Với kẻ kiên trì thì không có gì là khó, như dòng nước chảy mãi cũng làm mòn tảng đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Người ta thuận theo sự mong ước tầm thường, cầu lấy danh tiếng. Khi được danh tiếng thì thân không còn nữa.Kinh Bốn mươi hai chương
Cỏ làm hại ruộng vườn, si làm hại người đời. Bố thí người ly si, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 358)
Như ngôi nhà khéo lợp, mưa không xâm nhập vào. Cũng vậy tâm khéo tu, tham dục không xâm nhập.Kinh Pháp cú (Kệ số 14)
Người trí dù khoảnh khắc kề cận bậc hiền minh, cũng hiểu ngay lý pháp, như lưỡi nếm vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 65
Người ta vì ái dục sinh ra lo nghĩ; vì lo nghĩ sinh ra sợ sệt. Nếu lìa khỏi ái dục thì còn chi phải lo, còn chi phải sợ?Kinh Bốn mươi hai chương
Sự nguy hại của nóng giận còn hơn cả lửa dữ. Kinh Lời dạy cuối cùng
Ví như người mù sờ voi, tuy họ mô tả đúng thật như chỗ sờ biết, nhưng ta thật không thể nhờ đó mà biết rõ hình thể con voi.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Nay vui, đời sau vui, làm phước, hai đời vui.Kinh Pháp Cú (Kệ số 16)
Chớ khinh tội nhỏ, cho rằng không hại; giọt nước tuy nhỏ, dần đầy hồ to! (Do not belittle any small evil and say that no ill comes about therefrom. Small is a drop of water, yet it fills a big vessel.)Kinh Đại Bát Niết-bàn

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú [妙法蓮華經文句] »» Bản Việt dịch quyển số 10 »»

Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú [妙法蓮華經文句] »» Bản Việt dịch quyển số 10


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 1.32 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 1.62 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Văn Cú Kinh Diệu Pháp Liên Hoa

Kinh này có 20 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    
1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 |
Việt dịch: Thích Như Điển

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Từ „ngoài ra việc đánh mất tâm“ trở đi; bên trên
dụ cho phi diệt hiện diệt. Bên trên lại có 2. Một là chết chẳng lâu dài; dụ bên trên cho phi diệt hiện diệt. Thứ hai là các con tỉnh ngộ. Dụ bên trên là nói việc diệt độ lợi ích. Lại nói lý do của sự chết, do các con chẳng chịu uống thuốc. Dụ bên trên chỉ cho những kẻ kém đức, thấy Phật ở đời, mà hay sanh tâm kiêu tứ (kiêu mạn và tự hào). Bên trên trong hiện diệt ấy lại có 2. Một là Bản thật chẳng diệt; hai là phi diệt nói là diệt. Lý do chẳng xuất hiện sự nhập diệt. Lại xướng rằng nhập diệt là lợi ích. Nay thí dụ chẳng dụ phần thứ nhất, mà làm sáng tỏ lý do của sự hiện diệt. Chính là do chúng sanh đức kém, thấy Phật mà chẳng tu hành; tức là chẳng chịu uống thuốc vậy.
Từ „Ta nay giả thử“ trở đi; chính thức nói lên việc ra đi. Dụ cho phi diệt mà nói là diệt. Ở trong nầy làm sáng tỏ sự buồn khổ, già nua; lại chia ra làm 2. Một là đưa ra lời nói về sự lưu trụ trong quá khứ. Dụ bên trên việc ở ấy có sự tổn hoại (nên) diệt có lợi ích. Hai tức là tạo ra lời nói nầy và xướng lên sự chết. Chính thức dụ cho hiện diệt và việc hóa độ đã xong. Giờ chết đã đến, sẽ vào Niết Bàn. Lưu truyền kinh điển và những lời dạy lại; cho nên nói là thuốc chữa tốt; nay lưu lại ở cõi nầy.
Lại đến nước khác tức là ở nơi đây hiện diệt mà ở phương khác thì hiện sanh. Câu văn trên lại nói rằng: Nguyện ở phương kia đưa mắt nhìn và gìn giữ; tức là ý nghĩa nầy. Di sử có nghĩa là giữ lấy trong Niết Bàn mà nói lớn tiếng cho mọi người, làm sứ giả. Hoặc dùng thần thông; hoặc dùng xá lợi; hoặc dùng kinh dạy mà làm người sứ. Nay dùng sự 4 nương tựa nơi Bồ Tát để nói với chúng sanh là Phật đã diệt độ rồi. Hằng lưu giữ pháp nầy, ta nay tuyên nói hoằng dương; ngươi nên thọ lãnh hành trì. Sau nầy chúng sanh nếu chẳng theo 4 việc nương tựa để truyền thuật kinh pháp thì há có thể tự biết được rằng Phật đã diệt độ rồi chăng? Cho nên phải dùng 4 nơi nương tựa như là một sứ giả.
Thứ 2 là „lúc ấy các con“ trở đi! Các con tỉnh ngộ, dụ cho hiện diệt lợi ích. Câu văn trên lại chia làm 2. Một là làm sáng tỏ sự tổn hoại và sự lợi ích; hai là giải thích sự tổn hoại và sự lợi ích. Nay bằng thí dụ cho việc được lợi ích. Trong nầy có „tự suy nghĩ riêng lẻ“ trở đi; làm sáng tỏ việc được lợi ích sau khi diệt độ. Như Ưu Ba Cấp Đa đã giáo hóa lưu truyền. Lại chia ra làm 2. Một là hiện diệt lợi ích; hai là vị lai cơ cảm. Lý do tốt là sau khi diệt độ, chúng sanh tỉnh ngộ chịu uống thuốc, tu hành, dùng đó để tạo tác nhơn duyên, có thể cảm được vị lai để ứng, hóa. Như (Kinh) Di Giáo nói rằng: Kẻ chưa độ thì sẽ tạo ra nhân duyên để được độ. Lại có hiện được, cảm thấy. Phổ Hiền Quán nói rằng: Tinh tấn cần khổ cho đến được gặp Thích Ca phân thân, Đa Bảo ở Đông Phương, đức lành ấy cùng với 7 vị Phật Thế Tôn.
Phần thứ 3 là người cha nầy khi nghe các con, tất nhiên đã có sự thể đắc khác nhau. Tức là sức mạnh của vị lai về ích vật uy mãnh. Người cha nghe các con khác nhau nghĩa là căn cơ hoặc khiến cho thấy; tức là khởi lên việc ứng, hóa của vị lai. Rồi mới cùng hình hài, âm thanh cả 2 đều lợi ích như câu văn.
Từ „chư thiện nam tử! Vì sao vậy“ trở đi. Lời nói ấy chẳng hư dối dụ cho việc làm sáng tỏ 3 đời làm lợi ích việc chẳng hư vọng vậy. Từ Phật nói „ta lại cũng như vậy“ đã làm sáng tỏ cho hợp dụ nầy. Thành Phật tới nay, từ vô lượng kiếp nghĩa là hợp với đời quá khứ. Phương tiện lực nói sẽ diệt độ. Hợp với đời hiện tại. Câu văn lược bớt, chẳng hợp với vị lai. Lại không thể nói: ta hư vọng. Hợp với sự lợi ích chẳng hư vọng vậy.
Kệ có 25 hàng rưỡi; tụng bên trên về pháp dụ. Hai mươi hàng rưỡi hàng đầu tụng về thuyết pháp. Kế đến 5 hàng tụng về thí dụ việc nói. Bên trên thuyết pháp lại có
2. Nay tụng ấy lại có 2. Đầu tiên 19 hàng rưỡi tụng về sự ích vật trong 3 đời. Kế đến một hàng, tụng về tất cả sự thật, chẳng hư ngụy. Đầu tiên 4 hàng tụng về đời quá khứ làm lợi ích vật lại chia ra làm 3. Một hàng đầu tiên tụng về việc bên trên thành đạo đã lâu xa rồi.
Kế đến từ „thường thuyết pháp“ trở đi; phần thứ 2 gồm một hàng,tụng bên trên và ở giữa sự ích vật. Kế đến „vì độ chúng sanh“; phần thứ 3 gồm 2 hàng, tụng phần bên trên về trụ xứ. Kế đến „chúng thấy ta“ trở đi; phần thứ 2 gồm 5 hàng tụng về hiện tại. Câu văn bên trên lại có 2. Hai hàng rưỡi đầu tiên tụng về phi sanh hiện sanh. Kế đến „lúc ấy ta nói“ trở đi; phần thứ 2 gồm 2 hàng rưỡi tụng về phi diệt hiện diệt. Tiếp theo „ta thấy họ“ trở đi; phần thứ 3 gồm 10 hàng rưỡi; tụng bên trên phần vị lai. Bên trên hay dùng: thường trụ bất diệt gồm 4 chữ. Nay liền tụng rộng ra. Câu văn nầy lại chia làm 4. Đầu tiên „ta thấy“ trở đi gồm 1 hàng rưỡi, làm sáng tỏ vị lai cơ ứng.
Kế đến „thần thông lực như vậy“ trở đi; phần thứ 2 gồm 4 hàng; tụng bên trên về thường trụ bất diệt. Thường tại núi Linh Thứu. Đây có nghĩa là Thật Báo Độ vậy. Ngoài ra các trụ xứ nghĩa là phương tiện hữu dư độ; tức là bên trên nghĩa nói về các nước khác. Trời, người sung mãn nghĩa là 30 tâm của con người. Thập Địa là trời, đánh trống trời tức là vô vấn tự thuyết vậy. Mạn Đà La hoa là nói địa vị của Hiền Thánh. Kế đến „Tịnh Độ ta“ trở đi; phần thứ 3 gồm 2 hàng; làm sáng tỏ việc chẳng gặp nhơn duyên. Kế tiếp „Họ có tu công đức“ trở đi; phần thứ 4 gồm 3 hàng, làm sáng tỏ được gặp nhơn duyên.
Kế tiếp „các con có trí“ trở đi; phần thứ 2 gồm 1 hàng, tụng về sự lợi ích chẳng hư dối bên trên. Kế đến 5 hàng, dụ ấy lại chia ra làm 2. Một hàng tụng về khai dụ, lại chia làm 3. Một câu đầu, tụng về quá khứ. Vì tự hạ gồm 2 câu tụng về hiện tại. Chẳng tụng về vị lai. „Vô năng thuyết“ trở đi; phần thứ 3 gồm 1 câu tụng về việc chẳng hư ngụy. „Sau ta lại làm“ trở đi; phần thứ 2 gồm 4 hàng, tụng về hợp dụ. Trong phần hợp bên trên, gốc ấy chẳng hợp với vị lai. Nay nửa hàng đầu tụng hợp về quá khứ.
Kế đến „phàm phu“ trở đi; phần thứ 2 gồm 2 hàng rưỡi, tụng về hợp hiện tại. Sau đó „mỗi tự làm“ trở đi phần thứ 3 gồm 1 hàng; tụng về hợp, chẳng hư ngụy. Khai 3 hiển 1, khai gần hiển xa là muốn làm cho chúng sanh mau vào Phật đạo. Việc nầy tất được, chẳng hư vọng vậy.
Giải thích về phẩm Phân Biệt Công Đức
Phật nói Thọ Lượng 2 đời đệ tử được các loại lợi
ích; cho nên nói là công đức ấy cạn sâu chẳng giống nhau. Từ đó nói phẩm Phân Biệt vậy. Câu văn nầy là Bổn Môn, phân đoạn thứ 2 về thọ ký. Luận phân câu văn nầy có pháp lực và tu hành lực. Pháp lực lại có 5. Một là chứng. Hai là tín. Ba là cúng dường tất cả như phẩm nầy. Bốn là nghe như phẩm Tùy Hỷ. Năm là đọc, tụng, giảng, nói. Đọc tụng như phẩm Pháp Sư công đức. Trì là theo lời chỉ dạy của Pháp Sư, như phẩm An Lạc Hạnh và phẩm khuyến trì gồm 3 phẩm. Nói (pháp) đây giống như phẩm thần lực, chúc lũy. Tu hành lực nghĩa là lực khổ hạnh như Dược Vương; giáo hóa như Diệu Âm. Giúp đỡ khó khăn như Quan Âm Đà La Ni; chỉ bày công đức như Diệu Trang Nghiêm Vương. Hộ Pháp như phẩm Phổ Hiền v.v...
Quang Trạch nói rằng: Một theo Ước (giáo) công đức môn, ghi nhận việc nầy, tiến đến hiện tại tu nhơn.
Hai theo Ước (giáo) trí huệ môn, ghi nhận sự tồn sanh nầy và vị lai được quả. Ba là làm sáng tỏ ngoại phàm phát tâm. Phàm là thọ ký, thông nhơn quả. Ba thông nầy là thọ ký vậy.
Bên dưới là 8 thế giới phát tâm, ở tại thí dụ đầu. Dùng ngoại phàm nghe kinh phát tâm, trụ ở 30 tâm. 30 tâm ấy nghe kinh, bắt đầu ra khỏi bên trong, để chứng nơi Sơ Địa, được vô sanh nhẫn. Sơ địa nghe kinh rồi tiến nhập vào Nhị Địa, được nghe liền giữ. Nhị Địa nghe kinh được vào Tam Địa; gọi đây là vui nói biện tài. Tam Địa nghe kinh nhập vào Tứ Địa, được vô lượng toàn. Tứ Địa nghe kinh, nhập vào Ngũ Địa; gọi đây là bất thối. Ngũ Địa nhập Lục Địa; gọi đây là thanh tịnh luân. Ngàn năm trôi qua theo Ước (giáo) thì Tổn Sanh Môn được thọ ký. Thất Địa đã đoạn vô minh hoặc; hoặc có 3 phẩm; hay vì 9 lần sanh, tạo tác nhơn duyên. Từ Thất Địa trở lên, quả báo chẳng có kỳ hạn; khó có thể được phê phán. Thường đoạn trừ 9 phẩm phiền não là lời nói. Phiền não phẩm số trăm ngàn vạn loại. Nay theo Ước (giáo) thì một loại 9 phẩm tạo nghĩa. Thất Địa đã đoạn, tạo hạ, thượng gồm 2 phẩm. Cho đến Thập Địa sở đoạn; lại tạo thượng, hạ 2 phẩm. Kim Cang tâm sở đoạn, tạo một phẩm. Lục Địa nghe kinh, chứng Thất Địa hạ nhẫn đoạn một phẩm. Ngoài ra Bát phẩm ở tại bát sanh tạo ra nguyên nhơn. Cho nên nói bát sanh sẽ được Bồ Đề. Thất Địa thượng nhẫn lại đoạn nhất phẩm. Tức là tổn nhị phẩm sanh. Ngoài 7 phẩm là 7 sanh làm nguyên nhân. Bảy sanh sẽ được Bồ Đề. Các phẩm thí dụ có thượng hạ. Một phẩm hết tổn thì một sanh. Câu văn lược bớt. Cho nên từ Bát địa đến Tứ sanh; ngoài ra có 1 sanh; tức là tâm Kim Cang đoạn pháp vậy.
Pháp Hoa Luận nói rằng: Được Vô Sanh Nhẫn nghĩa là nhập vào Sơ Địa, chứng trí. Nên biết rằng từ bát sanh cho đến nhứt sanh được Bồ Đề. Nghĩa là phàm phu quyết định sẽ được chứng Sơ Địa, tùy phần sanh và nhứt sanh, liền chứng Bồ Đề. Bồ Đề là lìa 3 cõi phần đoạn sanh tử. Tùy phần mà thấy chơn như Phật tánh; gọi là được Bồ Đề. Chẳng phải là cứu cánh đầy đủ Bồ Đề. Nay nghĩa là luận việc phía trước sâu, phía sau cạn. Quang Trạch thì trước cạn, sau sâu. Hai tướng kia cứ thế thục phán vậy.
Phàm là vô sanh Pháp nhẫn thì kinh luận lại chẳng giống nhau. Ca Chiên Diên Tử làm sáng tỏ 5 pháp thành tựu, liền được bất thối chuyển. Lục độ Bồ Tát vị. Tu Đà Hoàn. Nhược trí, nhược đoạn là Bồ Đề vô sanh Pháp nhẫn. Tam Thừa cộng vị là chứng Sơ Địa được Vô Sanh Nhẫn. Biệt Bồ Tát vị. chứng Sơ Trụ, được vô sanh pháp nhẫn. Viên Bồ Tát vị, tất cả Thánh Giáo làm sáng tỏ câu văn chẳng thể tham lam. Lại nữa Tịnh Danh gọi là gần với vô đẳng đẳng, được vô sanh nhẫn. Nhơn Vương nói rằng: Đến Kinh Cương Đảnh, tất cả gọi là Phục Nhẫn. Lại gọi là tịch diệt nhẫn. Cái thị biệt viên địa địa. Thông (giáo) thì ý đồ chẳng thể định dụng. Liền đó Quang Trạch dùng sự phát tâm làm nội phàm 30 tâm vị, vì vô sanh nhẫn. Là Sơ Địa. Tất cả những nhà Biệt giáo gọi sự dạy dỗ ấy là chẳng thông (giáo) gia môn hộ. Từ Sơ Địa cho đến Lục Địa gọi là phước đức môn. Đại kinh xưng là hữu vi vô lậu, gọi là Thanh Văn Tăng; tức là ý của Thông giáo vậy.
Thất Địa trở lên đoạn 9 phẩm sanh nhơn. Tiểu Thừa, Đại Thừa được nhập vị nhơn. Ai chưa đoạn hoặc, chưa đủ định để nói. Nếu nói Thất Địa đoạn vô minh thì chẳng phải Thông (giáo) mà cũng chẳng phải Biệt (giáo). Thế mà Biệt lại tiếp với ý của Thông (giáo) vậy. Quang Trạch nổi trôi chẳng gặp kinh nầy. Thiên Thân (Thế Thân) dùng sự phát tâm làm vô sanh nhẫn. Từ bát sanh cho đến nhứt sanh, Phàm phu quyết định đoạn quả báo, sanh tận, được nhập vào sơ địa, được vô sanh pháp nhẫn. Chuyên cứ nghĩa riêng, lại chẳng gặp với kinh. Nay phần câu văn ấy lại chia 3. Một là các nhà chú kinh tổng nói ở phần địa. Hai là Như Lai phân biệt. Ba là lúc chúng cúng dường. Tổng tự như câu văn. Phân biệt là lời Phật viên diệu khó thể dùng để quyền lập và giải thích kinh. Cho nên câu văn bên trên khai, thị, ngộ, nhập, Phật tri kiến.
Nay Bổn Môn tăng đạo tổn sanh, tất cả Ước (giáo) viên vị giải thích. Dưới 8 thế giới phát tâm, người sáu căn thanh tịnh. Đầu tiên nhập vào Thập Tín vị. Cho nên Nhơn Vương nói: Thập Thiện Bồ Tát phát tâm lớn. Trường biệt 3 cõi khổ luân hải; tức là ở ý nghĩa nầy. Được vô sanh pháp nhẫn, nhập vào Thập Trụ vị. Cho nên Hoa Nghiêm nói: Sơ phát tâm trụ nhất, phát nhứt thiết pháp. Được Như Lai một thân vô lượng thân. Thanh tịnh diệu pháp thân thậm nhiên ứng nhứt thiết. Tức là ý nghĩa nầy vậy. Được nghe Trì Đà La Ni nhập vào Thập Hạnh vị, được vui nói biện tài, nhập vào Thập Hồi Hướng vị, được vô lượng Toàn Đà La Ni. Nhập Sơ Địa, được bất thoái. Nhập nhị địa được thanh tịnh; nhập tam địa bát sanh; nhập trí địa thất sanh; nhập ngũ địa. Lục sanh nhập lục địa. Ngũ sanh nhập thất địa. Tứ sanh nhập bát địa. Tam sanh nhập cửu địa. Nhị sanh nhập thập địa. Nhứt sanh nhập Đẳng Giác Kim Cang tâm. Nếu hiện tăng đạo, tổn sanh; chẳng như Quang Trạch đoạn nhơn sanh của sanh. Chẳng như Thiên Thân đoạn sự sanh của quả báo. Hằng Ước (giáo) trí đức luận tăng. Ước (giáo) đoạn đức luận tổn. Ước (giáo) pháp thân luận sanh. Ước (giáo) vô minh luận diệt. Ví như Đại Kinh Nguyệt Dụ. Từ ngày đầu tiên đến ngày thứ 15 ánh sáng dần tăng lên. Từ ngày 16 đến ngày thứ 30 ánh sáng dần giảm. Ước (giáo) theo thể của một tháng mà luận về sự tăng, giảm. Dụ ấy Ước (giáo) pháp thân mà luận trí đoạn; hoặc có thể một người, một lúc có 8 lần tăng (giảm); hoặc có thể một đời hoặc 8 đời; hoặc vô lượng đời; hoặc có thể một niệm; hoặc có thể 8 niệm; hoặc vô lượng niệm; hoặc có thể nhiều vi trần số người, lại cũng như thế. Cho nên chẳng thể dùng nguyên nhơn sanh hay quả sanh làm bố cục. Chẳng thể lìa tướng trí đoạn, giải thích; mà Bổn Môn được đạo số gấp bội tụng các kinh. Chẳng phải hằng số nhiều, lại huân tu ngày tháng dài lâu. Gốc ấy là Bản Thùy Tích xứ xứ khai dẫn. Trung gian tương trực, số số thành thục. Nay thì ngũ vị mỗi mỗi điều phục. Thu La kết toát trở về Pháp Hoa; giống như đất của gia đình mùa xuân thì sanh, mùa hạ trưởng thành cùng các loại cỏ để giữ gìn. Mùa thu thì thu hoạch; mùa đông khựng lại một thời gian rồi gặt cắt.
Chính sau Pháp Hoa có được đạo như nhặt nhạnh được vậy.
Ba thời chúng cúng dường là lúc nghe pháp sâu xa, được đại nhiêu ích; muốn báo ân Phật mà thiết lễ cúng dường. Lại là việc ghé qua dùng làm biểu tượng của sự thọ nhận. Bên trên Tích Môn Bồ Tát lại ngộ, mà đại sự chưa xong; cho nên chẳng bày đặt. Bản Môn lại xong, Di Lặc đã lãnh bày tất cả sự thưa thỉnh, làm sáng tỏ các vị Bồ Tát cầm giữ tràng phan, bảo cái, lần lượt kéo đến cả Phạm Thiên. Phan ấy chính là nghĩa của chuyển. Cái ấy là nghĩa của sự che khuất. Địa ấy là nghĩa bắt đầu. Phạm ấy là Tịnh. Trí đoạn phiên phiên chuyển. Từ bi phiên phiên phúc (Từ bi lần lượt che khuất). Cao thấp, sâu cạn chẳng mất, lần lượt kéo đến Phạm Thiên. Biểu hiện chư vị Bồ Tát tăng đạo, tổn sanh, lân vu Diệu Giác, cực ư cực tịnh. Nếu tạo theo sự giải thích của Thiên Thân thì chỉ được Sơ Địa một lúc, há được cùng với câu văn nầy gặp nhau sao? Kệ có 19 hàng, phân ra làm 3. Hai hàng đầu tụng lúc chúng được giải thích. Kế tiếp 9 hàng tụng về Như Lai phân biệt. Sau đó 8 hàng tụng lúc chúng cúng dường, được vô lượng vô lậu thanh tịnh quả báo. Chỉ khác với Nhị Thừa có lượng; cho nên nói là vô lượng. Diệu nhơn sở cảm; cho nên nói là thanh tịnh. Đất chẳng chướng ngại; cho nên nói quả báo; khác với Nhị Thừa không báo. Nghe Phật thọ vô lượng. Câu văn nầy định phán về vô lượng. Sao được dùng để giải như xưa là có lượng sao?
Thầy Nam từ sau bài kệ trường hàng trở đi, thuộc về đoạn lưu thông, dẫn thượng Tích Môn. Văn Thù hiện tại lại là lưu thông. Thầy Bắc thì dùng 4 tín đệ tử, hiện tại nghe kinh, bảo rằng chúc chánh thuyết. Từ „lại nữa Như Lai sau khi tịch diệt“ trở đi, cũng là phần lưu thông. Hai nhà (Nam, Bắc) cùng có thể tận dùng. Nay lại nương vào Nam phương. Từ sau bài kệ, phàm 11 phẩm rưỡi, phân làm 2. Một là từ dưới qua khỏi phẩm Bất Khinh làm sáng tỏ việc hoằng kinh công đức sâu xa, khuyên lưu thông. Hai là từ „phẩm Thần Lực đến dưới 8 phẩm“ là phó chúc lưu thông, mỗi mỗi lại có 2. Nửa phẩm nầy cùng với phẩm Tùy Hỷ làm sáng tỏ phẩm đầu là cái nhơn công đức, khuyến lưu thông. Hai là từ (phẩm) Pháp Sư công đức làm sáng tỏ cái quả công đức của phẩm đầu, khuyên lưu thông. Phẩm (Thường) Bất Khinh dẫn chứng niềm tin, hủy báng, tội phước; chứng khuyến lưu thông.
Sau 3 lần Thần Lực Chúc Lũy. Chúc Lũy lưu thông. Từ hạ phẩm Dược Vương Ước (giáo) hóa tha; khuyến lưu thông. Phổ Hiền Ước (giáo) tự hành, khuyến lưu thông. Sanh khởi là hiện tại nghe kinh được chơn tợ cả hai giải đáp và lợi ích như bên trên đã nói. Nếu nghe thẳng một câu mà sanh tùy hỷ. Như hiện tại 4 niềm tin, cách kỳ công đức. Ở đời vị lai chẳng có vị Phật nào mà sợ người nghi về phước ít cả. Nói sau khi diệt 5 phẩm công đức. Nhơn công đức vi mật. Chưa được quả công đức làm sáng tỏ. Cho nên nói phẩm Pháp Sư công đức. Nhơn quả cùng chưa đưa ra; nếu dẫn chứng rõ ràng; cho nên nói là Bất Khinh. Tuy đưa ra người chưa đến, nếu hiện biến; cho nên nói thần lực. Tuy thị hiện thần lực mà chưa được xoa đầu phó chúc. Cho nên nói là Chúc Lũy. Tuy thông đồ chúc lũy, mà chưa thị hiện yếu thuật thí thân để giữ đạo; cho nên nói Dược Vương. Tuy răn dạy giáo hóa chưa xong, mà khuyên răn chỗ giáo hóa. Tùy nơi nghe pháp, nên sanh tâm tưởng đến Phật; cho nên nói Diệu Âm Quan Âm. Nếu sơ tâm hoằng truyền kinh điển, lại vô thần lực, mà nên nương vào sự chỉ bên trong; cho nên nói Đà La Ni, đầy đủ ngoại hộ; cho nên nói Nghiêm Vương Phổ Hiền. Hớn hở mừng vui khiến đại pháp hoằng thông vậy. Tựu chung sau kệ trường hàng lại có 2. Một là hiện tại tứ tín; hai là diệt hậu uyên phẩm.
Sao gọi là Tứ Tín? Nói lược là 3 người, nói rộng 2 người, quán thành một người. Tín ấy qua 4 người cho nên nói Tứ Tín. Tứ Tín là mỗi một niệm tín giải chưa thể diễn nói; hai là lược giải nói ra; ba là rộng vì kia nói; bốn là thâm tín quán thành. Đầu tiên là niệm tín giải, có trường hàng kệ tụng. Trường hàng lại có 3. Một là đưa ra người nầy; hai là làm sáng tỏ công đức. Ba là vị hạnh chẳng thoái. Nay giải thích về một niệm tín giải. Nghĩa là tùy theo chỗ nghe, khai thông và làm sáng tỏ. Tùy theo lời nói mà nhập vào vô hữu quái ngại. Tin tất cả pháp; tất cả là Phật pháp. Lại tin rằng Phật pháp chẳng ngăn cách bởi tất cả pháp. Chẳng được Phật pháp, chẳng được tất cả pháp, mà gặp được tất cả pháp. Lại thấy được Phật pháp tức là một mà ba; tức ba mà một. Lại là hành nơi phi đạo mà thông đạt được Phật đạo. Hành nơi Phật đạo, thông đạt tất cả đạo. Chẳng được Phật đạo tất cả đạo, mà thông đạt Phật đạo, tất cả đạo. Chẳng sở hữu mà lại có, mà lại có vô sở hữu. Phi sở hữu, phi vô sở hữu. Như trước cửa có con đường chạy qua, tất cả đông, tây, nam, bắc đều thuận lợi, chẳng trở ngại. Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Phàm có chỗ đối lại, tức cũng như vậy.
Chẳng nghi nói về tín, làm sáng tỏ nói về giải. Đây là một niệm tâm tín giải. Nếu ngồi tư duy; tùy theo chỗ suy nghĩ mà được thông thoáng khai ngộ. Thông đạt tam đế lại cũng như thế. Như vậy tín giải có tên là thiết luân vị. Lại nữa một giải, chưa gọi là đầy đủ thiết luân; cho đến thập tín là sơ tâm. Người nầy chưa được 6 căn thanh tịnh; cho nên chẳng phải là thiết luân chánh vị.
Kế tiếp là cách lượng. Trước tiên tổng luận về vô lượng; kế tiếp là cách lượng nhiều ít, lại chia làm 2. Đầu tiên đưa ra 5 độ làm cách lượng bổn. Bát Nhã tức là ngay đây là chánh huệ. Cho nên nói là trừ bát nhã.
Hỏi: Lìa Bát Nhã tức là 5 chưa gọi là độ?
Đáp: Tất cả đều vì cầu Phật huệ, tận thí giới biên. Lại được gọi là độ. Che khuất lần lượt ý vậy.
Từ „dùng công đức nầy“ trở đi; phần thứ 2 chánh cách nhiều ít. Từ „Nếu thiện nam tử“ trở đi; phần thứ 3 làm sáng tỏ vị hành chẳng thoái. Riêng 6 tâm, dụ thoái; 7 tâm dụ cho bất thoái. Viên sơ trụ tâm tức là bất thoái. Nghe Thọ Lượng công đức, tự ngoại nhi tư. Viên ấy thuận với tín giải, tự nội mà huân; cho nên chẳng thoái. Đại Phẩm nói rằng: Có Bồ Tát thoái, có vị chẳng thoái. Có ma, không ma; tất cả đều ở nghĩa nầy.
Kệ có 19 hàng rưỡi. Đầu tiên 12 hàng. Trước tiên tụng về cách lượng nhiều ít. Kế đến 2 hàng tụng về tướng người; sau đó 5 hàng rưỡi, tụng về hành vị bất thoái. Vô lượng kiếp hành đạo là dài lâu tu các độ. „Nguyện con nơi vị lai“ tức là khởi nguyện từ bi. Tích chứa dài lâu hạnh nguyện nghe kinh, tín giải. Nay ở phẩm đầu nghe kinh nầy, một niệm tín giải. Công ấy sánh với sự hành trì lâu dài, lại là thời gian đã trôi qua. Lại nữa A Dật Đa nghe Phật thọ mạng lâu dài, thuộc phẩm thứ 2. Trước tiên hằng tín giải mà chưa thể nói rộng. Nói từng bước gọi là số tu thiện phương ngôn. Nay phẩm nầy đầy đủ; cho nên nói vì kẻ khác mà giải nói.
Từ „thắng thọ danh, danh phẩm đệ nhứt“ dùng sức để nói; cho nên có thể khởi tự, tha vô thượng huệ. Câu văn nầy trước tiên làm mục tiêu cho tướng của con người. Kế đến là cách lượng. Hà huống nghe rộng kinh nầy như sau.
Phần phẩm thứ 1 rộng nghe, rộng giải. Rộng vì người khác nói; rộng tu cúng dường. Cúng dường là vật bên ngoài, làm cho trí bên trong biết tật mà nhập vào và sanh ra tất cả chủng trí. Đầu tiên thể hiện nơi tướng người. Kế đến là cách lượng.
Từ „A Dật Đa“ trở đi. Phần thứ 4 – con người sẵn sàng, phẩm thứ 3 bên trên là gia tu quán hạnh. Nhập thiền, dùng trí tuệ tưởng thành, tưởng khởi. Hay thấy hữu dư thật báo, cả tướng mạo của 2 cảnh giới. Thấy Phật cùng các Tỳ Kheo Tăng thường tại núi Kỳ Xà Quật. Tướng của phương tiện hữu dư độ. Lại gặp Ta Bà toàn các Bồ Tát; thật báo tướng. Hai phẩm đầu là văn huệ vị, rộng nghe rộng nói là tư huệ vị. Quán hạnh tưởng thành là tu huệ vị. Từ cạn đến sâu, thành 6 căn thanh tịnh, thập tín vị.
Lại nữa „sau khi Như Lai diệt độ“ trở đi; làm sáng tỏ 5 phẩm. Câu văn ấy lại chia làm 2. Đầu tiên liệt 5 phẩm là cách lượng; 4 phẩm là công đức. Sau đó phẩm tùy hỷ cách lượng, phẩm đầu công đức.
Hỏi: Vì sao vậy ?
Đáp: Bốn phẩm thô cách lượng. Phẩm đầu quảng cách lượng. Quảng cách lượng đã hằng ra khỏi tốt đẹp, có thể đắc ý. Phật chẳng phiền, câu văn xảo nói như việc nầy.
Ngũ phẩm -Một là trực khỏi tâm tùy hỷ; hai là thêm tự thọ trì đọc tụng; ba là thêm khuyến khích kia thọ trì đọc tụng; bốn là thêm kiêm hạnh lục độ; năm là thêm chánh hạnh lục độ. Năm người nầy là thông luận, tất cả tự hành hóa tha.
Câu văn bên dưới nói rằng: 50 người triển chuyển tương giáo. Tất cả liền có tự hạnh, thông xương đệ tử. Tất cả có hóa tha thông xưng pháp sư. Biệt luận 2 người hằng tự hành. Ba người đều hóa tha; tác pháp sư; gọi là vãng; tại 3 chẳng tại 5. Tự hành đã thông qua; cho nên tất cả gọi là đệ tử. Phẩm đầu làm mục tiêu cho người. Cách lượng thì nói ở phần sau.
Từ „hà huống“ trở đi; phẩm thứ 2. Luống xuất hay thọ trì đọc tụng là đây. Người là mục tiêu có thể rõ. Từ „người nầy đảnh tải, chẳng là cách lượng“; kẻ sơ tâm sợ duyên vào chỗ phấn động, phỏng tu chánh nghiệp, ngay đó chuyên trì kinh nầy. Tức là bên trên cúng dường, bỏ việc tồn lý, chỗ làm lợi ích hoằng pháp nhiều hơn. Sau đó dùng tâm lý quán để cho thành thục. Vượt khỏi bên ngoài và chẳng làm hại bên trong. Việc ấy ở nơi đạo; như dầu nhiều thì lửa mạnh. Nếu chảy thuận thì buồm căng. Lại gia thêm công lực. Sức mạnh nầy chuyển đổi bệnh hoạn. Nơi kinh văn thì pháp thân xá lợi chẳng được an, sanh thân xá lợi. Câu văn chú giải; nơi chú giải, có thể chú giải là tháp, chẳng phải là việc của tháp. Câu văn kinh ấy có thể dung chứa ý nghĩa thứ nhất về Tăng; chẳng phải theo tướng từ Tăng.
Hỏi: Nếu như vậy thì việc trì kinh; tức là đệ nhứt nghĩa giới. Vì sao lại nói hay trì giới?
Đáp: Điều nầy làm sáng tỏ ý của phần đầu; chẳng nên dùng phẩm sau, tạo ra khó khăn. Nếu muốn giải thích, trì kinh tức là thuận lý giới, lại là nhiệm vận trì, được một biến, hai biến. Nay nói hay trì giới là đây vậy.
Trước tiên „phiêu nhơn từ khởi lập“ trở đi là cách lượng. „Huống nữa có người“ trở đi; phẩm thứ 4 hay cùng với hành lục độ là đây vậy. Đầu tiên tiêu nhơn, từ “đức nầy tối thắng” trở đi là cách lượng. „Nếu có người đọc tụng“ trở đi; phẩm thứ 5 lại là chánh hạnh lục độ vậy. Trước tiêu nhơn từ „nếu ta sau khi diệt“ trở đi là cách lượng. Kết cuộc của 5 phẩm nầy trước 3 người là văn huệ vị. Cùng với hành lục độ tư huệ vị. Chánh hạnh lục độ là tu huệ vị. Cả 2 đều là trước thập tín vậy.
Hoặc nói về phần đầu của phẩm Tùy Hỷ. Đây là nhập tín tâm vị. Phần một phẩm là 2 tâm. Ngũ phẩm là thập tín tâm; tức là thiết luân lục căn thanh tịnh vị. Kệ có 19 hàng rưỡi. Năm hàng rưỡi đầu tụng phần phẩm thứ 2. Kế đến „nếu hay trì“ trở đi 3 hàng; tụng phần phẩm thứ
3. „Nếu có tín giải“ trở đi gồm 4 hàng; tụng phẩm thứ 4. Kế đến „cung kính“ trở đi gồm 7 hàng; tụng phẩm thứ 5; sanh tâm như Phật tưởng; đầu tiên nương vào người, hiệu là Như Lai. Chẳng dài lâu, ngồi nơi đạo thọ. Vị trí nầy tại thiết luân; chẳng bao lâu được nhập vào đồng luân, hay 8 tướng làm Phật. Nơi đạo tràng nầy là hành xứ. Tam Bồ Đề là cận xứ. Phẩm thứ 5 nầy cùng với Tín thứ tư giống nhau; chính là tu huệ vị. Nếu luận nhập vị giống nhau là 6 căn thanh tịnh vị; mà còn hiện (tại) vị (lai) Phật ở đời, sau khi tịch diệt là kết quả vậy.
Giải thích phẩm Tùy Hỷ Công Đức
Tùy là tùy thuận, sự lý chẳng hai, không phân
biệt. Hỷ là vui, là người đã trải qua việc vui. Nghe sâu ý nghĩa giáo pháp, thuận lý, có thật là nhiều công đức. Thuận sự có quyền công đức. Khánh nầy là có trí huệ. Người hoan hỷ có từ bi, quyền thật trí đoạn, hợp lại mà nói. Cho nên nói là phẩm Tùy Hỷ Công Đức.
Lại nữa thuận theo lý là nghe Phật bản địa, thật xa, thật xa, tin thuận chẳng nghịch. Chẳng có một mảy may nào nghi ngờ cả. Thuận sự là nghe Phật 3 đời làm lợi ích quần sanh, cao thấp, ngang dọc hằng nói pháp khắp các mọi nơi, lại chẳng có một mảy may nào nghi ngờ. Tức là ở nơi rộng ấy đạt được cái lý sâu xa. Tức là lý sâu mà đạt được việc rộng. Chẳng hai mà hai; chẳng biệt mà biệt. Tuy 2, tuy biệt mà chẳng 2 chẳng biệt. Như sự tín giải nầy gọi là Tùy. Như Lai ra đời hơn 40 năm chẳng hiển chân thật. (Dùng) bảy phương tiện, con người chẳng ngộ thánh đế, vui với ta và người; dùng tâm phàm phu để biết nơi Phật; dùng mắt sanh ra để thấy giống Như Lai. Như đây là tri kiến cứu cánh, pháp giới rộng khắp, chẳng có bờ mé, cao thấp. Chẳng thể sánh, chẳng thể sánh cùng, lại cũng chẳng không trên. Phật nay nói điều nầy, ta được nghe điều nầy; cho nên gọi là phẩm Tùy Hỷ Công Đức.
Phần 50 người là phần đầu của phẩm. Đầu tiên hằng có một niệm lý giải. Hằng có một niệm vui mừng đây và vui mừng kia. Chưa có việc làm, suy nghĩ chẳng cùng với người. Chỗ rộng công đức, Như Lai xảo dụ, công ấy che những kẻ vô học. Hơn nữa là tối sợ để gặp mà nghe. Huống là 2, 3, 4, 5 phẩm. Huống là nhập vào vị cũ Thập Trụ, Thập Hạnh cho đến tâm sau. Ai nghe những công đức thâm diệu như thế mà chẳng mến mộ. Như Lai nói điều nầy làm cho vật trên hết; cho nên nói là phẩm Tùy Hỷ Công Đức. Ngày xưa gọi hay hơn là trì kinh công đức. Nay thì chúng hàm ý nghĩa là vào chơn nhơn vị; cho đến cái đức ở nơi sơ tâm, sơ khởi tưởng tượng yếu kém. Bỗng nhiên nghe nơi tốt lành, mầm ấy như hằng trăm Vi Trần Già ở tại chỗ nghe tốt đẹp mà các loài chim hy hữu đặc biệt nhẹ nhàng giải thích điều nghi. Cho nên nói là phẩm Tùy Hỷ Công Đức.
Ngoại đạo được ngũ thông hay dời núi lấp biển mà chẳng phục, thấy thương. Chẳng cùng với người noãn pháp. Nhị Thừa vô học, tử quả đều thoát. Giống như Niết Bàn kia bị ràng buộc; chẳng rõ nhơn quả nầy đều là quyền. Thông giáo, người tu nguyên nhân tuy là xảo, mà phát tâm chẳng rõ là 500 do tuần, được quả chỉ trừ tứ trụ. Biệt (giáo) nhơn tuy hơn Nhị Thừa; tu nhơn liền biến môn nầy. Lại nữa khuất phục chẳng tán thán nơi Phật. Tất cả chẳng cùng với người mới tùy hỷ. Phật nay đưa ra A dùng về sau khi trà tỳ thì hơn cả các giáo lý khác. Cho nên nói là phẩm Tùy Hỷ Công Đức vậy.
Hỏi: Điều nầy cùng với Đại Phẩm Tùy Hỷ như thế nào ?
Đáp: Pháp nầy, người kia, pháp và người cùng hỗ tương với nhau. Câu văn ấy có hỏi đáp, mỗi mỗi có trường hàng kệ tụng. Phẩm trước về cách nầy 4 người chẳng nói là đầu. Di Lặc thừa cơ hỏi, mới ra nghĩa câu văn như vầy.
Phật đáp có làm 2. Đáp đầu tiên là về người có nội tâm tùy hỷ. Phần thứ 2 là trực tiếp làm sáng tỏ cho người bên ngoài khi nghe pháp. Đầu tiên ấy lại chia ra làm 5. Một là triển chuyển tương giáo. Hai là cách lượng bổn. Ba là vấn. Bốn là đáp và năm là chánh cách lượng. Nam phương giải 50 người ấy chia ra làm 3. Một là triển chuyển thắng. Hai là triển chuyển bình. Ba là triển chuyển biệt. Thắng là khó được. Bình là có hy vọng. Liệt chính là điều nầy.
Cách, biệt, huống, xuất, bình, thắng. Người phương Bắc giải rằng: Tối sơ Diệu Giác là nói về người ở Thập Địa. Người ở Thập Địa vì người ở đệ cửu địa mà nói. Như thế triển chuyển cho đến Thập Tín. Cách hậu huống sơ. Nay nghĩa chẳng phải như vậy. Phật làm sáng tỏ lời nói ở phẩm đầu đối với việc trong khi gặp nhau, truyền truyền tương giáo, triển chuyển 50 cách, hậu huống sơ (sau so sánh với đầu). Sau ấy chẳng phải bắt đầu bằng Thập Tín. Đầu ấy chẳng phải kết thúc bằng Diệu Giác. Phải dùng sự giải thích nầy ra sao ? Sự giải nầy cùng thâm, chẳng cùng với ý chỉ của kinh. Nay lại có 2. Một ngang theo Ước (giáo) là những lời dạy cho tứ chúng. Hai là chẳng theo Ước (giáo) Viên giáo là số lượng.
Tam Tạng có 4 cửa. Mỗi một cửa có 4 chúng. Lại khai mở cho Sa Di, Sa Di Ni; hợp lại thành 6 người. 4 cửa thì có 24 người. Ước (giáo) tin hành và pháp hành; tức là có 48 người. Cả đầu lẫn cuối hợp chung lại thành 50 người. Thông, Biệt 4 cửa lại cũng như vậy. Ngay cả Viên môn,sốấy,phápsốcó 7nhỏvà7 lớn.7 lớnlạicó7 nhân 7 bằng 49. Tất cả là Thầy trò đều tự hành hóa tha là cái đức. Cuối cùng một người hằng là tự giải vô số với các đức khác; cho nên cách bên dưới, dùng hiển bên trên.
Trong cách lượng, trước tiên cùng với đời vui, mang đến quả khổ. Sau cùng với Niết Bàn vui, mang đến sanh tử khổ. Đây là lược, cùng với phước của Phạm (Thiên). Nay lại nói rộng ra. Đầy Diêm Phù Đề, phước của con người; chẳng sánh với Tây Cù Già Nị, phước của một người. Đầy Tây Cù nhơn phước; chẳng sánh với Đông Phất Bà Đề, phước của một người. Đầy dưới 3 cõi trời với phước của người. Chẳng sánh với Bắc Uất Đan Việt, phước của một người. Đầy tứ thiên hạ, phước của một người; chẳng sánh với một Tứ Thiên Vương. Tứ Thiên Vương chẳng sánh với một Đế Thích. Cho đến lục (dục) thiên chẳng sánh với phước của một Phạm (Thiên). Phước của Phạm có định, tán. Tán ấy vào nơi không có tháp thì tạo ra tháp. Tháp hoại thì gìn giữ. Hòa hợp Tăng chúng, thỉnh chuyển pháp luân. Chúng tan rồi hợp; chính là 4 phước nầy. Cùng sánh với Phạm Thiên; cho nên nói là Phạm Phước. Còn Thánh Phước nghĩa là A La Hán trụ thân sau cùng, được hữu dư Niết Bàn là đây vậy. Lại nữa có thể Pháp, người tam thừa. Đồng học, vô sanh, đoạn trừ hết phiền não; như đốt gỗ thành than vậy.
Lại nữa Tát Đỏa Thánh phước là tự hành hóa tha. Dùng đó không lời, giảng đạo; đoạn phiền não, nhập Vô Dư. Lại nữa phước tát đỏa nghĩa là từ khi mới phát tâm, lần lượt giáo hóa người, vào Đại Niết Bàn. Như cách lượng Phạm phước nầy chẳng thể sánh với Thánh phước vậy. Thánh phước lại chẳng thể sánh với Thể Thánh phước. Thể Thánh phước chẳng thể sánh với Tiểu Tát Đỏa phước. Tiểu Tát Đỏa phước chẳng thể sánh với Đại Tát Đỏa phước. Đại Tát Đỏa phước chẳng thể sánh với việc nghe kinh Pháp Hoa với phước tùy hỷ đầu tiên. Vì sao vậy ? Việc kia chẳng phải Phật pháp cho nên phi thật; cho nên phi viên. Tuy trụ ở quả sau, chẳng thể sánh với sơ tâm của tôi. Ý nghĩa nầy là như vậy. Tôi ở đây nghĩa là khuyên người nghe pháp. Từ „cùng với Đà La Ni Bồ Tát cùng sanh một chỗ; cho đến tướng người đầy đủ“ hợp lại có 50 công đức, cùng với công đức mắt của người, lại thành 50. Hằng trên 50 luận bên trong, giải tùy hỷ. Nay tuy luận việc bên ngoài, làm khác đi vậy.
Lại nữa câu văn nầy có 6 căn công đức. Lợi căn trí tuệ là ý công đức. Chẳng câm ngọng là lưỡi công đức. Mũi cao, ngay thẳng là tỉ công đức. Thấy Phật là nhãn công đức. Nghe pháp là nhĩ công đức. Ngoài ra là thân công đức. Trước là tương tợ vị công đức. Nay là tương trợ vị tiền công đức. Nghe kinh văn lại có 4. Một là tự đến; hai là phân chia chỗ ngồi; ba là khuyên kẻ kia; bốn là đều cùng nghe và tu hành v.v... Kệ ấy có 18 hàng và chia làm 2. 9 hàng đầu là tụng về tùy hỷ. Kế đến „nếu có khuyên chỉ“ trở đi; phần thứ 2 có 9 hàng, tụng về việc nghe kinh tùy hỷ có 3. Trước gồm một hàng rưỡi, tụng về 50 người. Kế đến „cuối cùng“ trở đi; phần thứ 2 gồm 5 hàng rưỡi, tụng về cách lượng bổn. Kế tiếp cuối cùng, phần thứ 3 gồm 2 hàng, tụng về cách lượng, lược bớt chẳng tụng về phước thật nhiều. Sau cùng 9 hàng tụng về việc nghe kinh. Nhỏ ấy chẳng lần lượt lại có 4. 5 hàng đầu tiên tụng về khuyến khích nghe kinh. Kế đến „nếu có đến“ trở đi; phần thứ 2 gồm 2 hàng, tiếp theo tụng về việc tự đến. Kế tiếp „nếu đối với việc giảng Pháp Hoa“ trở đi; phần thứ 3 có 1 hàng, tụng về việc phân chia chỗ ngồi. Kế tiếp „hà huống“ trở đi; phần thứ 4 gồm 1 hàng, tụng về sự tu hành v.v...
Giải thích phẩm Pháp Sư Công Đức
Pháp Sư nghĩa như trên đã nói. Còn công đức,
nghĩa như phần công đức đầu tiên của phẩm đầu. Nay từ 5 phẩm trở lên. Nghĩa là 6 căn thanh tịnh. Nội ngoại trang nghiêm 5 căn thanh tịnh gọi là ngoại trang nghiêm. Ý căn thanh tịnh gọi là nội trang nghiêm. Lại nữa từ địa ngục cho đến Phật rồi trở lại, tất cả sắc tượng tất cả đều hiện trong thân. Gọi đây là nội trang nghiêm. Từ địa ngục trở lên Phật rồi trở lại, tất cả sắc tượng dùng phổ hiện Tam Muội mà ngoại hóa. Gọi đây là ngoại trang nghiêm. Thân căn lại cũng như vậy; ngoài ngũ căn lại cũng như thế. Đọc tụng lại cũng như vậy, 4 loại lại cũng như thế. Phẩm đầu cũng như vậy và 4 phẩm sau thêm vào. Tương tựa như vậy phân chia rõ gấp đôi lên. Hành giả nghe nói công đức nầy lợi lạc, vui chẳng tự thắng mình, cần cầu chẳng yên, niềm tin tăng gấp bội, tăng sự sáng tỏ về ý thức Đại Thừa, có thế lực lớn, quyết chẳng nghi, tương tợ lời giải đầu tiên vậy. Qua khỏi Nhị Thừa cực gấp trăm ngàn vạn lần. Chỉ cho ban đầu, hiển phần cuối cùng, siêng giải cứu cánh nghĩa đế đệ nhất, bất khả tư nghì. Nơi phẩm nầy làm sáng tỏ đầy đủ 4 ý; cho nên nói là phẩm Pháp Sư công đức vậy.
Sáu căn công đức theo Quang Trạch nói là: Tam Thừa cùng với Thập Thiện. Mỗi thiện đầy đủ 10 là 100. Tự hành hóa tha, tùy hỷ tán thán, hợp chung lại thành
400. Ước (giáo) có 5 loại Pháp Sư và chia làm 2.000. Phân ra 3 phẩm tức là 6.000 công đức. Ở đất nước nầy 3 căn dùng yếu, đoạt lời nói của 800. Ba căn dùng mạnh cùng nói với 1.200 cùng đoạt, hợp với luận, trở lại thành
6.000. Có người làm sáng tỏ số ấy với Quang Trạch giống nhau. Phẩm hạ 800, trung 1.000. Phẩm thượng
1.200. Các sự biên giải chưa gặp nhau ở kinh nầy. Nay lại chẳng giống nhau ở số lượng dạy dỗ.
Đại Phẩm nói rằng: Sắc tịnh cho nên Bát Nhã tịnh. Bát Nhã tịnh cho nên sắc tịnh. Sắc tịnh thì ngũ căn tịnh. Bát Nhã tịnh nên ý căn tịnh. Nếu 6 căn nầy phê phán và nói gì về thượng, trung, hạ, dùng mạnh, yếu ra sao? Nếu một mạnh, một chẳng mạnh; một tịnh, một chẳng tịnh; một thượng phẩm, ngoài ra là phi thượng phẩm v.v...
Chánh Pháp Hoa hoàn chỉnh, đầy đủ là 6.000 công đức. Bất luận là thượng, trung, hạ v.v... Pháp Hoa luận nói rằng: Người phàm dùng lực của kinh cho nên được thắng căn dụng. Tuy chưa nhập vào Sơ Địa, dùng cha mẹ, nơi sinh ra nhục nhãn, thấy đại thiên trong ngoài. Đại Kinh nói rằng: Như Lai mỗi căn liền có thể thấy sắc, nghe âm thinh, ngửi mùi thơn; biệt vị rõ biết riêng về pháp. Nay kinh nói 6 căn thanh tịnh cùng Đại Phẩm giống nhau. Dùng công đức nầy để trang nghiêm 6 căn, cùng với chánh Pháp Hoa giống nhau. Mũi, thấy sắc, nghe âm thanh, rõ biết cùng Niết Bàn giống nhau. Mắt thường, thiên nhãn, huệ pháp, Phật nhãn cùng dùng sánh với luận giống nhau. Nghĩa của câu văn như đây chẳng thể dùng biên kiến mà đè nén chánh kinh. Nay sẽ nói. Quang Trạch số ấy chỉnh đốn đầy đủ căn, chẳng nương vào câu văn. Nay đặt để 3 nghiệp ở An Lạc Hạnh; tức là có 10 điều lành. Một thiện có 10; tức là 100 thiên. Trong một thiện lại có 10 như; tức là 1.000 thiện. Tựu chung giáo hóa kẻ khác làm thành 2.000. Ước (giáo) nói về nhà cửa Như Lai, y của Như Lai và tòa ngồi của Như Lai; tức thành 6.000. Năm loại Pháp Sư tất đầy đủ 6 căn thanh tnịh. Mỗi một căn đều có 1.000 công đức.
Lại nữa trong mỗi tâm, lại có 10 pháp giới; mỗi một pháp giới lại có 10 như thế. Tức là thành 100. Mỗi căn thông qua 6 trần. Tức là có 600. Ước (giáo) định, tuệ 2 trang nghiêm; tức là 1.200. Căn căn đều dụng định tuệ trang nghiêm cùng với 1.200.
Nếu luận về 6 căn thanh tịnh thì thanh tịnh ấy tức là chẳng nói công đức; hoặc ít, hoặc nhiều; hoặc nói trang nghiêm có thể đầy đủ, có thể thiếu sót, có thể so sánh trang nghiêm căn căn 6.000. Nếu nói 1.200 hiển thị điều nầy có thể đầy đủ. Nếu nói 800 hiển thị điều nầy có thể thiếu. Nếu nói thanh tịnh thì không đủ, không thiếu, chẳng so sánh. 6 căn hỗ tương, dụng căn tự tại, bất khả tư nghì. Nếu phê phán một bên tức là sai tông chỉ; tương tợ như vị vậy. Nếu nương vào tứ luân; tức là thiết luân vị. Nếu nương vào 52 vị; tức là thập tín tâm. Nếu nương vào Nhân Vương; tức là thập thiện đại tâm. Nay đối với thường tinh tấn; tức là 10 tín của tâm thứ 3. Các kinh gọi từng loại tuy khác; nhưng giống ở Viên giáo tương tợ vị vậy.
Câu văn lại chia ra làm 2. Đầu tiên là tổng liệt 6 căn đầy đủ, thiếu sót số công đức. Kế đến riêng tạo 6 chương để giải thích. Mỗi mỗi có trường hàng kệ tụng. Chương nhãn căn làm sáng tỏ chỗ cha mẹ sanh; gọi là nhục nhãn mà chỗ thấy qua khỏi nơi thiên nhãn. Quả báo Phạm Vương sẽ được Thiên nhãn. Tại thế giới nầy biến thấy khắp đại thiên. Ngoài Đại Thiên có phong luân và tạo chướng ngại cho mắt; nên chẳng thể thấy bên ngoài được. Nếu ở thế giới khác; tức chẳng thể thấy Đại Thiên. Chẳng phải chỗ thống hợp. Tiểu La Hán thấy được Tiểu Thiên. Đại La Hán thấy được Đại Thiên. Bích Chi Phật thấy được thế giới của hằng trăm vị Phật; chẳng bị phong luân làm chướng ngại. Lại chẳng bị thế giới nầy, kia làm ngăn cách.
Nay kinh luận về mắt, có thể thấy Đại Thiên trong ngoài, ứng với Thiên Nhãn. Kia gọi là nhục nhãn. Đây là giống như vị của Viên giáo. Lực của Đại Kinh có dùng thắng kinh. Lại chưa phát ra chơn thật; nên chẳng được gọi là Thiên Nhãn. Dụ như nhục nhãn, lại giống như Tiểu Thừa phương tiện chưa được thần thông, liền chẳng gọi là Thiên Nhãn vậy. Giống như thân của từng phần; cho nên nói là chỗ cha mẹ sinh ra. Tuy gọi là nhục nhãn mà đầy đủ dùng ngũ căn. Thấy trong ngoài Đại Thiên là dùng Thiên Nhãn. Thấy tất cả chúng sanh và nghiệp nhơn viên thì dùng Pháp nhãn. Mắt nầy thật thanh tịnh dùng đến huệ nhãn. Một lúc thấy được trong ngoài Đại Thiên, thấy nghiệp, thấy tịnh. Lại nữa Viên phục pháp giới thượng hoặc, dùng Phật nhãn.
Đại Kinh nói rằng: Tuy có nhục nhãn mà gọi là Phật nhãn. Phật Nhãn cho nên thanh tịnh. Đầy đủ ngũ nhãn cho nên nói là trang nghiêm. Có thể đầy đủ, thiếu sót, dùng đến thắng căn. Nói căn là tự tại, há có thể chỉ tạo ra 800.200 giải sao?
Chương về nhĩ căn, trùm khắp sự nghe đến trong ngoài Đại Thiên và âm thanh của 10 pháp giới. Nghe lục thông, tức là nhục, thiên (nhĩ) gồm 2 loại nhĩ. Nghe Nhị Thừa tức là huệ nhĩ. Nghe Bồ Tát tức là Pháp nhĩ. Nghe Phật tức là Phật nhĩ. Lại nữa chỗ cha mẹ sanh nhục nhĩ có thể nghe trong ngoài; tức là Thiên nhĩ vậy. Sự nghe ấy chẳng dính mắc; gọi là huệ nhĩ. Chẳng ngoa tức là pháp nhĩ. Một lúc cùng nghe, tức là Phật nhĩ; dùng tai ấy để thí dụ về mắt thì mắt lại cũng như vậy. Thấy người, trời là 2 mắt. Thấy của Nhị Thừa là huệ nhãn. Thấy của Bồ Tát là Pháp nhãn. Thấy của Phật gọi là Phật nhãn v.v...
Chương về tỉ căn lại cũng như vậy. Chỗ cha mẹ sinh ra tức là nhục tỉ. Trong ngoài Đại Thiên tức là Thiên tỉ. Chẳng nhiễm, chẳng dính mắc, tức là huệ tỉ. Phân biệt chẳng dối; tức là pháp tỉ. Một lúc cùng dùng tới là Phật tỉ.
Chương nầy làm sáng tỏ sự tác dụng hỗ tương nhau. Mũi rõ biết tốt xấu, riêng biết quý trọng, hèn kém. Thấy cả thiên cung trang nghiêm; tức là mũi ấy dùng như con mắt. Đọc kinh, thuyết pháp, nghe mùi được rõ biết. Mũi ấy lại có công dụng như con mắt. Các cây 2 trái, hoa quả thật và tô du, hương khí; mũi ấy có công dụng như lưỡi. Nhập thiền, xuất thiền; thiền có 8 xúc. Ngũ dục vui đùa lại là xúc pháp. Tỉ ấy lại có công dụng như thân. Tâm nhiễm dục ngu si lại rõ tu điều lành. Tỉ ấy lại có công dụng như ý. Tỉ căn tự tại thắng dụng lại thêm lên. Ví dụ ngũ căn cũng lại như thế.
Chương về lưỡi lại cũng như vậy. Chỗ cha mẹ sinh ra tức là nhục thiệt. Hay tạo tác 10 pháp giới ngữ. Ước (giáo) nói đây tức là làm sáng tỏ ý nghĩa của 5 lưỡi vậy. Hay tạo tác 10 pháp giới ngữ tức là Thiên thiệt. Chẳng hoại tức là huệ thiệt. Chẳng nói xằng bậy tức là pháp thiệt. Một lúc có thể dùng được; tức là Phật thiệt v.v... Hỏi rằng mùi đắng, vị xấu đến được lưỡi thì lại biến thành vị ngon sao?
Các màu sắc cho đến mắt, sao lại chẳng biến thành những màu đẹp? Xưa chẳng có thí dụ. Vị ấy có tổn ích. Tổn ấy là biến; bất tổn là chẳng biến. Các màu sắc ấy chẳng hoại mắt; cho nên chẳng thí dụ. Nay giải chẳng phải như vậy. Tất cả sắc giống như sắc của Phật. Tất cả thinh giống như tiếng nói của Phật. Sánh với tất cả sự thanh tịnh thí dụ; tức chẳng có sai. Rõ khắp tất cả sắc pháp, thinh pháp. Không loạn, không sai quấy, phân biệt; lại chẳng sai. Tự tại ở căn nào tạo ra tham ngại có thể giải đáp được sao?
Chương về thân căn lại cũng như thế. Cái có nơi thế gian tất cả đều ở thân, hiện dùng bằng nhục thân. Bên trên cho đến (cõi trời) Hữu Đảnh với thân nầy hiện dùng thiên thân. Trong thân Nhị Thừa thì thân hiện tại dùng huệ thân. Bồ Tát đối với thân trong hiện tại, dùng Pháp thân. Đối với thân Phật trong hiện tại, dùng phát tâm. Đối với thân Phật trong hiện tại, dùng Phật thân. Một thời hiện viên mãn, một thời dùng sự hỗ tương. Một lúc chẳng xằng bậy; một lúc chẳng dính mắc v.v...
Chương ý căn lại cũng như vậy. Thế gian sinh sống nghề nghiệp tất cả đều thuận theo chánh pháp; người, ý thanh tịnh. Tâm trời sở hành; động tác chỗ trời, tất rõ, thiên ý thanh tịnh. Tháng tư tức là Tứ Đế. Một tuổi gồm 12 tháng. Đây là 12 nhơn duyên, cùng với thật tướng chẳng sai khác vậy. Tức là huệ ý thanh tịnh. Một tháng tức là Nhứt Thừa Bồ Tát ý thanh tịnh. Có chỗ tư lượng; tất cả đều là trước đó kinh Phật đã nói; tức là ý Phật tịnh vậy. Một thời tròn sáng; một thời tròn đầy hỗ tương; một thời không nhiễm; một thời chẳng xằng bậy. Căn dùng tự tại hay đầy đủ, hay thiếu sót, hay cùng, hay thanh tịnh v.v...
Giải thích Phẩm Thường Bất Khinh Bồ Tát
Giải về sự nội hoài bất khinh và cảnh bên ngoài
thì bên ngoài cung kính, chẳng khinh mạn. Khi đi thì thân lập chẳng khinh khi. Khi tuyên bày lời nói thì chẳng khinh nơi miệng. Người làm, dưới mắt mình, chẳng khinh. Lời giải về việc chẳng khinh nầy Pháp Hoa luận rằng: Bồ Tát nầy rõ biết chúng sanh có Phật tánh, chẳng khinh chê. Phật tánh ấy có 5. Chánh nhơn Phật tánh thông qua cái gốc. Duyên liễu Phật tánh trồng vào gốc có, không, thích đương với nay. Quả tánh, quả quả tánh, định sẽ được. Quyết chẳng hư ngụy. Đây gọi là việc giải thích về bất khinh. Sẽ giải thích dùng việc của người nầy, kia lại cũng như vậy. Đây gọi là cảnh bên ngoài của việc cung kính chẳng khinh mạn. Cung kính cảnh nầy, cho nên gọi là việc làm chẳng khinh. Tuyên nói lời nầy; cho nên nói là chẳng khinh. Xưa kẻ hủy báng, dùng mắt người nầy. Nay những nhà giải thích kinh dùng làm phẩm nầy. Thấy thật tam muội; nên nói rằng: Phật vì Phụ vương mà nói tất cả là Phật. Vua hỏi, tất cả chúng sanh tức là Phật sao ?
Phật đáp: Nếu như thật thấy chúng sanh. Đối với việc nầy tức là Phật. Cảnh riêng, lời nói nầy, nếu chẳng như thật thấy Phật. Đối với điều nầy tức chẳng phải là Thánh. Ví dụ như người mới học bắn tên thì đích ấy ít lúc bắn đúng. Dùng địa vì mục đích, chẳng đến, chẳng dính mắc. Nếu phân biệt hiền thánh, đôn thị, đôn phi. Như thật quán tức là Phật vậy. Đầu tiên là giải thích về nhơn duyên; sau đó giải thích về Viên giáo v.v...
Phẩm nầy dẫn con người làm chứng. Chứng 5 phẩm công đức sâu dày và lục căn báo trọng. Ta xưa tùy hỷ, làm cho đời nầy hậu báo. Dùng đó làm chỗ lưu thông. Văn ấy có trường hàng kệ tụng. Trường hàng ấy chia làm
3. Một cặp chỉ phía trước về tội phước; hai cặp khai cho bây giờ phẩm tin, hủy. Ba cặp sau đó khuyên 2 việc nghịch, thuận. Cặp chỉ là trước chỉ tội, như phẩm Pháp Sư đã nói. Kế đến chỉ phước; như phẩm công đức nói. Như câu văn, phần 2 song khai về niềm tin và sự hủy báng. Có sự bổn, bổn sự. Sự bổn có thời tiết; gọi hiệu là kiếp quốc thuyết pháp. Giống như câu văn. Phần thứ 2 từ tối sơ Uy Âm Vương cho đến phía dưới, làm sáng tỏ bản sự, lại chia làm 3. Đầu tiên làm sáng tỏ thời tiết. Hai là đối với thời tượng pháp trở đi. Song phiêu cả 2 người là tên gọi. Còn hủy đây là nguyên nhơn, gọi tăng thượng mạn. Tin ấy là nguyên nhơn và gọi là Thường Bất Khinh. Kế đến phần thứ 3 được thế lực lớn trở đi, cặp ấy làm sáng tỏ chỗ được, mất. Được, mất lại có 2. Đầu tiên là đều tin, luận được; được chánh nói hoành tông (tông to tát, rộng rãi) được lưu thông diệu ích. Gọi Thường Bất Khinh là một người. Phàm có chỗ thấy là một lý. Đều lễ bái cả thảy là một. Rồi tạo ra lời nói nầy. Đây là một. Đây là khai quyền hiển thật, là 4 loại 1.
Từ „cho đến từ xa“ trở đi; đây là một lý; cho nên liền lễ bái là một hạnh, rồi tạo ra lời nói, và đây là một lời dạy chính; ít có người nào có thể giải được điều nầy. Đây là khai gần hiển xa, là một trong bốn ấy.
Câu văn lại nói rằng: Chẳng chuyên đọc tụng kinh điển mà hay làm việc lễ bái. Đây là vị của người mới bắt đầu tùy hỷ. Tùy hỷ tất cả pháp, tất có tánh an lạc; tất cả là một thực tướng. Tùy hỷ tất cả người tất cả có 3 Phật tánh. Đọc tụng kinh điển tức là liễu nhơn tánh. Tất cả hành Bồ Tát đạo là nhơn duyên tánh chẳng hề khinh mạn mà lại thâm kính; tức là chánh nhơn tánh. Kính nhơn, kính pháp; chẳng khởi lên sự cạnh tranh; tức là ý tùy hỷ vậy. Chẳng kinh, thâm kính là ngồi tòa Như Lai. Dùng tâm từ bi, thường hành chẳng tranh tức là ở trong nhà của Như Lai. Nhẫn với việc bị đánh đập, mạ lỵ là mặc y Như Lai. Dùng tâm từ bi, thường hành chẳng tranh tức là ở trong nhà của Như Lai. Lại nữa thâm kính là ý nghiệp. Nói chẳng khinh là khẩu nghiệp. Rồi đến lễ bái, là thân nghiệp. Ba điều nầy đều từ bi cả thảy. Tức là thệ nguyện an lạc hạnh. Như 3, 4 nầy há chẳng phải sự lợi ích lưu thông mà ý nghĩa là gì vậy ?
Từ „trong tứ chúng“ trở đi; phần thứ 2 làm sáng tỏ sự hủy báng là mất đi. Sanh tâm sân si, chẳng thanh tịnh. Chẳng thọ 1 trong 4 ấy. Nói lời mạ lỵ vô trí, vô tri đối với cái lý. Nghĩa là nói, không có trí, chẳng thọ nhận một lý vậy. Tỳ Kheo tức là một trong người chẳng thọ nhận.
Từ „Từ đâu đến, chẳng thọ nhận là một việc làm“. Hư vọng thọ ký, chẳng nhận lấy một lời giáo huấn. Trải qua nhiều năm thường bị mạ lỵ. Kết quả là chẳng thọ nhận việc khai quyền hiển thật một trong 4 ấy. Bỏ chạy đi xa và cất cao tiếng lên nói, lại chẳng thọ nhận. Sự chẳng thọ nhận nầy là khai cận hiển viễn bổn địa của 1 trong 4. Thường tạo ra lời nói nầy. Kết quả là người có lòng tin, tin sâu chẳng dừng nghỉ. Tứ chúng vì làm việc ấy; nên đặt cho là bất khinh. Kết quả của sự hủy báng nầy là việc hủy báng chẳng dừng lại.
Hỏi: Đức Thích Ca ra đời do dự chẳng nói, Thường Bất Khinh thấy một, lần lượt tạo ra mà nói cái gì ?
Đáp: Bản thân kẻ ấy có điều thiện; cho nên Đức Thích Ca dùng Nhỏ mà hỗ trợ. Bản vị có thiện, Bất Khinh dùng Đại mà cường độc v.v...
Từ „Khi phước hết thì“ trở đi, cả 2 làm sáng tỏ lòng tin về quả báo của sự hủy báng. Câu văn đầu lại có chia ra làm 2. Thứ nhất là làm sáng tỏ về quả báo. Hai là kết hợp cổ kim. Sự tin ấy luận về 3 quả báo. Hiện đời được 6 căn thanh tịnh. Sanh ra gặp ngay được ánh sáng của Phật. Sau đó gặp 2.000 ức Phật. Thần thông lực là thân nghiệp nầy thanh tịnh. Vui nói biện lực là khẩu nghiệp thanh tịnh. Thiện tịch lực là ý nghiệp thanh tịnh v.v... Sự gặp gỡ ấy có 2. Đầu tiên gặp gỡ ấy như câu văn.
Từ „Nếu ta ở đời trước“ trở đi; phần thứ 2 là đưa ra niềm tin mà khuyến cho thuận theo, như câu văn. Từ „lúc ấy tứ chúng“ trở đi; làm sáng tỏ kẻ hủy báng bị quả báo. Lại chia ra làm 2. Trước tiên làm sáng tỏ được quả. Sau đó kết hợp xưa nay. Kẻ hủy báng được lành, ác cả 2 quả. Chê bai cho nên rơi vào đường ác. Nghe nói về Phật tánh lại tạo ra lời thô ác, mà nhận được quả báo lành. Kết quả xưa nay lại có 2. Kết quả đầu và xưa nay. Từ „nên rõ“ trở đi; đưa ra việc nghịch lại và dùng hiển để thuận theo. Khuyến Trì dùng làm chận lại sự hủy báng. Trải qua có lực lớn, cuối cùng cảm được quả lớn. Việc nầy sẽ cần thực tập 5 loại hành động. Kệ có 19 hàng rưỡi. Đầu tiên 15 hàng rưỡi hay tụng về niềm tin về nhơn quả của sự hủy báng. Sau đó 4 hàng tụng về Khuyến Trì. Ở câu văn có thể thấy, chẳng chia nhỏ ra.
Kẻ trước pháp là pháp ấy chẳng thể chỉ ra. Nếu định nghĩa là có; tức là trước pháp. Cho đến định vị là phi hữu, phi vô, lại có tên là trước pháp. Phật Tạng bảo rằng: Đao Luân hại người (Diêm) Phù Đề; việc nầy mất, dụ cho ít. Có chỗ được tâm nói Đại Thừa. Tội nầy qua khỏi kia v.v...
Đại Luận nói rằng: Chấp có cùng chẳng tranh; cho đến chấp không có, không không cùng với có, không tranh luận. Như da trâu, rồng, rùa đều là việc chẳng có thật.
Trung Luận lại nói rằng: Chư Phật nói pháp không. Căn bản là vì hóa độ đối với việc có. Nếu có dính trước vào không, thì chư Phật chẳng giáo hóa. Nếu nhất định nói các pháp phi hữu phi vô thì đây gọi là luận ngu si. Hay mất đi cái ý của Tứ Tất Đàn (thành tựu). Tự hành hóa tha, tất cả gọi là trước pháp. Hoặc được ý của Tứ Tất Đàn. Tự, tha đều chẳng dính mắc vậy.
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú
Quyển thứ 10 (Hết phần trên)
Giải thích phẩm Như Lai Thần Lực
Như Lai như bên trên đã giải thích rồi. Còn
Thần nghĩa là chẳng đo được; Lực là dùng làm cán. Bất trắc nghĩa là thể của thiên nhiên sâu xa. Cán ấy dùng để chuyển biến thành cái lực lớn. Trong nầy vì phó chúc pháp sâu xa nên hiện ra 10 loại lực lớn. Cho nên gọi là phẩm Thần Lực. Từ phẩm nầy trở đi, phàm có 8 phẩm, là phó chúc lưu thông. Nay phẩm nầy làm sáng tỏ Bồ Tát thọ nhận mệnh lệnh để hoằng truyền kinh điển.
Phẩm kế là Như Lai sờ đầu phú chúc. Câu văn lại có trường hàng kệ tụng. Trường hàng ấy chia ra làm 3. Một là Bồ Tát thọ mệnh. Hai là Phật hiện Thần Lực. Ba là kết yếu khuyến trì kinh, ở nhà cung kính lễ bái. Kế đến là phát nguyện hoằng truyền kinh điển. Hoằng kinh ấy lại có 3. Một là thời gian sau khi Phật diệt độ. Hai là nơi chốn phân thân và quốc độ. Ba là thệ nguyện. Chẳng phải là phụng mệnh để làm lợi ích cho kia. Lại tự nguyện với pháp lớn chơn tịnh nầy. Cùng với những điều nhỏ nhắn đẹp đẽ.
Từ „lúc bấy giờ“ trở đi. Đây là phần thứ 2, hiện ra 10 Thần Lực và lại chia ra làm 2. Đầu tiên là chỗ đối với chúng. Kế đến là chính thức hiện thần lực. Đối với Văn Thù cùng Tích ấy hóa độ chúng sanh vào thời xa xưa. Ở phương dưới vốn đã giáo hóa họ và cùng với tất cả những phương khác đến đây. Cùng phân thân với Phật để đến.
Hỏi: Hằng thấy ở phương dưới mà phát ra lời thệ nguyện. Chẳng thấy Ngài Văn Thù phát nguyện điều gì cả ?
Đáp: Câu văn bên trên nói rằng: „Đất nước ta có các Bồ Tát hay trì kinh nầy. Tức là kiêm luôn việc đã được. Mười Thần Lực ấy là:
Một là tướng của lưỡi; nay chỗ nói kinh điển khai 3 hiển 1; bên trong thì bí mật, bên ngoài lại hiện ra. Bỏ gần hiển xa; làm sáng tỏ 3 đời lợi ích. Tất cả là chơn lý thành thật, chẳng hư ngụy. Phước đức của lưỡi con người cho đến mũi. Tam Tạng Phật cho đến tóc. Nay thì cho đến Phạm Thiên qua khỏi việc bên ngoài của phàm thánh. Cao nhất là ở trên đảnh của Tịnh Thiên. Tướng ấy đặc thù, thường nói những gì có thể tin.
Hai là qua khỏi lỗ chân lông của thân hình, biến khắp thân thể toàn là ánh sáng. Chiếu khắp 10 phương; chẳng có nơi nào là chẳng đến. Biểu hiện cho cảnh giới của trí tuệ. Bên trên lông trắng ấy bắt đầu chiếu diệu đến phía đông, biểu hiện cho 7 phương tiện, đầu tiên thấy một lý. Nay Bản Môn rốt ráo, phóng ra tất cả ánh sáng chiếu đến tất cả các nơi. Hay làm cho nguyên nhơn đầu, cuối đều được giác ngộ rốt ráo trí huệ Phật. Chư Phật phân thân lại cũng như vậy.
Ba lời thệ ấy phát ra sẽ nói lời hàng phục. Lại là tướng của thần thông sắc tướng. Ngoài 40 năm ẩn mặt chơn thật. Nay lại làm cho rộng mở nơi nơi, chẳng có giới hạn. Đây chính là việc ra đời của ta, một sự việc to lớn, thông suốt sảng khoái. Cho nên nói là muốn đem điều nầy để giao phó cho các Bồ Tát, làm cho đời sau và hướng dẫn để được lợi ích chúng sanh. Sẽ nói việc nầy, cho nên thốt ra như vậy. Thốt ra đầy đủ có 2 nghĩa. Một là thốt ra đã xong; hai là thốt ra phú cho người khác.
Bốn đàn chỉ (tiếng gảy móng tay) là tùy hỷ. Tùy hỷ 7 phương tiện giống như nhập vào con đường viên mãn. Tùy hỷ viên đạo, tăng trí tổn sanh. Tùy hỷ theo các Bồ Tát, trì giữ Đại Pháp Chơn Tịnh. Tùy hỷ đời sau được vô thượng bảo. Đây là một đàn chỉ cao triệt 3 đời mà bề ngang thì thấu đến 10 phương. Năm sáu loại động. Biểu hiện sơ tâm đến hậu tâm, lục phiên động vô minh. Nay làm sáng tỏ lại động tất cả người, lục căn, làm cho được thanh tịnh.
Sáu là cùng với sự thấy gặp nhau lớn, biểu hiện con đường của chư Phật giống nhau. Mà bây giờ, mai sau lại cũng như vậy.
Bên trên 5.000 khởi lên, đến 3 sự biến hiện bị di chuyển, liền mất bản tâm, chẳng thể hiện được sự lợi ích. Dùng lời nói phi diệt hiện diệt. Từ khi chư Bồ Tát hoằng truyền kinh điển được đạo, nhập vào nơi Phật huệ, như nay gặp, chẳng khác nhau. Lại biểu hiện vị lai có một cơ hội.
Bảy là từ trên không trung xướng lên nghĩa là biểu hiện có một sự dạy dỗ trong vị lai.
Tám là Nam Mô quy mệnh, làm đệ tử Phật. Biểu hiện trong vị lai có người là một.
Chín là các vật dao động theo mây mà đến. Biểu thị vị lai có một hành động.
Mười là 10 phương thông đồng với nhau như một quốc độ Phật. Biểu thị về một cái lý.
Hỏi: Vì sao rõ biết 10 tướng, biểu thị, hiện ý, lại biểu thị ý của tương lai ?
Đáp: Như câu văn nói. Ta dùng thần lực của Như Lai là phó chúc kinh nầy; cho nên dụ ấy chẳng thể hết. Biểu hiện, biểu tướng là làm sáng tỏ ở ý nghĩa nầy.
Từ „Lúc bấy giờ Phật bảo Thượng Hạnh“ trở đi; phần thứ 3 là kết yếu phó chúc. Câu văn ấy lại có 4. Một là xưng tán phó chúc; hai là kết yếu phó chúc; ba là khuyến tương phó chúc; bốn là giải thích phó chúc. Đầu tiên tán thán như câu văn. Kết yếu lại có 4 câu. Tất cả pháp là tất cả đều là Phật Pháp. Điều kết nầy tất cả đều gọi là Diệu. Tất cả lực là thông đạt vô ngại đầy đủ 8 tự tại. Kết nầy là diệu dụng. Tất cả mật tạng khắp tất cả nơi, đều là thật tướng. Kết nầy là diệu thể. Tất cả những việc sâu xa là nhơn quả, là việc sâu xa nầy. Kết nầy là diệu tông. Tất cả đều ở nơi kinh nầy tuyên nói, chỉ bày, hiển thuyết. Tổng kết một kinh tuy 4 mà là điều nầy. Gồm chung lại điều cốt lõi căn bản mà giữ lấy.
Từ „cho nên các ngươi“ trở đi; phần thứ 3 là tương khuyến phó chúc như câu văn. Từ „vì sao vậy“ trở đi; phần 4 ấy là giải thích sự phó chúc. Bên trên nói kinh điển ở nơi đâu, nên dựng tháp. Trong kinh nói trọng yếu ở tại 4 việc. Đạo tràng giải thích việc thậm thâm vi diệu bên trên. Được bồ đề, giải thích tạng bí mật bên trên. Chuyển pháp luân giải thích tất cả pháp bên trên. Nhập Niết Bàn giải thích những thần lực bên trên. Đây là 4 việc trọng yếu, nhiếp hết tất cả các kinh văn; cho nên đều nên dựng tháp. Nói là quan trọng, vì được Bồ Đề là pháp thân. Chuyển pháp luân là Bát Nhã. Nhập Niết Bàn là giải thoát. Ba pháp thành Mật Tạng, Phật trụ ở trong nầy. Tức là ý nghĩa của tháp vậy.
A Hàm nói rằng: Phật ra đời ở 4 nơi nên dựng tháp. Đó là nơi sanh; nơi đắc đạo; nơi chuyển pháp luân và nơi nhập Niết Bàn. Tọa đạo tràng là pháp thân sanh xứ. Ngoài ra tất cả đều như câu văn.
Kệ có 16 hàng. 4 hàng đầu tụng về 10 thần lực. Kế đến 12 hàng tụng về kết yếu. Phó chúc bên dưới có 2 hàng. Công đức của người nầy tổng cộng 4 pháp. Hay trì tức là làm cho việc gặp ta. Phần thứ 2 gồm có 8 hàng rưỡi. Riêng tụng 4 pháp. Đầu tiên một kệ rưỡi tụng về tất cả pháp; tức là trì thân Phật v.v... Làm cho ta cùng phân thân 2 câu kệ tụng về thần lực. Thần lực khuyên, Phật làm cho hoan hỷ. Chư Phật ngồi nơi đạo tràng gồm 1 kệ. Tụng mật yếu có thể giải. Đối vơí các pháp là nghĩa của 4 kệ. Tụng việc sâu xa. Thuyết pháp phá ám, nhập vào nhứt thừa. Đây là việc sâu xa của Phật. Sau đó một kệ rưỡi tổng tụng về kết quả.
Giải thích phẩm Chúc Lũy
Chúc ở đây chính là Phật phú chúc. Lũy nghĩa là
phiền mà tuyên truyền. Đây chính là từ Thánh Chỉ có tên; nên nói là Chúc Lũy. Chúc tức là đảnh thọ chỗ chúc. Lũy là cam khổ, lao nhọc. Điều nầy từ Bồ Tát kính thuận, được tên ấy; nên gọi là Chúc Lũy. Chúc là chính từ kim khẩu của Đức Như Lai để chúc vậy. Lũy là Bồ Tát cam tâm gánh vác nhận lãnh. Đây chính là việc thọ nhận hợp với luận cứ; cho nên nói là phẩm Chúc Lũy. Vì vậy Đức Như Lai mới từ chỗ ngồi đứng dậy, dùng tay để xoa đầu, là pháp khó có. Đại chúng cung kính chắp tay. Như lời dạy của Đức Thế tôn đều phụng hành và thọ nhận một cách tinh tấn. Do vậy nói là phẩm Chúc Lũy. Câu văn nầy lại chia làm 2. Đầu tiên là việc phó chúc. Kế đến là lúc đó mọi người hoan hỷ. Phần đầu lại có 3. Một là Như Lai phó chúc. Hai là Bồ Tát lãnh thọ. Ba là khi việc xong thì xưng tán. Đầu ấy lại có 3. Một là chính thức phó chúc; hai là giải thích việc phó chúc; ba là răn dạy việc phó chúc. Chính thức phó chúc là Phật dùng tay làm quyền trí thiện xảo rồi xoa lên trên đỉnh đầu của các vị Bồ Tát thật trí trên hư không ở tận 3.300 Na Do Tha cõi nước. Như Lai dùng đạo để giáo hóa cho họ. Gọi đây là cánh tay quyền trí. Bồ Tát tự đến để thọ nhận đạo. Gọi đây là thật trí đảnh. Nếu dùng tay để xoa đầu; tức là tự thân phó chúc. Quyền trí lâm thật trí tức là ý phó chúc. Mà nói nên lời, tức là dùng miệng để phó chúc. Câu văn nầy có ý của Tứ Tất Đàn (thành tựu). Ta ở nơi vô lượng kiếp, tu pháp khó được nầy. Ở đây thọ nhận học hỏi từ trước Phật; nay dùng sự giao phó. Do vậy sự lãnh thọ kia là kế tục cho 3 đời; tức là thế giới Tất Đàn vậy. Một lòng tuyên dương rộng rãi tức là vì người Tất Đàn. Rộng làm cho tăng trưởng; tức là đối trị Tất Đàn. Ích lợi ấy tức là nghĩa đệ nhất của Tất Đàn.
Từ „vì sao vậy“ trở đi; giải thích về việc giao phó. Có đại từ bi nghĩa là nhà của Như Lai. Chẳng có sự keo kiệt. Áo của Như Lai lại cũng chẳng có chỗ sợ hãi. Chỗ ngồi của Như Lai là trí huệ Phật. Tất cả trí là trí huệ của Như Lai: đạo chủng trí; tự nhiên trí tuệ, tất cả chủng trí. Đối với nhà của Như Lai hay cho chúng sanh 3 loại trí tuệ. Cho đến chỗ ngồi lại cũng như vậy. Như vị thí chủ nầy chẳng có keo kiệt; cho nên nói là chẳng có chỗ lo. Các con sẽ học pháp nầy của Như Lai. Đây chính là giải thích sự xuất phát ý của Phật để phó chúc.
Từ „đối với đời vị lai“ trở đi, là sự khuyên răn giao phó. Nếu kẻ căn sâu, trí lợi thì nghe ngay lời dạy trí huệ của Phật. Nếu chẳng kham nổi thì trong pháp sâu xa ấy, chỉ bày cho được lợi lạc. Trí huệ Phật rất sâu xa mà chẳng thừa. Sáu phương tiện là dư mà chẳng sâu. Biệt giáo lần lượt dư mà lại sâu. Ngươi hay dùng dư, sâu để trợ giúp thừa thỉnh Phật huệ; tức là thiện xảo báo ân Phật. Đây gọi là dạy răn phó chúc.
Từ „lúc ấy các vị Bồ Tát“ trở đi; đây là phần 2 lãnh thọ. Ý hoan hỷ lãnh thọ. Cúi rạp mình xuống, đầu sát đất là thân lãnh thọ. Đều phát ra lời là miệng lãnh thọ, kiêm luôn cả ý lãnh thọ nữa. Như Đức Thế Tôn dạy, lãnh thọ cái ý về ngôi nhà của Đại Thí Chủ là Đức Như Lai, sẽ đầy đủ phụng hành lãnh thọ, chẳng tham lam bỏn xẻn là ý nói y của Như Lai. Nguyện chẳng mệt mỏi lãnh thọ, là ý chẳng lo lắng nơi tòa ngồi của Như Lai. Phật liền 3 lần phó chúc và các vị Bồ Tát cũng 3 lần nhận lãnh. Tất cả đều như câu văn.
Từ „lúc bấy giờ Đức Thích Ca“ trở đi, là phần thứ 3 xưng tán. Ngài Đa Bảo vì chứng kinh mà đến. Nay Tích Bảo nhị môn đã xong; cho nên tôn kính lời di chúc như thế. Phân thân ra để mở cửa tháp và vân tập lại. Khi mở cửa tháp xong, làm cho phân thân trở nguyên lại như cũ. Tháp chẳng thể mở một lần nữa; cho nên phân thân rồi, không hiện ra nữa. Tháp ấy giống như việc nghe pháp; cho nên đóng lại để tồn tại.
Hỏi: Tháp ấy nếu là việc nghe pháp, lại chẳng nên đóng lại sao ?
Đáp: Chứng chánh (giáo) rồi mới đóng. Nghe lưu thông; nên hiện hữu v.v...
Từ „lúc nói những lời ấy“ trở đi, là việc Đại Chúng hoan hỷ. Chư Phật vì sự hóa tha mà tùy theo đó để vui. Bồ Tát vì tự hành, được pháp cho nên vui vẻ. Lại nói người thanh tịnh, cho nên vui. Phật là thế. Nghe thanh tịnh pháp nên hoan hỷ. Diệu kinh là thế. Nghe pháp liền chứng; nên được vui vẻ. Hiện tại vị lai được lợi ích là thế. Ba việc đầy đủ cho nên hoan hỷ lớn v.v...
Giải thích phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự
Quán Kinh nói rằng: Xưa gọi là Tịnh Quang. Từ
Tôn Giả Nhựt Tạng nghe nói trí huệ Phật dùng thuốc quý của núi Tuyết cúng dường cho chúng tăng. Nguyện con ở đời vị lai có thể trị được thân và tâm, cả 2 bịnh của chúng sanh. Cho nên ở đời đã hoan hỷ gọi là Dược Vương. Câu văn nầy làm sáng tỏ tất cả chúng sanh hỷ kiến, đốn xả một thân. Kế đến lại thiêu 2 cánh tay, xem nhẹ sinh mạng và coi trọng về pháp để giữ đạo được tồn tại. Đưa ra việc ngày xưa để hiển việc ngày nay. Nên nói phẩm Bổn Sự. Nếu đưa ra nghĩa nầy thì Tịnh Quang có niềm vui sau đó. Từ khi bỏ thuốc, phát lời thệ nguyện đến nay, gọi là Dược Vương v.v...
Từ đây đến sau 5 phẩm, tất cả đều là phần lưu thông của việc giáo hóa cho người khác. Nay phẩm nầy làm sáng tỏ sự hóa tha của Thầy mình. Chỉ nguyện cho pháp lớn được hoằng truyền rộng rãi và đại nguyện đối với chúng sanh gặp được nhiều lợi ích. Sở dĩ thần lực nầy, cho đến hình hài thân mệnh nầy ân ân kiền kiền (thịnh thịnh bền chặt) chí ấy giống như vị kỷ. Giá làm cho đệ tử tông pháp như Thầy, ta lại truyền sự sáng tỏ, sẽ được truyền sang. Sáng sáng chẳng phải cho mình, đó là ý chí của Sư. Cho nên rõ biết phẩm nầy chính là sự hoằng pháp của Sư. Bên dưới như Diệu Âm Quan Thế Âm 2 phẩm làm sáng tỏ tha phương Đại Sĩ phụng mệnh hoằng truyền kinh điển. Phổ hiện hình thù, sắc thân, chẳng định chuẩn. Chẳng thể dùng mắt trâu, dê thấy được. Chẳng có thể dùng phàm ngu mà rõ được. Đối với nghe thấy, chớ sanh khinh tưởng. Khinh tưởng tức là pháp ấy chưa nhiễm vào tâm. Cho nên ở phẩm dưới lại thọ pháp làm Đệ Tử. Bồ Tát vì Phật sự. Một lần qua đây vậy.
Phẩm bên trên lại có Bồ Tát. Phẩm bên dưới lại có chư Phật v.v... Nay làm sáng tỏ phẩm phương tiện khai 3 hiển một, viên nhơn đã hoàn thành.
Phẩm An Lạc Hạnh làm sáng tỏ pháp của các Thừa (Phẩm) Thọ Lượng làm sáng tỏ cái quả của Thừa nầy rồi. Phẩm nầy bên dưới làm sáng tỏ Thừa của con người. Cho nên Thập Nhị Môn luận rằng. Đại Thừa là chỗ lên của bậc Đại Nhơn như Phổ Hiền Văn Thù. Dược Vương dùng sự khổ hạnh để bước lên xe. Diệu Âm Quan Âm dùng Tam Muội để bước lên xe. Đà La Ni dùng Tổng Trì để bước lên xe. Diệu Trang Nghiêm dùng lời thệ nguyện để bước lên xe. Phổ Hiền dùng thần thông để bước lên xe. Tạo ra việc giải thích nầy là đối với nghĩa lưu thông hóa tha vậy. Câu văn lại có 4. Một là hỏi; hai là đáp; ba là lợi ích và bốn là Đa Bảo gọi tốt. Hỏi ấy lại có 3. Một là thông vấn du hóa; hai là biệt vấn khổ hạnh; ba là thỉnh đáp như câu văn. Phần đáp lại có 2. Một là hay đáp khổ hạnh. Du hóa tức là chỉ cho sắc thân Tam Muội. Hoặc chỉ cho bên dưới 2 phẩm. Hai là tán thán kinh.
Trong sự đáp lại về khổ hạnh, trước tiên làm sáng tỏ việc chính. Kế đến làm sáng tỏ Bản sự. Sự bản lại chia làm 3. Nghĩa là thời tiết, có Phật nghe và quốc độ v.v... Tất như câu văn. Bản sự lại có 3. Một là Phật nói pháp; hai là tu cúng dường; ba là kết hội. Rồi Phật mới vì tất cả, sao lại thấy vui riêng. Điều nầy đối với cành dương là phó (chúc) lưu thông. Như ngày nay Thân Tử (Xá Lợi Phất) gởi một lời nói đến các vị khác vậy.
Khổ hạnh ấy lại có 2. Một là hiện tại và hai là vị lai. Hiện tại lại chia ra làm 2. Một là tu hành được pháp; hai là tạo ra sự nhớ nghĩ báo ân. Báo ân ấy lại có 2. Một là lực Tam Muội; hai là chánh báo thân lực. Thân lực ấy lại có 3. Một là thân tâm; hai là Phật xưng tán; ba là thời tiết.
Chơn pháp cúng dường sẽ là bên trong dùng nội vận trí quan sát, quán sát về nhơn quả phiền não. Tất cả đều dùng không huệ mênh mông. Cho nên gọi là chơn pháp. Lại quán về thân, về lửa hay cúng, chỗ cúng (dường) tất cả đều là thật tướng. Ai thiêu, ai đốt, hay cúng, chỗ cúng đều là việc khó thể được. Cho nên nói là chơn pháp.
Từ „tất cả chúng sanh“ trở đi. Vị lai khổ hạnh lại chia ra làm 5. Một là sanh vào nhà vua chúa; hai là nói bản sự; ba là đến chỗ Phật; bốn là Như Lai phó chúc; năm là phụng mệnh nhiệm trì. Tất cả như câu văn. Nhiệm trì lại có 4. Một là xây tháp; hai là thiêu cánh tay; ba là lợi ích; bốn là hiện báo. Tất cả đều như câu văn.
Từ „Phật bảo“ trở đi; phần thứ 3 là kết hội xưa nay. Lại có 2 phần. Một là kết hội; hai là khuyến tu. Khuyến tu là hay đốt một ngón tay cho đến xả bỏ thân bên ngoài. Bên ngoài nhẹ, bên trong nặng; cho nên công (đức) và phước (báu) khác nhau. Câu văn nói rằng: Vợ con là bên ngoài thân. Quốc thành cũng là tài sản bên ngoài.
Từ „Nếu lại có người dùng bảy loại báu“ trở đi là tán thán kinh điển. Trước tiên ca ngợi kẻ trì kinh. Kế đến ca ngợi pháp trì. Sau đó làm sáng tỏ trì kinh phước đức sâu xa. Bảy loại của quý đem dâng cho Tứ Thánh chẳng bằng như một bài kệ của người trì kinh. Pháp là Thánh Sư, hay sanh, hay dưỡng, hay thành, hay phát. Tất cả đều từ Pháp. Cho nên nói rằng: Người thì nhẹ, pháp trọng là vậy.
Từ „đời Vua trước“ trở đi; phần thứ 2 tán thán việc trì pháp lại có 2. Đầu tiên là ca ngợi pháp thể; kế đến ca ngợi pháp dụng. Sông nhỏ chảy vào sông lớn, nước ấy chảy ra biển cả. Biển là số một. Vô lượng nghĩa nói dụ cho 4 loại nước về lời dạy. Trong Dược Thảo dụ, một đám mây hay mưa, lấy dụ nầy để nói. Nay lại dùng nước, là tổng thể của tất cả giáo, biệt cùng 4 loại. Dụ cho sữa, lạc, sanh tô, thục tô. Bốn mùi vị nầy là lời dạy. Kinh Pháp Hoa dạy cho chúng ta dụ cho biển nước Đề Hồ. Nói cùng bản địa là chỗ sâu xa, biến tất cả nơi, gọi là lớn. Thuần ấy làm sáng tỏ Phật Pháp; chẳng nói ngoài pháp làm. Tối vi sâu xa to lớn. Nghĩa nầy như vậy. Thập Bảo Sơn gọi là xuất Hoa Nghiêm và các loại kinh v.v... Đất đen bao bọc chung quanh; cho nên chẳng có đồ quý giá. Thập Sơn tuy quý; hoặc có 1 hay 2 Thần Long tạp cư. Tu Di bốn bên đều báu và nơi ấy thuần là chư Thiên ở. Dụ cho việc ngoài lời dạy ấy có thể nương tựa vào Thập Địa và 40 tâm; hoặc phàm; hoặc Hiền (Thánh) nói chỗ nương tựa; hoặc tục; hoặc chơn.
Từ „Đây là bia“ trở đi, là nói về đế lý của kinh Pháp Hoa về thường, lạc, ngã, tịnh. Như 4 loại quý báu hợp thành. Khai, thị, ngộ, nhập là chỗ nương tựa. Cho nên nghĩa nầy tối vi cao thượng. Ngôi sao, mặt trăng là những âm tinh đều hiện trong ban đêm. Ngôi sao chẳng đủ ánh sáng sánh với mặt trăng. Các kinh nói về quyền, trí chẳng được tự tại. Kinh nầy làm sáng tỏ quyền; tức là thật; thật tức là quyền. Tướng ấy đầy đủ, chỉ cho bất nhị mà nhị. Như ở đây nói quyền, trí hơn các lời dạy khác vậy. Mặt trời là dương tinh, riêng một mình có thể phá trừ sự tối tăm. Các kinh làm sáng tỏ thật trí, phá trừ các nghi hoặc. Như chẳng thể sánh bên trên là thật mà quyền. Mà được cái nào đó; tức là quyền mà thật. Cho nên rõ biết kinh nầy làm sáng tỏ thật trí là điều số một.
Hiệu lệnh của Luân Vương là dừng lại ở 4 phía thành (Đế) Thích ở cõi thứ 33. Phạm (Vương) hiệu lệnh rằng bên trên tổng và bên dưới mão. Ngoài ra các kinh còn dụ về Tam Đế Tam Muội, mỗi mỗi chẳng có tướng thu (nhiếp); chẳng được tự tại. Chỗ nói kinh nầy dùng thật tướng để nhập vào chơn. Quyết rõ pháp Thanh Văn, là Vua của các kinh. Thật tướng vào đời, tất cả giữ gìn mạng sống, sản nghiệp, chẳng giống nhau và chống chọi nhau. Thật tướng vào trong các pháp, không có cái nào không là Phật Pháp. Câu văn nói rằng: Tất cả học, vô học và là cha của kẻ phát tâm Bồ Tát. Nghĩa nầy như vậy. Tất cả phàm phu, Tứ quả, (Bích) Chi; Phật là đệ nhứt. Ở đây làm sáng tỏ nhiệm vận chẳng có công dụng. Ngoài ra kinh quan yếu là nhơn công dụng, có thể được nhập lưu. Như Tứ quả, con người là cái nhơn của văn, tư, tu; mới có thể được giác ngộ.
Kinh nầy làm sáng tỏ không làm Tứ Đế, chẳng tạp phương tiện. Tự nhiên lưu nhập vào biển trí tuệ. Như con bò trắng to lớn mạnh mẽ có sức mạnh, phóng như gió thổi v.v... Thanh Văn, Chi Phật, Bồ Tát là số một. Điều nầy làm sáng tỏ các nguyên nhơn là số một. Ngoài ra kinh làm sáng tỏ nguyên nhơn chính là thất phương tiện. Nay kinh làm sáng tỏ nguyên nhơn rời phương tiện bên ngoài. Cho nên nguyên nhơn ấy là số một.
Như Lai là số một. Điều nầy làm sáng tỏ cái quả vậy. Ngoài ra kinh làm sáng tỏ quả gần ở nơi yên tĩnh. Ở đây kinh làm sáng tỏ quả xa, chỉ cho bản địa; gọi là điều quan trọng nhất. Kinh nầy có thể giáo hóa cho kẻ thấp; ca ngợi việc dùng pháp. Đầu tiên là tán thán cách dùng đánh bạt khỏi sự khổ. Kế đến 12 việc, ca ngợi cùng sự vui dùng. Sau kết quả, tất cả đều như câu văn.
Từ „Nếu có người được nghe“ trở đi, làm sáng tỏ việc trì kinh phước đức sâu xa. Trước tiên đưa ra việc toàn thể nghe kinh là phước đức. Kế đến đưa ra việc nghe phẩm phước (đức). Có cách lượng, có chúc lũy như câu văn. Mở miệng ra có mùi thơm là hiện báo. Ngoài ra là hậu báo. Được nghe kinh nầy chẳng già, chẳng chết. Điều nầy nên quán giải. Chẳng già là lạc; chẳng chết là thường. Nghe kinh nầy được hiểu rõ về thường, lạc.
Từ „thường hay ở chỗ mong nhớ, chẳng có lo ngại“ trở đi là phần thứ 3 nghe phẩm nầy được lợi ích như câu văn. Phần thứ tư Đa Bảo gọi là thiện như câu văn.
Giải thích phẩm Diệu Âm Bồ Tát
Trong câu văn tự giải thích: Ngày xưa phụng Thành Phật Vân Lôi Âm Vương với 10 vạn người hầu. Nay du hóa đến quốc độ kia, âm nhạc tự theo. Xưa kia phụng giữ 84.000 bảo bát. Nay lại hứa rằng đạo khí làm quyến thuộc chung quanh. Ngày xưa được tất cả chúng sanh ngữ ngôn Đà La Ni. Nay dùng phổ hiện sắc thân, dùng diệu âm thanh biến khắp đến 10 phương, hoằng truyền lời dạy nầy. Cho nên gọi là phẩm Diệu Âm. Phẩm nầy làm sáng tỏ Bồ Tát dùng lực khó nghĩ bàn. Tùy loại tùy kinh. Vật thấy ở Tích nầy mà chưa đo lường được ở Bản kia. Hay kham với vị nầy mà chẳng chọn hình thức ấy. Sẽ ghi lại ở bia nầy, từ lấp dòng chảy kia. Tức là hóa tha môn, ý thứ 2 vậy. Câu văn ấy có 6. Một là phóng quang và mời phía Đông đến. Hai là phụng mệnh từ Tây đến. Ba là phương hoằng truyền kinh điển. Bốn là 2 quốc độ được lợi ích. Năm là trở về nước mình và sáu là nghe phẩm tiến đạo.
Tướng người lớn là tướng biển to lớn. Trùm khắp công đức các nơi, chẳng kể một công đức nào tốt. Những công đức tốt chẳng kể với một tướng công đức nào. Các tướng ấy từ bên dưới hướng lên trên, triển chuyển tương thắng. Chẳng sánh với công đức lông trắng. Bạch hào công đức chẳng sánh với nhục kế công đức. Cho nên nói đây là tướng người lớn vậy. Tướng nầy là do từ sự hiếu thuận với Thầy Tổ mà khởi lên. Nay phóng ra ánh sáng để mời gọi bản đệ tử. Trong kinh nói là đạo ấy khiến cho hoằng truyền, làm lợi ích cho người có căn cơ lớn. Bạch hào là từ một đường thanh tịnh mà khởi. Nay phóng ra ánh quang minh nầy làm cho sự hoằng truyền giáo pháp nầy.
Hỏi: Phật mỗi tướng đều là pháp giới hải. Vì sao lại có tốt xấu?
Đáp: Kinh kia, chỗ làm sáng tỏ, tuyên nói và tạo ra việc nầy.
Hỏi: Phật có duyên với đệ tử khắp cả 10 phương. Vì sao lại mời bên Đông rồi nói với bên Tây, mà chẳng đợi cả 8 phương ?
Đáp: Đây là có chỗ biểu tượng. Tịnh Danh nói: Mặt trời, mặt trăng với ý gì mà lưu hành ở cõi Diêm Phù Đề. Muốn dùng ánh sáng quang minh để trừ khỏi những tối tăm. Đông là ánh sáng bắt đầu, Tây là ánh sáng chấm dứt. Có đầu có đuôi. Ở đây chỉ có Thánh nhơn thôi. Kẻ chưa phát tâm làm cho họ phát tâm. Kẻ chưa rốt ráo, làm cho họ rốt ráo. Một vị Bồ Tát như vậy mà nhiều vị cũng thế. Một phương là như vậy thì nhiều phương cũng như thế. Bậc Thánh chẳng phiền. Câu văn đưa ra một trong nhiều như vậy. Cho nên hay nói Đông Tây là thế.
Câu văn phát ra đó có 2. Một là phát lai duyên; hai là chánh thức phát lai. Lai duyên lại có 6. Một là các nhà chú giải kinh thuần thục với phước huệ nầy. Hai là bị chiếu soi; ba là lời; bốn là răn dạy; năm là thọ nhận thánh chỉ; sáu là hiện tướng đến. Do phước đức thuần thục, do gieo trồng nhơn duyên với Phật trước đó nhiều. Trí huệ sâu xa tức là trí huệ trang nghiêm. 16 Tam Muội tức là phước đức trang nghiêm vậy. Ánh sáng chiếu, thân qua lời nói của Phật, tất cả đều như câu văn. Phật răn dạy, mà pháp thân Đại Sĩ thì chẳng cung kính mà thành. Chỗ cùng là quyến thuộc hoặc chưa đạt được cho nên nương vào kia mà quy về việc nầy vậy.
Phàm là Phật thân thì cùng xưng với cái lý của tướng. Chẳng được thấy bia nhỏ mà quên đi sự tôn nghiêm nầy. Điều nầy Ước (giáo) nói chỗ ngồi của Như Lai là sự giáo huấn. Phàm là Thầy và Đệ Tử thì trí đoạn đầy đủ. Thầy lại thí quyền; đệ tử lại ẩn trong thật nầy. Điều nầy Ước (giáo) nói lấy y của Như Lai để làm việc răn dạy. Phàm là quốc độ y báo, tất cả đều là chỗ cảm được của chánh báo. Như Lai dùng lòng từ đến đại thiên, tuyên nói việc cao, thấp. Chớ thấy y báo mà hốt hoảng về chánh báo vậy. Điều nầy Ước (giáo) nói là nhà của Như Lai là nơi răn dạy vậy. Việc hoằng truyền kinh nầy đối với Phật thì cho thấy 3 ý. Sự tôn kính kia và răn dạy ấy Ước (giáo) con đường của chư Phật giống nhau.
Thọ chỉ tức là do Như Lai lực là tọa lực. Thần thông lực là thất lực. Trang nghiêm lực là y lực. Sự thọ nhận hoằng truyền kinh nầy là một sắc chỉ lớn là tông yếu nhằm làm lợi vật. Cho nên có thể chẳng động do việc gặp nầy. Du hóa 10 phương rồi hiện tướng như câu văn có 6. Một là để lại Liên Hoa; hai là hỏi; ba là đáp; bốn là thỉnh; năm là giới thiệu công đức; sáu là do mệnh lệnh mà đến. Tất cả đều như câu văn.
Hỏi: Nếu Văn Thù vị hạ, nói chẳng cầu thấy. Nếu Văn Thù ở vị cao, tướng ấy đến sao lại hốt hoảng mà chẳng rõ ?
Đáp: Tuy đồng một vị mà có trước, giữa và sau. Dừng ở nơi nầy một sự việc, chẳng rõ, không cung kính cao, thấp. Lại nữa ở trong chúng đoan nghiêm chẳng tường; nên phát khởi làm cho rõ biết; do vậy mới hỏi Phật vậy.
Từ „lúc bấy giờ“ trở đi là phát lai. Câu văn ấy lại có
6. Một là cùng với quyến thuộc qua lại; hai là tướng quen thuộc đăng đài; ba là hỏi thăm, truyền chỉ dụ; bốn là thỉnh cầu được gặp Đa Bảo; năm là Thế Tôn vì đó mà thông qua; sáu là trong tháp tán thán việc lành. Tất cả đều như câu văn.
Phần thứ 3 về việc hoằng truyền kinh điển lại chia ra làm hai là vấn và đáp. Đầu tiên vấn về căn lành gì. Hai là hỏi về thần lực. Thiện căn là hỏi về ngày xưa. Thần lực là hỏi về ngày nay. Phật đáp lại 2 ý. Ngày xưa vì hiến cúng âm nhạc và phụng nạp các khí cụ để kết hợp xưa nay. Tất cả đều như câu văn. Sự đáp lại nầy là trồng căn lành của câu hỏi.
Từ „Hoa Đức“ trở đi, đáp lại câu hỏi về thần lực nầy. Lại có 34 phàm thân và 4 thân Thánh nhơn; kết thành 10 pháp giới, lục đạo vậy.
Từ „lúc bấy giờ Hoa Đức“ trở đi là hỏi ngày nay đang trụ ở định nào mà có thể như thế nầy, tự tại lợi ích như vậy. Phật đáp như câu văn.
Từ „nói phẩm nầy“ trở đi là phần thứ 4, lợi ích của 2 quốc độ. Tam Muội cùng với Đà La Ni, thể một mà dụng khác; tịch dụng là Tam Muội; trì dụng gọi là Đà La Ni. Lại nữa sắc thân biến hiện, gọi là âm thanh biện; gọi là Đà La Ni. Thượng Phẩm nói rằng: Đầu tiên được nhứt thiết sắc thân tam muội, chuyển thân được tất cả ngữ ngôn Đà La Ni. Nên biết rằng âm thanh giống như sắc pháp; cho nên nói thể một ấy nhưng dụng thì sai biệt. Lại nữa lưỡi căn thanh tịnh; cho nên nói là Đà La Ni. Ngoài ra các căn khác thanh tịnh; nên gọi là Tam Muội. Cả 6 căn thanh tịnh pháp môn vậy.
Từ „lúc bấy giờ Diệu Âm“ trở đi là phần thứ 5 trở lại bổn quốc, đất động hoa rơi. Bồ Tát trải qua những việc lợi ích như trên. Chú nguyện trước Phật phóng quang. Bèn chiếu đến phương Đông, trăm, ngàn, vạn, ức Na Do Tha quốc độ, lại luận về sự lợi ích. Phần thứ 6 khi nghe phẩm nầy liền tiến tu đạo nghiệp như câu văn.
Giải thích phẩm Quan Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn
Phẩm nầy là từ Đổ Vương Kinh, giảng cho nhiều
người nghe. Nay giải thích, chẳng giống như kia được. Có ghi lại riêng làm 2 quyển. Lược lại toát yếu sự giải thích kia làm đề tựa nầy. Có Thông (giáo) có Biệt (giáo). Thông có 10 cặp; Biệt có 5 cặp. Mười cặp ấy là: Pháp một người cho đến phần thứ 10 là trí đoạn v.v...
Quan Thế Âm là người. Phổ Môn là pháp. Người có nhiều loại v.v... Pháp có nhiều loại v.v... Nương vào câu hỏi phía trước để luận đáp về người Quan Thế Âm. Nương vào câu hỏi, đáp phía sau để luận về pháp Phổ Môn. Người, Pháp hợp chung một đề. Cho nên nói là phẩm Quan Thế Âm Phổ Môn.
Quan Thế Âm là lòng từ bi đánh bạt đi sự khổ. Nương vào việc hỏi và đáp ở phía trước, có trăm ngàn khổ não tất cả đều được giải thoát. Phổ Môn có nghĩa là lòng từ lớn cùng với nhiều niềm vui. Nương vào những câu hỏi đáp sau thì, nên vì sự đắc độ mà vì đó nói pháp.
Quan Thế Âm là trí huệ trang nghiêm. Trí ấy hay đoạn trừ các hoặc, như lúc sáng thì chẳng có bóng tối. Phổ Môn là phước đức trang nghiêm. Phước ấy hay chuyển thọ như mưa châu bảo.
Quan Thế Âm là quan sát cảnh tối tăm; tức là pháp thân. Phổ Môn là tùy theo nơi mà ứng hiện. Tức là ứng thân vậy.
Quan Thế Âm là dụ cho cây thuốc vua, biến thể dụ cho bịnh. Phổ Môn là dụ chu vua Như Ý châu, tùy theo ý mà trở nên vậy.
Quan Thế Âm là ngầm làm việc lợi ích; chẳng có chỗ thấy nghe. Ba độc bảy nạn đều lìa khỏi. Hai sự cầu khẩn của 2 nguyện đều đầy đủ. Phổ Môn có nghĩa là hiển tác sự lợi ích. Mắt nhìn 33 dung nhan bậc Thánh. Tai nghe 19 sự tôn trọng giáo hóa.
Quan Thế Âm nghĩa là tùy theo tự ý, chiếu thật trí. Phổ Môn nghĩa là tùy nơi ý người khác mà chiếu huyền trí.
Quan Thế Âm nghĩa là bất động bổn tế. Phổ Môn nghĩa là Tích nhiệm phương viên.
Quan Thế Âm là căn bản đã liễu nhơn chủng tử. Phổ Môn là căn bản duyên vào nhơn chủng tử.
Quán Thế Âm là cứu cánh trí đức, như tối 14 trăng sáng tỏ: Phổ Môn là cứu cánh đoạn đức; như đêm tối trời thứ 29 không sáng tỏ.
Kinh văn qua sự hỏi đáp có rất nhiều nghĩa. Lược dùng chỉ 10 cặp như trên. Bắt đầu bằng pháp của con người và kết cuộc cho đến trí đoạn. Giải thích phẩm nầy qua tên gọi nghĩa là như vậy.
Riêng Biệt (giáo) thì chỉ hiện 5 cặp. Một là quán. Quán ấy có nhiều loại. Nghĩa là chiết quán và thể quán. Có thứ đệ quán, viên quán. Chiết quán có nghĩa là diệt sắc nhập không. Thể quán tức là sắc tức là không. Thứ đệ quán nghĩa là từ chiết quán cho đến viên quán. Viên quán là chiết quán thật tướng nầy; cho đến thứ đệ quán lại là thật tướng vậy. Nay giảng lược 3 quán, chỉ luận về viên quán.
Câu văn nói Phổ Môn nghĩa là quán chẳng viên môn thì chẳng gọi là Phổ; tức là ý nghĩa nầy.
Thế có nghĩa là đối với việc thực hành thì trước là thế và sau là quán. Hoặc cũng có thể nói quán trước và thế sau. Nay từ sự nói ấy cho nên về sau luận về thế. Thế đây lại có nhiều loại. Nghĩa là hữu vi thế, vô vi thế, nhị biên thế, bất tư nghì thế. Hữu vi thế nghĩa là 3 cõi thế (gian). Vô vi thế tức là 2 Niết Bàn. Nhị biên thế tức là sanh tử Niết Bàn. Bất tư nghì thế là cảnh thật tướng. Giảng lược đi các thế mà chỗ giữ lại bất tư nghì thế.
Âm ở đây có nghĩa là cơ. Cơ ấy lại có nhiều loại. Nhơn thiên cơ, nhị thừa cơ, Bồ Tát cơ, Phật cơ. Nhơn thiên cơ nghĩa là các việc ác chớ làm, các việc lành nên làm. Nhị Thừa cơ nghĩa là sợ hãi sanh tử, vui cảnh vô vi. Bồ Tát cơ nghĩa là trước người, sau mới đến mình, từ bi nhơn đức giúp đỡ. Phật cơ nghĩa là tất cả trong các pháp đều dùng quán nhập. Tất cả vô ngại nhơn; một đường ra khỏi sanh tử. Lược bớt các cơ của âm khác. Chỉ giữ lại Phật âm cơ mà thôi. Dùng cơ nầy ứng với nhơn duyên; gọi là Quan Thế Âm.
Phổ ở đây nghĩa là cùng khắp. Các pháp vô lượng; nếu chẳng được, phổ ấy là Biến pháp. Nếu được, thì phổ ấy là Viên pháp. Cho nên Tư Ích nói: Tất cả các pháp tà, tất cả những pháp chánh, lược theo Ước (giáo) có 10 pháp làm sáng tỏ phổ. Được ý nầy rồi thì tất cả pháp, chẳng có cái nào chẳng là phổ. Cho nên từ bi phổ, hoằng nguyện phổ, tu hành phổ, ly hoặc phổ, nhập pháp môn phổ, thần thông phổ, phương tiện phổ, thuyết pháp phổ, thành tựu chúng sanh phổ, cúng dường chư Phật phổ.
Bắt đầu từ người, trời; kết cuộc đến Bồ Tát. Tất cả đều có từ bi. Rồi có phổ, có bất phổ. Sanh pháp 2 duyên từ, thể lại biến. Bị duyên chẳng rộng, chẳng được xưng là phổ. Vô duyên cùng thật tướng, thể ấy giống nhau. Lý nầy lại viên, từ ấy chẳng khắp. Như đá mài hấp thụ sắt thép, nhiệm vận tương ưng. Như từ bi xông khắp tất cả nơi; cho nên được gọi là từ bi phổ.
Hoằng thệ phổ nghĩa là hoằng (pháp) thì rộng mà thệ (nguyện) thì hạn chế. Rộng, hẹp do tâm; cho nên nói là hoằng thệ. Hoằng thệ theo Ước (giao) là Tứ Đế khởi. Hoặc Ước (giáo) có tác, vô sanh, vô lượng Tứ Đế. Thân pháp chẳng tận nên gọi là phổ. Hoặc Ước (giáo) vô túc Tứ Đế, gọi là hoằng thệ phổ.
Tu hành phổ -ví dụ như Phật chưa gặp Định Quang Phật; trước phàm, có chỗ tu, chẳng cùng với lý hợp nhau. Từ khi được (thọ) ký, liền riêng việc ấy liền là lý. Lý trí trải qua tu hành pháp. Vô hình mà chẳng phổ.
Đoạn hoặc phổ nghĩa là nếu dùng tất cả trí, đạo chủng trí; đoạn trừ tứ trụ trần sa đẳng hoặc. Như bỏ cành lá; chẳng gọi là đoạn hoặc phổ. Hoặc dùng tất cả chủng trí, đoạn vô minh. Ngũ trụ tất cả tận trừ căn bản, gọi đây là đoạn hoặc phổ.
Nhập Pháp Môn phổ nghĩa là trước con đường gọi là tu phương tiện; sau con đường sở nhập, gọi là nhập pháp môn. Nếu Nhị Thừa dùng một tâm nhập vào nhất định. Nhứt tâm tạo một, chẳng được số nhiều. Lại nữa vì chỗ định trói buộc; cho nên chẳng gọi là Phổ. Nếu trải qua biệt các địa cạn sâu thì có sự sai khác, lại chẳng gọi là Phổ. Nếu vào Vương Tam Muội tất cả Tam Muội, tất cả đều nhập vào trong ấy, chẳng khởi diệt định, hiện các uy nghi; cho nên gọi là Pháp Môn Phổ.
Thần thông phổ nghĩa là Đại A La Hán, thiên nhãn chiếu đại thiên. (Bích) Chi Phật chiếu đến thế giới hằng trăm vị Phật. Bồ Tát chiếu đến hằng sa thế giới. Tất cả đều duyên vào cảnh hẹp, phát ra thần thông, lại biến khắp. Nếu duyên vào thật tướng để tu thì một phát tất cả phát, tương tợ như thần thông như bên trên đã nói. Huống là thần thông chơn thật mà chẳng phải Phổ sao ?
Phương Tiện Phổ nghĩa là gồm 2 loại. Đạo tiền phương tiện tu hành nhiếp. Đạo hậu lại có 2. Một là pháp thể; như nhập vào pháp môn để nói; hai là hóa dạng, như hiện tại đang nói. Cơ lưu lại lợi vật, gọi là thích hợp với duyên, tuyên nói một lúc viên biến. Tuy đủ loại vận chuyển, mà đối với Pháp tánh thật tế thì không tổn giảm. Đây gọi là Phương tiện Phổ.
Thuyết pháp phổ nghĩa là hay dùng một âm thanh êm dịu, xưng 10 pháp giới cơ. Tùy theo đây mà chia loại, rồi đồng cùng làm cho giải thoát. Như đàn của Tu La; cho nên nói là Thuyết pháp Phổ.
Thành tựu chúng sanh phổ nghĩa là tất cả thế gian và xuất thế gian cho đến sự nghiệp; tất cả đều là chỗ làm của Bồ Tát. Đào giếng, tạo thuyền, thần nông, thuốc ngọt, mây che, mặt trời chiếu, làm lợi ích chúng sanh; cho đến lợi ích tất cả hiền thánh. Chỉ bày dạy dỗ, lợi ích vui vẻ, làm cho vào được Bồ Đề. Đây gọi là thành tựu Chúng sanh Phổ.
Cúng dường chư Phật phổ nghĩa là nếu làm việc ngoại sự cúng dường. Dùng một thời gian, một món ăn, một hoa, một hương để phổ cúng dường lên tất cả các vị Phật. Chẳng trước chẳng sau, một lúc đồng cúng dường. Đối với trong một trần xuất ra tất cả trần. Lại cũng như vậy, nếu tạo ra nội quán thì viên trí dẫn dắt các việc làm. Viên trí ấy gọi là Phật. Các việc làm của chúng là tư viên trí; tức là cúng dường Phật vậy. Hoặc thực hành tư duy trí, thì chẳng gọi là cúng dường phổ. Chúng hành tư viên trí, gọi đây là Cúng dường Phổ.
Môn ấy là từ giả nhập vào không, không thông mà giả che lấp. Từ không nhập vào giả, giả thông mà không lấp. Biến thông tức là chẳng phải Phổ. Che lấp ấy cho nên chẳng phải Môn. Trung Đạo thì phi không, phi giả. Chánh thông thật tướng, song chiếu nhị đế; cho nên nói là Phổ. Chánh thông cho nên gọi là Môn. Nghĩa Phổ Môn viên thông có nhiều lắm. Lược cử ra 10 loại, liền có thể rõ. Phẩm nầy giống như phổ hiện Tam Muội hóa tha, lưu thông vậy. Câu văn lại chia ra làm 3. Một là vấn; hai là đáp; ba là nghe phẩm nầy được lợi ích. Vấn đáp lại có 2 phiên. Phiên đầu hỏi lại chia ra làm 2. Đầu tiên các nhà chú giải kinh sách nói ở phía Đông Bồ Tát cảnh. Kế đến nói Tây Phương Bồ Tát thời. Đây là nói Đông Tây đã sanh ra việc lành rồi. Kế đến nói Tây Phương sanh ra thiện thời. Nói Đông Phương đoạn nghi rồi. Kế tiếp nói Tây Phương lúc đoạn nghi. Nói Đông Phương được đạo rồi. Kế nói Tây Phương lúc được đạo.
Vô Tận Ý theo Đại Phẩm làm sáng tỏ cái không ấy vô tận. Đại Tập làm sáng tỏ 80 vô tận môn. Tịnh Danh nói: Phàm là vô tận thì chẳng hết, chẳng chẳng hết; nên có tên là Vô Tận. Tổng cộng 3 kinh, dạy 3 quán, 3 trí để giải thích vô tận vậy.
Ý ở đây chính là trí. Vô Tận cảnh giới, trí khế hợp với cảnh. Đơn thuần là từ nơi cảnh nên nói là Vô Tận. Đơn thuần từ nơi trí, nên nói là ý. Cảnh, trí cùng hợp lại; nên gọi đây là Vô Tận Ý vậy. Lại nữa Ý ấy là căn bản của thế và xuất thế. Lại ý ấy tức là con đường của pháp giới; cho nên nói là hay quán tâm tánh; nên gọi là thượng định. Điều nầy Ước (giáo) gọi là tam trí, tam quán; giải thích tên ấy, cùng với lời hỏi kia.
Đại Kinh nói rằng: Đầy đủ 2 trang nghiêm hay hỏi hay đáp. Vô Tận Ý trước đó dùng huệ trang nghiêm hỏi Quan Thế Âm huệ trang nghiêm. Phật dùng huệ trang nghiêm để đáp Quan Thế Âm huệ trang nghiêm. Phật đáp ấy lại có 3. Một là tổng đáp; hai là biệt đáp; ba là khuyến trì danh đáp. Tổng ấy lại chia ra làm 4. Một là số người; hai là gặp khổ; ba là nghe tên xưng hiệu; bốn là được giải thoát. Tự có nhiều khổ khổ, một người, nhiều người; thọ một khổ. Một người thọ nhiều khổ; một người thọ ít khổ. Nay câu văn nói có trăm, ngàn, vạn, ức chúng sanh tức là có nhiều người, thọ các khổ não, nhiều khổ. Đưa ra nhiều, hiểu ít nhiều, thường hay cứu, hà huống là ít khổ sao ? Gặp khổ là xấu, gọi xưng danh (hiệu) lại lành. Lành, ác gặp nhau là ý nghĩa của cơ duyên vậy; mà được giải thoát, chính là ứng vậy. Đây là cơ cảm nhơn duyên; gọi Quan Thế Âm, lại là người, pháp nhơn duyên; cho đến trí đoạn nhơn duyên, gọi Quán Thế Âm. Phía sau cũng thí dụ như vậy. Kết cuộc là gọi tên chẳng phiền như câu văn. Phần biệt đáp lại có 3. Một là dùng cơ duyên của miệng để ứng; hai là ý cơ ứng; ba là thân cơ ứng. Miệng ấy lại có 2. Đầu tiên làm sáng tỏ 7 nạn; kế đến là kết. Hỏa nạn lại có 4. Một là trì danh liền lành (tốt); hai là gặp lửa là xấu (ác); ba là ứng; bốn là kết. Đối với trong một nạn, thí dụ ấy chia ra 3 phiên. Một là quả báo lửa. Từ địa ngục trở lên Sơ Thiền rồi trở lại, tất cả luận cơ ứng. Hai là ác nghiệp hỏa. Địa ngục trở lên (cõi trời) Phi Tưởng rồi trở lại; tất cả luận cơ ứng. Ba là lửa phiền não. Từ địa ngục trở lên đến Đẳng Giác rồi trở lại; tất cả đều luận theo cơ ưng. Bảy nạn 3 độc 2 cầu theo thí dụ; tất cả đều như đây. Nghĩa nầy lại rộng, có thể dùng ý để rõ biết, chẳng thể dùng lời văn để ghi lại.
Thân cơ ấy lại có 2. Đầu tiên là 2 sự cầu và kế đến là kết. Cầu con trai, có lập nguyện tu hành theo đức nghiệp. Cầu con gái như cầu văn lược bớt về sự tu hành. Chính thức mà nói thì sự lễ bái giống với điều nầy; nên lược bớt. Nguyện nghiệp mỗi mỗi khác nhau; cho nên xuất hiện thêm nữa. Kết lại như câu văn.
Từ „cho nên chúng sanh“ trở đi là khuyên trì danh, lại có 3. Khuyên trì, cách lượng, kết thán. Bên trên thuật lại thắng danh, mỹ đức; chẳng nói đến hình chất. Nếu muốn quy kính, sùng bái thì tuyên trì danh tự. Cho nên khuyến trì vậy.
Nhập Đại Thừa luận nói rằng: Pháp thân tuy một mà ứng, sắc (thân) lại nhiều. Cách ấy là 62 ức ứng thân, sánh với một pháp thân. Trí Giả bảo rằng: Viên nhơn tuy một mà biến nhơn lại nhiều. Cách ấy có 62 ức biến Bồ Tát, sánh với một Viên Bồ Tát.
Phần thứ 2 hỏi ấy lại chia ra làm 3. Vì sao hỏi về thân du hành? Vì sao miệng hỏi nói? phương tiện hỏi ý? Thánh nhơn nầy tam mật, quyền hiện chẳng có mưu. Tùy theo cơ nghi thích ứng.
Phật đáp lại có 3. Một là riêng đáp; hai là tổng đáp và ba là khuyên cúng dường. Ưng dĩ ấy là đáp lại lực phương tiện. Hiện thân đáp câu hỏi nầy về du hóa.
Thuyết pháp đáp lại câu hỏi về miệng. Phàm có 33 thân, 19 việc thuyết pháp v.v...
Từ „thành tựu“ trở đi, kết riêng, khai chung. Câu văn riêng thì rộng mà ý thì hẹp. Tổng đáp câu văn hẹp mà ý thì rộng v.v...
Từ „cho nên khuyến thỉnh cúng dường“. Trong nầy thấy hình (tướng) nghe pháp; cho nên khuyên cúng dường. Đầu tiên là khuyên sau đó là thọ nhận lời khuyên. Thọ chỉ ấy lại có 6. Phụng mệnh, chẳng thọ, lại phụng mệnh, Phật khuyên tức là thọ kết. Tất cả đều như câu văn.
Từ „Trì Địa“ trở đi, đây là phẩm nghe công đức v.v... Vô đẳng đẳng nghĩa là 9 pháp giới tâm chẳng thể sánh với lý. Phật pháp giới tâm có thể sánh với lý nầy. Cho nên vô đẳng mà đẳng vậy. Lại nữa cái lý cứu cánh là không thể sánh; đầu tiên nương vào lý cứu cánh để mà phát tâm. Có thể sánh với lý; cho nên nói là vô đẳng đẳng. Lại nữa tâm ấy cùng với lý đều chẳng thể giải được, rồi vật gì sánh với vật gì mà nói là vô đẳng đẳng vậy?
Tâm cùng với lý đầy đủ chẳng thể nói, chẳng thể nói, mà nói. Nói tâm nầy sánh với lý nầy; cho nên nói là vô đẳng đẳng vậy. Phần một ban đầu là giải thích theo chiều rộng. Kế đến lần kế tiếp là giải thích theo chiều cao. Kế đến là giải thích chẳng rộng, chẳng cao v.v...
Giải thích phẩm Đà La Ni
Ở đây dịch là Tổng Trì. Tổng Trì cho việc ác
chẳng khởi lên, việc thiện chẳng mất đi. Lại cũng có nơi dịch là năng giá, năng trì. Năng trì thiện, năng giá ác. Năng giá nầy biên ác; năng trì kia trung thiện. Các kinh giải thích chẳng giống nhau. Hoặc chuyên dùng trị bịnh như Na Đạt Cư Sĩ, hoặc chuyên hộ pháp như câu văn nầy. Hoặc chuyên dùng để diệt tội như phương đẳng. Hoặc thông dụng trị bịnh, diệt tội, hộ kinh như thỉnh Quan Âm. Hoặc đại minh chú, vô thượng minh chú, vô đẳng đẳng minh chú. Tức là chẳng phải trị bịnh, chẳng phải diệt tội, chẳng hộ trì kinh điển. Nếu là kẻ Thông (giáo) lại cùng với ứng. Nếu luận Biệt (giáo) thì hạnh phúc là nương vào kinh, chớ ngược lại lời dạy v.v...
Quý Sư hoặc nói chú là tên của các loại quỷ thần chúa. Xưng tên vị vua nầy, bộ lạc kia, cung kính với chủ, chẳng cam chịu là không; cho nên hay hàng phục tất cả quỷ mị. Hoặc kẻ nói chú như mật hiệu trong quân lính, gọi hiệu lệnh tương ưng, chẳng có gì để thắc mắc. Nếu chẳng tương ưng, liền vin vào đó để trị tội. Nếu kẻ nào chẳng thuận với chú thì đầu phá 7 lần. Nếu thuận theo chú thì chẳng bị mất mát gì. Hoặc kẻ nói chú là mật mặc trị ác ác, tự nghỉ ngơi, dụ như kẻ hèn từ nước này chạy đến nước khác, cải xưng là Vương Tử; nước kia gả công chúa làm vợ. Đa sân đa sự, rồi có một người sáng suốt từ nước nầy đến, nói cho người chủ tại đó. Người nầy nói người chủ; nếu mà sân thì nên nói bài kệ.
Kệ rằng: Chẳng gần gũi nước kia, khi cuồng tất cả người, ăn uống thô tháo là việc thường. Khó khăn gì mà sân hận. Nói bài kệ nầy xong mặc nhiên sân ấy giảm, sau đó chẳng sân lại nữa. Người chủ nầy và tất cả mọi người thường nghe bài kệ nầy, tất cả đều chẳng rõ ý. (Thần) Chú lại cũng như thế, mặc nhiên sẽ chế ngự việc xấu; ngoài ra chẳng phải để hiểu.
Hoặc nói chú là những mật ngữ của chư Phật, như Vua Tác Tiên Đà Bà, tất cả quần thần bên dưới chẳng có thể hiểu được. Duy chỉ có vị thần có trí thì mới có thể rõ được. Chú ấy lại cũng như vậy. Chỉ là một pháp, biến ra những sức mạnh. Bịnh tiêu, tội giảm, lành sanh, đạo hợp. Vì ý nghĩa nầy cho nên giữ lại âm căn bản. Người dịch chẳng dịch ý ở đây.
Đời ác hoằng truyền kinh điển vui nhiều, não nạn, dùng chú để hộ trì là sứ giả làm cho con đường đạo được lưu thông. Câu văn nầy lại có 4. Một là hỏi về trì kinh công đức; hai là đáp thật nhiều; ba là thỉnh dùng chú để hộ thân; bốn là nghe phẩm nầy được lợi ích. Một là hỏi như câu văn; hai là đáp như cách lượng bổn. Vấn nhiều chăng? Đáp thì thật nhiều. Cách xuất công đức như câu văn. Thỉnh nói chú có 5 phiên. Một là Dược Vương; hai là Dõng Thí; ba là Tỳ Sa Môn; bốn là Trì Quốc; năm là 10 người nữ. Dược Vương lại chia ra làm 4. Một là thỉnh; hai là nói; ba là tán thán; bốn là ấn chứng. Ví dụ bên dưới lại có 3 như câu văn. Mười người nữ lại có 5. Một là liệt danh; hai là thỉnh nói; ba là tán thán; bốn là thệ nguyện; năm là ấn chứng.
Dạ Xoa dịch là Tiệp Tật quỷ. La Sát dịch là quỷ ăn thịt người. Nhị bộ là Bắc phương sở lãnh. Phú Đơn Na Nhiệt bịnh quỷ, Kiết Giả khởi thi quỷ. Nếu người, hoặc Dạ Xoa đều có quỷ nầy. Tỳ Đa La quỷ màu đỏ. Kiến Đà La quỷ màu vàng. Quảng Ô Ma Lặc màu đen; quỷ A Bạt Ma La màu xanh. Cành cây A Lê rơi xuống đất, dùng pháp để phá thành 7 miếng. Giết cha, mẹ, phá Tăng là 3 tội nghịch. Dầu thắp ngoại quốc của vừng hay sanh trùng, ướt át. Quy Đa Thấp Ích Phì. Điều nầy thật là lạ. Đong nhẹ, cân nặng vào đó như oán trách việc khinh khi, trộm cắp. Gần đây có chén vại nhỏ đong ra; chén vại lớn đong vào làm chấn động để lại nơi đây. Tội nầy lại cũng chẳng nhẹ.
Giải thích phẩm Diệu Trang Nghiêm Bản Sự
Do nhơn duyên nầy mà đưa ra kinh khác. Ngày
xưa Phật ở thời mạt pháp có 4 Tỳ Kheo. Đối với kinh Pháp Hoa thật là ân cần tôn trọng. Chỉ quyển thư bí giáo cam lồ thì chưa bỏ ngày đêm và chưa hề quên. Tán thán rằng: Người nầy chẳng cẩu thả. Đất lại chẳng có nơi nào như thế. Ở đời cuối cùng tranh nhau thù oán, trái nghịch với nhau. Gặp thế muốn yên rồi thì xa lánh hà huống là tôn sùng nền đạo sao? Đối với đây là kết quả khế hợp với núi rừng, chí vui với trí huệ Phật. Ở nơi u tịch, ngày chứa, y lương đơn giản; có chờ đợi, nhiều phiền não, chẳng có thời gian là chẳng phạm đến. Một bữa cơm nôn oẹ, bỏ qua vạn lý mà đi. Mười tuần (100 ngày) 9 bữa ăn. Ý chí như mây trời. Có thể nói được sao? Có một người nói rằng: Chúng ta bốn cùng khổ, thân nầy chẳng tồn tại thì pháp sẽ an vào đâu? Các anh 3 người hằng dùng thân mạng để phụng đạo, chưa mệt; nên đi triêu bái; còn ta xả bỏ thân nầy, thệ nguyện cho các nơi. Đối với sự chấn tích môn lư để cầu cúng tiếp thì từ Xuân đến Đông trở lại như ban đầu. Như người tớ cung phụng đại gia, cam khổ, không vui hận. Ba người được triển (khai) rồi; sự thành tâm nầy là công viên, sự biện. Một đời lợi ích cho vô lượng sanh linh. Một người nầy là số lịch thiệp trong nhân gian. Gặp gỡ thinh, sắc, đồ đất chưa nung, khó có thể giữ gìn được. Ngẫu nhiên gặp Vua ra quân. Ngựa hí cờ bay, sanh tâm động niệm, yêu hào quang tốt ấy. Công đức huân tu tùy niệm thọ báo. Trong người, trên trời thường được làm vua. Phước tuy chẳng lường, lại có giới hạn. Ba người được đạo ngồi lại mà bàn với nhau rằng:
Ta bỏ công là do vị vua nầy. Sự vui nầy là quả báo tăng trưởng hữu vi. Từ đây cho đến chết rồi, chẳng trở lại làm vua. Nếu chìm vào hầm lửa, khó khăn gì còn có thể cứu được. Hạnh phúc thay việc khổ nầy chính là có thể khai hóa. Một người khác nói:
Vị vua nầy đắm say dục lạc và tà kiến. Nếu chẳng ái sủng, chẳng có lý do để có thể đánh bạt được. Một người có thể làm người vợ đoan chánh; hai là tạo ra đứa con thông minh. Khi mẹ con nói, tức nhiên là vua tùy thuận.
Như lời nói, kết quả của sự khuyến hóa là dùng để cải tà. Người vợ ấy chính là Diệu Âm Bồ Tát. Ngày xưa có 2 con. Nay là Dược Vương và Dược Thượng hai vị Bồ Tát. Còn vị vua ngày xưa, nay là Hoa Đức Bồ Tát. Cho nên bạch hào triệu từ Đông phương đến rồi phóng lên đài mà hướng đến phía Tây rồi dùng thần chú hộ kinh, làm cho lưu thông, được lợi ích lớn. Nói Tứ Thánh là nhơn duyên đời trước; cho nên gọi là: Diệu Trang Nghiêm Vương bản sự phẩm.
Lại nữa Diệu Trang Nghiêm là Diệu Pháp công đức trang nghiêm nơi các căn. Vị vua nầy ngày qua đời, lấy Diệu Pháp làm duyên. Đạo huân tập thì thuần thục các căn thanh tịnh. Sanh tuy chưa được cái lý rộng rãi nầy; nhưng tất nhiên linh đoan cảm thông lại thêm; nên gọi là Tảo Vị. Ví dụ như Thiện Kiết tuy chưa vô tránh mà hiệu là Không Sanh; do vậy câu văn phía dưới nói rằng:
Được thanh tịnh công đức trang nghiêm Tam Muội là dùng ở nghĩa nầy; cho nên gọi là Diệu Trang Nghiêm Vương. Phẩm trước nói thần chú để hộ thân. Nay phẩm nầy nói con người hộ trì. Người hộ trì cũng giống như chú hộ trì, lại cũng tốt.
Phần Phổ Khuyến lưu thông ấy câu văn chia ra làm
6. Một là làm sáng tỏ sự bổn; hai là song phiêu năng sở; ba là hay hóa phương tiện; bốn là chỗ hóa được lợi ích; năm là kết hợp xưa nay; sáu là nghe phẩm nầy rồi ngộ đạo. Sự Bản như câu văn.
Từ „trong khi Phật Pháp kia“ trở đi; phần thứ hai là song phiêu năng sở. Sở hóa một người, hay hóa 3 người đều ra từ tên nầy. Biệt hiển hai con, phước huệ, lục độ, tứ hoằng. Ngoài ra kinh chỉ việc nầy là 10 Ba La Mật. Hoành pháp môn vậy. 37 phẩm trợ đạo là pháp môn chiều cao. Ngoài ra kinh vì chánh đạo. Hành hành là trợ đạo. Nay kinh chỉ cho 10 độ là chánh. Gọi việc nầy là trợ đạo. Trong Thiền độ đầy đủ có Tam Muội. Trong Đạo Phẩm mỗi mỗi đều có Tam Muội. Liền đó là mục tiêu của 7 tam muội. Đây là hiển pháp môn rộng vậy.
Từ „ở thời gian vị Phật kia“ trở đi; phần thứ 3 là hay hóa phương tiện. Câu văn lại chia làm 3. Một là thời chí; hai là luận nghị; ba là hiện hóa. Sơ thời chí nghĩa là vị Phật kia ra đời thường tuyên nói chánh pháp. Đối với vua duyên vào chỗ yếu thì chẳng phải thời nầy. Nếu nói Pháp Hoa; tức là thời nầy vậy. Câu văn nầy nói vị Phật kia sẽ muốn dẫn đạo, nói kinh Pháp Hoa; tức là nghĩa nầy. Phần thứ 2 là luận nghị. Trong câu văn ấy con nói với mẹ là đến thời. Mẹ hộ trì làm cho cải hóa người cha. Người con lo sợ, ra khỏi nhà tà kiến. Người mẹ trách, làm cho lo nghĩ. Tất cả như câu văn.
Từ „đối với điều nầy 2 con“ trở đi là phần thứ 3 hiện hóa. Hiện hóa ứng với 18 biến, có thể giải thích đầy đủ.
Từ „lúc ấy cha thấy con“ trở đi; phần thứ 4 là chỗ nhiếp hóa được lợi ích. Câu văn ấy có 10.
Một là tin rằng người con phục tùng Thầy. Vua thấy tà biến; hoặc 1 hoặc 2 hẹp mà chớ cách ngăn. Thấy con chỗ làm, ca ngợi việc chưa từng có. Tin đứa con nầy mà phục vị Thầy nầy. Hỏi rằng vị Thầy ấy là ai? Ta lại cũng muốn gặp.
Hai là vua cha đã tin rồi, trong cung 84.000 lại thuần thục rồi thưa với mẹ, gọi là vui mừng, nguyện cũng sẽ xuất gia. Mẹ lại nghe theo.
Ba là lại thúc giục cha mẹ. Nay chính là lúc khó gặp được Phật.
Bốn là giáo hóa công đức xong rồi, ở trước Phật tán thán công đức. Pháp Hoa Tam Muội là nhiếp tất cả pháp, quy về một thật tướng như trước đã nói. Lìa khỏi chốn ác. Một là đi khỏi chốn tam đồ, ác khổ. Đều luận về 25 cõi hữu. Tất cả ngược lại với chơn, khởi vọng; tất cả đều là xấu tệ. Nay tất cả đều lìa khỏi. Tức là 25 Tam Muội, phá 25 cõi hữu tình. Phật gom các Tam Muội tức là tạng bí mật, Phật gom lại. Chỉ là hành xứ của Phật; chẳng phải người ngoài khác.
Năm là đầy đủ chỗ Phật ngồi, nghe pháp cúng dường và thấy đoan nghiêm hoan hỷ.
Sáu là Phật cùng thọ ký.
Bảy là xuất gia tu hành.
Tám là xưng tán 2 người con.
Chín là Phật thuật lại hành vi cao cả.
Mười là ca ngợi Phật và tự nguyện thệ ước.
Phật tán thán thiện tri thức, có ý nghĩa lớn. Thiện tri thức hay tác Phật sự. Ở đây tức là ngoại hộ Thiện Tri Thức. Chỉ bày giáo hóa làm lợi ích hoan hỷ. Đây tức là giáo thọ thiện tri thức. Cho nên hóa đạo làm cho được gặp Phật. Đây tức là đồng hành thiện tri thức. Làm cho vào trong Bồ Đề, ở đây chính là thật tế, thật tướng thiện tri thức.
Kinh Tạp A Hàm nói: Thiện Tri Thức -nếu là trinh tiết, vợ hiền thì đây tức là nghĩa của ngoại hộ. Lại nữa Thiện Tri Thức như tông thân, tài sản. Đây tức là nghĩa đồng hành. Lại nữa Thiện Tri Thức như thương chủ dẫn đường. Đây tức là nghĩa giáo thọ. Lại nữa Thiện Tri Thức như con nằm, cha nhớ mong. Đây tức là nghĩa thực tế vậy.
Phật bảo đại chúng rằng: Đây là kết hợp cổ kim. Trước kết hợp, sau sự kết hợp là ca ngợi 2 vị Bồ Tát. Nói như phía dưới và nghe phẩm nầy rồi, được đạo, như câu văn.
Giải thích phẩm Phổ Hiền Bồ Tát khuyến phát
Đại Luận quán kinh đồng gọi là Biến Kiết. Kinh
nầy gọi là Phổ Hiền. Tất cả tiếng Hán chuyển dịch âm từ tiếng Phạn. Đây nghĩa là Phổ Hiền. Kinh Bi Hoa nói rằng: Ta thề đến đời uế ác của thế giới, hành Bồ Tát đạo, khiến được thanh tịnh. Tu thực hành việc trọng yếu sẽ hơn hẳn các vị Bồ Tát. Phật Bảo Tạng nói rằng: Dùng nhơn duyên nầy, nay đổi lại chữ của ngươi và tên là Phổ Hiền. Đây tức là ý của 3 Tất Đàn vậy. Lại nữa nhơn duyên nầy sẽ giải thích. Lại lấy hạnh nguyện ấy để đặt tên. Nguyên do là từ nơi niệm xứ cho đến 4 căn lành. Thông (giáo) gọi là Phổ Hiền. Biệt, Ước (giáo) gọi trong đời, đây là pháp đệ nhất sáng sủa, gần gũi với bậc chơn thánh. Gọi đây là Hiền. Trong Tam Tạng nói như vậy. Nay làm sáng tỏ điểm cao của con đường phục tùng ấy. Nhơn nầy có khắp nơi; gọi đây là Phổ. Đoạn được con đường phía sau, gần gũi với bậc Thánh sáng suốt, gọi là Hiền. Hoặc bắt đầu con đường phục tùng ấy bằng Thập Tín thì chẳng bên trên, chẳng bên cạnh của phần đầu bậc Thánh ấy; chẳng sau, chẳng cùng. Cho đến thập địa lại chẳng chu khắp. Hà huống là trước các vị sao! Nay luận về vị Đẳng Giác. Nơi mà mọi người phục tùng cao cả. Phục đạo khắp nơi gọi là Phổ. Đoạn đạo vừa hết chỗ tay xe kéo thì chẳng hẹn. Kẻ bên cạnh cuối cùng thật rõ; ấy là Hiền.
Thích Luận dẫn dụ về đến trăng 14 cũng như trăng rằm là ở nghĩa nầy làm sáng tỏ vậy. Đây là Ước, Viên giáo vị. Giải thích hậu vị là Phổ Hiền.
Khuyến phát là việc nói về sự yêu mến pháp. Ngài Diêu ở nước kia đều đã nghe kinh nầy trước sau đầy đủ. Muốn làm cho tự hành, hóa tha vĩnh viễn chẳng có cái ta. Cho nên từ Đông chí Tây, đến để khuyến khích phát tâm. Đầy đủ ý Tứ Tất Đàn v.v...
Câu văn nói rằng: Ta vì cúng dường pháp của kinh Pháp Hoa mà tự hiện ra thân nầy. Nếu thấy thân ta mà thật vui mừng thì dùng sự thấy ta đó mà chuyển đổi được tinh tấn, tức là được Tam Muội và Đà La Ni rồi. Được Đà La Ni là không có, không người hay phá hoại. Lại cũng chẳng phải nữ nhơn ở chỗ hoặc loạn. 3.000 Đại thiên Thế giới vi trần Bồ Tát đầy đủ đạo Phổ Hiền. Như đây làm sáng tỏ câu văn tức là Tứ Tất Đàn, mà đến để khuyến khích phát tâm.
Bên trên nói về phần lưu thông lại có 3. Sau 19 hàng kệ trở đi 5 phẩm rưỡi đưa ra phần kinh lực thật lớn để khuyến khích lưu thông. Từ phẩm Dược Vương đến sau 5 phẩm đưa ra lực hóa độ to lớn của các Bồ Tát để khuyến khích lưu thông. Đưa ra một phẩm nầy là lực thệ nguyện to lớn của Phổ Hiền dùng để khuyến khích lưu thông.
Phân đoạn câu văn ấy ra là 4. Một là phát nguyện đến; hai là khuyến phát; ba là thuật lại sự phát nguyện; bốn là phát nguyện lợi ích. Đầu tiên các nhà chú giải kinh điển chia „phát lai“ ấy ra làm 3. Một là thượng cúng; hai là hạ hóa; ba là tu kỉnh. Tự tại là một lý. Thần thông là một hạnh. Uy đức là một người. Danh văn là một giáo. Lại nữa Tự tại là thường, Thần thông là lạc. Uy đức là Ngã và Danh văn là Tịnh. Nói như thế nầy tức là một mà bốn đức, chẳng phải chẳng đầy đủ nghĩa Tự Tại sao ?
Lực thanh tịnh cho nên mưa hoa. Lực vui cho nên tấu lên hỹ nhạc. Thần thông cho nên động địa. Tự tại lực cho nên tùy theo ý mà mưa. Tùy khứ, tùy vũ, tùy động và tùy tấu. Giống như rồng lớn bay đi chẳng ngại thân biến, mây mưa đầy dẫy khắp nơi. Phổ Hiền và quyến thuộc dùng thân Bồ Tát với lực của Trí Đức để khuyến thỉnh phát nguyện một trong bốn ấy. Trải qua các nơi, tự đi đến và dâng cúng. Việc nầy như vậy.
Từ „lại nữa cùng chư thiên, long“ trở đi trải qua những nơi hạ hóa làm lợi ích. Tùy theo chỗ kia mà tuyên nói hiện ra 8 bộ tượng. Lược dùng chỉ 2 lực, tùy theo chỗ ấy mà kham nhận. Việc nầy như thế.
Ba là tu kỉnh thân quay lại, đầu lễ bái như câu văn. Khuyến phát ấy lại chia làm hai. Một là thỉnh vấn khuyến phát; hai là thệ nguyện khuyến phát. Có vấn có đáp. Vấn là Ngài Diêu nghe kinh rồi, do mến pháp quên mình. Từ xa đến với ý chí y nguyên khuyến phát. Cho nên liền thỉnh chính thức nói khuyến phát tự làm. Rồi thỉnh lưu thông, khuyến phát hóa tha. Như Lai nếu hứa 2 lần tái diễn thì ánh sáng không giới hạn; cho nên 2 lần thỉnh. Phật đáp:
Đầu tiên tổng, kế đến là biệt và thứ ba là kết. Biệt liệt kê ra 4 pháp như câu văn. Ở đây 2 lần thỉnh, Như Lai khéo đáp. Lược cử ra 4 mà che những cái khác. Thế nào là chỗ trọng yếu của tứ pháp, cái nhân bao quát để chánh thông? Sao Phật lại chẳng thiên lệch? Nếu hay xa ác thì thiện cùng mê trở lại chánh, thì khai quyền tri kiến hiển Phật tri kiến tức là kêu cả tâm Thánh và chư Phật hộ niệm. Nếu Phật rõ thấy, nghe; tức là Bát Nhã chiếu sáng, là trồng các đức căn bản. Lại là nhập vào Chánh Định Tụ. Chẳng loạn, chẳng vị, chẳng thủ, chẳng xả. Lại là phát thệ, cứu độ chúng sanh. Nên rõ 4 điều nầy cùng với khai quyền hiển thật, gọi là dị thể đồng. Không hai không biệt.
Lại nữa chư Phật hộ niệm là khai Phật tri kiến. Trồng những gốc phước đức là thị Phật tri kiến. Phát nguyện cứu độ chúng sanh, là ngộ Phật tri kiến. Nhập Chánh Định Tụ là nhập Phật tri kiến. Tích Môn là yếu chỉ, thu nhận 4 việc nầy. Lại nữa Tích ấy chính là Bản. Từ Bản mà khai, thị, ngộ, nhập; cho nên có Tích trong khai, thị, ngộ, nhập. Nay khai Tích tức là hiển Bản. Bản, Tích không hai, không biệt. Dùng 4 pháp để đáp về việc thỉnh chính thức nầy. Đối với nghĩa ấy sáng tỏ rồi.
Dùng 4 pháp để đáp lại việc thỉnh lưu thông. Phần lưu thông ấy tuy 3, tuy 4, mà phát nguyện cứu chúng sanh là vào nơi nhà của Như Lai. Nhập vào Chánh Định Tụ là chỗ Phật hộ niệm. Đó chính là mặc áo của Như Lai. Trồng các đức căn bản là ngồi tòa Như Lai. Đây là hoằng tuyên điểm chính yếu của 4 mà 3. Phát nguyện cứu độ chúng sanh là thệ nguyện an lạc hạnh. Nhập Chánh Định Tụ là ý an lạc hạnh. Trồng các đức căn bản là khẩu an lạc hạnh. Hộ niệm là thân an lạc hạnh. Nên biết rằng sau 4 tức là trước 4. Một lần đáp trả cho 2 lần thỉnh nầy, đưa ra 4 đầu đề của một kinh. Pháp Hoa là trọng điểm. Kinh nầy nói trở lại. Từ xa đến khuyến khích phát tâm. Nghĩa nầy như thế ấy.
Ba là kết -Đối với Đức Như Lai sau khi tịch diệt tất được kinh nầy. Xưa nói rằng: Hay thực hành 4 pháp đối với đời vị lai, thường thủ đắc kinh nầy. Nay nghĩa ấy chẳng phải như vậy.
Câu văn trên nói rằng: Nghĩa của thật tướng các pháp, đây vì các ngươi mà nói. Lại nói: hoặc làm cho chúng sanh ngộ, nhập, Phật tri kiến. Che chở Pháp Hoa là chánh thể. Hay hành 4 pháp, tất được sự giải thích nầy. Tên giải là kinh. Đây kết lại lời thỉnh nầy chính là câu hỏi. Nếu hay mang điều nầy, giải hành, truyền cùng với người khác thì người khác được tín giải và trở thành người nương tựa đầu tiên. Có thể được chơn giải, thành đệ nhị, đệ tam, đệ tứ của người nương tựa. Kết luận với lời thỉnh nầy là câu hỏi về việc lưu thông. Ý nầy chẳng thấy bàn bạc ở ngoài việc nói sao ?
Từ „bạch Phật“ trở đi; phần thứ 2 là thệ nguyện khuyến phát. Câu văn lại chia làm 2. Một là hộ nhơn; hai là hộ pháp. Hộ nhơn lại chia làm 6.
Một là đẩy việc khó nầy ra bên ngoài. Đầu tiên tổng quát là đẩy việc khó nầy. Cho nên nói làm cho không tự cầu được là chính người nầy vậy. Kế đến là đẩy riêng việc khó nầy, đưa ra 12 việc đúng, sai.
Hai là chỉ cho pháp bên trong. Phàm là 3 lần dạy bảo. Đầu tiên là đứng lên đọc tụng, cỡi lên voi trắng 6 ngà, an ủi tâm nầy. Kế đến ngồi suy nghĩ, lại cỡi lên 6 ngà chỉ bày cho kinh nầy. Cùng với Tam Muội nầy vậy. Đà La Ni toàn giả nhập không. Trăm ngàn toàn, toàn không ra khỏi giả. Phương tiện là 2 làm phương tiện đạo, được vào Trung Đạo đệ nhất nghĩa đế. Sau 37 gồm 1 tâm tinh tấn. Lại lên 6 ngà chỉ dạy làm lợi ích, vui vẻ nói thần chú. Như câu văn.
Ba là che thần lực. Hoặc nghe, hoặc trì, chưa phải là thần lực. Như câu văn.
Bốn là chỉ cho nhơn duyên thù thắng. Hoặc có thể là 5 loại pháp sư; tức là 3 đời chư Phật vì chủng loại, vì sự thành thục, vì sự giải thoát. Người nầy cùng với vị lai chư Phật được giải thoát. Cho nên nói là giống với hạnh của Phổ Hiền. Người nầy đã đối trước Phật trồng được việc lành; cho nên nói là trồng sâu căn lành. Người nầy vì chỗ Phật mà hiện ra thuần thục. Cho nên nói là Thủ Ma Kỳ Đầu.
Năm là chỉ cho quả gần. Hằng hay biên chép, gần cõi Đạo Lợi. Đầy đủ 5 pháp sư. Kế đến là tại Đẩu Suất, như câu văn.
Sáu là tổng kết. Cho nên kẻ trí ở phía dưới đây.
Từ „Thế Tôn! Con nay dùng thần lực“ trở đi. Đây là phần thứ 2 thệ nguyện hộ pháp. Như câu văn. Phần thứ 3 thuật lại việc phát nguyện; tức là Như Lai đưa ra phần thắng thuật, thành sự yếu kém nầy. Tăng tiến thực hành tức là dũng mãnh cương quyết hằng truyền tuyên nói.
Trước tiên thuật về việc hộ pháp. Nói rằng: Ngươi hay như vậy, bên ngoài thì nhiều lợi ích; bên trong lại tích chứa lòng từ bi. Lại từ các kiếp lâu xa đến nay làm việc hộ trì như vậy. Ta lại dùng thần lực Phật để gìn giữ pháp nầy. Hãy chỉ là ngươi. Như câu văn.
Từ „nếu có ngươi“ trở đi. Thuật lại người hộ pháp nầy. Tuy chẳng lần lượt tường thuật lại thành ý đầy đủ, sẽ rõ người nầy tức là gặp được Đức Thích Ca Mâu Ni Phật. Thuật điều nầy chỉ cho thân dạy pháp. Điều nầy chính là thấy ta vạn đức quả nơi thân. Huống chi là ngươi ở trong cái nhơn của voi trắng 6 ngà ấy. Điều nầy chính là từ miệng Phật, nghe kinh đầy đủ. Huống hồ là ngươi, chỗ dạy quên mất chương cú, mà còn được Phật dùng miệng để tán thán, tay xoa đầu, dùng y Phật để trùm lên. Huống hồ là ngươi với cái nhơn là người ấy được bao phủ bởi Đà La Ni.
Từ „chẳng tham trước đời vui“ trở đi, thuật lại việc nầy rồi đưa ra nguyên nhơn. Rộng đưa ra trong nhơn ấy không phải là những điều ác. Thiểu dục tri túc, tu Phổ Hiền hạnh, thuật lại nguyên nhơn thắng diệu kia.
Từ „Nếu sau khi Đức Như Lai diệt độ“ trở đi, thuật lại điều nầy đưa ra quả gần. Người nầy sẽ đến nơi Đạo Tràng và tất nhiên sẽ thành chánh quả về sau nầy. Hà huống là quả gần sao?
Lại nữa đối với hiện đời được gần quả nầy, chẳng hằng được sanh thiên.
Từ „Nếu có người khinh chê, hủy báng“ trở đi; thuật lại điều nầy hay đẩy việc khó ra bên ngoài. Phật rộng chỉ bày tội của người hủy báng. Làm cho rõ biết việc sai quấy kia, tất nhiên cải đổi, chẳng phải não phiền loạn. Chẳng hay trì kinh thì khó mất. Lại với kẻ muốn hủy báng lại phước sanh. Không hủy, không nạn, kẻ kia đối với việc nầy an lạc. Rộng độ với lòng từ bi không thiên vị.
Từ „Xa xa đứng lên nghinh đón, giống như kính Phật“ là thuật lại kết luận về lòng tin nầy là công đức.
Phần thứ 4 từ „nói như vậy“ trở đi là câu văn phát nguyện lợi ích. Một là nghe phẩm nầy được lợi ích. Từ Đà La Ni nầy là ở vị Sơ Địa. Đầy đủ con đường của Phổ Hiền là thập địa. Hai là nghe kinh được lợi ích. Đại chúng hoan hỷ là điều nầy. Hoan hỷ như trước đã nói.
Trong việc nầy vì sao dụ ấy gọi là Thanh Văn. Cho đến các nhà chú giải kinh điển cũng còn tồn tại ở bản vị nầy? Lại nữa các nhà giải kinh gọi đây là Đại Thừa Thanh Văn. Dùng Phật đạo để nghe và làm cho tất cả đều nghe. Lại nữa các nhà giải thích kinh gọi điều nầy là Đại Thừa Thanh Văn dùng việc nghe Phật đạo, làm cho tất cả đều nghe. Nghĩa nầy lại được hiểu vậy.
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú
Hết quyển thứ 10 (phần sau)

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 10 quyển »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Thiếu Thất lục môn


Kinh Đại Bát Niết-bàn


Các vị đại sư tái sinh Tây Tạng


Đừng đánh mất tình yêu

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.





Quý vị đang truy cập từ IP 3.128.94.171 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập