Dầu nói ra ngàn câu nhưng không lợi ích gì, tốt hơn nói một câu có nghĩa, nghe xong tâm ý được an tịnh vui thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 101)
Người ta trói buộc với vợ con, nhà cửa còn hơn cả sự giam cầm nơi lao ngục. Lao ngục còn có hạn kỳ được thả ra, vợ con chẳng thể có lấy một chốc lát xa lìa.Kinh Bốn mươi hai chương
Kẻ hung dữ hại người cũng như ngửa mặt lên trời mà phun nước bọt. Nước bọt ấy chẳng lên đến trời, lại rơi xuống chính mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Nhà lợp không kín ắt bị mưa dột. Tâm không thường tu tập ắt bị tham dục xâm chiếm.Kinh Pháp cú (Kệ số 13)
Con tôi, tài sản tôi; người ngu sinh ưu não. Tự ta ta không có, con đâu tài sản đâu?Kinh Pháp Cú (Kệ số 62)
Xưa, vị lai, và nay, đâu có sự kiện này: Người hoàn toàn bị chê,người trọn vẹn được khen.Kinh Pháp cú (Kệ số 228)
Không trên trời, giữa biển, không lánh vào động núi, không chỗ nào trên đời, trốn được quả ác nghiệp.Kinh Pháp cú (Kệ số 127)
Người ta vì ái dục sinh ra lo nghĩ; vì lo nghĩ sinh ra sợ sệt. Nếu lìa khỏi ái dục thì còn chi phải lo, còn chi phải sợ?Kinh Bốn mươi hai chương
Hương hoa thơm chỉ bay theo chiều gió, tiếng thơm người hiền lan tỏa khắp nơi nơi.
Kinh Pháp cú (Kệ số 54)
Ai sống một trăm năm, lười nhác không tinh tấn, tốt hơn sống một ngày, tinh tấn tận sức mình.Kinh Pháp cú (Kệ số 112)
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
Từ „dần dần đầy đủ Bồ Tát“ trở đi; phần thứ 2
thọ ký, câu văn ấy chia làm bảy. Một là làm sáng tỏ nguyên nhơn đầy đủ. Hai là trải qua vô lượng, làm sáng tỏ cái quả viên mãn. Ba là làm sáng tỏ quốc độ rộng lớn sạch sẽ. Bốn là làm sáng tỏ kiếp số và tên nước. Năm là làm sáng tỏ Phật thọ lượng. Sáu là làm sáng tỏ pháp trụ lâu dài. Bảy là làm sáng tỏ sau khi Phật diệt, cúng dường xá lợi.
Phần thứ ba nói về đất nước rộng rãi sạch sẽ lại có
5.
Một là nói rõ đất nước ấy to lớn nghiêm tịnh. Đất bằng như bàn tay. Kinh nói thẳng là như bàn tay chứ chẳng nói như cánh tay. Cánh tay không bằng phẳng cho nên chẳng lấy đó làm chỗ dẫn chứng. Ở dưới đáy biển có một loại đá tên là Chưởng. Đá nầy chẳng có một mảy may nào chẳng bằng phẳng; nên gọi loại nầy là như lòng bàn tay của biển cả. Lại nữa trong kinh về Hiền Kiếp chính thức nói sáng tỏ như bàn tay của Phật; chẳng lấy bàn tay người để dẫn dụ.
Hai là làm sáng tỏ sự thuần khiết toàn là con đường lành.
Ba là làm sáng tỏ phước huệ trời, người đầy đủ. Nguyệt Tạng phần thứ 9 nói về pháp thực, hỷ thực và thiền thực. Trong văn của kinh nói tổng quát là pháp hỷ thiền duyệt. Biệt giáo chia ra có 3 loại khác nhau.
Bốn là làm rõ chỗ Bồ Tát, Thanh Văn số đông rất nhiều.
Năm là tổng kết. Nguyên Tạng thứ 5 nói rằng:
Chẳng sát sanh có 10 công đức. Một là đối với tất cả chúng sanh được vô sở úy. Cho đến thứ 10, sau khi mệnh chung sẽ sanh vào đường lành và tiếp đến sẽ làm Phật. Trong nước không có đánh nhau; người trong nước ấy sống lâu.
Chẳng trộm cướp lại có 10 công đức. Một là quả báo đầy đủ to lớn, vì công việc quyết đoán, chẳng có khó khăn trở ngại. Cho đến thứ 10, sau khi chết sanh vào đường lành và kế đó làm Phật. Hoa quý trang nghiêm đầy khắp cả nước.
Chẳng dâm lại có 10 công đức. Một là các căn luật nghi vì công việc mà quyết đoán. Cho đến sau khi chết sanh vào đường lành, sau đó làm Phật, trong nước không có người nữ.
Chẳng nói dối có 10 công đức. Một là chúng sanh tin tưởng vào lời nói nầy; cho đến sau khi chết, sanh vào đường lành, sau đó làm Phật; trong nước không có mùi hôi, thường đầy dẫy các bông hoa quý.
Chẳng nói hai lưỡi có 10 công đức. Một là thân chẳng thể hoại; cho đến sau khi chết, sanh vào đường lành, sau đó làm Phật; trong nước ma chẳng thể làm hại những người thân.
Chẳng nói lời hung ác có 10 công đức. Một là lời nói mềm mại; cho đến sau khi chết, sanh vào con đường lành, sau đó làm Phật và cả nước tiếng Pháp có khắp nơi.
Chẳng ỷ ngữ lại có 10 công đức. Một là trời người ái kính; cho đến sau khi chết, sanh vào đường lành. Làm Phật và chúng sanh trong nước ấy nhớ rõ chẳng quên.
Chẳng tham lại có 10 công đức. Một là thân căn chẳng khuyết. Cho đến khi chết, sanh vào đường lành; sau đó làm Phật; nước ấy chẳng có ma ngoại đạo.
Chẳng sân có 10 công đức. Một là xa lìa tất cả những sự sân hận; cho đến sau khi chết sanh vào con đường lành; sau đó làm Phật và người trong nước ấy được Tam Muội.
Chẳng tà kiến có 10 công đức. Một là tâm tánh mềm, lành; cho đến sau khi chết sanh vào con đường lành; làm Phật và người ở nước ấy có lòng tin chân chánh.
Câu kệ có 21 hàng rưỡi; tụng về phần bên trên về Phát Tích và Thọ Ký. 14 hàng đầu tụng về Phát Tích. Kế tiếp 17 hàng rưỡi tụng về việc Thọ Ký. Đầu tiên ấy lại chia làm 2. Bảy hàng trước tổng phát về các Tích của Thanh Văn. Tụng bên trên về cái ý của chúng ta. Bảy hàng sau đó, tụng bên trên về phát mãn nguyện Tích.
Tổng cộng trong ấy có 5. Hàng đầu tiên nói về Phật Tử vì việc làm khó hiểu và được pháp Thùy Tích rồi. Kế đến „rõ biết chúng vui pháp nhỏ“ trở đi; phần thứ 2 có một hàng làm rõ lý do của Thùy Tích. Kế đến „dùng vô số phương tiện“ trở đi; phần thứ 3 có hai hàng làm sáng tỏ sự lợi ích của Thùy Tích. Kế tiếp „trong bí mật“ trở đi; phần thứ 4 có 2 hàng; nói rõ về bên trong thì mong mỏi đạo lớn và bên ngoài hiện ra việc nhỏ.
Kế đến từ „nếu ta đầy đủ“ trở đi; phần thứ 5 có một hàng chỉ lược bớt và giảm nói rộng. Tiểu dục ấy là chỉ cho việc muốn cầu Tiểu Thừa. Giải đãi chỉ cho sự thối lui Đại Thừa. Không hay chỉ ra đấy là Thanh Văn, lại tạo tác với ngoại đạo cùng với Phàm phu tam độc. Thân tử ở đây chỉ cho sân; Nan Đà chỉ cho tham; Điều Đạt chỉ chi si v.v...
„Nay ở đây giàu có“ trở đi; phần thứ 2 có bảy hàng. Tụng về phát mãn nguyện Tích Bản. Câu văn trên lại có
3. Nay lược lại tụng chỉ có 2. Năm hàng đầu tụng về việc hiển Bản trong quá khứ. Từ „sau đời vị lai cũng lại cúng dường „ trở đi; phần thứ 2 gồm hai hàng; tụng về 3 thời chư Phật, chỗ nhơn duyên tu hành. Lược bớt không tụng về 7 vị Phật và Phật hiện tại. Từ „cúng dường các Đức Như Lai“ trở đi; gồm 7 hàng rưỡi tụng về việc Thọ Ký. Câu văn trên lại chia ra làm 7. Nay tụng phần thứ 4. Nửa hàng đầu tụng về nhơn đã tròn; nửa hàng kế tụng về quả đã mãn. Từ „nước tên là Tịnh“ trở đi có 3 câu. Qua khỏi đó tụng về tên hiệu của nước và số kiếp. „Bồ Tát chúng thật nhiều“ trở đi gồm 5 hàng 3 câu. Tụng về quốc độ rộng sạch. Lược bớt chẳng tụng về thọ mạng; sau khi pháp trụ diệt rồi thì dựng tháp. Phần thứ 2 thọ ký cho 1.200 vị. Một là nhớ thưa thỉnh; hai là cùng thọ ký và 3 lành lãnh nhận rõ biết. Thỉnh thọ ký như câu văn. Câu văn thọ ký có tụng kệ Trường Hàng. Trường Hàng lại có
3. Một là hứa thọ ký tổng cộng cho 1.200 vị. Hai là thọ ký riêng biệt cho Trần Như. Trần Như ngộ đạo đầu tiên. Đứng đầu các bậc Thượng Tọa; nên thọ ký riêng biệt. Ba là thọ ký riêng biệt cho 500 vị. 500 vị ấy cùng tên và đều được thọ ký riêng biệt.
Hỏi: Thấy được việc thọ ký cho 500 vị; nhưng chẳng thấy 1.200 vị ?
Đáp: 500 vị nầy tức là trong số 1.200 vị ấy. Trong phần tụng sau cùng có 1 hàng rưỡi nói tổng cộng thọ ký cho 700 vị nữa; cho nên thành 1.200 vị.
Lại nữa ở phẩm Trì nói rằng: „Ta đầu tiên tổng thọ ký cho tất cả các vị Thanh Văn và đã được thọ ký rồi“. Tức là để chỉ cho 1 hàng rưỡi nầy; Chứ chẳng phải là không thọ ký cho 700 vị Thanh Văn nầy.
Kệ tụng có 11 hàng và chia ra làm hai. Chín hàng rưỡi đầu tụng về việc thọ ký cho Kiều Trần Như và cùng với 500 vị khác. Sau cùng 1 hàng rưỡi, tổng quát nói về việc thọ ký cho tất cả Thanh Văn.
500 vị ấy lãnh nhận, câu văn có Trường Hàng kệ tụng. Trường Hàng nói về việc đầu tiên trải qua trong gia đình và hoan hỷ việc nầy. Kế đến tự nói lại việc lãnh nhận. Trải qua ở nhà, trước tiên là vui mừng và nay được nhận lãnh nên hoan hỷ. Kế đến là hổ thẹn vì ngày xưa chẳng hiểu được; cho nên tự trách. Trong việc vui mừng ấy trước tiên làm rõ nội tâm vui mừng. Sau đó làm sáng tỏ phía bên ngoài thì cung kính. Hối quá và tự trách tức là làm sáng tỏ chuyện xấu hổ nầy vì ngày xưa chẳng hiểu rõ.
Từ „Thế Tôn chúng con“ trở đi; phần thứ 2 là tự trần việc lãnh hội có 2. Một là nói pháp, nói 2 thí dụ. Trong việc thuyết pháp ấy đầu tiên là hối quá việc được ít mà cho là đủ. Kế đến là tự trách căn cơ độn lụt nên khó tỏ ngộ. Từ „Thế Tôn cho đến khi diệt độ“ là hối trách vì ngày xưa mê lầm, được ít cho là đủ, chẳng rõ biết việc cầu chuyện lớn.
Từ „nay lại mới rõ“ là tự trách căn cơ chậm lụt, bắt đầu tỏ ngộ và chẳng rõ biết sớm hơn. Nay đã biết rằng việc nhỏ chẳng phải là cứu cánh, việc lớn mới là chơn thật. Trong thí dụ thứ 2. Ban đầu lược bớt; kế đến là chính thức đưa ra thí dụ. Như kẻ vô trí là lược đưa ra thí dụ tình huống như vậy.
Từ „vì sao vậy“ trở đi là giải thích cái ý của chữ vô trí. Nói thí dụ ấy có 2. Một là dụ cho việc say rượu. Dụ nói pháp tự trách khi được nhỏ cho rằng đủ, chẳng rõ biết để cầu việc lớn. Trước khi lãnh nhận pháp ấy, dụ về đời trước về cái ý của thí quyền. Hai là thí dụ về những người thân quen được giác ngộ. Dụ thuyết pháp tự trách căn độn; nên khó tỏ ngộ; nay đã được tỏ rõ. Trước khi thọ lãnh, pháp ấy dụ cho đời trước về sự hiển thật. Tựu chung phần đầu ấy lại có 3 ý. Một là thí dụ cho việc nhiều châu báu. Lãnh nhận rồi kết duyên với các vị Vương Tử. Hai là dụ say nằm chẳng tỉnh. Lãnh rồi gặp điều nầy nên thối lui việc lớn. Ba là thí dụ khi tỉnh dậy liền đi du hành. Lãnh nhận bên trên là tiếp nhận việc nhỏ. Dụ như có người tức là người theo Nhị Thừa.
Thân hữu ở đây là lúc xưa có 16 vị Vương Tử vậy. Nhà ở đây có nghĩa là nhà của Đại Thừa. Say rượu rồi nằm nghĩa là lúc ấy cơ duyên lớn chưa phát, bị vô minh chế ngự. Khi được nghe kinh rồi thì nội tâm mới hiểu rõ. Do vì vô minh chồng chất cho nên trở lại mê mờ. Say ở đây có hai nghĩa. Một là say bất tỉnh, chẳng rõ biết gì cả. Hai là say nhẹ, cái rõ biết nhỏ nhiệm tìm cách quên đi; lại có tên là bất giác. Tuy có 2 nghĩa nhưng chung quy trở thành châu báu nhiều thì như loài độc hại. Quan sự đương làm nghĩa là làm rõ chỗ Vương Tử; ngoài chỗ ấy ra cùng với cơ duyên đi đến; cho nên nói là đương hành. Hoằng pháp độ người khác; việc này chẳng phải là nhiệm vụ riêng tư. Cho nên nói là việc quan.
Vô giá bảo châu nghĩa là Nhứt Thừa thật tướng chơn như, rõ biết là quý giá. Nhiều y áo nghĩa là tàm quý nhẫn nhục hay che đậy sân si và phòng ác bên ngoài; tức là áo bề ngoài. Tâm tin tưởng vui vẻ, phía bên trong gồm các căn lành; tức là áo che bên trong. Lúc ấy nghe pháp, tin tưởng vui ưa; tức là rõ biết nguyên nhơn, trí nguyện chủng tử vậy.
Phần thứ hai người say chẳng rõ biết là tâm vô minh che đậy, lại chẳng hồi tưởng được. Trong sự lãnh hội nầy là do giải đãi thối lui, chẳng thọ nhận pháp lớn vậy. Phần thứ 3 tỉnh dậy đi đến nước khác. Khoảng giữa sự nhận lãnh bên trên ấy là tiếp nhận việc nhỏ Tam Thừa hóa vậy. Kẻ căn lành muốn phát triển thì phải ẩn khổ cầu vui. Cho nên nói rằng: Tỉnh dậy rồi đi. Vô minh che khuất sự hiểu biết, chẳng rõ hướng gốc, để đi tìm cầu sự ăn mặc nơi Đại Thừa. Cho nên nói rằng: Hướng về nước kia để tìm cầu sự ăn mặc nơi Tiểu Thừa. Nếu vọng tưởng giữa ma và Phật thì sanh tử là cảnh giới ma ở nước kia. Phật pháp lớn nhỏ đều là ở nước nầy. Nói chung việc vọng tưởng nơi Tiểu Đại có nghĩa là: Tiểu Thừa chưa lìa hết sanh tử; giống như ở nước kia. Đại Thừa quyết rời xa sanh tử và lại là ở chốn nầy. Cứu cánh trở lại cái gốc. Ở đây làm sáng tỏ chỗ từ nơi nước Đại Thừa và qua nơi nước Tiểu Thừa, chẳng biết rằng trong mình có châu báu đã nhặt được mà dong ruỗi đi làm thuê để đổi lấy miếng ăn trong một ngày. Được ít cho là đủ.
Rồi „sau đó gặp gỡ“ trở đi; phần thứ 2 dụ cho việc người quen phát nguyện giác ngộ. Lãnh nhận việc bên trên là dùng đến nhân duyên căn bản nầy; nay lại nói Pháp Hoa cùng cho xe lớn. Đây lại chia ra làm 3. Trước là Ha Trách; hai là chỉ cho châu báu và ba là khuyến khích. Ha Trách như thí dụ bên trên là động chấp sanh nghi. Dụ về việc chỉ cho châu báu là nhơn duyên của đời trước. Dụ về khuyến mậu là được thọ ký làm Phật. Ba lần đều có 3 ý nghĩa. Trong pháp thuyết ấy ta làm cho thoát khỏi khổ ràng buộc. Tức là Ha Trách. Chương về 5 vị Phật, tức là khai thị. Thân Tử được thọ ký tức là khuyến mậu. Trong thí dụ ấy nói: Ta trước tiên chẳng nói tất cả đều là Bồ Đề; tức là Ha Trách. Ba xe một xe tức là chỉ cho châu báu. Trung căn được thọ ký; tức là khuyến mậu. Hạ căn đời trước có nhân duyên, các ngươi lành nghe; tức là Ha Trách. Che đậy, giảng nói việc kết duyên, rồi trở lại nói Đại; tức là chỉ cho châu báu. Hạ Căn được thọ ký tức là khuyến mậu. Giàu có của báu trong ý ấy vọng có 3 điều. Đầu tiên là ở dưới gốc cây Đức Phật dùng lớn mà ví tức là nhiều châu báu vậy. Vô cơ tức hóa nghĩa là người say. Tìm thí dụ phương tiện tức là ngồi dậy ra đi. Trong thí dụ có 2 vạn ức chỗ Phật tức ý nói giàu có của cải. Khi người bên cạnh tìm đuổi theo thì cự tuyệt chẳng chịu nhận; tức là kẻ say sưa nầy. Ba xe dẫn đắc tức là trổi dậy để đi. Trong nhân duyên ấy ở nơi Đức Phật Đại Thông Trí Thắng tức là nhiều châu báu. Trong lộ trình giải đãi thối lui ấy là người say rượu nầy. Tiếp nhận việc nhỏ tức là bỏ đi nơi khác. Những điều nầy gọi là lãnh nhận quyền. Ngày, tháng, năm ấy là chỉ cho nơi Đức Phật Đại Thông.
Từ „Phật lại như vậy“ trở đi; phần thứ 2 thí dụ về việc gặp nhau. Dụ căn bản nầy có 2. Nay mỗi mỗi có 3 ý. Từ „giáo hóa chúng ta“; đầu tiên là gặp nhiều châu báu, mà quên hẳn đi; gặp lần thứ 2 lại say sưa chẳng rõ biết điều gì cả. Từ „liền được La Hán“ trở đi; gặp lần thứ 3 thì bỏ đi nơi khác. Từ „tất cà trí nguyện“ trở đi; sau khi gặp người bạn, biết rõ sự chỉ bày qua thí dụ. Bên trên có 3 và nay lại cũng 3. Từ „trí nguyện chẳng mất“ trở đi; đây là gặp lần sau và có một Ha Trách. Từ „Tu từ lâu đã làm cho ngươi“ trở đi, gặp nhau sau đó lần thứ 2 chỉ cho châu báu. Từ „ta nay cũng rõ“ trở đi, gặp lần thứ 3 khuyến mậu sở tu.
Phần thứ 2 kệ tụng có 12 hàng rưỡi, chia làm 2. Một hàng rưỡi đầu tụng về bên trong tâm được hiểu rõ, lại có 2. Một hàng đầu tụng về sự vui mừng. Kế đến nửa hàng tụng về sự hối trách. Kế tiếp „ở nơi vô lượng Phật bảo“ trở đi, phần thứ 2 có 11 hàng; tụng về việc tự trần lãnh giải. Câu văn trên lại có 2. Nay nửa hàng đầu tụng về việc hối trách việc được ít mà cho là đủ. Lược chẳng tụng phần khó ngộ; nay thì đã rõ. „Như rất nhiều người ngu“ có nửa hàng; tụng lược và đưa thí dụ. Liền tự lấy đó mà cho là đủ. Tụng giải thích về cái ý của vô trí. Kế tiếp 10 hàng tụng thí dụ nói khai mở việc gặp nhau. Sáu hàng đầu tiên tụng khai. Bốn hàng sau tụng về việc gặp nhau. Bên trên khai lại có 2. Nay 4 hàng đầu tụng về xả bỏ của báu mà chẳng rõ. Hai hàng sau tụng về việc bạn bè chỉ cho biết. Ngoài ra câu văn dễ hiểu. Giải thích phẩm Thọ Học Vô Học nhơn ký
Nghiên chơn đoạn hoặc được gọi là Học; chơn
cùng hoặc tận gọi là Vô Học. Nghiên tu chơn lý, mộ cầu thắng kiến thì gọi đây là học. Học ở tại 3 quả, 4 hướng chơn vô lậu huệ. A La Hán quả. Nghiên lý đến cùng rồi, thắng kiến đến cực rồi; chẳng có chỗ nào để học nữa, cho nên gọi là Vô Học. Ước giáo giải thích phẩm nầy rằng. Bẻ gãy pháp, nghiên chơn thì gọi đây là học. Hoặc tận, chơn cùng gọi đây là Vô Học. Ý của trong Tam Tạng là: Thể, pháp nghiên chơn gọi đây là học. Vô chơn, vô hoặc gọi đây là vô học. Theo Thông (giáo) thì ý rằng: Tự thấy thấp trong sâu xa là học. Thông biệt hoặc tận, quyền thật lý cùng gọi đây là vô học. Đây là ý của Biệt giáo. Nghiên Như Lai tạng hữu học vô học. Pháp tánh thật tướng phi học, phi vô học, mà học, mà vô học v.v...
Đây là 2.000 người. Hoặc là người học, hoặc là người vô học. Cùng trong một lúc và thọ ký cùng một tên; cho nên riêng biệt làm một phẩm nầy vậy. Phẩm nầy là phẩm Thọ Ký. Trong câu văn ấy có 2 đoạn. Tựu chung câu văn nầy chia làm 2. Một là thỉnh cầu ghi nhận và hai là Thọ Ký. Trong việc thỉnh cầu ấy lại có 2. Một là 2 người thỉnh; hai là 2.000 người thỉnh. Hai người thỉnh cầu ghi nhận lại có 2. Một là yên lặng; hai là phát ngôn thỉnh cầu. Phát ngôn thỉnh cầu lại có 2. Một là dẫn thí dụ, lại nên có phần; hai là dẫn thí dụ ước mong. Hai người quá thân thiết ở trong chúng yêu cầu. La Vân (La Hầu La) là con Phật; ở đời là gần gũi nhất. A Nan là giữ gìn Pháp tạng của Phật; ở trong đạo là gần gũi tối ưu nhất. Ưu tiên cho 2 người nầy chẳng mong có biệt ký. Tức là mọi người đang mong chờ chẳng đủ vậy.
Hỏi: Nếu quý, nếu hơn hẳn thì có phải là bậc thượng lưu chăng? Ý gì ở vấn đề nầy. Nếu như thí dụ thì trong chúng 2 người ấy ở vào thượng thặng nên mới thưa thỉnh. Như vậy là nằm ở ý gì ?
Đáp: Tổng cộng có 1.200 việc ghi nhận, mà 2 người lại ở bậc thượng lưu. Nay lại được thưa thỉnh riêng. A Nan là người có học. La Vân là đệ tử; cho nên nhập chuyện có học và vô học vào một chương. Còn 2.000 người thỉnh cầu để được thọ ký lại có sự mặc nhiên dẫn theo thí dụ. Hai là ý giống nhau; cho nên nói như sự mong mỏi của A Nan vậy.
Không nói ra lời là không quan trọng, không đặc biệt vậy. Việc thọ ký lại có 2. Một là ký trước cho 2 người và sau đó mới nhận lời thọ ký cho 2.000 người. Việc thọ ký cho A Nan cũng có 5. Một là Trường Hàng; hai là kệ tụng; ba là 8.000 Bồ Tát sanh nghi; bốn là Như Lai phát Tích giải thích việc nghi kia; năm là A Nan hiển bản, thuật lại ca ngợi tán thán. Nghi ngờ ấy là Thông (giáo) nghi Thanh Văn ngày nay mới phát tâm; tức là mong Phật thọ ký cho nước sạch như điều nầy. Xưa kia thời Phương Đẳng thọ ký cho các Bồ Tát. Trải qua vô lượng kiếp cho đến khi được Phật thọ ký. Phật liền phát Tích giải thích điều nghi. „Xưa nay cùng với ta giống nhau khi phát tâm đại bi“ tức là đồng học. Do ta tinh tấn nên được thành Phật trước. Còn do các ông đa văn giống như giữ gìn kinh điển. Tích là gần gũi, bản địa như thế nầy. Nay thọ nhận được sự thọ ký vi diệu nầy có lý do gì để nghi ? Ngoài ra việc thọ ký như câu văn. Giải thích phẩm Pháp Sư
Phẩm nầy có 5 loại Pháp Sư. Một là thọ trì; hai
là đọc; ba là tụng; bốn là giải nói và năm là biên chép. Trong Đại Luận ghi rõ có 6 loại Pháp Sư. Do tín lực nên thọ; niệm lực cho nên trì; xem câu văn cho nên đọc; chẳng quên cho nên tụng; tuyên truyền cho nên nói; kinh văn của bậc Thánh khó giải đều giải thích. Sáu loại Pháp Sư ấy nay kinh gộp lại thọ trì làm một; cùng với lý giải và nói làm một. Khai cho đọc và tụng làm
2. Về biên chép ấy lại có 5. Biệt luận 4 người là tự hành và một người là hóa tha. Đại Kinh phân ra chín phẩm. Trước 4 người không rõ là ở cương vị đệ tử. Sau đó 5 người có hiểu biết là vị trí của bậc Thầy. Thông (giáo) luận rằng: Nếu tự thực hành chỉ 5 pháp. Tức là tự hành Pháp Sư. Nếu dạy cho kẻ khác cũng 5 pháp. Tức là hóa tha pháp sư. Tự thực hành cho nên Thông (giáo) gọi là Đệ Tử. Hóa tha cho nên Thông (giáo) xưng là Pháp Sư. Nay từ nghĩa của Thông (giáo); cho nên gọi là phẩm Pháp Sư.
Nếu nói số giảm lại thì 5 ấy còn lại 4; tức là 4 an lạc hạnh. Như sau nói 4 ấy còn 3. Thọ trì là ý nghiệp; đọc, tụng, nói là khẩu nghiệp; biên chép là thân nghiệp. Biệt (giáo) cho rằng: Khẩu nghiệp là hóa tha. Thân, ý là tự hành. Thông (giáo) thì cho rằng: 3 nghiệp là tự thành; tức là tự hành Pháp Sư. Ba nghiệp dạy bảo chỉ bày tức là hóa tha Pháp Sư; cho nên nói là phẩm Pháp Sư. Lại là 3 cửa thực hành 5 pháp nầy, dùng sự tự huân tu; tức là phước huệ môn, hoằng tuyên 5 pháp. Lợi ích rộng rãi nghĩa là hóa tha môn. Tư tu lợi ích cho kia đều thuận theo lời Phật dạy; tức là báo ân môn. Biệt (giáo) giải thích rằng: Tự tu báo ân gọi là tự hành; ích lợi cho kia; nên gọi là hóa tha. Thông (giáo) cho rằng: Tự quỷ quỷ tha, đều gọi là Pháp Sư. Cho nên nói là phẩm Pháp Sư. Lại nữa, đọc, tụng, thơ tả là ngoại hành; tức là chiếc áo của Như Lai. Thọ trì là nội hành; tức là chỗ ngồi của Như Lai; giải thích, nói sự lợi ích cho người khác là phòng ở của Như Lai. Phòng ở của Như Lai theo Biệt (giáo) cho rằng tượng tha (người thợ làm cho kia). Thông (giáo) thì chẳng như vậy. Lòng từ bi che khắp các nơi vậy, trí huệ lợi ích trở về mình thì gọi đây là như thất (như căn phòng). Ngăn ngừa ác kia chướng nầy thì gọi là áo. An tâm nầy nơi không thì mới có thể an nơi kia. An nơi kia, an chỗ nầy nên gọi là chỗ ngồi. Đây tức là tự quỷ tam pháp, lại gọi là Pháp Sư. Lợi vật tất dùng từ bi để vào phòng, lấy đó làm đầu.
Kế tiếp lấy nhẫn nhục làm cơ bản; giúp cho người khác là lấy sự quên mình làm căn bản. Hay hành 3 pháp, đại giáo tuyên thông tức là nơi thế gian nương vào; cho nên gọi là Pháp Sư. Ở đây lại chia làm 2. Nghĩa là tự hành hóa tha. Điều dễ hiểu nầy chẳng ghi lần nữa. Lại chia ra làm một. Nghĩa là Như Lai thực hành đầy đủ tất cả hạnh. Lòng bi mẫn là đánh bạt tất cả những sự khổ. Nghĩa là Tứ Thú, 3 cõi, Nhị Thừa Bồ Tát cùng với các sự khổ. Từ tức là cùng với tất cả niềm vui. Nghĩa là người, trời, Niết Bàn thường trụ hay vui. Y áo nhu hòa làm chướng ngại tất cả việc xấu xa. Nghĩa là tứ trụ, vô trí, vô sanh sánh với sự xấu xa. Chỗ ngồi không, quên hết tất cả tướng. Nghĩa là hữu tướng, vô tướng, phi hữu tướng, phi vô tướng. Đây tức là ý của Thông (giáo).
Ý của Biệt (giáo) là từ bi sanh ra tất cả những điều lành. Nhu hòa ngăn che tất cả các việc ác. Ngồi chỗ không là quét sạch tất cả tướng. Lại nữa từ bi là đứng trên tất cả phước đức. Chỗ ngồi không ấy trở thành tất cả trí tuệ. Trí tuệ là mắt; cho nên nói là ngũ nhãn. Phước huệ là chân; cho nên nói là lục độ. Lại nữa từ bi vượt hẳn khỏi Thanh Văn, Duyên Giác. Nhu hòa vượt hẳn trên tất cả phàm phu, ngoại đạo. Chỗ không ấy hơn tất cả sự chia chẻ từng phần với Bồ Tát. Cho nên Tịnh Danh (Duy Ma Cật) nói rằng: Dụ như vượt lên trên oán thì là sự dũng mãnh. Lại nữa từ bi phá thiên ma. Nhu hòa phá ấm ma. Chỗ không ấy phá phiền não ma, tử ma.
Trong Đại Phẩm nói rằng: Hóa tất cả chúng sanh, quán tất cả không, ma chẳng thể có được v.v... Lại nữa từ bi cho nên hay được hỏi tới. Ngồi chỗ không cho nên hay đáp lại. Đầy đủ 2 việc trang nghiêm. Lại thêm quán không; cho nên hay hỏi. Từ nhẫn cho nên hay đáp. Từ nhẫn cho nên có thể trồng, có thể đứng, có thể nhờ. Không huệ cho nên hay làm sạch cỏ, hay phá bỏ, hay dẫn đường. Lại nữa từ bi cho nên cái gì là nơi ngăn cách ? Nhu hòa cho nên cái gì là nơi chướng ngại ? Chỗ không cho nên cái gì là tranh cãi ? Ra khỏi 3 chân lý cho nên gọi là thắng tràng. Bao hàm phổ nhiếp cho nên nói là Ma Ha Diễn (Đại Thừa). Những điều nầy Như Lai hành trì cho nên gọi là Tam Muội Vương.
Kinh nói rằng: Tất cả các pháp lành, từ ấy là căn bản. Nhẫn nhục là đạo thứ nhất; không có tướng nào cao hơn nữa. Nếu nói cho đầy đủ về việc thực hành thì nói không bao giờ hết cả v.v...
Hỏi: Vì sao Ước (giáo) tam pháp làm sáng tỏ Pháp Sư ?
Đáp: Việc nầy theo Vãng Luận thì tất nhiên đăng đường; sửa y phục, ngồi xuống chỗ ngồi. Ngay cả cho đến việc ngồi; cho nên Ước (giáo) nói là 3 vậy. Lại nữa sự và lý phải hợp nhau với luận cứ. Phàm còn mê hoặc thì chẳng ra khỏi 3 loại ấy. Một là, theo Ước (giáo) thì khổ quả sẽ khởi lên nghi hoặc; hai là, theo Ước (giáo) kết quả của nghiệp, khởi lên nghi hoặc. Ba là, theo Ước (giáo) chân lý khởi lên hoặc. Cho nên dùng 3 môn mà dẫn đường vậy. Lại nữa theo Ước (giáo) do mê, chơn cho nên đọa vào chốn khổ. Do vậy dùng cánh cửa từ bi, mê tục cho nên đắm vào không ấy để thọ những niềm vui. Do vậy dùng cánh cửa hòa nhẫn. Trong sự mê mờ ấy làm cho tri chướng; cho nên dùng đến không môn v.v...
Pháp ấy là quy tắc. Thầy ấy là người dạy dỗ. Pháp tuy là quỷ thể (thể thức, quy tắc); nhưng tự nó chẳng thể làm thông đạt ở con người được. Năm loại người thông suốt kinh điển đều gọi là Thầy. Dùng pháp thành tựu mà tự mình thực hành; tất cả lấy đó làm diệu pháp nên gọi là Thầy. Thầy ấy đối với diệu pháp tự thực hành thành tựu; cho nên gọi là Pháp Sư.
Lại nữa có 5 loại người có thể dùng diệu pháp để huấn dục cho kẻ khác; cho nên đưa ra pháp mục sư. Gọi là phẩm Pháp Sư; nếu tự lấy pháp để làm quy tắc; hay lấy pháp ấy làm việc dạy dỗ cho người khác. Tất cả đều gọi là Pháp Sư. Tức là giải thích về phẩm nhân duyên vậy. Phàm cho nhiều loại giải thích. Tất cả theo Ước, Viên giáo pháp môn mà giải thích phẩm nầy vậy. Phía trước 3 lần đầy đủ đã nói về Tích Môn; chính thức nói về việc lãnh nhận việc thọ ký rồi. Bên dưới 5 phẩm nầy là Tích Môn lưu thông. Không phải chỉ là cái bóng che lợi ích một thời, mà lại muốn ảnh hưởng đến đời sau; cho nên có 5 phẩm lưu thông. Pháp Sư Bảo Tháp hai phẩm. Làm sáng tỏ chỗ hoằng hóa kinh điển là công đức sâu dày, phước thêm, lưu thông chưa nghe sự lợi ích thật là to lớn. Đạt Đa một phẩm dẫn chứng qua sự hoằng pháp kinh điển; người ấy và ta đều được lợi ích. Dùng chứng cớ công đức sâu xa ấy.
Ở phẩm Trì có 8 vạn Đại Sĩ nhẫn lực thành tựu; ở nơi quốc độ nầy hoằng truyền kinh điển. Người mới được thọ ký, qua bên đất kia để hoằng kinh. An Lạc Hạnh một phẩm. Xưa nói rằng: Tiếp thoái lưu thông; hoặc sẽ như điều nầy chưa hoàn được hoàn toàn. Ngoài ra phàm là tâm ban đầu thì vui mừng về thắng phước nầy. Thấy Thanh Văn sợ kiêng. Nghe Bồ Tát thì tủi nhục; quay lại mình thì lực yếu. Chẳng có ích lợi gì cho mình và kia, liền sanh tâm thối lui. Phật và người nầy mà nói An Lạc Hạnh.
Nương vào pháp để hoằng truyền, chẳng lo ngại vấn đề nguy khốn. Lại nữa phẩm Pháp Sư, Đức Thích Tôn tự nói về hoằng kinh công đức, mạng mạch lưu thông. Phẩm Bảo Tháp Đa Bảo phân thân. Vả chứng, vả trợ khuyên quán lưu thông. Phẩm Pháp Sư phần đầu là Trường Hàng kệ tụng. Tán thán cái đẹp của 5 loại Pháp Sư hay hộ trì người nghe pháp. Phần Trường Hàng sau, kệ tụng, tán thán điều đẹp đẽ nơi pháp được hành trì. Lại nữa phần chỉ rõ thông kinh phương quỷ, đầu tiên lại có 2. Một là con đường kia, đệ tử môn, công đức sâu dày. Hai là thọ Đạo Sư Môn, công thâm phước trọng. Đệ tử môn lại có hai. Một là Phật ở đời và Đệ Tử. Hai là chưa có Đệ Tử. Đầu tiên do nguyên nhơn Dược Vương hỏi 8 vạn ấy nghĩa là nguyên nhơn ghé vào nương tựa. Muốn dùng diệu pháp phải nương tựa vào Dược Vương, khiến cho lãnh thọ điều nầy và nói là 8 vạn. Tất cả lưu thông vậy. Chỉ cho người hỏi; nhưng việc thấy nầy chẳng có ai. Chính là người trì kinh được phước vậy.
Phật ở đời lại có 2. Một là từ „Bảo Dược Vương“ trở đi; nói đơn giản về việc xuất hiện của con người. Hai là từ „đối trước Đức Phật“ trở đi; nói giản lược về việc được nhơn duyên thọ ký. Khổ ấy đối với trước Phật sẽ làm căn cơ diệu ngộ. Đây là đa văn thâm giải của 2.500 người vậy. Tất cả đều đã hiện tiền cùng với tổng, biệt ký rồi.
Nay chỗ giản lược hoặc là 8 bộ; hoặc là 4 chúng 3 thừa. Đều là chỗ ngồi nơi Pháp Hoa. Kể cả ở trước Phật làm sáng tỏ thời tiết nầy, gặp Phật nơi chỗ ngồi. Một câu một kệ, nghe pháp thật ít; cho đến một niệm; thời tiết quá đủ. Tất cả cùng với những người thọ ký sẽ được giác ngộ. Làm sáng tỏ việc nghe cực ít nầy thì cực đủ tùy hỷ theo công đức mà được Phật quả. Hà huống là đầy đủ được nghe tận hình thọ trì. Năm loại lưu thông, ba nghiệp cúng dường v.v...
Nghe một câu, một kệ. Nghe ít, hiểu cạn mà nay tất cả đều được hứa thọ ký. Ít như vậy mà còn ký cho huống hồ là những người hiểu sâu và nhiều. Dùng ít cho đến nhiều để phổ cập rộng rãi cho việc nầy. Tất cả bên dưới đều như vậy thì bên trên và khoảng giữa cũng lại như thế. Có thể dùng ý nầy để rõ, chẳng đợi nói nữa.
Theo Kiến Thật Tam Muội thì biệt cùng với Tứ Thiên Vương ký cùng tên là Hỏa Trì. Trời cõi thứ 33 cùng tên là Nhơn Đà La Tràng Vương. Câu Dực đồng tên là Vô Trước. Diệm Thiên đồng tên là Tịnh Trí. Đẩu Suất đồng tên là Thích Pháp Vương. Hai cõi trời bên trên lại thông cùng với ký, chẳng hiển tên riêng. Phạm Thiên tên là Đại Trí Lực. Đây là những vị nghe nhiều, hiểu sâu. Nay đưa ra những vị nghe ít, hiểu cạn. Xưa nói rằng: Bích Chi Phật, Bồ Tát không thọ ký. Câu văn nầy Tam Thừa tất cả đều ký, chẳng đợi nghi.
Một câu, một kệ theo Tăng Nhứt Tập thì nói rằng: Tùy theo trong kinh, có câu kệ trọng yếu. Ví như nguồn mạch của Tứ Đế vậy. Thập Trụ Tỳ Bà Sa nói rằng: Ác tặc tên là Yểm Bất Cầu, gọi là Vô Dục. Tân vô cấu gọi là giải thoát. Xả Diêm gọi là Niết Bàn. Ác tặc nơi tập, chẳng cầu nơi khổ. Vô cấu là Đạo, Xả Diêm là Diệt. Lại nói: Lời Phật đầy đủ có 4 câu. Cho nên có Tứ Đế, Tứ Niệm Xứ v.v... Quán tam dùng mỗi một câu mà mỗi một kệ. Không câu, không kệ thì chẳng phải là một, v.v...
Nếu giữ Tích Môn thì trong ấy câu chính yếu là: khai, thị, ngộ, nhập. Thừa ấy là bảo thừa (xe tốt) đi đến bốn phương. Tứ An Lạc Hạnh khuyến phát tứ ý cùng với đây vậy. Nhứt niệm tùy hỷ là tự mình chưa có thực hành, hay tùy hỷ pháp và người. Công, báo thường nhiều, hà huống là đi đến. Tâm tùy hỷ có 2. Nếu nghe khai quyền hiển thật, tức là đối với trong một niệm. Giải sâu phi quyền, phi thật là cái lý tin vào Phật tri kiến. Lại cũng hay giải rõ cả đôi là quyền, thật sự lý viên dung. Tuy đầy tánh phiền não mà có thể rõ biết tạng bí mật của Như Lai. Điều nầy tức là dựng lên lập luận tùy hỷ. Lại nữa nếu nghe ý về khai, quyền, hiển, thật; tức là đối với một tâm giải rộng về tất cả tâm. Cùng tất cả pháp đều là Phật Pháp. Chẳng có chướng ngại. Nếu muốn phân biệt, biện thuyết vô cùng. Mặt trăng thì từ tháng tư đến hết năm hay thay đổi chẳng cùng. Tuy chưa được tâm tùy hỷ mà hay sanh sự hiểu biết như điều nầy. Pháp ấy cùng với người nầy lại cũng như thế. Điều nầy nói với Ước (giáo) là luận nói tùy hỷ theo chiều ngang. Tức là ngang mà dựng đứng; tức là đứng nhưng ngang. Cho nên Đại Kinh nói rằng: Thà nguyện làm việc nghe ít, hiểu nhiều, ý nghĩa đầy đủ là ở ý nầy. Sau sẽ nói thêm.
Từ „Bảo Dược Vương, lại nữa sau khi Như Lai diệt độ“ trở đi. Làm rõ chỗ Phật diệt và sau đó đệ tử lại có 2. Đầu tiên là cho ra khỏi các đệ tử, rồi lược cử nơi người. Ví dụ như trên có thể rõ. Kế đến nói: Ta cũng cùng ký cho. Công, báo như trước đã rõ.
Từ „Nếu lại có người“ trở đi; phần thứ 2 về Sư môn có Trường Hàng và kệ tụng. Trường Hàng lại có 2. Đầu tiên là biệt; sau đó là tổng. Biệt ấy là người nói bên dưới, bên trên. Thời gian nói là hiện tại, vị lai. Tổng ấy là chẳng luận dưới hay trên; cho đến hiện tại hay vị lai. Thông (giáo) chứng minh rằng: Nghịch thì bị tội và thuận thì được phước. Tựu chung biệt ấy lại có 2. Một là làm sáng tỏ hiện đời và hai là làm sáng tỏ đời sau. Tựu chung hiện đời lại có hai. Trước tiên là làm rõ hạ phẩm Sư. Sau đó làm rõ thượng phẩm Sư. Hạ phẩm Sư lại có
2. Đầu tiên làm rõ Sư tướng. Kế tiếp làm rõ Sư công, báo. Sư tướng nghĩa là 5 loại pháp sư 19 loại cúng dường. Kế tiếp „Dược Vương sẽ rõ đây là những người và đã gặp ta cúng dường“ trở đi. Làm rõ về hạ phẩm công, báo. Kẻ gặp cúng dường trước tiên là nguyên nhân sâu xa. Vì thương chúng sanh cho nên sanh về thế gian nầy. Làm rõ công đức hiện tại to lớn. Từ „nếu có người hỏi“ trở đi, làm rõ quả báo vị lai sâu dày. Từ „hà huống những người hay siêng thọ trì“ làm rõ những thượng phẩm Sư, lại có 2. Trước tiên là „Huống Xuất Thượng Phẩm Sư Tướng“. Kế đến là „Dược Vương nên rõ“. Người nầy tự xả bỏ nghiệp báo thanh tịnh. Điều nầy làm rõ thượng phẩm công đức và quả báo vậy.
„Nếu là thiện nam tử, sau khi ta diệt độ có thể ăn cắp vì một người“ trở đi – Làm rõ việc sau khi (Phật) diệt độ, Sư ấy lại có thượng, hạ. Hạ phẩm lại có 2. Đầu tiên gặp người hạ phẩm tức là dựng được ý nầy. Có huệ không Văn, dừng lại chỗ chiếm cứ ấy, nói chưa được đến các nơi. Cho nên đây là hạ phẩm Sư. Làm một người ăn cắp; nói một câu. Tuy được rõ một câu; nhưng chưa nghe rộng, học nhiều là nghĩa khác. Chẳng thể ở trong chúng mà nói. Tất cả những câu hỏi được đặt ra có chỗ chẳng thông. Liền làm cho giáo lý chánh pháp chẳng được loan truyền rộng ra. Như Thích Luận giải thích có huệ vô văn; giống như mưa nhỏ, không có sấm sét. Nếu muốn nói một câu chánh pháp nầy, vả lại sẽ nói như kẻ trộm. Nên biết rằng người nầy tức là sứ giả của Như Lai. Làm rõ công đức và quả báo nầy. Kinh đây là như trí để nói; nói ấy phải như lý. Ngày nay hành nhơn cầm bút như lời dạy tuyên dương nầy là như lý. Tức là sứ giả của Như Lai.
Hành Như Lai sự tức là như trí chiếu như lý làm sự. Ngày nay hành nhơn nương vào như lời dạy thực hành như giáo lý. Tức là hành Như Lai sự vậy. Một như trí, một như lý. Hóa độ chúng sanh là sự. Ngày nay hành nhơn hay có đặc bi; dùng kinh nầy với cái lý chơn như là vì chúng sanh nói, để cho được lợi ích. Lại có tên là hành Như Lai sự vậy.
Quán tâm giải thích về Như Lai sứ rằng: Dùng tâm trí để quán cảnh, cảnh ấy tức là chơn như. Cảnh lại phát trí. Trí vì như chỗ ấy mà sai sử. Như Lai có dạy rằng: Quán trí từ như ở giữa đến. Hành Như Lai sự nghĩa là: Trải qua tất cả các pháp, chẳng có pháp nào là chẳng phải chơn như, tức là Phật sự vậy. Từ „Hà huống ở trong Đại chúng“ trở đi là làm rõ con người thượng phẩm, lược bớt chẳng chính lượng, công, báo. Ý nầy có thể rõ.
Từ „Nếu có người ác“ trở đi; phần thứ 2 tổng làm rõ về 5 loại Pháp Sư. Nghịch lại là bị tội và thuận theo đó thì được phước vậy. Ở trong nầy tội phước chẳng luận; phước điền mỏng gầy; nên theo Ước (giáo) tâm ban đầu và sau cùng làm rõ chỗ nhẹ nặng nầy. Người mới phát tâm tu học có đầy dẫy phiền não. Nếu thêm chướng ngại thì chỗ học tất nhiên lười bỏ; cho nên nhận thêm nhiều tội. Phật tất bình đẳng, ác chẳng cần phước, há có thể chướng ngại sao. Cho nên nói rằng: Tội nhẹ cúng dường lại cũng như thế. Người nầy chờ đợi; nếu được cúng dường thì việc tu sẽ thành; cho nên việc thí ấy là phước lớn. Phật tức chẳng chờ các việc đầy đủ. Tuy thế lại hiến cúng nơi Phật; chẳng lợi lạc; cho nên nói rằng: Báo ấy thấp kém. Giống như Vương Tử gặp chuyện khó khăn, cung phụng đầy đủ thì công nầy thật là lớn. Nếu nhục vì dòng vua chúa, tội ấy rốt cuộc chẳng nhẹ. Rốt cuộc tội phước đều nặng. Nếu dâng cho Đại Vương thức ăn, đồ mặc để bổ sung cho những điều cần yếu thì nếu người muốn xâm lăng cũng chẳng thể tổn hại được; cho nên tội phước đều mỏng.
Từ „Dược Vương“ trở đi làm rõ việc đọc tụng như Phật trang nghiêm tức là thuận theo việc được phước. Phật dùng định huệ để trang nghiêm. Người nầy có thể tu định huệ vậy. Vì Như Lai mà gánh vác. Ở vai ấy là đồ vật; ở vai ấy là mái che. Tu không phải là quyền, không phải thật, thể của pháp thân. Tức là vì Như Lai mà gánh vác; có thể quyền, có thể thật, dùng đến nhị trí; tức là vì sự che chở của Như Lai. Tùy theo phương hướng mà hướng đến đó để lễ. Bên trên đã làm rõ việc lấy pháp làm Thầy. Nay làm rõ chỗ kham năng vì vật Sư. Người nầy có thú hướng; tất nhiên cùng thật tướng tương ưng. Tất cả có thể kính thuận. Thuận đây tức là hướng đến cung kính rồi thì lễ bái. Kính mà thuận và cùng với sự cúng dường v.v...
Kệ có 16 hàng và chia làm 3. Hai kệ đầu chẳng tụng Trường Hàng. Riêng khuyên về tự hành và lợi tha. Kế đến 13 hàng. Tụng về Thượng Sư Môn của Biệt và Thông (giáo). Một hàng sau đó ca ngợi kinh. Tụng về Biệt, Tổng, trong ấy lại có 2. Đầu tiên 7 hàng tụng về Biệt. Sau đó 6 hàng tụng về Tổng. Thượng Biệt Môn có hiện tại và vị lai. Nay 4 hàng đầu tụng về hiện tại. Ba hàng sau tụng về vị lai. Thượng hiện tại, vị lai mỗi Sư mỗi mỗi có thượng, hạ. Nay phần đầu, nếu có thể là hạ gồm 1 hàng tụng hạ phẩm. Nửa bên trên xuất pháp sư.
Từ „sẽ rõ chỗ Phật“ trở đi, là phân nửa xuất công báo. Những việc ấy có thể thọ trì. Phần hạ nầy có 3 hàng. Tụng hiện tại Thượng Phẩm Sư. Nửa hàng đầu xuất Thượng Phẩm Sư. „Xả bỏ nơi đất thanh tịnh“ trở đi; phần thứ 2 có 2 hàng rưỡi, tụng về công, báo. „Sau khi ta diệt“ trở đi. Việc nầy có 3 hàng, tụng về vị lai. Hai hàng đầu siêu tụng huống xuất thượng phẩm; chia làm hai. Phần đầu „sau khi ta diệt“ trở đi nửa hàng tụng Pháp Sư. Trong Trường Hàng căn bản thiếu công, báo. Nay kệ lại có.
Từ „sẽ chắp tay“ trở đi; phần thứ 2 có một hàng rưỡi, làm sáng tỏ việc công, báo. Từ „nếu ở đời vị lai“ trở đi; phần thứ 2 có 1 hàng tiếp theo tụng Hạ Phẩm Sư. Nửa phần đầu, tụng về xuất nhơn. Kế tiếp „ta lưu ở“ trở đi; phần thứ 2 nửa hàng, tụng về công, báo. „Nếu đối với kiếp“ trở đi; phần thứ 2 gồm 6 hàng, tổng tụng về Thượng Tổng Môn. Thượng Tổng Môn lại có 2. Hai hàng đầu tụng về người nghịch bị tội. Từ „có người cầu Phật đạo“ trở đi; phần thứ 2 gồm 4 hàng, tụng về việc thuận được phước. Từ „Dược Vương! Nay ta bảo ngươi“ trở đi; phần thứ 3 một hàng, tán thán ca ngợi kinh quý hiếm. Từ „bấy giờ Phật lại bảo“ trở đi; phần thứ 2 tán thán chỗ trì pháp và phương pháp hoằng truyền kinh điển. Sở trì pháp là tự quỹ pháp. Hoằng kinh pháp là quỹ tha pháp. Có trường Hàng kệ tụng. Trường Hàng đầu tiên tán thán, ca ngợi kinh pháp. Kế đến Phương quỹ. Ca ngợi ấy lại chia ra làm 5. Một theo Ước (giáo) về tán thán pháp lại có cách lượng tán thán. Hai là Ước (giáo) nói về người tán thán. Ba là Ước (giáo) tán thán về nơi chốn. Bốn Ước (giáo) tán thán về nguyên nhơn. Năm là Ước (giáo) tán thán về quả.
Pháp diệu cho nên con người là quý. Người quý cho nên tôn trọng nơi chốn. Nơi chốn tôn trọng; nên nguyên nhơn tròn đầy. Nhơn tròn đầy nên quả tốt. Đầu tiên là ca ngợi pháp. Sẽ nói kinh nầy là tối cao, có Sư hiểu rõ. Đây là Bát Nhã, sẽ là Niết Bàn. Trước Pháp Hoa thì Tiểu; Đại tương dung. Sau Pháp Hoa sẽ được gặp gỡ giống nhau. Kinh nầy chính là gặp 3 lần đầu ấy. Đầu tiên quy về một; nên nói là đệ nhứt. Kinh ca ngợi Pháp Hoa tại đây, nay thì bên ngoài. Sư nầy thiếu một tiết v.v...
Nay lời nói đầu tiên nầy, ở Đại Phẩm trở lên; tiệm, đốn đều nói. Nay người ấy cùng ngồi một chỗ. Nghĩa là vô lượng nghĩa kinh. Người kế tiếp nghĩa là Niết Bàn. Đại Phẩm tiệm, đốn tất cả mang theo phương tiện, lấy sự tin tưởng làm sự dễ dãi. Nay vô lượng nghĩa, một sanh vô lượng. Vô lượng chưa trở lại một, lại là điều dễ tin. Nay Pháp Hoa luận về pháp tất cả sai biệt, dung thông quy về một pháp. Luận về người tức là Thầy, trò Bản, Tích đầy đủ tất cả từ lâu xa. Nhị môn tất cùng ngày xưa ngược lại khó tin, khó hiểu. Sẽ là mũi nhọn, việc khó, Pháp Hoa đã nói về Niết Bàn ở phía sau. Tức là dễ tin được.
Tạng mật yếu là ẩn và chẳng nói; ấy là mật. Tổng quát tất cả những điều cần yếu. Chơn như thật tướng bao che là tạng. Chẳng thể phân bố. Pháp diệu khó tin, tin sâu có thể nắm bắt, vô trí thì lắm tội. Cho nên chẳng thể nói dối được. Từ xưa cho đến nay chưa từng hiển thuyết. Đối với ba tạng, chẳng nói Nhị Thừa làm Phật, lại chẳng làm rõ bản tính giữa Thầy trò. Phương Đẳng, Bát Nhã chỉ nói về tạng thật tướng. Lại cũng chưa nói Ngũ Thừa làm Phật, lại chưa phát Tích hiển bổn. Đốn, tiệm các kinh, tất cả chưa dung hội; cho nên nói là mật. Kinh nầy đều nói chỗ bí pháp xưa kia; tức là khai mở tạng bí mật. Lại cũng là tạng bí mật, như tạng bí mật nầy chưa hề nói rõ. Như Lai còn tại thế dụ cho nhiều oán tật; trong hơn 40 năm ấy chẳng được liền nói. Nay muốn nói mà
5.000 tầm liền thối lui chỗ ngồi. Phật ở đời còn vậy hà huống là tương lai. Lý ấy khó hóa độ.
Từ „sau khi Như Lai diệt, điều nầy có thể viết, giữ gìn“ trở đi. Phần thứ 2, người theo Ước (giáo) cũng hân hoan. Pháp nầy ở con người; tức là con người tôn quý, Như Lai lấy y che cho. Tức là dùng sự tu học nhẫn nhục lớn làm y vậy. Câu văn bên trên nói Đức Như Lai trang nghiêm. Phật hộ niệm. Thật tướng là Phật, thật trí là con. Tôn sùng thật tướng phát sanh thật trí; tức là chư Phật đồng hộ niệm. Tứ tín lấy tín lực; tứ hoằng lấy nguyện lực. Đại trí lấy thiện căn lực. Tín tức là tin vào lý; lý ấy tức là pháp thân. Chí nguyện là lập hạnh. Hạnh ấy là giải thoát. Căn lành, gốc ấy kiên cố, nên khó lay động. Đây tức là Bát Nhã; nên biết ba lực; tức là ba đức, bí mật tạng. Kẻ sơ tâm lấy đây làm nấc thang để đến với Phật, không gì khác. Cho nên nói rằng: cùng Như Lai ở chung vậy. Lại nữa tín lực tu tất cánh không, Như Lai trí. Cái thang Như Lai rốt ráo không làm nhà. Người nầy tín lực lại học tất cánh không. Cho nên cùng với Như Lai ở chung. Thủ Ma Đầu tức là người nầy lấy nguyện lực, thiện lực tự hành quyền thật lấy làm cơ cảm; cơ cảm ấy gọi là đầu. Như Lai dùng hóa tha, quyền thật nhị trí; gọi là Thủ. Khai phát, người trước tự hành quyền thật là đầu. Cảm ứng đạo giao cho nên nói là Ma Đầu. Ma Đầu tức là thọ ký vậy.
Từ „tại tại nơi nơi trở đi. Phần thứ 3 Ước (giáo) ca ngợi về nơi chốn. Pháp nầy tại nơi ấy tức là nơi quý giá. Phàm như chỗ Phật sanh, nơi đắc đạo, chuyển pháp luân, nhập Niết Bàn v.v... Pháp ấy đến đâu, tất cả đều nên dựng tháp. Kinh nầy là pháp thân sanh xứ. Nơi đức đạo, bánh xe pháp chánh thể, sâu vào Đại Niết Bàn. Kinh nầy ở đâu thì nên tạo tháp cúng dường. Chẳng cần để xá lợi. Thích Luận nói rằng: Cốt vụn vặt là sanh thân xá lợi. Kinh quyển là pháp thân xá lợi. Kinh nầy là pháp thân xá lợi; chẳng cần để thêm sanh thân xá lợi. Sanh, pháp hai thân mỗi mỗi đều có toàn, toái. Tất cả có thể giải rõ v.v...
Từ „nếu xuất gia“ trở đi. Phần thứ 4 đã đưa ra nguyên nhân ca ngợi. Nếu chưa có hạnh lành trên con đường Bồ Tát. Bẩm tiền tam giáo tức là toái tán pháp thân xá lợi chưa thể xảo độ. Nếu nhập Viên Giáo tức là toàn thân xá lợi; tức là xảo độ. Xảo độ là thiện hạnh.
Từ „kỳ hữu chúng sanh“ trở đi. Phần thứ 5 đưa ra cái quả của việc ca ngợi. Văn ấy chia làm 5. Một là làm sáng tỏ quả gần; hai là khai thệ; ba là hợp thệ; bốn là giải thích việc gần gũi và năm là không kén chọn. Nay đầu tiên làm rõ về quả gần sẽ rõ được 3 quả gần của Bồ Đề. Trong phẩm an lạc hạnh gọi đây là cận xứ. Đây là quả bồ đề. Phật nhãn Phật trí tri kiến xứ làm thể. Tức là có 2 loại. Một là sơ tâm bồ đề; hai là hậu tâm bồ đề. Nay nói gần là chánh cận sơ trụ bồ đề. Lại hướng đến Viên quả mà tu viên nhơn, được rõ tương tự như vậy; gọi là gần. Phía trước Ước (giáo) tán thán về nguyên nhơn. Ta thông, biệt nhơn; tức là chưa thiện. Cho đến Viên quả xa xôi. Nếu tu viên nhơn tức là thiện hạnh. Khỏi Viên quả gần. Nay dùng Viên như thật trí làm nhơn, trở lại lấy làm quả. Đạo tiền chơn như tức là chánh nhơn. Trung đạo chơn như tức là duyên nhơn, lại gọi là liễu nhơn. Đạo hậu chơn như tức là Viên quả. Cho nên Phổ Hiền Quán nói rằng: Đại Thừa nhơn tức là thật tướng. Đại Thừa quả lại cũng là thật tướng. Thích Luận nói rằng: Đầu tiên quán thật tướng, gọi là nhơn quả cảnh, gọi là quả. Theo lý mà luận thì chơn như thật tướng chẳng vì nhơn quả lại chẳng phải trước sau. Nếu Ước (giáo) nói chúng sanh tu hành tức là có trước sau và dùng đến nhơn quả.
Từ „Dụ như có người“ trở đi. Phần thứ 2 khai dụ làm 2 lối giải thích. Một là Ước quán môn; hai là Ước giáo môn. Quán Môn là: tâm của chúng sanh đầy đủ các phiền não, gọi là cao nguyên tu tập quán trí, gọi xuyên quật (thông qua) mới chứng lý vị, như được nước mát. Nương vào thông quán thì Càn Huệ Địa như đất khô. Tánh đất là ẩm thấp có bùn. Thấy chơn lý tức là được nước trong. Biệt quán từ giả vào không, hay thấy không, chẳng thấy chẳng phải không. Đoạn tứ trụ như đất khô, nước tới còn xa. Từ không ra giả đầu tiên là rõ không giả; nay rõ được chẳng không. Nhơn ấy là 2 quán được nhập vào Trung Đạo. Hay hàng phục vô minh và chuyển cái thấy thành đất ẩm. Nước xa tức gần vậy. Viên (giáo) quán trung đạo chẳng không, chẳng giả mà chiếu sáng không, giả. Như dần đến đất ướt. Tứ trụ hết rồi, vô minh trở lại. Đã được tướng trung đạo rồi giống như Viên (giáo) đã giải thích; cho nên nói như đất bùn. Khi nhập vào sơ trụ, phát chơn trung giải; tức là phá vô minh như bùn lắng trong; được thấy trung đạo như thấy nước trong sạch. Pháp Hoa luận rằng: Phật tánh như nước, lần lượt sẽ rõ.
Kế đến Ước (giáo) môn cho rằng đất ấy giống như kinh dạy. Nước ấy dụ cho trung đạo. Lời dạy giải thích rõ ràng trung đạo như đất có chứa nước. Tam Tạng giáo môn còn giải thích trung đạo giống như đất khô. Phương Đẳng, Bát Nhã mang vào phương tiện để diễn nghĩa trung đạo. Như thấy đất thấm ướt. Pháp Hoa chỉ thẳng rõ ràng; nên nói vô thượng đạo, như thấy được đất bùn. Nguyên nhơn theo lời dạy của Pháp Hoa sanh ra văn, tư, tu thì tức là ngộ trung đạo, thấy chơn thật về Phật tánh. Cho nên phát ra trí huệ chơn thật, chẳng lại cần đến câu văn. Như được nước trong, lại chẳng còn tướng của đất; cho nên Hoa Nghiêm nói rằng: Thập Trụ Bồ Tát làm chủ thân huệ mệnh; chẳng do kẻ khác mà ngộ được. Lại có người nói rằng: Đầu tiên, chỉ cho thấy như đất trên cao khô ráo; đại phẩm thì như đất ẩm thấp; Pháp Hoa như đất bùn và Phật quả như nước trong. Có người lại nói: Duy Ma, Tư Ích như đất khô; Vô Lượng Nghĩa như đất ẩm; Pháp Hoa như đất bùn; Phật quả như nước. Có người lại nói: Đại Phẩm như đất khô; Vô Lượng Nghĩa như đất ướt; Pháp Hoa như đất bùn; Phật quả như nước trong; cả 3 (nhà) đều nói về 5 thời (giáo).
Có vị Thầy cho rằng: Thọ trì Pháp Hoa, cầu Phật đạo muốn được đã khát. Ba thừa ở nơi Nhất thừa thì khó tin. Đối với Pháp Hoa, cầu hiểu rõ như trên cao nguyên.
Thọ trì, đọc tụng như sự xuyên suốt; chưa có thể nghe như thế lại được rõ. Vì chưa nghe nên như đất khô; hay rõ nghĩa đến chỗ đất bùn thì sự chú thích nầy các nhà chú giải giống nhau. Có người nói rằng: Đây là một điều giải thích xa rời Phật và là một điều giải thích gần Phật. Đầu tiên 3 vị Sư làm sáng tỏ các sự chỉ bày từ thời Phật xa xưa đến Pháp Hoa là Phật gần. Sau đó 2 lời giải thường đối với Pháp Hoa và trong ấy luận về xa gần. Tìm theo lời kinh nên 2 nghĩa; một là đưa ra ngoài kinh, đối lại với Pháp Hoa để làm sáng rõ chỗ xa gần. Hai là cuối cùng Pháp Hoa luận gần xa. Các vị Thầy mất đi yếu chỉ của kinh.
Hỏi: Kinh khác tại sao cho rằng xa Phật ?
Đáp: Chưa khai quyền cầu Phật, người ấy chưa quyết định. Pháp Hoa chỉ có một chứ không ba. Vĩnh viễn ra khỏi chỗ thối tâm; cho nên đến gần Phật.
Câu văn lại nói: Đã rõ Thanh Văn pháp, hỏi Bát Nhã vì sao lại xa Phật ?
Đáp rằng: Vì chưa khai quyền biên, tức là xa. Đầu tiên hành Bồ Tát, chẳng rõ biết Bát Nhã mật hóa phụ tài; tức là đối với điều nầy là xa. Phàm là Bát Nhã thì thật huệ phương tiện mà ba đời pháp thân của Phật là cha mẹ. Tìm cầu Phật như người già, bịnh. Cả 2 việc được giúp đỡ bên cạnh, thì có thể xa; nên rõ biết Bát Nhã là hơn cả. Pháp Hoa khai quyền; chẳng khác Bát Nhã hiển thật. Chẳng phải Bát Nhã ngoại biệt, mới có Pháp Hoa.
Pháp Hoa Bát Nhã khác tên thôi. Đây là do các Thầy giải thích khác nhau qua việc sao chép vậy.
Kế đến từ „Bồ Tát lại cũng như thế“ trở đi. Phần thứ 3 thí dụ lúc gặp nhau. Đối với kinh Pháp Hoa, rộng văn, tư, tu; tức là Viên (giáo) quán tam huệ hay có thể cận kề với quả; chẳng phải khô, ẩm và cùng với lời dạy văn, tư, tu vậy. Từ „vì sao vậy“ trở đi. Phần thứ 4 giải thích cái ý được gần gũi. Tất cả Bồ Tát làm rõ những nguyên nhơn của quyền. Tam Bồ Đề là làm rõ tất cả cái quả của quyền. Nhơn của quyền và quả của quyền tất cả đều nhiếp thuộc kinh nầy. Như việc khô hay ẩm thấp cùng với đất, tất nhiên đều nương theo nơi nước. Cho nên nói là nhiếp thuộc. Khai mở cửa phương tiện là chỉ rõ tướng chơn thật. Quang Trạch nói rằng: Xưa ở nơi Lộc Uyển căn cơ phức tạp, riêng nói ba tạng, chưa làm rõ một chân lý. Lúc ấy là dùng quyền ẩn thật. Một lý vì quyền giáo nên đóng lại. Nay ở Vương Thành (Vương Xá) thêm căn cơ lớn; nên hiển sự chơn thật. Sự chơn thật được hiển bày tức là phế trừ cách dạy xưa. Lời dạy xưa bị bỏ rồi; cho nên cửa phương tiện mở ra. Một lý là ảnh của chơn thật tướng hiển ra. Ta vì điều giải nầy lại phá bỏ phương tiện; chẳng khai mở phương tiện. Ngài Đại Lãng ở Hà Tây nói: Gọi ngay là 3 vì phương tiện; tức là khai cửa phương tiện. Ngày xưa chẳng nói 3 ấy là phương tiện; cho nên cửa phương tiện đóng lại. Nay gọi 3 là phương tiện; tức là chỉ rõ một ấy là chơn thật. Ta giải thích điều nầy như câu văn theo sau. Có người giải rằng: Khai, giáo thân ấy cả 2 là phương tiện. Chỉ bày giáo lý ấy với thân, cả 2 chơn thật. Ba đời chư Phật chỉ có hình tướng là Thanh (Văn) là quyền thật. Ước (giáo) đối với điều khai thị nầy tức là 12 vạn hoát nhiên liễu ngộ. Ta trước nói về 2 vị Sư của Ước giáo khai thị. Người đời sau thêm vào dùng đến thân. Thiết nghĩ nghĩa nầy là của Long (Thọ) Ấn (Độ) mà đã giải thích. Trở lại phá đi cái ý phương tiện, chẳng khai cái nghĩa vậy.
Hỏi: Phương tiện là cái thể của cửa. Vì thông thật tướng cho nên làm cửa chăng ?
Ta đáp rằng: Đầy đủ cả 2 nghĩa. Vì thật tướng môn có thể giải. Đương thể là cửa như Hoa Nghiêm tìm thiện trí thức để được đủ loại pháp môn. Lộng sa quán hải v.v... Đây là 2 cửa; mỗi mỗi có khai, bế. Ngày xưa chẳng nói 3 là phương tiện; cho nên cửa nầy đóng lại. Nay nói 3 là phương tiện; cho nên cửa nầy mở ra. Ngày xưa chẳng nói một là chơn thật; cửa thật đóng lại. Nay nói một là chơn thật; cho nên cửa thật mở ra. Hai là với phương tiện nầy lại thông với thật tướng; cho nên 3 thừa phương tiện lấy cửa của nhứt thừa. Thật tướng lại có 2 nghĩa. Một là đương thể hư thông; cho nên gọi là cửa. Như Tịnh Danh (Duy Ma Cật) chẳng 2 cửa, Hoa Nghiêm pháp giới môn v.v... Hai là hay thông phương tiện tạo cửa. Lưu Cầu nói: Thông tổng là công mà lại do chỗ gọi một. Cho nên một ấy là phương tiện của cửa. Hấp dẫn là Hiệu Pha Lại ở nơi ba. Cho nên 3 ấy là tướng chân thật. Nói chẳng phải 3 tức là cửa phương tiện được khai ngộ chỉ có một; tức là tướng chơn thật có thể chỉ bày. Có người nói rằng: Tất cả luận đều có 3 nghĩa. Một là dùng 3 ấy làm phương tiện; một ấy làm chơn thật. Hai là 3 ấy là một, tất cả là phương tiện. Chẳng phải 3 chẳng phải một là chơn thật. Ba là 3 ấy là một làm hai. Chẳng phải 3 chẳng phải 1 làm bất nhị. Nhị ấy chẳng phải 2, tất cả là quyền. Chẳng phải 2 chẳng phải chẳng 2 làm thật. Ba việc nầy hỗ tương với nhau được làm cánh cửa. Như lấy 3 dùng làm một cửa. Đây là dùng quyền để thông thật. Nếu dùng một để làm 3 cửa thì lấy thật khởi lên quyền. Cho đến 2 chẳng phải 3 đều hỗ tương với nhau như vậy để được làm cánh cửa. Lại cũng hỗ tương với nhau để được làm tướng. Thường chẳng được hỗ tương với nhau làm quyền, thật vậy.
Ta đã lấy 3 để làm 1 cửa nghĩa là ba thừa thông thật tướng chăng ? Nếu chẳng thông; tức là chẳng phải cửa. Liền mở ra 3, bắt đầu được cửa nầy. Nếu mở ra 3 tức là chưa trở lại 3. Nói như thế nào mà lấy 3 làm cửa thật tướng ? Lại nữa 3 ấy chẳng phải là nhơn của Phật. Cái nào được cửa của tánh tướng. Phá nghĩa thứ nhứt nầy, ngoài ra còn 2 ví dụ khác nữa v.v...
Hỏi: Phương tiện chơn thật hỗ tương nhau để được làm cánh cửa. Lại được phương tiện làm phương tiện môn. Thật tướng làm thật tướng môn chăng ?
Đáp: Điều nầy có 4 câu. Hai là như phía trước. Ba là thật tướng làm thật tướng môn. Bốn là phương tiện làm phương tiện môn. Như tên làm nghĩa môn. Nghĩa làm danh môn. Do phương tiện gọi là hiển nghĩa phương tiện. Cho nên gọi là nghĩa môn. Do nghĩa phương tiện nên gọi tên là phương tiện. Cho nên nghĩa ấy làm tên gọi cánh cửa. Thật tướng lại cũng như thế.
Lời tựa của Trung Luận viết rằng: Thật, phi cách gọi ấy chẳng ngộ. Cho nên dựa vào trong ấy để tuyên nói, tức là việc nầy. Môn ấy được lấy 3 hiển 3, lấy một hiển một chăng ?
Điều nầy lại có 4 câu. Hai là như trước. Lấy 3 hiển 3 là ngày xưa nói 3 khác với bây giờ 1. Ba nầy ở ngoài 1 ấy. Nay 1 nầy khác với 3 ngày xưa. Một nầy ở ngoài 3 ấy; cho nên 1 chẳng phải 3, một mà 3 ấy chẳng phải là 1, 3. Tất nhiên đều là chấp kiến. Phá bịnh nầy; cho nên ở nơi một Phật thừa, phân biệt nói làm 3 vậy. Cho nên 3 ấy là 1, 3. Các ngươi thực hành tức là con đường Bồ Tát. Cho nên 1 ấy là 3, 1; 3, 1 tức là chẳng có tướng khác với cái nghĩa của nhơn duyên. Lấy nhơn duyên 3, 1 hiển tự tánh 3, 1. Lại dùng tự tánh 3, 1 để hiển nhơn duyên 3, 1. Cho nên nói rằng lấy 3 hiển 1; lấy 1 hiển 3.
Có người dựa theo 15 xứ để làm sáng tỏ cho cửa ấy. Phẩm Phương Tiện lại có 2. Phẩm Thí Dụ lại có 6. Phẩm Tín Giải có 3. Phẩm Hóa Thành có 2. Phẩm Pháp Sư có 1. Phẩm Quan Âm có 1.
Phương Tiện có 2 ấy là: Trí Huệ môn và quyền trí làm Thật trí môn. Có vị Thầy nói rằng: Lời nói là cửa ngõ. Lời nói giảng về Thật trí, cho nên nói giáo là Thật trí môn. Pháp Hoa luận giống như vậy. Kế đến nói rằng: Dùng đủ loại pháp môn để chỉ bày con đường Phật. Điều nầy dùng Đại Thừa giáo làm cửa ngõ.
Phần Thí Dụ có 6 đó là: Nhà nầy rộng lớn mà chỉ có một cửa ra vào. Trở lại lấy Đại Thừa giáo làm cửa. Hai là chỗ cửa bị cháy. Điều nầy Ước (giáo) lấy giới hạn của 3 cõi làm cửa ngõ. Như gọi nhà nầy là cửa. Ba là chỉ có một cửa mà còn nhỏ hẹp nữa. Lại lấy Đại Thừa giáo làm cửa ngõ. Bốn là 3 xe ở ngoài cửa. Trở lại lấy 3 cõi làm cửa. Năm là dùng cửa Phật dạy để ra khỏi cái khổ của 3 cõi. Điều nầy dùng cho Tiểu giáo chi môn. Sáu là đứng ở phía bên ngoài cửa. Nương vào nơi Đại Thừa dùng 2 việc giới hạn của sự chết làm cửa. Tiểu Thừa lại cũng ra khỏi tất cả phiền não, bên ngoài chánh tập đã hết. Gọi đây là đứng ở bên ngoài cửa.
Phẩm Tín Giải thì đứng phía bên ngoài cửa, lấy giáo lý Đại Thừa làm cửa ngõ. Điều thứ 2 giống như ở bên ngoài cửa bên trên. Điều thứ 3 nói là Trưởng Giả ở bên trong cánh cửa, như trước.
Hóa Thành thỉnh mở cửa Cam Lồ; lại là Đại, Tiểu giáo môn. Cửa nhiều lớp nơi lầu các cao, lại dùng đến Tiểu Thừa tam không môn. Phương Tiện môn như trước đã giải thích.
Phẩm Quan Âm cũng lấy Đại Thừa giáo làm cửa.
Nay giải thích về khai phương tiện môn là ngày xưa chẳng nói mà nay tất cả đều nói. Ngày xưa nói tất cả thế gian, trị sanh sản nghiệp thì cần gì đến phương tiện? Nay tất cả đều khai mở tức là thật tướng chẳng sai khác. Các ngươi đang thực hành, là con đường Bồ Tát, rõ cả pháp Thanh Văn. Đây là vua của các kinh. Ngày xưa nói 2 làm phương tiện môn; bây giờ tất cả đều khai mở; tức là thật tướng há lại là cửa. Có ý làm cho chúng sanh khai mở chỉ bày ngộ nhập vào tri kiến của Phật. Một sắc, một hương chẳng có cái nào chẳng là Phật Pháp. Hoặc là cửa hay chẳng phải cửa, tất cả đều khai mở chỉ bày tướng cho thật, hiển rõ Phật tánh như nước trong. Nếu chẳng mở ra thì nơi sâu xa huyền diệu ấy chẳng có người nào có thể đến được, mà nay khai cho tức là đã thấy nước ở nơi đất chẳng khô.
Lại nữa theo tam huệ thì giải thích rằng: Tất cả đều thuộc về kinh nầy; tức là tròn đầy thinh huệ. Kinh nầy khai mở phương tiện; tức là tròn đầy tư huệ; chỉ bày tướng chơn thật; tức là tròn đầy tu huệ. Ba việc xa xôi diệu vợi ấy với Phật, nay được khai mở chỉ bày; tức là được thấy chơn.
Từ „Dược Vương! nếu có Bồ Tát nghe“ trở đi. Phần thứ 5 chẳng chọn lựa. Nếu Bồ Tát nghe lời nói nầy mà kinh ngạc nghi ngờ thì khi nghe với tâm thượng mạn ấy tất nhiên là đất khô; chẳng phải đất ẩm, hà huống là thấy được nước.
Từ „Nếu có người con trai lành, người con gái tốt nào sau khi Như Lai diệt rồi“ trở đi. Phần thứ 2 lược, chỉ cho các thức hoằng truyền kinh điển. Lại chia làm 2. Một là chỉ cho phương pháp. Hai là làm sáng tỏ sự lợi ích. Phương pháp ấy lại có 3. Một là Tiêu Chương môn; hai là giải thích và 3 là khuyến tu. Tu nơi nhà của Như Lai đây là đại từ bi. Nếu cùng đồng thể, tức là pháp thân. Nếu bị chúng sanh; tức là giải thoát. Có thể làm cho chúng sanh gặp được đồng thể tức là Bát Nhã. Tu Như Lai y nghĩa là nếu được trùm lên; tức là pháp thân. Nếu có thể che thân thì tức là tịch diệt nhẫn. Nếu mà hòa quang lợi vật thì là giải thoát. Nếu có thể ngồi, tức là Bát Nhã. Nếu thành tựu chỗ ngồi, tức là pháp thân. Thân ngồi minh xưng tức là giải thoát. Lại nữa đại bi an lạc tức là tư thành. Nhu hòa phục sân đoạn hoặc tức là quán chiếu. Ngồi nơi tòa tức là pháp thân.
Trong phẩm An Lạc Hạnh trở lại với chiều rộng của 3 pháp nầy. Như câu văn trên nói: Như Lai trang nghiêm tức là y áo. Bên trên nói nơi vai của Như Lai mang vác tức là chỗ ngồi nầy. Thiền ấy là mang vào bên trong phòng.
Từ „ta ở nơi nước kia“ trở đi. Phần thứ 2 đưa ra 5 sự lợi ích, khuyến khích lưu thông. Một là để lại sự giáo hóa cho người; hai là để lại sự giáo hóa cho tứ chúng; ba là để lại cho Bát Bộ; bốn là thấy thân Phật; năm là cùng với tổng trì. Nếu sơ tâm chưa đôn hậu thì dừng lại có thể giáo hóa cho người. Chưa có thể để lại sự giáo hóa cho tứ chúng, bát bộ được. Hoặc thấy trời rồng dựa vào điều nầy tự cao thì sẽ tổn hại cho con đường nầy. Cho nên chẳng thể gặp được Phật. Nếu tâm không dựa vào sự đắm trước tức là sẽ gặp được Phật. Hà huống là trời rồng, hà huống là được tổng trì, tự chứng lợi ích sao ? Kệ ấy có 18 hàng rưỡi và chia làm 3. Hàng đầu tiên tổng khuyên, chẳng tụng trường hàng. Kế đến 16 hàng rưỡi tụng phần bên trên trường hàng và phần sau một hàng kết khuyến. Bên trên theo Ước (giáo) thì tán thán quả ấy có chia ra làm 5. Nay một hàng rưỡi đầu tiên tụng về việc khai dụ.
Kế đến „Dược Vương! Ngươi nên biết“ trở đi. Phần thứ 2 có hai hàng rưỡi, tụng về thí dụ việc gặp nhau. Lược bớt chẳng tụng có 3. Quả gần giải thích, nên chẳng lựa chọn vậy.
Bên trên, theo Thông (giáo) trong kinh, quy cũ ấy có 2, tạo ra sự lợi ích. Nay 12 hàng rưỡi ấy tụng, 3 hàng rưỡi đầu tụng về phương quỹ. Ở giữa có 3. Nay lại tụng 3 ý.
Từ „Ta ngàn vạn ức“ trở đi. Kế đến có 9 hàng tụng về sự lợi ích. Hàng đầu tổng quát làm rõ Như Lai dùng 5 việc với ý là lợi ích. Chánh là do ứng thân đầy khắp cả 10 phương. Có thể vì 5 việc ấy mà giữ gìn người hành trì.
Từ „Nếu sau khi ta diệt“ trở đi gồm một hàng rưỡi; tụng phần thứ 2 về lời di giáo cho tứ chúng. „Dẫn đạo“ trở đi gồm 1 hàng rưỡi, tụng phần thứ nhứt về lời di giáo cho con người.
Từ „Nếu thuyết pháp cho người“ trở đi gồm 2 hàng, tụng phần thứ 5 để được tổng trì.
„Nếu người đầy đủ đức nầy“ trở đi gồm 1 hàng, tụng phần thứ 4 làm cho được gặp Phật.
„Nếu người ở tại nơi không nhàn“ gồm 2 hàng, tụng phần thứ 3 về lời di ngôn cho Bát Bộ v.v...
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú Hết quyển thứ 8 (Phần bên trên) Giải thích về Phẩm Thấy Bảo Tháp
Tiếng Phạn gọi là Tháp Bà (Stupa) hay nói là Du
Bà. Đây là gọi theo phiên âm. Cũng còn gọi là Linh Miếu. Lại nói là Chi Đề; không có thân cốt, mà tháp nầy lại có toàn thân chẳng tan hoại. Cho nên chẳng gọi là Chi Đề. A Hàm nói rõ là Tứ Chi Vi; nghĩa là sanh ra nơi ấy, được đạo, chuyển pháp luân, nhập diệt; 4 nơi ấy dựng tháp. Bảo tháp ngày nay là trước khi Đức Phật nhập diệt. Kinh nói rằng: Phật có 3 thân từ kinh nầy sanh. Chư Phật ở nơi nầy mà ngồi đạo tràng; chư Phật đối với nơi nầy mà chuyển pháp luân. Chư Phật đối với nơi nầy mà Bát Niết Bàn. Chỉ riêng kinh Pháp Hoa, tức là 3 đời chư Phật của 4 chi vi. Trước đó Phật đã thường ở. Nay Phật ngồi đây thành Phật lại cũng như vậy. Khi tháp nầy xuất hiện, làm hiển rõ việc nầy cho tứ chúng tất cả đều nhìn thấy. Cho nên gọi là: Kiến bảo tháp phẩm.
Kinh An Lạc, Thiện Kiết hỏi rằng: Sanh thân, toàn thân, toái thân, công đức như thế nào? Phật bảo chẳng giống nhau. Sắc thân gọi là giáo hóa huấn, 3 nghiệp đầy đủ thanh tịnh. Chúng sanh được đến Niết Bàn. Toàn, toái xá lợi có thể đường đường oai thần quang minh. Cúng dường được phước; cho nên chẳng giống nhau.
Lại hỏi Đảnh Vương Như Lai rằng: 12 kiếp thuyết pháp giáo hóa, xá lợi lại cũng như thế, điều nầy có giống nhau chăng ?
Phật đáp: Tất cả là do thần lực của Đảnh Vương Như Lai tạo ra đấy. Kinh kia chỉ rõ toàn, toái xá lợi, tất cả đều do sanh thân Phật lực mà ra. Nay kinh xét cho cùng thì sanh thân, toàn toái xá lợi, pháp thân trải khắp. Xá lợi đều từ kinh nầy mà ra. Làm hiển lên công đức của kinh nầy, hoằng trì lực rất lớn. Từ dưới đất vọt lên chứng minh cho việc nầy. Bốn chúng đều thấy. Cho nên gọi là phẩm thấy Bảo Tháp.
Thầy Bắc Địa nói rằng: Phật và Thân Tử (Xá Lợi Phất) nói kinh nầy thì bảo tháp hiện ra ở trước để chứng minh. Nếu nói kinh xong thì chứng được những gì ?
