đại Thế (得大勢菩薩), tên Phạn ngữ là Mahā-sthāma-prāpta, danh xưng thường gặp hơn là Bồ Tát Đại Thế Chí (大勢至菩薩). Chánh Pháp hoa kinh gọi tên vị này là Bồ Tát Đức Đại Thế (德大勢菩薩).
[3] Tham khảo Chánh Pháp hoa Kinh, đoạn tương ứng nói rằng: “時此諸佛次第滅度,正法沒已像法次盡,彼世比丘,憍慢自大越背法詔。 - Thời thử chư Phật thứ đệ diệt độ, chánh pháp một dĩ tượng pháp thứ tận, bỉ thế tỳ-kheo, kiêu mạn tự đại việt bội pháp chiếu.” (ĐCT, T9, 263, tr.122c, d. 20 - 22) Nếu hiểu theo câu này thì việc các tỳ-kheo “kiêu mạn, tự đại” là xảy ra sau thời tượng pháp của vị Phật cuối cùng trong số hai muôn ức đức Phật có danh hiệu Oai Âm Vương. Điều này có vẻ như hợp lý hơn, vì nếu trong câu chuyện này, sự việc xảy ra sau khi đức Phật đầu tiên (tối sơ) diệt độ, thì không có lý do gì để phải đề cập đến tất cả những vị Phật tiếp theo trong số hai muôn ức vị Phật cùng một danh hiệu. Trong phần kệ trùng tụng tiếp theo không thấy nhắc đến chi tiết “hai muôn ức vị Phật”.
[4] Nguyên tác dùng “bản sự” (本事) để chỉ câu chuyện tiền thân của đức Phật Thích-ca Mâu-ni.
[5] Khai quyền hiển thật (開權顯實): tức là chỉ bày và phủ nhận các pháp quyền thừa trước đây để hiển lộ, làm rõ pháp chân thật rốt ráo. Do vậy chữ khai (開) vừa có nghĩa khai mở, chỉ bày, vừa có nghĩa khai trừ, trừ bỏ.
[6] Khai cận hiển viễn (開近顯遠): tức là chỉ bày và phủ nhận việc đức Phật vừa thành đạo gần đây để hiển lộ, làm rõ sự thật rốt ráo là đức Phật vốn đã thành Phật từ lâu xa về trước.
[7] Ba nghiệp là thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp vừa kể, khi kết hợp với tâm từ bi thì thành bốn hạnh an vui (tứ an lạc hạnh - 四安樂行) đã được kể trong phẩm Hạnh an vui, bao gồm: thân an lạc hạnh (身安樂行), khẩu an lạc hạnh (口安樂行), ý an lạc hạnh (意安樂行) và thệ nguyện an lạc hạnh (誓願安樂行).
[8] Có lẽ do ý nghĩa này, trong kinh Chánh Pháp hoa gọi tên vị này là Thường Bị Khinh Mạn (常被輕慢).
[9] Bản địa (本地): tức bản nguyên từ xa xưa. Ở đây nói giáo pháp “khai cận hiển viễn” tức là chỉ lời dạy của Phật nêu rõ việc đức Phật vốn đã thành Phật từ lâu xa về trước (hiển viễn), không phải mới gần đây nơi Bồ-đề Đạo tràng (khai cận).
[10] Độc cổ (毒鼓), trống có độc, ví dụ đã được dẫn một lần trong phần Giải thích phẩm Phương tiện, nêu việc mặt trống có tẩm độc khi đánh lên thì người nghe phải chết, nhưng trống ấy ví như Đại thừa nên cũng phá trừ hết vô minh, khiến người nghe về sau có thể khai mở tánh Phật.
[11] Kinh văn chỗ này chỉ nói đến Bồ Tát, tỳ-kheo và ưu-bà-tắc, không đề cập đến nữ giới trong khi phần trước đã nhiều lần đề cập đủ bốn chúng, tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di. Tham khảo kinh Chánh Pháp hoa thì đoạn tương đương là: “今此會中颰陀和等五百菩薩,師子月等五百比丘、比丘尼,今在佛前五百清信士、五百清信女等,皆不退轉,當成無上正真之道。 - Kim thử hội trung Bạt-đà-hòa đẳng ngũ bách Bồ Tát, Sư Tử Nguyệt đẳng ngũ bách tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni; kim tại Phật tiền ngũ bách thanh tín sĩ, ngũ bách thanh tín nữ đẳng, giai bất thối chuyển, đương thành Vô thượng Chánh chân chi đạo.” (ĐCT, T9, 263, tr.123b, d.22-25) (Nay trong hội này là nhóm Bạt-đà-hòa năm trăm Bồ Tát, nhóm Sư Tử Nguyệt năm trăm tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, và ở trước Phật có năm trăm cư sĩ nam, năm trăm cư sĩ nữ, đều đã được bất thối chuyển, sẽ thành tựu đạo Vô thượng Chánh chân.) Đoạn này có vẻ hợp lý hơn khi đề cập đầy đủ bốn chúng. Bản của H. Kern dịch từ Phạn ngữ sang Anh ngữ là: “They are, in this very assembly, the five hundred Bodhisattvas headed by Bhadrapāla, the five hundred nuns following Simhakandrā, the five hundred lay devotees following Sugataketanā, who all of them have been rendered inflexible in supreme, perfect enlightenment.” (Ngay trong pháp hội này, họ chính là năm trăm Bồ Tát do Bạt-đà-bà-la dẫn dắt, năm trăm tỳ-kheo-ni đi theo Sư Tử Nguyệt, năm trăm cư sĩ đi theo Thiện Thệ Tràng, tất cả đều đã được bất thối chuyển đối với đạo Giác ngộ Vô thượng.) Ở đây có đề cập đến tỳ-kheo-ni, và tên gọi Simhakandrā (Sư Tử Nguyệt) cũng có vẻ là một người phái nữ.
[12] Tương ứng với 5 loại pháp sư đã giảng nên đây là 5 pháp thực hành đối với kinh văn, bao gồm: thọ trì, tụng, đọc, giảng nói, sao chép.
[13] Chúng tôi chưa tìm ra đoạn trích dẫn này trong kinh Phật tạng (佛藏經 - ĐCT, T15, 653).
[14] Nguyên tác là “ngưu bì, long thằng” (牛皮龍繩) chỉ da bò và loại dây buộc làm bằng loại cỏ râu rồng. Da bò khô nếu khoác lên người thì ngày càng co rút lại, bó chặt rất khó cởi ra; cỏ râu rồng dùng làm dây trói, khi ngâm nước thì siết chặt lại, khiến người bị trói rất đau đớn. Hai ví dụ này để chỉ tình huống ngày càng bị trói buộc nhiều hơn, không thể thoát được nên không tránh được tai họa.
[15] Văn cú dẫn bốn câu kệ này là: “諸佛說空法, 本為化於有; 若有著空者, 諸佛所不化。” - Chư Phật thuyết ‘không’ pháp, bản vị hóa ư hữu; nhược hữu trước ‘không’ giả, chư Phật sở bất hóa.” Nguyên văn trong Trung luận, quyển 2 có khác biệt nhỏ về cách diễn đạt: “大聖說空法, 為離諸見故; 若復見有空, 諸佛所不化 - Đại thánh thuyết ‘không’ pháp, vị ly chư kiến cố; nhược phục kiến hữu ‘không’, chư Phật sở bất hóa.” (ĐCT, T30, 1564, tr.18c, d.16-17)
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.105 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập