Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
CHƯƠNG IV
ĐỐN NGỘ TU CHỨNG
Tăng hỏi: Thế nào là Tông?
Sư đáp: Muôn pháp đều qui về Tông. Tông tức là Tâm. Tâm nầy rỗng suốt mà mầu nhiệm, dung thông rộng lớn, vô trụ vô vị, không tu không chứng. Kinh nói: “Phật nói lấy tâm làm Tông, lấy cửa không làm cửa Pháp”. Từ Ấn Độ đến Trung Hoa, xưa nay chư Phật đã tao tay nhau, chư Tổ truyền thụ nhau chỉ một tâm nầy lập làm tông thể.
Thế nầy thanh tịnh vốn tự tròn sáng, theo dòng đời chẳng nhiễm ô, ngược dòng trở lại cũng chẳng tịnh, ở trong phàm chẳng giảm bớt, nơi thánh chẳng tăng thêm. Ở trong các loài tuy khác mà tâm kia chẳng hại. Trí huệ soi nó thì quang minh hiện. Phiền não che nó thì diệt thể ẩn. Nếu lìa tâm này mà tu cái gì khác, rốt lại chỉ thành tà ma ngoại đạo.
Tăng hỏi: Thế nào là giáo?
Sư đáp: Chư phật thuyết pháp, phương tiện mở ra ba thừa, năm tánh. Bồ tát tạo luận phát minh ra muôn pháp chỉ một Tâm. Người học đời sau nhơn giải bày mà được yếu chỉ, đoạn hoặc về chơn. Kẻ sơ cơ được thỏ quên dò, gia công tu tập để chứng lý.
HỎI: Hai môn Tông (thiền), Giáo (kinh điển) lý nó là đồng hay biệt?
ĐÁP: Tông tức là giáo không chữ (vô tư giáo). Giáo tức là tông có chữ (hữu tự tông).
HỎI: Hai môn Tông, Giáo lý kia vốn một. Vậy do đâu lại nói “giáo ngoại biệt truyền”?
ĐÁP: Giáo nhờ ngôn ngữ văn tự mới có thể hiểu lẽ màu. Tông (thiền) lìa ngôn ngữ văn tự, đốn ngộ nhứt tâm, nên nói “giáo ngoại biệt truyền” (truyền riêng ngoài giáo điển), lại gọi là “Tông chỉ hướng thượng”.
HỎI: Vậy sao nói sự truyền thụ có sâu cạn?
ĐÁP: Sâu cạn là do người, lý vốn không hai.
HỎI: Thế nào là lý không hai?
ĐÁP: Nghe giáo hiểu lý, phải gia công tu chứng, tự hiệp với đạo vô vi. Tông môn Đốn ngộ ắt phải mượn viên tu mới trở lại bổn tâm tịch chiếu.
Tăng hỏi: Kinh nói: “Phương tiện có nhiều cửa, trở lại nguồi tánh không hai”. Chưa biết cửa nào là cửa liễu thoát thẳng?
Sư đáp: Có hai nhơn trong ngoài có thể liễu thoát thẳng.
Tăng nói: Xin thầy chỉ thẳng hai nhơn trong ngoài ấy?
ĐÁP: Nhơn bên ngoài là phải đoạn tâm dục, sát sanh và trộm cắp. Nhơn bên trong cốt yếu là phải “Minh tâm kiến tánh”.
HỎI: Cớ sao nhơn bên ngoài phải đoạn dâm dục, sát sanh và trộm cắp?
ĐÁP: Chúng sanh do ý tưởng dâm dục, nên bị cột trói trong sanh tử. Sát sanh thì phải lần lượt thường mạng đã vay, nên có luân hồi. Trộm cắp thì phải trả lại cái lợi xưa, nên phải tái lai. Ba thứ nhơn nầy nếu trừ thì dòng luân hồi vĩnh viễn cắt đứt, không tiếp tục nữa.
HỎI: Nhơn bên trong là “Minh tâm kiến tánh” như thế nào?
ĐÁP: Minh tâm là rõ tâm vốn tịnh. Kiến tánh là thấy tánh vốn không.
HỎI: Thế nào là rõ tâm vốn tịnh?
ĐÁP: Tâm ở đây chẳng phải là trái tim máu thịt trong sắc thân. Tâm nầy cũng chẳng phải là vọng tâm sanh diệt, vuông chừng gang tấc ở bên trong. Trái lại, tâm nầy biến khắp pháp giới, thấu suốt mười phương, vượt ra ngoài đối đãi, dứt các hí luận chẳng diệt chẳng sanh, chẳng có chẳng không, mà rỗng suốt màu nhiệm chẳng mê, ứng vật tròn đầy khéo léo, cuốn lại hay buông ra đều chẳng ngại, ra vào ngang dọc, tuỳ duyên mà chẳng biến đổi. Đấy là chơn tâm thường trụ. Cho nên chư Phật quá khứ đều chứng tâm nầy. Hiện tại chư Bồ tát đồng học tâm nầy. Người học vị lai đều sáng tâm nầy. Chúng sanh ở trong mê là mê tâm nầy. Hành nhơn phát ngộ là ngộ tâm nầy. Một đại tang giáo chỉ làm hiển bày tâm nầy. Tâm nầy quá linh diệu khó đem ra mà nói cho hết, chỉ lược nêu ra một hai để người sau tin ngộ.
HỎI: Thế nào là thấy tánh vốn không?
ĐÁP: Chơn như tự tánh xưa nay vốn là không tịch, không hình không tướng, lặng trong như thái hư, chẳng động chẳng lai, ngưng nhiên thường trụ, gọi là “Bổn lai diện mục”, lại gọi là “Vô vi chon nhơn”. Tất cả sơn hà đại địa, có cây rừng bụi, sum la vạn tượng, các pháp nhiễm tịnh đều từ trong tánh nầy lưu xuất.
HỎI: Bản tánh và chơn tâm là một hay hai?
ĐÁP: Chẳng phải một, cũng chẳng phải hai.
HỎI: Thế nào chẳng phải một, chẳng phải hai?
ĐÁP: Bản tánh là thể, chơn tâm là dụng. Bản tánh như gương, chơn tâm như ánh sáng (của gương). Ánh sáng chẳng lìa gương, gương chẳng lìa ánh sáng. Cổ đức nói: “Tánh thì sáng mà mầu, ngưng đọng mà lặng trong, giống như thể của gương. Tâm thì từ mầu khởi sáng viên dung chiếu liễu, như ánh sáng của gương”. Ánh sáng và gương phân làm hai, nên chẳng phải một. Ánh sáng và gương vốn một nên chẳng phải hai.
HỎI: Ngài đã nói tâm tánh của Phật và chúng sanh thể chỉ có một. Do đâu Phật ở cõi thánh, còn chúng sanh nơi đất phàm?
ĐÁP: Phật và chúng sanh tánh thể vốn không. Bởi tâm có nhiễm tịnh nên gọi là thánh hay phàm.
HỎI: Tại sao tâm có nhiễm tịnh?
ĐÁP: Bổn tánh như gương tròn sáng không lặng. Các bậc thánh vô tâm ứng đối với sự vật, tới lui không nhiễm, gọi đó là ánh sáng tịnh (tịnh quang). Chúng sanh hữu tâm ứng đối với sự vật, phân biệt thủ xả, gọi đo là ánh sáng nhiễm (nhiễm quang). Nhiễm tịnh tuy khác nhau, nhưng thể nó không hai.
HỎI: Bản thể của tâm tánh có hạn lượng chăng?
ĐÁP: Có.
HỎI: Thể nó lớn lắm không?
ĐÁP: Gồm khắp thập hư, đầy khắp muôn cõi.
HỎI: Tâm tánh đã rộng lớn không ngần như vậy, do đâu lại ở trong nhục thân nầy?
ĐÁP: Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay bị cột trói, tù hãm trong thai ngục, bị cùm gông nơi nhục thân. Vọng chấp cứng ngắc, lầm cho cái tâm tánh rộng lớn ở trong thân, rồi đi nhận giặc làm con, như tù hãm trong ngục lớn, ngày nào mới được ra? Chẳng những người, trời mê lầm như vậy mà hàng tiểu thừa cũng còn như thế.
HỎI: Tâm tánh không ở trong thân tôi này hay suy nghĩ đó là gì?
ĐÁP: Ông nghi hỏi cái huyễn thức trong thân, hay suy nghĩ cho là tâm ta. Đấy là bóng dáng duyên theo sáu trần, làm mê hoặc chơn tánh ông. Ông vô cớ chấp cứng ở bên trong, khó thoát khỏi thai ngục. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Phật bảo A-Nan! Đấy là tướng tiền trần vọng tưởng hư dối, làm mê hoặc chơn tánh ông. Từ vô thỉ đến nay, ông nhận giặc làm con, làm mất cái nguyên thường của ông, nên chịu luân chuyển”. Nếu hướng vào trong đây mà sáng tỏ được tâm suy nghĩ, như bóng trong gương, như hoa đốm trong hư không, như dối hiện vành xe trong không, vốn không có thực chất.
HỎI: Cái suy nghĩ, ở trong thân là do bóng dáng duyên theo sáu trần. Vậy thế nào là cái chơn tánh sáng suốt mầu nhiệm của tôi?
ĐÁP: Chúng sanh chẳng ngộ tâm tánh rộng lớn, không ở trong ngoài mà lại nhận bóng dáng của trần cảnh lầm cho là hư không bao nhục thân, nhục thân bao nhục tâm, nhục tâm bao chơn tánh, rồi bị nhiều lớp cột trói, và chấp cứng vào tham ái. Há chẳng biết, hư không đại địa, muôn vật thân tâm đều là những bóng dáng từ diệu minh chơn tánh của ta hiện ra. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Các duyên hội hợp lại dao động bên trong, rong ruổi bên ngoài, mờ mịt nhiễu loạn và tưởng nhiễu loạn. Tất cả cho là tâm tánh. Một khi lầm cho là tâm rồi thì nhất định cũng lầm cho bên trong sắc thân. Chẳng biết sự vật bên ngoài sắc thân cho đến núi sông, hư không, cõi đất… tất cả đều là vật trong diệu minh chơn tâm cả”.
Sợ e ông chưa ngộ, tôi xin nêu ra một thí dụ: Bản tánh như một chiếc gương lớn cùng tận pháp giới. chơn tâm mầu nhiệm chiếu soi như ánh sáng trong chiếc gương kia. Núi sông cõi đất, sum la vạn tượng, cho đến nhục thân cùng tâm thức, tất cả đều là bóng trong chiếc gương. Chúng sanh nhận bóng cho nên phải chìm đắm trong chín cõi, bốn loài. Nếu nhận gương thì trở về chơn tâm trong chớp mắt.
HỎI: Tâm tánh rộng lớn, nuôi khắp muôn loài, chẳng ở trong thân, tưởng ở ngoài thân và bao trùm nhục thân, lý nầy phải chăng?
ĐÁP: Chẳng phải!
HỎI: Bên trong chẳng thành, bên ngoài chẳng phải, lý nầy rất ngờ, xin thầy giải cho?
ĐÁP: Bản tánh là một cái không cùng khắp, không ở trong thân, không ở ngoài thân. Chơn tâm cô trụ chẳng tức là thân, cũng chẳng lìa thân. Cho nên ngài A Nan, trong Kinh Lăng Nghiêm, chấp cái vọng không bằng cứ, bảy nơi mờ mịt. Nhị Tổ Huệ Khả ngộ lẽ chơn vốn chẳng sanh, nên chỉ một lời khế hợp với Đạo. Ông nếu ngu độn tôi chỉ bày trở lại cho ông bằng một thí dụ:
Bản tánh như bể lớn, nước trong lặng. Chơn tâm như ánh sáng của nước trong ấy. Do gió khởi động bỗng thành bọt bể. Bọt bể là sắc thân, nước bể là pháp thân, chất ướt của bọt bể là thức tánh, chất ướt của nước bể là bổn tánh. Bọt bể ướt, nước biển ướt, tánh ướt vốn có một, cho nên chẳng phải trong ngoài. Nước biển ướt, bọt biển ướt, tánh ướt mỗi cái có một như có trong ngoài. Kẻ phàm phu mê chấp bọt biển, trở lại đi bỏ bể cả vô biên. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Ví như trăm ngàn bể lớn trong lặng mà bỏ đi, rồi lại nhận một tí bọt bể cho là toàn cả nước thủy triều, đều gom trong hòn bọt ấy. Tất cả các ông là những người mê gấp bội hơn trong những người mê”. Người học đời sau nếu ngộ được nước bể và nước của bọt bể, tánh ướt vốn một thì làm gì có cái chấp nhất định rằng trong hay ngoài? Chẳng ngộ được bổn tánh thật đáng buồn vậy!
HỎI: Chất ướt của nước biển dụ cho pháp giới tánh. Chất ướt của bọt biển dụ cho thức ở trong thân. Tánh ướt không hai chẳng trong ngoài. Đã chẳng trong ngoài khi báo hết mạng chung, lìa đây sanh nơi kia hiện có ra vào... đã có ra vào sao nói chẳng trong ngoài?
ĐÁP: Như sự khai thị ở trên của tôi, ông không thể liễu ngộ mà trở lại tìm sự sanh diệt của những bông hoa chập chờn trong hư không, có thể bảo là kẻ ngu muội thái quá.
Bởi do ngay lúc đầu chẳng giữ tự tánh, một niệm vọng động nên bị trói buộc trong thai ngục, đời đời chấp cứng, nhất quyết là ở trong thân có ra có vào, có đến có đi. Trong ngoài đến đi như hoa trong hư không. Hoa tuy có sanh diệt nhưng hư không vốn bất động. Thần thức giống như có ra vào, nhưng tánh nó vốn chẳng động. Chỉ như hoa giữa hư không là huyễn, thần thức trong thân là vọng. Nay đem hoa huyễn trong không, để phát minh vọng thức trong thân, lý kia không hai, ông nên tư xét. Ông nếu chẳng ngộ xin dẫn kinh ra để dụ:
Kinh Lăng Nghiêm nói: “Thí như có người mang chiếc bình Tần già điểu, đậy kín hai miệng lại, bên trong đầy cả hư không, mang bình ấy đi xa ngàn dặm rồi dùng bình ấy tặng cho một nước khác. Nên biết thức ấm cũng lại giống như vậy. A Nan, hư không nầy chẳng phải từ phương trời kia lại, cũng không từ phương nầy vào. Như vậy A Nan, nếu từ phương trời kia lại thì ở trong bình đã có chứa hư không mang đi, và ở nơi quê hương của chiếc bình, lý ưng đã thiếu một khoảng hư không. Nếu từ phương nầy vào thì khi mở nút trút bình ra lý ưng thấy hư không rớt ra. Thế cho nên biết, thức ấm hư vọng vốn chẳng phải nhân duyên, cũng chẳng phải tự nhiên”.
Giải thích: Tần già điểu là tên của chiếc bình. Đậy hai miệng là dụ cho nghiệp thiện ác. Bình dụ cho nghiệp lựchay dẫn thức đi. Hư không trong bình là dụ cho thức theo nghiệp. Hư không ở bình và hư không ở ngoài, giống như có trong ngoài. Hư không không có hai thể, trong ngoài chỉ có một, nên chẳng phải trong ngoài. Hư không trong bình dụ cho thức vốn không, do nghiệp thiện ác mà dẫn thần thức đi, dụ như vác bình đi xa ngàn dặm. Dùng tặng nước khác dụ cho xả ở đây và thọ ở kia. Kinh nói: “A Nan! Hư không ấy chẳng phải từ phương trời kia lại, mà cũng chẳng từ phương nầy vào”. Đấy là dụ cho sự xả thân, như từ phương trời kia lại, nhưng mà thần thức của thân trước chưa từng thiếu. Sự thọ thân như từ phương nầy vào, nhưng mà thần thức của thân sau chưa từng đến. Thế nên biết, thân chết chẳng phải đi, trước khi chưa chết cũng chẳng riêng ở nơi đây. Thân sống chẳng phải đến, trước khi chưa sanh vốn cũng khắp cả nơi đây. Kẻ mê chẳng rõ cho là ở bên trong và có ra vào. Người ngộ hiểu rõ ràng thể vốn không đây kia, há lại có đến đi ư?
HỎI: Người ngộ rõ biết được thể vốn không đi không lại. Hiện nay có người chết đây sanh kia, tức là có tướng đi tướng lại?
ĐÁP: Các duyên hội hợp thì sanh, các duyên chia lìa thì diệt. Tuy có hiện ra tướng đến đi, nhưng mà cái “Viên minh bản nhiên” chẳng động. Kẻ phàm phu do bệnh mắt, lần nhận hoa đốm giữa hư không, có sanh có diệt theo duyên mà lưu chuyển. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Nầy thiện nam tử! Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, điên đảo nhiều lớp. Giống như người lầm bốn hướng đổi chỗ. Lầm nhận tứ đại làm tướng của tự thân. Sáu trần duyên bóng làm tướng của tự tâm. Ví như người bệnh mắt, thấy hoa đốm trong hư không. Cho đến những hoa ấy diệt trong hư không, cũng không thể nói rằng quyết có chỗ diệt. Tại sao thể? – Vì là không sanh vậy. Tất cả chúng sanh ở trong không sanh mà lầm thấy có sanh diệt. Ấy cho nên gọi là lưu chuyển sanh tử”. Người học đời sau chẳng đốn ngộ được sự sanh diệt của huyễn thức, và tâm thể viên giác thường trụ chẳng động. Tổ Sư nói: “Hài cốt tuy có hợp có tan, nhưng có một vật màu nhiệm còn mãi” (hài cốt tuy hội tán, nhứt vật trấu trường linh). Nếu liễu đạt được tâm nầy thì có gì là sanh tử?
HỎI: Ngài khai thị quá rõ ràng không thể chẳng hiểu. Nhưng chẳng biết do đâu ngay lúc ban đầu lại có thân tâm của ta?
ĐÁP: Nguồn chơn trạm tịnh, biển giác lặng trong. Vốn không có đầu mối của năng sở, thì làm sao có dấu tích của danh tướng? Bởi ngay lúc ban đều chẳng giác ngộ, bỗng có động tâm, nhơn minh lập ra chiếu, theo chiếu lập ra trần. Do đó nên khiến phần bỗng chốc hưng khởi, rồi danh tướng bày khắp. giống như gương hiện tướng, thoắt khởi ra căn thân. Kế đó tuỳ theo tưởng mà thế giới thành sai khác. Về sau do yêu ghét mà chìm đắm trong ba cõi, dối thọ luân hồi không lúc ngơi nghỉ.
HỎI: Nếu thật như lời ngài nói ngay lúc ban đầu chẳng giác ngộ, chợt có động tâm, thoắt khởi ra căn thân. Cái huyễn thân này quả báo hết, bốn đại phân tán, cái huyễn thức trong thân đầu thai như thế nào?
ĐÁP: Kẻ phàm phu suốt ngày cứ chạy đuổi theo tình thức mà kết nghiệp hoặc thiện hoặc ác, rồi theo nhơn đã tạo mà cảm quả. Đến lúc lâm chung, cõi đất tối đen, lúc ấy thần thức gặp được chỗ có duyên, thấy một đốm sáng, chạy đến thấy cha mẹ hai tướng giao cấu, bèn khởi ra ý tưởng yêu ghét, dồn tưởng ấy rồi nhẩy vào hai giọt nước đỏ trắng, giống như đá nam châm hút sắt. Trong chớp mắt những khuấy động kia dừng lại, bây giờ ở trong thai lần lượt trải qua năm giai đoạn:
Bảy ngày đầu gọi là tạp uế. Bấy giờ tinh cha và huyết mẹ lắng lại như váng sữa mỏng, cùng hoà hợp với nhau gọi là Tạp, chẳng sạch gọi là uế. Bảy ngày thứ hai gọi là thương bào, giống như huyễn đậu. Hình dáng của thương bào như sữa gần đặc, nhưng mà chưa sanh ra máu. Bảy ngày thứ ba gọi là ngưng kết, lần đầu có dáng ngưng đọng lại, như có máu. Bảy ngày thứ tư gọi là ngưng hậu, lần lượt cứng chắc, năm tạng lần lần sanh. Bảy ngày thứ năm gọi là hình vị, lúc bấy giờ gió bên trong thổi nên sanh ra hình dáng của các căn: một thân mình và tứ chi sai khác, bảy ngày thứ năm ngũ căn đều đủ. Bảy ngày thứ sáu gọi là “phát trảo xỉ” (tóc răng đều mọc). Bảy ngày thứ bảy gọi là các cụ căn (các căn hoàn toàn đầy đủ), tất cả tạng phủ và ngũ căn đều xong xuôi. Đủ mười tháng ra khỏi thai làm người, ở trong sự ràng buộc của thức tình, phân thành sáu công dụng, thấy nghe hiểu biết tùy theo cảnh mà tạo nghiệp, sanh tử tiếp nối xoay vần không dừng.
HỎI: Thần thức lúc đầu thai có hình trạng chăng?
ĐÁP: Có
HỎI: Hình trạng như thế nào?
ĐÁP: Thần thức lúc đầu thai gọi trung hữu (trung ấm), là khoảng giữa của của tử hữu (tiền ấm) và sanh hữu (hậu ấm). Thân trung hữu của loài người hình trạng như lúc sống, hình trạng của nó chẳng hơn ba thước (thước tàu) lớn như đứa con nít năm sáu tuổi. Thân trung hữu của loài súc sanh hình trạng giống loài súc sanh, ngoài ra các loài khác cũng vậy. Tất cả đều như lúc còn đang sống. Hình trạng của thần thức tuy nhỏ, nhưng hay tạo tác các nghiệp. Đầu thai bên cha mẹ, rồi sanh niệm điên đảo yêu ghét. Người thường gọi là hồi ma.
HỎI: Ở đời có người chẳng đầu thai mà Đoạt xá là sao?
ĐÁP: Ở đời có những kẻ sĩ học Đạo, hoặc là người có phúc. Những người ấy chẳng nhập vào thai bào, đợi gặp chỗ có duyên, khi cha mẹ vừa sanh, chợt có tiếng động. Lúc bấy giờ điểm linh của thức quang xẹt thẳng vào thông môn, ép cho thần thức của thai dang ra, để chiếm nhà (đoạt xá) thành người. Đây là cảnh giới không thể nghĩ bị, không thể dùng ý thức tạo tác mà có thể hiểu được.
HỎI: Chúng sanh ở thế gian khi báo hết mạng chung, tự đầu thai vào cha mẹ, hoặc đoạt xá. Như vậy, sự thọ tội nơi địa ngục, tôi nghĩ rằng chưa ắt là có thật?
ĐÁP: Địa ngục chẳng không nhơn tâm mà có. Tất cả chúng sanh, mười tập kết nghiệp, bởi do tập thành nên theo nghiệp thọ báo. Tâm hiện ra địa ngục, chớ không phải cảnh ngoài. Bài kệ trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Nên quán tánh của pháp giới, hết thảy chỉ do tâm tạo”. Vậy nên biết, sự chịu báo ở địa ngục là do tự tâm mình hiện ra. Kinh Lăng Nghiêm nói” “A Nan! Đấy gọi là địa ngục mười nhơn sáu quả. Tất cả đều do sự mê vọng của chúng sanh mà gây ra”. Kẻ hậu học nên cẩn thận, chớ nghe nói địa ngục là hư huyễn mà khinh thường, mà chẳng dứt được ác nghiệp. Cứ đùa bỡn với tập nhơn mà phải theo nghiệp, lúc ấy tự tâm địa ngục chợt ở trước mắt. Muốn thoát khỏi cảnh địa ngục ấy, há chẳng khó sao?
Như người sanh ra ở đời, làm lành hoặc tạo ác lớn nhỏ chẳng đồng rồi tuỳ theo nhơn mà thọ quả báo. Người gieo điều lành lớn tự tâm cảm sanh lên thiên đườmg. kẻ tạo ác nhiều tự tâm cảm đoạ vào địa ngục. Người thiện ác quân bình tự đầu thai vào cha mẹ. Kẻ tội và phúc đều kém, chưa thọ sanh liền, bỗng nhiên có hình gọi là thân trung ấm: từ không mà chợt có, gọi đó là hoá sanh, có thân hình chừng ba thước (thước tàu), sáu căn lanh lợi, tới lui nhậm lẹ, không chỗ nào ngăn ngại, người khác xem như bóng mà thôi, bảy ngày chết rồi lại sanh, sống lâu không quá bốn mươi chín ngày, sống ngắn chừng hai ba thất liền thọ sanh. Thói thường gọi là hồn.
HỎI: Bản tánh rộng lốn, thể trùm thái hư. Chơn tâm vô trụ chẳng ở trong ngoài. Thức tâm trong thân, bị giam hãm cột trói nơi thai ngục. Xin hỏi rằng bên trong của thức tâm có chơn tâm, hay lìa ngoài thức tâm có chơn tâm riêng khác?
ĐÁP: Trong quặng có vàng, trong sóng có nước. Tạng thức tại triền che lấp chơn như. Người sơ học phải ngộ lẽ chơn và vọng. Nương vào chơn tâm thì mau chứng bồ đề, chạy theo vọng tâm thì phiêu lưu trong sanh tử.
HỎI: Chưa biết thức tâmở trong thân, cái nào là chơn, cái nào là vọng?
ĐÁP: Chơn tâm là Linh tri, lấy tịch và chiếu làm tâm. Vọng tâm là hữu tri, lấy phan duyên làm tâm.
HỎI: Thế nào là bảo vọng tâm là hữu tri, lấy phan duyên làm tâm?
ĐÁP: Vọng tâm vốn không, nhơn năng sở mà có, theo cảnh khởi phân biệt, yêu ghét thủ xả, niệm niệm phan duyên, tâm tâm loạn tưởng, duyên theo sáu trần chẳng thôi nghỉ, trụ loạn tưởng chẳng dừng. Thiên đường địa ngục vần xoay các nẻo. Chẳng sanh nhận là sanh, chẳng tử cho là tử. Như khi nhảy nhót trên cành, như ngựa giong ruổi trôi nổi trong ba cõi không có ngày dừng.
HỎI: Vọng tâm có biết (hữu trí) tại sao hư huyễn?
ĐÁP: Vọng tâm như trăng đáy nước, có biết như hoa đốm giữa hư không, từ năng sở mà sanh ra, nhơn phân biệt mà có, rồi phát thức dụng nơi phù căn (10), thành ra cái vọng biết của đối cảnh. Nếu lìa tiền trần thì tâm nầy không có cái Thể. Nhơn cảnh khởi ra chiếu soi, nếu cảnh diện sự chiếu soi cũng mất. Tuỳ theo niệm mà sanh trần, niệm không thì trần cũng tàn. Nếu đem hình ảnh của việc nầy mà làm chơn thể của Phật thì có thể gọi là cái nhơn hư vọng, lại cũng thành cái quả đoạn diệt. Hư huyễn như vậy, đâu có thể là chơn thật?
HỎI: Thế nào là chơn tâm linh tri lấy tịch chiếu làm tâm?
ĐÁP: Chơn tâm trạm nhiên, chiếu soi mà không theo cảnh. Tuỳ duyên bao hàm cùng khắp mà chưa từng tác ý, sáng tỏ chẳng mê, rõ ràng thường biết, trải ra không dấu, cuốn lại không vết. Như đầm nước lắng trong sáng. Giống như chiếc gương sáng treo trên hư không, muôn tượng sum la bỗng nhiên soi suốt. Chẳng ra chẳng vào chẳng có chẳng không. Đây là chỗ ngàn thánh thầm về, ba đời chư Phật thường trụ. Cũng gọi là “Thiên nhơn Phật tánh”, cũng gọi là “thanh tịnh pháp thân”. Lìa đây mà tu cái nào khác, rốt lại chỉ thành tà ma ngoại đạo.
HỎI: Chơn tâm linh tri tại sao chơn thật?
ĐÁP: Chơn tâm lặng lẽ mà chiếu soi, trong lặng không ngằn mé, khắp cõi không thể thấy, tà ma ngoại đạo không thể tìm. Dao bén không thể làm hại, kiếp hoả không thể đốt, núi thiết vi không thể hãm, luân hồi không thể chìm đắm. Vẻ đẹp từ xưa thường sáng rỡ ràng cho đến nay chẳng mê. Người ngộ được tâm tánh chơn thật nầy, thì sự thành Phật không ở tại kiếp số.
HỎI: Như thế nào dứt hữu tri để thành linh tri, chuyển vọng tâm để thành chơn tâm?
ĐÁP: Vọng từ sáu căn cột, chơn từ sáu căn mở.
HỎI: Thế nào là vọng từ sáu căn cột và nhơn từ sáu căn mở?
ĐÁP: Tròn sáng không lặng, vốn không thế giới và thân tâm. Chợt vọng tâm hưng khởi, theo căn trần bày khắp, rồi theo trần mà sanh yêu ghét, giống như con thiêu thân nhảy vào đèn. Giong ruổi theo tình thủ xả, như con tằm tự trói mình trong kén. Nếu căn trần chẳng dính nhau thì linh quang tự nhiên chiếu sáng một mình. Nếu vật vã ngã nhứt như sáu căn tự nhiên hỗ dụng. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Ông chỉ không theo sự động, tịnh, hợp ly, điềm tịnh hay chuyển biến, thông suốt hay nghẽn bít, sanh, diệt, sáng tối… mười hai tướng hữu vi như vậy. Tuỳ theo cái nào nhổ một căn, thoát được cái niêm ngầm bên trong, thầm trở về nguyên chơn. (Lúc bấy giờ) cái minh diệu gốc phát khởi, cái diệu tánh phát sáng. Ngoài ra năm cái niêm khác cũng nhổ thoát xong. Chẳng cho tiền trần khởi tri kiến, cái sáng chẳng theo căn, nhờ căn mà cái sáng phát khởi. Do vậy nên sáu căn hỗ dụng”.
Lại nói: “A Nan! Nay các căn ông nếu nhổ xong xuôi rồi thì cái sáng suốt bên trong phát hiện. Như vậy các phù trần (11) và khí thế gian (12) cùng những tướng biến hoá. Tất cả như nước nóng làm chảy băng, liền đó nó biến thành tri giác cao tột”.
Ông nếu chưa ngộ tôi xin nói lại rõ ràng về chơn tâm và vọng tâm. Chơn tâm vọng tâm đều lấy cái biết làm thể. Vọng tâm lấy cái biết làm thể. Vọng tâm nương căn trần có biết mà biết (hữu tri nhi tri). Chơn tâm lìa căn trần không biết mà biết (vô tri nhi tri). Người mới học có lòng mộ đạo, phải ngộ chơn vọng cho rõ ràng, rồi hai thủ dụng công thì tự nhiên đốn chứng.
HỎI: Như ngài đã khai thị ở trên, tôi tuy được liễu ngộ, nhưng nghiệp tôi còn nặng, tâm tôi còn phù động không an, lại căn cơ kém nhỏ, chẳng thể đốn chừng. Như vậy phải làm sao?
ĐÁP: Tánh vốn không ngộ, nhơn mê mà có ngộ. Tâm vốn không tu, nhơn nhiễm mà có tu. Sở dĩ phiền não có sâu cạn, tập khí có dầy mỏng, nên mới bày ra phương tiện. Tu có đốn tiệm: Đốn tu khiến người cấu bẩn nhẹ chóng chứng viên thông. Tiệm tu khiến người chướng nặng lần lần trong bổn tánh. Nay giả nêu ra ba căn tánh để tuỳ cơ mà vào.
HỎI: Ba căn tánh thể nào?
ĐÁP: Người căn tánh bậc thượng thì đốn tu, bậc trung thì tiệm tu, bậc hạ thì gắng tu.
HỎI: Người căn tánh bậc thượng đốn tu như thế nào?
ĐÁP: Hàng căn tánh bậc thượng, căn cơ bén nhạy đã huân tập hạt giống đạo từ trước. Khi một lời buông ra thì tâm địa người ấy liền mở suốt. Tuỳ trường hợp mà bảo nhiệm hầu trừ sạch dòng lưu thức. Niệm động chẳng tiếp tục, niệm không chẳng giữ, một tâm bình thản lặng lẽ tự hết. Lúc bấy giờ chạm mắt gặp duyên đều là diệu dụng. Ngài Qui Sơn nói: “Ông chỉ tâm không gá vật, thì vật nào có thể ngại ngươi”. Lại nói: “Mỗi niệm phan duyên, nhưng tâm tâm hằng tịnh. Viên dung khắp pháp giới, đốn chứng vô sanh”. Nếu như căn cơ ngu độn lại bày phương tiện để lần hồi trở về.
HỎI: Người đốn ngộ tiệm tu, nhơn đâu chứng đạo quá mau?
ĐÁP: Thật có lý nầy, chẳng phải dối truyền. Thật vậy, nếu “trực hạ minh tâm”, một niệm viên tu đốn chứng, thì chẳng trải qua A tăng kỳ, đâu cần kiếp số? Kinh Đại Niết Bàn nói: “Ví như có người cỡi thuyền muốn vượt biển cả. Nếu thuận buồm xuôi gió thì chỉ trong chốc lát có thể vượt được vô lượng dặm. Còn trái lại tuy ở lâu vô lượng năm cũng không rời chỗ cũ. Lúc nào đó thuyền hư rã, chìm xuống nước mà chết. Chúng sinh cũng như vậy”. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Như huyễn tam ma đề chỉ một khảy móng tay có thể vượt qua hàng vô học(13). Cho nên hàng tam thừa (14) không biết, hàng thập địa (15) thì sợ hãi. Một niệm thành Phật, thoắt vượt A tăng kỳ kiếp”.
HỎI: Người trung căn tiệm tu như thế nào?
ĐÁP: Bậc thượng căn đốn tu như gió thổi mây bay, hiện vầng trăng sáng rõ trên nền trời. Hàng trung cơ tiệm tu, giống như lau chiếc gương nhơ, khi bụi hết thì ánh sáng hiện. Như có người hậu học, liễu ngộ được bổn tâm, nhưng tập khí từ trước còn nồng hậu, trí thì kém, tâm lại phù động không an, nên suốt mười hai giờ động tịnh bên trong. Tất cả đều phóng hạ (buông bỏ), thiện ác chớ nghĩ, niệm khởi liền giác, giác rồi liền không. Người xưa nói: “Chẳng sợ niệm khởi chỉ sợ giác chậm”. Dụng tâm như vậy, lâu ngày không vọng khởi, phải tự đợi đến lúc người pháp đều mất, thì căn trần đốn thoát, chơn tâm riêng chiếu, trải ra hay cuốn lại đều vô ngại.
HỎI: Sự công phu của pháp tiệm tu, nên nghiêng về tịnh toạ, hay thông cả động tịnh cũng có thể tu chứng?
ĐÁP: Đốn ngộ tiệm tu tịnh nhiều dễ thành công, còn bậc thượng sĩ động tịnh đều thiền cả. Hàng căn cơ bậc trung bỏ sự nghiêng về lý, đúng như thế ngồi tập cho thuần thục, thì tự nhiên động tịnh đều vô ngại.
HỎI: Hạng căn cơ bậc hạ phải gắng tu như thế nào?
ĐÁP: Kẻ hạ căn ngu độn, tâm tư chậm chạp, hôn trầm dầy nặng, trạo cử lẫy lừng, khó làm cho sách phát. Đối với hàng nầy, phải y vào sự khai thị và dẫn dắt, nhỏ nhiệm chỉ bày, giúp cho căn cơ họ phát khởi. Hạng nầy phải có tín tâm, chớ lìa tòng tâm, thường theo bậc thiện tri thức chí thành nghe dạy dỗ. Chớ nhận cảnh ma, ngày ngày nhận sự rèn luyện, giờ giờ tự mài giũa, đối trước Phật sám hối tội nghiệp của mình. Ở trong Chúng phải hạ tâm. Sau khi được ngộ không thể lìa thầy. Đại khái phải quên trần thế, sâu bồi hậu dưỡng, lâu ngày tu tập như vậy mới được tương ưng.
HỎI: Kẻ hạ cơ ngộ tu, do đâu lại phí sức như vậy?
ĐÁP: Kẻ căn cơ trì độn, phiền não nồng hậu, hôn trầm trạo cử, tâm lại phù động, ngu muội che nặng, nếu không cần cù tu tập thì linh cơ khó phát. Người xưa nói: “Kẻ hạ căn dùng muôn ngàn thí dụ nói cho cũng không thể lãnh hội”. Kẻ nầy dù được một ít hiểu biết cũng cho là triệt ngộ, chẳng nhận dạy dỗ, ngã mạn khinh người. Bọn người như vậy phải sanh hổ thẹn, không như vậy thì điên cuồng và rơi vào đường tẻ.
HỎI: Người ngộ lý bảo dưỡng chắc chắn, làm thế nào biết chơn tâm hiện tiền?
ĐÁP: Người ngộ lý khi tập khí chưa hết gặp cảnh còn thất niệm, nên cần phải hậu dưỡng. Như người chăn trâu, dắt trâu đi chỗ nào cũng nghiềm roi, đợi cho tâm nó thuần thục, bước đi ổn thoả, không phạm đến lúa mạ mới có thể buông tay, chẳng cần chăn nữa. Nếu muốn thí nghiệm chơn tâm coi được thuần thục hay chưa, nên đem việc mà bình thường mình đã yêu hay đã ghét, tìm cho ở trước mắt, thấy nghe để thử nó. Nếu y như trước mà khởi tâm yêu hay ghét thì biết rằng Đạo chưa thuần thục. Nếu gặp cảnh thuận hay nghịch mà chẳng khởi tâm yêu ghét thì biết đã gần Đạo, và chơn tâm hiện vậy.
Nếu muốn thí nghiệm trở lại tâm yêu (ái), nên tưởng tượng cảnh yêu thích nào đó. Tâm yêu thích nầy hoàn toàn lặng lẽ chẳng khởi. Muốn thí nghiệm lại tâm ghét, nên tưởng cảnh giận ghét nào đó, tâm giận ghét hoàn toàn chẳng khới. Đến đây mới có thể tự tại tuỳ duyên, đối vật không ngại.
HỎI: Chơn tâm chưa hiện tiền, khi dụng công dứt vọng, đồng thời cũng làm các điều lành, hầu giúp cho đạo dễ thành công. Như vậy lý kia có nên không?
ĐÁP: Dứt vọng tâm là chánh tu, làm các điều lành là trợ tu. Nếu hữu tâm làm thiệnlại dính mắc vào thiện thì nấht định rơi vào phước báo cõi người, cõi trời. Nếu vô tâm tương ưng với các điều thiện, thì có thể bảo đó là một sợ trợ giúp cho việc tu hành. Kinh Bát Nhã nói: “Tu Bồ đề, Bồ tát nếu không trụ tướng bố thí, thì phước đức kia không thể nghĩ lường”. Nay thấy có người học, chấp nghiêng về một bên chẳng thấy toàn diện. Có chút ngộ lý liền tựa vào thiên chơn, chẳng làm các điều lành, nên phước kém mà ma lại mạnh.
HỎI: Muôn điều thiện hữu vi là phước đức. Kiến tánh vô vi là công đức. Tại sao lại gồm tu cả hữu vi lộn xộn như thế?
ĐÁP: Hữu vi mà dính vào hữu vi thì được quả báo trời người, hữu vi mà không nhiễm thì công phu ấy được hiển hiện tánh đức.
HỎI: Khi đã ngộ tâm chứng lý, liền có thần thông biến hoá. Thời nay người ngộ lý rất nhiều mà người đủ thần thông rất ít. Tại sao thế?
ĐÁP: Hiển hiện thần thông biến hoá là ngọn, cần phải đạt được cái gốc của nhất tâm. Khi gốc được thành lập thì Đạo sanh, lúc bấy giờ thần thông tự nhiên hiện. Nếu chuyên lấy cái thắng tướng của thần thông biến hoá làm đạo, thì thiên ma ngoại đạo, yêu mị thần long đều là Phật cả ? (vì thiên ma ngoại đạo cũng có đủ thần thông). Muốn được thần thông chơn thật cần phải chứng pháp nhất thừa. Pháp nhất thừa nầy hay phát ra diệu dụng Bát nhã. Ngay nơi trần lao mà thành chánh giác, hiện trong sanh tử mà chứng niết bàn. Chỉ khoảng một sát na mà bỏ phàm làm thánh. Trong chốc lát biến có trở về không. Thần biến như thế chẳng phải là pháp huyễn có thể làm được.
Cổ Đức nói: “Thông có năm loại: một là Đạo thông, hai là Thần thông, ba là Y thông, bốn là Báo thông, năm là Yêu thông. Gì là yêu thông? Loài hồ ly già biến hoá ra, tinh ba của cây đá hoá ra. Thần nương tựa vào người thông huệ kỳ lạ, đấy là yêu thông. Gì gọi là Báo thông? – Quỷ thần biết nghịch, chư thiên biến hoá, sự liễu sanh của thân trung ấm, sự ẩn hiện của thần long, đấy là báo thông. Gì gọi là Y thông? – Nương pháp mà biết, duyên nơi thân mà dùng, nương nơi đạo bùa mà tới lui, thuốc bổ mầu biến, đấy là y thông. Gì gọi là thần thông? – Tịnh tâm soi vật, túc mệnh ghi giữ, muôn ngàn phân biệt đều từ định lực, đấy là thần thông. Gì gọi là Đạo thông? – Vô tâm ứng vật, duyên biến hoá khắp vạn hữu, trăng đáy nước, hoa trong không, bóng hình không chủ, đấy là đạo thông”.
Chỉ Đạo thông nầy là chơn, ngoài ra các thông khác đều là tà nguỵ. Nguỵ thì chẳng chơn, tà thì chẳng chánh, làm cho tâm hoặc loạn sanh, và mê mờ bản tánh. Cho nên người học đạo chơn thật chẳng giữ thần thông sợ trái chơn lý.
Trong sách Phụ Hành Ký nói: “Người tu tam muội, chờ phát thần thông, phải mau trừ bỏ nó. Vì là pháp hữu lậu hư vọng vậy”.
Trong chỉ quán nói: “(Thần thông) hay làm chướng bát nhã. Kẻ hạ căn vọng cầu thần thông làm chánh đạo. Bậc trí quán thật tướng của thân, quán Phật cũng vậy. Chỉ như bậc ứng hoá Bồ tát, chứng lý thánh hiền, rốt say bày hiện thần biến ắt chẳng ở đời. Nếu còn ở đời mà hiện thần thông để giáo hoá người, đây chẳng phải yêu thì cũng là ma mị”.
HỎI: Người chưa ngộ, mê mờ chơn lý, đuối theo vọng tình, tạo nhơn thiện ác, phải trả quả khổ vui, tuỳ theo nghiệp mà thọ sanh, lý kia chẳng còn nghi. Kẻ sĩ ngộ lý, nhanh chóng trở về chơn tâm, vượt các nhơn quả, dứt các đối đãi, điểm linh của thân sau, nương gá chỗ nào?
ĐÁP: Tất cả chúng sanh tuỳ theo nhơn mà thọ quả, lấy duyên làm chỗ sanh, nên bảo đấy là chỗ nương gá. Kẻ sĩ ngộ lý, người chứng Đạo, chẳng đồng vối phiêu linh lãng tử ở thế gian, như quỷ thú vô chủ cô hồn, trôi nổi không chỗ nương chỗ gởi. Nếu khế ngộ được bổn lý hiện tiền thì bốn phương trên dưới đều là chơn tâm. Đấy là toàn thân thọ dụng, không có chỗ nương gá nào riêng khác. Cổ Đức nói: “Suốt cõi đất là một mắt của sa môn”. Lại nói: “Suốt cõi đất là Già lan”.
Thượng Thơ Ôn Tháo hỏi ngài Khuê Phong rằng: “Người ngộ lý một phen tuổi thọ hết, phải nương gá chỗ nào? Khuê Phong đáp: Tất cả chúng sanh đều dó đầy đủ giác tánh linh minh, cùng Phật không khác. Nếu hay ngộ tánh nầy tức là pháp thân, thì vốn tự vô sanh có gì nương gá? (Tánh nầy là) cái sáng suốt màu nhiệm chẳng mê, rõ ràng thường biết, không từ đâu đến và cũng không trở về đâu. Chỉ lấy không tịch làm tự thể chớ nhận sắc thân. Lấy linh tri làm tự tâm, chớ nhận vọng niệm. Vọng niệm nếu khởi đều chẳng theo nó, thì khi lâm chung nghiệp không thể trói buộc. Tuy có thân trung ấm mà chỗ đến tự tại, cõi trời cõi người tuỳ ý gởi nương, tất cả những dòng trôi chảy nhỏ nhiệm đều rỗng cả, chỉ còn có viên giác đại trí soi sáng. Tuỳ cơ hoá độ chúng sanh có duyên, ngộ tâm chứng lý, đồng thành Phật đạo”
HỎI: Xưa có những bậc Cao Tăng, toàn thân ngồi hoá, lâu năm chẳng hư hoại, móng và tóc mọc dài ra, chưa biết việc nầy là đạo lý gì?
ĐÁP: Đấy là hàng Tiểu thừa thân trụ trong diệt định. Định nầy chỉ diệt đệ lục thức, còn đệ bát thức duy trì thân thể. Tất cả đều do chán hữu thích không, tạm mong dừng hơi thở. Tuy nhiên, nhập định nầy trải qua thời gian dài lâu mà hơi ấm chẳng diệt mất, về sau thức khởi đậy như rét cách ngày. Phải ngộ tánh định mới thoát khỏi luân hồi.
HỎI: Ngài Ca Diếp đắc diệt tận định, cùng với diệt định của Tiểu thừa là đồng hay khác?
ĐÁP: Đại thừa lý diệt, Tiểu thừa sự diệt. Diệt tận của đại thừa do đầy đủ năm uẩn, hai thức thứ bảy và thứ tám, hay dẫn oai nghi, định hay tán đều vô ngại, sự và lý đều chẳng bỏ. Hàng tiểu thừa tuy có sắc hành, tiền lục thức đã lặn mất, nhưng toàn thiếu oai nghi, định và tán chẳng viên mãn, bỏ sự nghiêng về tịch. Cho nên định chẳng đồng. CHƯƠNG V
GIÁO THỪA SAI BIỆT
HỎI: Ở trên ngài đã khai thị một cách rộng rãi về pháp môn Đốn ngộ, kẻ học muộn nầy thấy đã quá rõ ràng. Nhưng còn vài điểm sai biệt trong giáo lý xin ngài nhỏ nhặt khai thị trở lại cho.
ĐÁP: Ông cứ hỏi, ta sẽ đáp, ta chẳng phụ lòng ông đâu.
HỎI: Thế nào là “muôn pháp về tâm” (vạn pháp qui tâm)?
ĐÁP: Như vàng tuỳ người thợ làm ra nhiều món đồ. Những món đồ ấy cho vào lò nấu chảy ra chỉ có một thể. Muôn pháp về tâm cũng như vậy.
HỎI: Pháp môn đốn ngộ có sức thù thắng gì?
ĐÁP: Chánh giải viên tu, sức nó vượt qua kiếp số, tuy ở trong sanh tử mà thường vào niết bàn, thường ở trong trần lao mà hằng ở trong Tịnh độ. Đầy đủ mắt thịt mà mở mắt huệ. Đổi tâm phàm mà đồng với tâm Phật. Tin biết pháp môn đốn ngộ công đức lớn lao hơn cả.
HỎI: Minh tâm kiến tánh, như người uống nước lạnh nóng tự biết. Lời nói hay không có chỗ y cứ?
ĐÁP: Người học dụng tâm thân thiết, tham cứu lẽ chơn thật, chợt được thân tâm nhứt như, ánh sáng trí tuệ thoát phát khởi, thấy sự từ hoại kiếp trở về trước để thân đến chỗ bản giác. (Đến chỗ nầy) có miệng khó nói, có viết khó thuật. Như người uống nước lạnh nóng tự biết. Muốn mở phương tiện để hiển bày bổn tâm, phải mượn giáo thừa để làm thí dụ.
HỎI: Thiền tông dạy người chẳng xem kinh, nếu gom được chút hiểu biết nào, tự thành kẻ tri thức văn tự phải chăng?
ĐÁP: Muốn nghiêncứu giáo thừa phải tìm tòi trong bảo tạng, mỗi mỗi phải tiêu hoá trở về tự kỷ, lời lời phải thầm hợp bản tâm, chỉ sợ e chấp văn sanh hiểu, không chịu qui hội về bản thể, cho nên cười chê xem kinh để thành thánh nhơn văn tự.
HỎI: Thế nào là mê, thế nào là ngộ?
ĐÁP: Nhơn bản giác chơn tâm khởi ra bất giác gọi là mê. Nhơn bất giác thành thỉ giác, rồi trở về chơn tâm gọi là ngộ. Cho nên nói: “Nhơn đất mà té, thì cũng nhơn đất mà dậy”. Mê ngộ tuy khác mà chơn tâm không hai.
HỎI: Tại sao người khế lý, đối với chôn vọng phải dứt cả hai?
ĐÁP: Nhơn vọng mà nói chơn, chơn không có tự tướng. Từ chơn khởi vọng, nên vọng thể vốn không. Vọng đã vốn không, chơn cũng chẳng thành lập. Chơn vọng đều dứt cả hai thì bản tâm thường trụ.
HỎI: Tông môn đốn ngộ “đơn đao trực nhập”, nào dùng ngôn ngữ bàn luận rộng rãi sai khác?
ĐÁP: Kẻ sĩ tham cứu lẽ huyền phải có đủ hai mắt: một là kỷ nhãn để sáng tỏ thiền; hai là trí nhãn để phân biệt được hoặc nghiệp. Thiền Tông nói: “Chỉ sáng tỏ được tự kỷ mà chẳng rõ được việc trước mắt, người như thế chỉ có một mắt, lý đơn sự chiết, rốt lại chẳng viên thông”. Nếu cho trí huệ là quấy thì Đại trí Văn Thù chẳng xưng là con đấng Pháp Vương? Nếu cho dứt học là phải, thì Vô Văn tỳ kheo chẳng làm người ở địa ngục. Tất cả đều do cửa ải ý thức bị khoá, nếu không có chìa khoá trí huệ thì khó mà mở. Tự cho rằng “tình tưởng câu khiên”, nếu chẳng có gươm trí huệ thì khó dứt. Người tiến tu viên thông, chớ có cái chấp bặt lời (không học).
HỎI: Bậc viên đốn tu chứng trở lại rơi vào nhơn quả chăng?
ĐÁP: Trên đến chư Phật, dưới đến chúng sanh đều thu vào nhơn quả. Vậy có thể bác không nhơn quả sao? Chỉ do ngoại đạo chẳng đạt lý duyên sanh, duy chấp tự nhiên, bác không nhơn quả. Hàng nhị thừa chột mắt chỉ chứng thiên không (nghiêng về không), trí diệt thân tàn xa lìa nhơn quả. Kẻ phàm phu bị nghiệp trói tham đắm năm dục, nên nhà cửa đốt thân, chấp trước nhơn quả. Tất cả đều thành cuồng giải, tự mê muội lý viên thường. Chỉ lấy thật tướng làm nhơn, thật tướng làm quả, chớ tạo cái chấp bác không (nhơn quả) mà rơi vào đường tà. (Được như vậy mới) chóng thành viên nhơn, chóng chứng diệu quả.
HỎI: Ở đời có những kẻ sĩ khế lý, xưng là Đạo nhơn vô tâm. Nếu là vô tâm thì đồng như cây đá, do đâu mà các bậc thánh hiền có trí huệ lớn?
ĐÁP: Đạo nhơn vô tâm chẳng đồng với cây đá, vô tâm là không tâm phân biệt, không tâm yêu ghét, không thủ xả, không tâm thiện ác, không tâm có không, không tâm ở giữa hay một bên, không tâm trong ngoài, không tâm chấp trước, chớ chẳng phải không chơn tâm linh tri tịch chiếu.
HỎI: Người xưa nói: “Chớ bảo vô tâm ấy là Đạo vô tâm còn cách một lớp cửa”. Vậy thế nào?
ĐÁP: Chơn tâm hư huyễn chẳng có chẳng không. Nếu bỏ có (hữu) trụ không (vô), trở thành lỗi lớn. Cổ Đức có kệ rằng:
Khuyến quân học đạo chớ tham cầu
Vạn sự vô tâm đáo hợp đầu
Vô tâm thỉ thể vô tâm đạo
Thể đắc vô tâm vô dã hưu.
DỊCH:
Khuyên anh học đạo chớ tham cầu
Muôn sự không tâm đến hợp đầu
Không tâm thể nhập không tâm đạo
Nhập được không tâm không cũng thôi.
HỎI: Thế nào gọi là không biết mà biết, biết mà không biết?
ĐÁP: không biết (vô trí) là thể của tâm. Biết là dụng của tâm. Thể hay phát ra diệu dụng: không biết mà biết. Dụng chẳng lìa thể: biết mà không biết. Dụng nếu lìa thể là cái biết trụ tướng. Thể nếu không dụng gọi là ngoan không.
HỎI: Thế nào gọi là không biết mà biết, biết mà không biết?
ĐÁP: Không biết (vô trí) là thể của tâm. Biết là dụng của tâm. Thể hay phát ra diệu dụng: không biết mà biết. Dụng chẳng lìa thể: biết mà không biết. Dụng nếu lìa thể là cái biết trụ tướng. Thể nếu không dụng gọi là ngoan không.
HỎI: Thế nào là có niệm mà biết là vọng?
ĐÁP: Sáu căn đối cảnh động niệm phân biệt: có niệm mà biết, nên cho là vọng.
HỎI: Thế nào vô tâm mà biết là chơn?
ĐÁP: Chơn tâm ứng vật như gương soi hình tượng, vô tâm mà biết nên gọi là nhơn.
HỎI: Thế nào là chánh tri kiến?
ĐÁP: Chẳng nương căn trần mà có tri kiến là chánh. Nương gá căn trần mà khởi tri kiến là tà.
HỎI: Thế nào là tam bảo?
ĐÁP: Nhứt tâm không tịch là Phật Bảo. Tịch mà thường chiếu soi là Pháp Bảo. Chiếu soi mà không nhiễm là Tăng Bảo.
HỎI: Thế nào là cúng Phật một cách chơn chính?
ĐÁP: Sáu căn đối cảnh sáu thức chẳng sanh, chơn tâm độc chiếu là nghe pháp chơn chính.
HỎI: Thế nào là xuất gia chơn chính?
ĐÁP: Chẳng trụ ngôi nhà ngũ uẩn, ấy gọi là người xuất gia chơn chánh.
HỎI: Thế nào có thể chẳng trụ năm uẩn?
ĐÁP: Thấy cái nương vào căn thì sắc uẩn không (rỗng). Đối cảnh vô tâm thì thọ uẩn không. Biết mà không biết thì tưởng uẩn không. Tâm tâm không nhiễm thì hành uẩn không. Chơn tâm thường trụ thí thức uẩn không.
HỎI: Thế nào là “không tức sắc, sắc tức không”?
ĐÁP: Thấy không rồi trụ không là “không tức sắc”. Thấy sắc chẳng trụ sắc là “sắc tức không”
HỎI: Thế nào là “tức Tâm tức Phật”?
ĐÁP: Tâm và Phật không hai chớ hướng bên ngoài mà tìm cầu.
HỎI: Thế nào là “phi tâm phi Phật”?
ĐÁP: Phá cố chấp, trừ hiểu biết, tâm và Phật vốn không.
HỎI: Thế nào là “ba tâm không thể được”?
ĐÁP: Quá khứ, vị lai, hiện tại, ba tâm xưa nay vốn không tịch. Bỗng vọng khởi ra hoa đốm giữa hư không, làm che khuất cái viên minh chơn thật.
HỎI: Thế nào gọi là chơn không?
ĐÁP: Chơn tâm thể tịch, máy mầu khởi dụng chiếu soi. Tịch và chiếu không hai gọi đó là chơn không.
HỎI: Thế nào gọi là diệu hữu?
ĐÁP: Đồng chiếu soi lẽ hữu vô, phân biệt rõ ràng, nhưng chẳng rơi vào năng sở, gọi là diệu hữu.
HỎI: Thế nào nói rằng “chỉ được gốc chớ lo ngọn”?
ĐÁP: Nếu ngộ được chôn tâm vốn không, thì muôn pháp tự nhiên tiêu mất.
HỎI: Thế nào gọi “Phiền não tức bồ đề”? Vô minh tức Phật tánh?
ĐÁP: Niệm trước sanh tức là phiền não, niệm sau chẳng trụ tức là bồ đề. Niệm trước động tức vô minh, niệm sau chẳng tiếp tục tức Phật tánh.
HỎI: Thế nào là “thường chẳng lui”?
ĐÁP: Người ngộ bản tâm gồm cả giới, tu, chứng một đời có thể xong, vĩnh viễn không lui rớt. Kẻ nương văn giải nghĩa, tập khí nặng, tâm trôi nổi không gồm tu quán và giữ giới, khi gặp duyên tự lui sụt.
HỎI: Thế nào gọi là Lục độ?
ĐÁP: Đốn ngộ chơn tâm là đầy đủ lục độ.
HỎI: Thế nào ngộ chơn tâm đầy đủ lục độ?
ĐÁP: Nếu ngộ chơn tâm hành lục độ có căn bản, còn mê chơn tâm hành sáu độ như mù. Cớ sao chơn tâm bảo là căn bản? – Chẳng ngộ chơn tâm mà hành bố thí thì một đời được vinh hiển, sau sẽ chịu họa tai. Chẳng ngộ chơn tâm mà trì giới, thì sanh lên cõi trời dục giới, hết phước trở lại rơi vào ngục nê tê. Chẳng ngộ chơn tâm mà hành nhẫn nhục, thì được quả báo đoan chánh, nhưng chẳng chứng tịch diệt. Chẳng ngộ chơn tâm mà tinh tấn, thì luống tăng thêm sự sanh diệt, công phu chẳng đến được lẽ chơn. Chẳng ngộ chơn tâm mà thiền định, chỉ đi trong cõi trời sắc giới, chớ chẳng về được pháp giới. Chẳng ngộ chơn tâm mà có trí huệ, thì khéo hiểu ngữ nghĩa, tất cả đều thành hữu lậu. Ngộ chơn tâm nầy thì thành tựu được muôn đức. Mê chơn tâm nầy thì công hạnh bày ra đều rỗng.
HỎI: Thế nào là giới, định, huệ, ba môn học vô lậu?
ĐÁP: Bên ngoài chẳng tìm có, bên trong chẳng giữ không gọi là giới. Một niệm, chẳng sanh muôn duyên không lặng gọi là định. Khéo hay phân biệt chẳng sanh yêu ghét gọi là huệ. Ba môn vô lậu nầy là sự học của đại thừa.
HỎI: Thế nào là tam học của tiểu thừa?
ĐÁP: Chỉ chấp nơi thân, đoạn tứ trụ bịnh gọi là giới. Thân hình đồng như cây khô, dứt sự hiển hiện oai nghi gọi là định. Chỉ chứng thiên không mất lý trung đạo gọi là huệ. Cho nên gọi là pháp nghèo (bần pháp), là vùi lấp định huệ. Ngài Tịnh Danh quở đó là pháp Tiểu thừa.
HỎI: Người mới phát tâm tập định từ đâu mà vào?
ĐÁP: Kẻ sơ tâm học tam muộn, “nên cột tâm vào một duyên”, tập lâu được định, chơn huệ tự nhiên phát khởi.
HỎI: Thiền có mấy loại?
ĐÁP: Thiền có năm loại.
HỎI: Năm loại thế nào?
ĐÁP: Một là người khởi kiến chấp khác, thích cõi trên chán cõi dưới mà tu, đấy gọi là thiền ngoại đạo. Hai là người chánh tín nhơn quả cũng lấy tâm hàn yểm (thích chán) mà tu, đó là thiền phàm phu. Ba là người liễu ngộ lý sanh không, nghiêng chứng chơn đạo mà tu, đấy là thiền Tiểu thừa. Bốn là người ngộ được người và pháp đều không hằng trụ ở lý Trung mà tu, đó là thiền đại thừa. Năm là người vượt khỏi những dị kiến, các pháp bình đẳng mà chứng, đấy là thiền Như Lai.
HỎI: Thế nào gọi Như Lai?
ĐÁP: Tịch chiếu không hai gọi là như. Bi nguyện chẳng bỏ gọi là lai. Kẻ phàm phu Lai mà chẳng Như. Tiểu thừa Như mà chẳng Lai. Chỉ có Phật thừa Như mà hay Lai.
HỎI: Thế nào là ba pháp quán: Không, Giả, Trung?
ĐÁP: Phản chiếu tự tâm vốn không chỗ khởi, chỗ khởi vốn không gọi là Không quán. Từ chỗ không khởi mà vọng sanh ra các pháp, các pháp chẳng thật, gọi là giả quán. Không, Giả vốn không chẳng dừng lại hai đầu, toàn thể là chơn tâm, gọi là Trung quán.
HỎI: Thể dụng của chơn tâm phân chia như thế nào?
ĐÁP: Thể của chơn tâm thì mênh mang mà không lặng. Dụng của chơn tâm thì rõ ràng giác biết. Mênh mang không lặng chẳng đồng với ngoan không, nó lặng mà thường chiếu soi. Rõ ràng giác biết chẳng phải là sự nhiễm trước của thừa, nó chiếu soi mà thường lặng (tịch), lặng và chiếu chẳng hai gọi là chơn tâm.
HỎI: Thế nào là “không nơi chốn, không chỗ nào chẳng nơi chốn” ?
ĐÁP: Chơn tâm thể nó không (rỗng), nên nói không nơi chốn. Thể không ấy biến khắp, nên không chỗ nào chẳng nơi chốn.
HỎI: Chơn tâm biến khắp không chỗ nào chẳng nơi chốn. Tại sao thân biết mà chỗ khác chẳng biết?
ĐÁP: Chơn tâm thể nó rỗng, pháp giới nhứt như, tùy duyên mà khởi hiện, chỗ ứng hợp mới biết.
HỎI: Thế nào bốn đảo của phàm phu?
ĐÁP: Đảo thứ nhất thân chẳng tịnh mà tưởng là tịnh. Đảo thứ hai thọ vốn là khổ mà tưởng là vui. Đảo thứ ba, vọng tâm không thường mà tưởng là thường. Đảo thứ tư, vốn trong vô ngã mà tưởng là ngã. Bốn cái tưởng lộn ngược nầy là phàm phu chấp có.
HỎI: Thế nào là bốn đảo của nhị thừa?
ĐÁP: Thứ nhứt, thân không (rỗng) vốn tịnh mà khởi tưởng rằng chẳng tịnh. Thứ hai, thọ vốn là chỗ không mà khởi tưởng rằng khổ. Thứ ba, tâm vốn chơn thường mà khởi tưởng là vô thường. Thứ tư, vô ngã tức chơn ngã mà khởi tưỡng là vô ngã. Bốn cái tưởng lộn ngược nầy, hàng nhị thừa rơi vào không.
HỎI: Thế nào lìa tám cái đảo được thường lạc ngã tịnh?
ĐÁP: Tất cả chúng sanh ở trong sanh tử vọng khởi chấp trước bốn đảo thường lạc ngã tịnh. Hàng nhị thừa ở trong niết bàn vọng cầu giải thoát đoạn bốn đảo. Chư Phật Như Lai xa lìa tám cái đảo, được thường lạc ngã tịnh, chứng bốn ba la mật.
HỎI: Chơn tâm vô phân biệt, nếu là vô phân biệt như đi trong đêm đen, mờ tối chẳng biết?
ĐÁP: Phàm luận về phân biệt có ba loại: một là căn thức mới sanh tùy niệm phân biệt; hai là ý thức liễu biệt kế độ phân biệt; ba là chơn tâm ứng vật, như gương chiếu hình tượng, sáng suốt rõ ràng, giống như có phân biệt.
HỎI: Thầy đã giải bày có ba loại phân biệt. Cái nào là chơn cái nào là vọng?
ĐÁP: Căn thức, ý thức phân biệt đều là vọng. Chơn tâm ứng vật rõ ràng thường biết, tuy giống như phân biệt mà thật thì vô phân biệt.
HỎI: Thân Phật vô hình, dụ như hư không, do đâu lại có tướng sáu căn?
ĐÁP: Ngay nơi tướng để sáng tỏ cái chơm, nào trái với đại dụng? Thắng nghiệp lợi tha chẳng dứt cửa giáo hóa nầy. Cổ Đức có kệ rằng: “Hư không không tướng, mà hiện các tướng, Pháp thân cũng vậy, đầy đủ sáu căn tướng”.
HỎI: Thế nào là chơn giải thoát?
ĐÁP: Sáu căn chiếu cảnh không bị cảnh trói buộc, tất cả chẳng trụ gọi là chơn giải thoát.
HỎI: Thế nào là hàng ma?
ĐÁP: Từ bi nhẫn nhục với kẻ dưới là hàng thế ma. Nhứt tâm không hai là phục tâm ma. Chẳng dùng diệu thuật linh phương mà bầy ma trong, ma ngoài tự lui.
HỎI: Thế nào là Tam như lai tạng?
ĐÁP: Chơn tâm tròn sáng thể nó không tịch gọi là không như lai tạng. Không tạng hay phát khởi hằng sa diệu dụng, gọi là bất không như lai tạng. Thể hay phát dụng, dụng chẳng lìa thể gọi là “không bất không như lai tạng”.
HỎI: Thế nào là tám thức?
ĐÁP: Tám thức là nhãn, nhỉ, tỷ, thiệt, thân, ý, mạt na và a lại da thức.
HỎI: Xin thầy phân rõ khả năng và tướng dụng của tám thức.
ĐÁP: Thức thứ tám gõi là tâm, gom nhóm những hạt giống của các pháp, rồi nương vào hạt giống ấy làm nhơn sanh ra các pháp. Thức thứ bảy gọi là ý. Ý duyên tàng thức và các thức khác, hằng suy xét nghĩ lường làm ngã. Ngoài ra sáu thức kia gọi là thức. Sáu thức kia phân biệt cảnh thô và động, có gián đoạn, phân biệt rõ ràng và chuyển.
HỎI: Trong kinh Lăng Già, nói rõ về ba loại thức là chơn thức, hiện thức và phân biệt sự thức. Ba loại thức nầy thế nào xin phân rõ?
ĐÁP: Chơn thức là thức thứ chín, còn có tên khác là bạch tịnh thức. Thức thứ tám là tàng thức, hay hiện ra các pháp (gọi là hiện thức). Ngoài ra bảy thức kia đều gọi là phân biệt sự thức. Tuy rằng thức thứ bảy chẳng duyên cảnh trần bên ngoài mà hay duyên thức thứ tám, nên còn chỗ phân biệt.
HỎI: Thế nào chuyển tám thức thành bốn trí?
ĐÁP: Chuyển năm thức đầu làm thành sở tác trí, chuyển thức thứ sáu làm diệu quan sát trí, chuyển thức thứ bảy làm bình đẳng tánh trí, chuyển thức thứ tám làm đại viên cảnh trí.
HỎI: Thế nào là đại viên cảnh trí?
ĐÁP: Chơn tâm không tịch như gương thường sáng.
HỎI: Thế nào là bình đẳng tánh trí?
ĐÁP: Hay đối với các pháp mà chẳng sanh phân biệt.
HỎI: Thế nào là diệu quan sát trí?
ĐÁP: Hay vào các căn phân biệt mà chẳng nhiễm.
HỎI: Thế nào là thành sở tác trí?
ĐÁP: Năm căn đối cảnh, chính lúc ấy cảm giác khó lạc chẳng xâm nhập.
HỎI: Thế nào là gom bốn trí thành ba thân?
ĐÁP: Thành sở tác trí và diệu quan sát trí gom về hóa thân. Bình đẳng tánh trí gom về báo thân. Đại viên cảnh trí gom về pháp thân.
HỎI: Thế nào là pháp thân?
ĐÁP: Một niệm chẳng sanh, muôn duyên đều không tịch.
HỎI: Thế nào là báo thân?
ĐÁP: Khéo đối với các pháp, tất cả đều bình đẳng.
HỎI: Thế nào là hóa thân?
ĐÁP: Thành tựu được sức bản nguyện, mới ứng ra làm các việc.
HỎI: Kinh Viên Giác nói: “Đại viên cảnh là già lam của ta, thân và tâm đều cư ngụ nơi bình đẳng tánh trí. Do đâu (kinh Viên giác) không chỉ bày thành sở tác trí và diệu quan sát trí”?
ĐÁP: Đại viên cảnh trí là lặng lẽ mà chiếu soi (tịch chiếu). Bình đẳng tánh trí là chiếu soi mà lặng lẽ. Diệu quan và thành sở chỉ cho pháp thân khi hành động trong mê. Dùng diệu quan sát thu mười tám giới. Tất cả trần lao chuyển làm thành sở tác rồi gom về đại viên cảnh.
Kinh Lăng Già nói: “Phật dạy Đại Huệ: một đêm ba thời, thường dùng diệu quan sát trí, khiến trừ sạch hiện lưu thức. sáu căn là thành sở tác trí, như khi bàn tay để ngửa, không nên hỏi rằng bàn tay úp chỗ nào? Cũng như khi băng tan ra thành nước, băng và nước chẳng có sự khác nhau”. Trong môn lợi tha, nương vào sức bi nguyện, dùng diệu quan và thành sở mà làm lợi khắp hàm linh. Cổ Đức nói: “Chúng sanh chẳng biết, nên chấp cái tên của tám thức. Chư Phật chứng đắc nên hay thành được cái dụng của bốn trí”.
Nếu mê muội thì thức thứ tám khởi lên cái tên là báo tàng. Thức thứ bảy được tên là nhiễm ô. Thức thứ sáu khởi lên cái tình biến kế. Tiền ngũ thức chạy theo tướng của căn trần. Nếu ngộ nó thì A-lại-da thành cái thể của viên cảnh, là cái cửa giữ gìn công đức. Mạt na là nguổn gốc của bình diệu đẳng, tánh tự tha chỉ có một. Thức thứ sáu là cái diệu của sự quan sát, hay chuyển vành xe chánh pháp. Tiền ngũ thức là hưng khởi công đức đã làm, rủ theo dấu vết của ứng thân và hóa thân. Nhứt tâm chẳng động, thức trí tự phân, chẳng đổi cái thể của tám thức mà chỉ đổi cái tên của tám thức mà thôi.
HỎI: Người ngộ lý chuyển thức thành trí, kẻ còn trong mê theo thức mà lên xuống. chưa biết tám thức có lớn nhỏ chăng?
ĐÁP: Thức tâm vi diệu, không thể nghĩ bàn, theo nghiệp thọ thân lớn nhỏ chẳng đồng. Kinh Hiển Thức nói: “Phật bảo Đại Lạc! Như gió không hình không chất, dừng ở trong hang tối, hoặc trong lỗ hở, gió xuất hiện rất dữ tợn, hoặc làm ngã núi Tu di nát thành bụi nhỏ. Gió vi diệu không hình không chất, thức cũng như vậy”.
HỎI: Lấy gì làm nhơn chìm đắm trong bốn loài sanh sản (tứ sanh)?
ĐÁP: Tinh là nhơn của sự sanh sản bằng thai (thai sanh). Tưởng là nhơn của sự sanh sản bằng trứng (noãn sanh). Tình và tưởng hợp lại làm nhơn sanh sản từ nơi ẩm ướt (thấp sanh). Tình và tưỡng lìa là nhơn của hóa sanh. Tất cả sự sanh sản ở trên đều do ý thức tạo nghiệp, rồi tùy nghiệp mà có sự thăng trầm. nếu ý thức đốn không (rỗng suốt một cách mau chóng), thì sự luân hồi vĩnh viễn dứt.
HỎI: Thế nào là ngũ nhãn?
ĐÁP: Bên ngoài chẳng trụ có là nhục nhãn. Bên trong chẳng trụ không là thiện nhãn. Không và có đều dứt là pháp nhãn. Chiếu soi cả hai (không hữu) mà không nhiễm là huệ nhãn. Lìa tất cả tướng là Phật nhãn.
HỎI: Thế nào là lục thông?
ĐÁP: Sáu căn đối cảnh tới lui không chướng ngại là lục thông.
HỎI: Thế nào là Đẳng giác, và thế nào Diệu giác?
ĐÁP: Đẳng giác là tịch và chiếu không hai, các pháp bình đẳng. diệu giác là tịch và chiếu dứt cả hai, thể chơn thường tỏa sáng một mình.
HỎI: Thế nào là biến dịch sanh tử, và thế nào là phần đoạn sanh tử?
ĐÁP: Biến dịch sanh tử là khi bồ tát thành tựu bi nguyện, làm lợi ích cho loài hữu tình. Tuy ở trong sanh tử mà không đồng với phàm phu còn nghiệp hữu lậu thấm nhuần. Phần đoạn sanh tử là do vọng tâm của phàm phu tạo ra, niệm niệm đều do đam mê chấp trước, lại thêm phiền não chướng, nên cuốn vào vành xe khổ lớn không lúc dừng nghỉ.
HỎI: Thế nào là “Đều sào trăm trượng phải tiến bước, mười phương thế giới lộ toàn thân”?
ĐÁP: Tâm như lai tạng, vốn từ một tinh minh mà theo trần trôi chảy, phân là sáu công dụng rồi chuyển xoay theo vật, trôi nổi trong sanh tử. Nếu như biết quay về căn trần không giao nhau, trở lại dòng toàn có một. Sáu công dụng chẳng hiện hành thì trạm nhiên thuần tịnh như gương thường sáng. Nếu giữ tâm nầy có thể gọi là rơi từ trên đảnh (đảnh đọa), lại có tên là Hầm sâu giải thoát (giải thoát thâm khanh). Đây là cái tri kiến nghiêng về không. Lại phải tiến bước, thì mười phương thế giới mới lộ toàn thân. Đập nát chiếc gương đi, sơn hà đại đại toàn bày pháp thể.
HỎI: Thế nào “Chẳng trụ vô vi, không tận hữu vi”?
ĐÁP:Tuy chứng pháp thân mà chẳng giữ thật tế (chỗ chơn thật), bi nguyện tiếp vật nên tùy loài lợi sanh. Tào Sơn nói: “Chớ đi đường tâm ấy, chẳng mặc áo bản lai, phải thế nào mới đúng? – Tối kỵ lúc chưa sanh” (mạc hành tâm lộ xứ, bất quải bản lai y, hà tu chánh nhậm ma? – Thiết kỵ vi sanh thời). Hàng Đại thừa bồ tát làm lợi ích và dẫn dắt chúng sanh, chẳng dừng ở vô vi mà phương tiện mặc áo nhơ (cấu y), chẳng dứt hữu vi mà đi trong phi đạo, để tùy loài đồng sự, độ thoát cho các loài hữu tình, nên chỉ bày cái nhiễm, tu cái tịnh, thông đạt đến Phật đạo.
HỎI: Thế nào là sám hối chơn thật?
ĐÁP: Người đời tạo đủ bốn tội trọng, mười điều ác, nghiệp nhơn đã cùng cực sẽ đọa vào tam đồ. Chợt sanh lòng hổ thẹn, phát đại dũng mãnh, gần bậc thiện tri thức, đốn ngộ bản tâm, những ác nghiệp từ bao kiếp trưcớ, và những tội lỗi hiện đời, như nước sôi làm chảy tuyết, như lửa cháy củi khô. Nghiệp hết phúc sanh, trí huệ phát hiện, trở lại đem những sở đắc của mình mà chỉ thẳng cho người sau, được đốn ngộ tâm tánh để cùng thành Chánh giác, gặt hái được phúc vô lượng, công đức còn hơn cát sông Hằng. CHƯƠNG VI
DUY TÂM TỊNH ĐỘ
Tăng hỏi: Tông môn (Thiền Tông) dạy tham thiền để minh tâm kiến tánh. Pháp môn Tịnh Độ dạy niệm Phật cầu vãng sanh. Hai pháp môn nầy độ khắp tất cả chúng sanh. Do đâu hàng học giả bên Thiền Tông lại tự qui “Duy tâm tịnh độ”?
ĐÁP: Tông chỉ của Thiền môn là “Liễu ngộ tự tâm”, một niệm tâm tịnh tức Phật độ tịnh, chẳng bàn Đông Tây mà chỉ tự tâm mình thôi.
HỎI: Khai thị thế nào lại không tịnh độ?
ĐÁP: Ông lại chẳng nghe kinh Lăng Nghiêm nói: “Nếu tâm chúng sanh nhớ Phật và niệm Phật, thì hiện giờ và về sau nhất định thấy Phật, cách Phật không xa, chẳng nhờ phương tiện tự được tâm khai”. Như có người học, sáu căn đều nhiếp, một niệm thuần chơn, tâm tịnh sáng suốt một mình, tức là hiện tại thấy Phật. Cho nên nói “cách Phật chẳng xa”. Kinh nói: “Chẳng nhờ phương tiện, tự được tâm khai”. Hai chữ “tâm khai” nầy có thể hiểu là Duy tâm vậy.
HỎI: Có người niệm Phật khi lâm chung Di Đà tiếp dẫn, việc nầy không hư ngụy chứ?
ĐÁP: Người niệm Phật nhứt tâm chẳng loạn, chuyên giữ Phật hiệu, thuần chơn không vọng. Như nước lóng trong, trăng Phật tự nhiên. Trăng vốn chẳng đến, nhơn nước trong nên thấy hiện. Khi lâm chung Phật nghinh tiếp là tâm hiện Phật.
HỎI: Nếu là Phật do tự tâm mình hiện, thì bản nguyện của A Di Đà chẳng thật sao?
ĐÁP: Thân Phật trạm nhiên không có đến có đi, niệm phật cơ cảm, nương nguyện lực của Phật, do tự tâm biến hoá, Phật đến tiếp dẫn, như nước hiện trăng, chẳng có chẳng không. Thế nên biết, sự thật thì chăng có Phật đến. Tất cả đều do thời cơ, đúng hợp với tịnh nghiệp đã thuần thục thì mắt thấy thân Phật. Như ở đời quả ác sắp thành, tâm hiện ra địa ngục để chịu khổ. Há chẳng nghe người có phước nắm gạch thành vàng? Còn kẻ mang nghiệp bần hàn thì biến vàng thành gạch.Cho nên sự thiện ác chỉ có tâm, khổ vui do tâm biến hoá. Những kẻ ôm lòng nghi làm sao hiểu được ý chỉ nầy?
HỎI: Kinh nói: “Qua khỏi mười muôn ức cõi Phật về phương Tây có thế giới của Phật tên là Cực Lạc”. Lời nói nầy là hư, là thật?
ĐÁP: Sự tuy như thế nhưng mà lý vốn ở trước mắt. Chẳng làm mười nghiệp ác, thắng vượt mười vạn ức. Ba nghiệp thanh tịnh cực lạc ở trước mắt.
HỎI: Cảnh Thánh nơi Tây phương nào là vàng bạc trải khắp mặt đất, lầu gác bao lơn, trang sức đẹp đẽ bằng bảy báu, hoa sen năm màu, nước tám công đức, chim lạ nhả xương, cây báu diễn pháp, sự ăn mặc nhà cửa, tuỳ ý hoá thành, tất cả nhân dân được niềm vui lớn. Như những điều thù thắng và kỳ lạ nầy quả thực có vậy.
ĐÁP: Phật lúc tu nhơn,hành đạo Bồ tát, phát nguyện lực lớn, thành tựu chúng sinh, không sao tính hết sự nhọc nhằn, làm lợi ích nhiều cho mọi loài. Trải qua bao kiếp xa, rộng tu phúc huệ, công đức tròn đầy chứng vào Phật vị. Kẻ học đời sau thành tín niệm Phật, nương vào bi nguyện của Phật lặng niệm hợp cơ, tâm hiện cảnh thù thắng, chẳng phải từ ngoài đến.
HỎI: Cảnh Thánh ở Tây phương vốn từ tâm mình hiện như vậy việc vãng sanh thực có lý nầy hay không?
ĐÁP: Sanh, nhất định là có sanh. Đi, vốn không đi (vổn vô khứ).
HỎI: Thế nào là sanh, nhất định có sanh, đi vốn không đi?
ĐÁP: Sanh ấy là niệm sanh, tâm hiện ra nước Phật. Đi ấy là không đi, vì tánh vốn chẳng động.
HỎI: Tôi thấy người niệm phật, dự biết được lúc đến, ngồi thoát đứng chết, mùi hương lạ đầy nhà. Việc nầy đâu phải là tâm hiện?
ĐÁP: Trời Đế Thích chẳng tu nghiệp trời, cung điện làm sao mà theo bên mình được? Vua chuyển luân không gieo nhơn vua, thất bảo không do đâu mà tu tập. Người niệm Phật, tịnh nghiệp thuần thục, cảm được thắng duyên bên ngoài, do tâm biến hiện.
HỎI: Phật và Tâm không hai, ngoài tâm không Phật. Tại sao lại lập pháp môn niệm Phật?
ĐÁP: Chỉ vì chúng sanh căn cơ bậc trung bậc hạ, chẳng tin tự tâm mình là Phật, nên phương tiện khiến niệm Phật tu quán, cột tâm vào một duyện, niệm lặng thuần chơn, thì tự tâm Phật hiện, hợp nhất với ánh sáng của Phật. Nếu là bậc Thượng trí chẳng hướng bên ngoài mà cầu, mà quán thật tướng của thân, quán Phật cũng vậy.
HỎI: Pháp môn tịnh độ khẳng định là có hay là không?
ĐÁP: Nếu nói là không, thì thế giới cực lạc, Di đà thuyết pháp, nhiếp thọ chúng sanh. Điều nầy từ kim khẩu của Phật Thích Ca truyền ra, chư Tổ từ Ấn độ đến Trung Hoa đều xiển dương là sao? Nếu nói là có, thì pháp thân chư Phật thể như thái hư, chẳng có chẳgkhông. Tự tâm của chúng sanh xưa nay là không tịch, đồng một thể với Phật, không thiếu cũng không thừa, là sao? Phải ngộ được lý sự viêndung mới có thể phân biệt được tịnh và uế.
HỎI: Lại có những tăng sĩ và cư sĩ niệm Phật một đời, khi lâm chung không Phật đến tiếp dẫn là sao?
ĐÁP: Bản tâm của chúng sanh đồng một thể với Phật, miêng tuy niệm Phật mà tâm ý tán loạn, như nước dơ động, nên ánh trăng không đứng, chớ chẳng phải trăng không đến ấy là do nước không lặng. Nếu một niệm thuần chơn thì tâm Phật tự hiện, dụ như nước đứng trăng hiện, thế nên biết, chẳng phải từ bên ngoài vào. Nếu ngộ lý nầy, lý Duy tâm chẳng lầm.
HỎI: Ngài đã khai thị tâm yếu như thế, thì tham thiền và niệm Phật không hai?
ĐÁP: Vốn không hai lý.
HỎI: Thế nào là lý không hai?
ĐÁP: Tham thiền cốt yếu phải như mèo bắt chuột. Niệm Phật quyết phải nhứt tâm bất loạn. Nếu nhứt tâm chẳng loạn, dù bỏ tham thiền cũng lo gì chẳng ngộ?
Nếu như mèo bắt chuột dù bỏ niệm Phật, tâm Phật cũng tự hiện. Cổ Đức có kệ rằng:
Tham thiền niệm Phật bổn lai đồng,
Khán phá phân minh tổng thị không.
Công đáo tự nhiên toàn thể hiện,
Xuân lai y cựu bách hoa hồng.
DỊCH:
Tham thiền niệm Phật lý vốn đồng,
Rõ ràng xem kỹ thảy đều không,
Công đến tự nhiên toàn thể hiện,
Xuân về như trước trăm hoa hồng.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 18.191.212.146 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.