Các nhà giải thích kinh lần lượt để yên 3 lần sau đó. Điều nầy để thấy lòng người; tức chẳng phải dễ tin. Nay nương vào kinh Tát Vân Phần Đà Lợi để nói. Phật nói Pháp Hoa với vô số bài kệ, lúc ấy có 7 bảo tháp từ dưới đất mọc lên; trong ấy có giường vàng; bên trên giường có Phật. Chữ ấy gọi là Bào Hưu Lan La. Chữ Hán dịch là Đại Bảo. Tán thán ca ngợi Đức Thích Tôn và nói: Ta vì vậy đến để cúng dường. Mong ngồi nơi giường với ta. Liền vì ta mà nói Tát Vân Phần Đà Lợi (Diệu Pháp Liên Hoa). Nương vào kinh nầy để chứng; tức là nói 3 lần.
Sau đó lại thỉnh thọ lượng. Làm rõ câu văn của bậc Thánh nói mà chẳng chịu dùng. Xuyên Bàn Na của con người có thể thừa nhận sao ?
Tháp nầy chính là vì chứng minh cho việc trước thưa thỉnh, rồi sau mới từ đất vọt lên. Tứ chúng tất cả đều thấy; cho nên nói rằng: Phẩm thấy Bảo Tháp. Địa Sư nói Đa Bảo là pháp thân Phật. Thích Luận nói: Đa Bảo thệ nguyện hóa thân đến để chứng kinh. Câu văn nầy cũng lại như thế. Sư rằng: Pháp thân chẳng đến, chẳng rời khỏi. Báo thân thì nguy nguy đường đường. Ứng thân thì phải ứng tất cả. Nếu cái nầy là 3 thân của Phật; thì chưa hết cái thể nầy. Chỉ có điều là biểu thị mà qua. Đa Bảo biểu hiện cho Phật Pháp. Thích Tôn biểu hiện cho báo thân. Phân thân biểu hiện cho ứng thân. Thân Phật tuy 3 mà chẳng khác một. Nên nói như vậy, như thế mà tin. Bốn phiên nầy chính là tứ Tất Đàn (thành tựu) giải kiến bảo thánh v.v...
Tháp ấy xuất hiện lại có 2. Một là phát ra âm thanh để chứng minh như trước. Mở cửa tháp là phần sau khi nổi lên. Chứng trước có nghĩa là chứng 3 lần thuyết pháp, tất cả đều là chơn thật. Hoặc lược nói là chơn thật. Tất cả cùng với thật tướng tương ưng vậy. Nếu nói rộng về chơn thật nghĩa là lìa 4 câu, tuyệt trăm chẵn. Hoặc ở trong ấy nói là bát bất; gọi là chơn thật. Tháp ấy từ đất vọt lên thấy bất diệt; phân chia chỗ ngồi để cùng ngồi để chỉ cho sự bất sanh. Vào bên trong tháp để chỉ cho chuyện chẳng thường. Hiện ra tháp để chỉ cho sự chẳng đoạn. Phân thân để chỉ cho việc chẳng phải một. Toàn thân để chỉ cho sự chẳng khác biệt. Đa Bảo nhường cho chỗ ngồi để chỉ cho sự chẳng đến. Thích Ca ngồi nửa chỗ ngồi để chỉ cho sự chẳng ra khỏi. Bất bất hiển nhiên; cho nên nói là chơn thật. Lại chứng Tích Môn, lưu thông trì kinh công đức sâu dầy, hoằng tuyên sức lực to lớn; tất cả đều chơn thật.
Bình đẳng đại huệ cùng với Bát Nhã nói cái gì ?
Thích Luận quyển 79 nói: Bát Nhã là diệu Pháp của 3 đời chư Phật; như một thành, cửa 4 hướng đều có thể vào. Nên biết Bát Nhã lại gọi là diệu Pháp. Kinh nầy gọi là bình đẳng đại huệ. Hai là câu văn, tướng chỉ ý nầy có thể rõ biết.
Khởi lên sau nghĩa là muốn mở tháp, tu tập phân thân, làm sáng tỏ chỗ mờ ảo phụ thuộc; tiếng kêu lớn hơn đối phương để gọi đệ tử chính, luận nơi thọ lượng. Từ xa xưa tháp ấy từ đất vọt lên. Mở tự tại thần thông lực. Hiển bày đời quá khứ làm ích lợi cho muôn vật. Phát ra âm thanh lớn mở bày sức mạnh của tiếng con Sư Tử. Hiển hiện tại 10 phương, khai quyền hiển thật. Có thệ nguyện lớn, vị lai chư Phật nếu nói kinh nầy. Bảo tháp của ta, tất cả đều đến chỗ nầy để làm chứng minh. Khai uy lực mạnh mẽ to lớn, hiển vị lai thường trụ bất diệt. Lại nữa thấy ở trên không, lại chứng trước mà nổi lên sau. Bảy phương tiện người chứa, lý ấy chưa mở vô minh chỗ ẩn nấp. Như tháp ở đất, khi nghe 3 lần thì khai 3 hiển thật, khai mở tri kiến Phật. Hiển xuất pháp thân như tháp vọt lên hư không. Điều nầy tức là chứng tiền. Tu được pháp thân lâu dài rồi, rõ chỗ đắm trước. Như tháp ở trên không trung chẳng thể mở được. Biểu tượng cho đất nầy lâu rồi, tất cả đều chẳng rõ. Nếu phát tích hiển bổn thì thông suốt chẳng nghi. Đây tức là khởi hậu vậy. Nếu tháp từ đất mà hiện thì sự biểu hiện Pháp thân ấy của hiển cùng với những kinh khác lại giống mà cũng khác nhau.
Nhị Thừa hiển pháp thân lại khác. Nếu tại không trung, mở cửa thấy Phật thì điều ấy là biểu hiện phát tích hiển bổn, cùng với những kinh khác vĩnh viễn khác nhau. Nếu tháp hiện ra từ trước thì sẽ bị che đậy, chẳng cần nghi. Tháp đến sau, có ý mật bảo cho mọi người việc chưa biết. Nay lấy nghĩa sau nầy để tạo ra sự giải thích nầy lại chẳng phải là vô cớ.
Quán Tâm giải thích rằng: Nương vào kinh để tu quán cùng với pháp thân tương ưng cảnh trí tất nhiên sẽ gặp nhau. Như tháp hiện đến để chứng cho kinh. Cảnh trí ấy gặp nhau liền được đại bảo viên mãn. Như Thích Ca cùng Đa Bảo đồng ngồi chung một chỗ ngồi. Dùng đại bảo viên mãn; cho nên tùy cơ xuất ứng, như phân thân rồi tập trung lại. Do Đa Bảo xuất hiện; cho nên có 3 Phật được hiển. Do trì kinh cho nên đầy đủ 3 thân.
Phổ Hiền quán nói rằng: Phật 3 loại thân từ Phương Đẳng sanh tức là ở nghĩa nầy. Có người phân chia phẩm nầy phía sau thành 11 phẩm. Đây là thần thông thân luân mở bản tính.
Từ „Di Lặc hỏi“ trở đi là thuyết pháp về khẩu luân khai bản tích. Bản tích ấy chưa chướng. Từ „phẩm nầy câu văn quá sớm v.v...“. Phẩm nầy lại có trường hàng kệ tụng. Trường hàng lại có 3. Một là làm sáng tỏ Đa Bảo xuất hiện. Hai là làm sáng tỏ sự phân thân từ xa đến. Ba là làm sáng tỏ Thích Ca xướng mộ.
Câu văn đầu lại có 6. Một là tướng của tháp hiện. Hai là chư thiên cúng dường. Ba là Đa Bảo xưng tán. Bốn là đến lúc mọi người kinh nghi. Năm là vui lớn nói hỏi. Sáu là Như Lai đáp. Bảy là lấy của quý giá làm tháp. Làm sáng tỏ pháp thân là đất, dùng tánh ấy để được 7 giác, 7 Thánh Tài bảo. Tháp ấy chính là cảnh của thật tướng, là chỗ nương tựa của pháp thân. Cao 500 do tuần là khoảng 2 vạn lý (dặm). Há làm sáng tỏ cái nhơn trong vạn hạnh và cái quả trong vạn đức vậy. Chiều rộng 250 do tuần tức là một vạn dặm. Chiều ngang dùng vạn thiện trang nghiêm. Đất ấy chính là vô minh tâm địa. Dùng vô để phá. Phá nơi vô minh. Dùng vô để trụ; trụ nơi đệ nhứt nghĩa không. Đủ loại vật quý giá, dùng nhiều định huệ mà trang nghiêm. Lan mi là tổng trì. Phòng ốc có ngàn vạn. Dùng vô lượng từ bi làm phòng. Lại là vô lượng phòng không. Tràng phan và thần thông thắng tướng. Thùy hảo anh lạc là 40 địa công đức. Bên trên trang nghiêm pháp thân. Bên dưới bị chúng sanh. Bảo linh vạn đức, bát âm tứ biện. Bốn mặt tỏa ra mùi hương. Bốn chân lý gió thổi; mùi hương bốn đức. Cao đến cung trời Tứ Thiên Vương, tận cùng đến Tứ Đế lý.
Từ „cõi trời thứ 33“ trở đi. Phần thứ 2 là chư thiên cúng dường; việc giải có thể rõ. Lại cùng với lý của Ước (giáo). 30 tâm làm 30. Thập Địa làm nhứt; đẳng giác làm một; diệu giác làm một. Hợp chung lại là 33. Đồng nương tựa vào cảnh thật tướng. Mưa trời Mạn Đà La. Tâm đầu tiên lại đầy đủ 42 địa công đức. Tâm sau lại cũng như vậy. Tất cả dùng 40 địa nơi có nhơn của hoa, quy hướng về pháp thân. „Ngoài ra các thiên long“ trở đi; tức là nội phàm ngoại phàm v.v... Lại nương vào thật tướng, hướng đến quả, hạnh, nhơn vậy. Từ „lúc bấy giờ trong bảo tháp“ trở đi. Phần thứ 3 Đa Bảo xưng tán. Chánh thức chứng trước, khai quyền hiển thật chẳng hư ngụy.
Bình đẳng đại huệ tức là trí huệ của chư Phật như trước hình bộ bình chúng nghĩa vậy. Bình đẳng lại có 2. Một là pháp đẳng; tức là lý của trung đạo. Hai là chúng sanh đẳng với tất cả chúng sanh, đồng được Phật huệ. Đại đang như trước là nghĩa của sự cao rộng. Theo Ước (giáo) quán tâm là không quán dựng cùng với giả quán và chiều ngang. Trung quán ngang, cao đều bình đẳng. Bình đẳng song chiếu tức là bình đẳng Đại Huệ. Như vậy nghĩa là nhứt như pháp tướng thị; nhị như căn tánh thị. Tất cả là sự chơn thật. Như pháp tướng nói cho nên nói chơn thật.
Từ „lúc ấy tứ chúng thấy“ trở đi. Phần thứ tư là lúc hội chúng kinh ngạc, nghi ngờ. Câu văn nầy có 2. Một là được pháp nên vui. Hai là nghi quán lạ. Từ „lúc ấy có Bồ Tát“ trở đi. Phần thứ 5 là vui lớn, nói nguyên nhơn, nghi thỉnh vấn. Nếu nhìn xuống dưới để đáp ý thì nên chia ra làm 3 câu hỏi. Một là hỏi rằng: với nguyên nhơn gì mà có tháp nầy? Hai là hỏi rằng: vì sao mà tháp lại từ dưới đất hiện ra ? Câu hỏi thứ ba là vì sao phát ra tiếng nói?
Từ „lúc bấy giờ Đức Phật bảo“ trở đi. Phần thứ 6 Phật đáp lại 3 điều nầy. Đầu tiên là đáp; thứ hai là hỏi. Đức Phật nầy có lời nguyện làm chứng cho Pháp Hoa; cho nên từ dưới đất xuất hiện ra. Từ „Đức Phật kia thành đạo“ trở đi, theo đó mà đáp câu hỏi thứ nhứt. Do vị Phật kia ra lệnh tạo ra tháp nầy. Kế đến từ „vị Phật nầy dùng thân“ trở đi. Phần thứ 3 đáp phần 3 vì để làm chứng minh; cho nên phát ra âm thanh.
Thích Luận giải thích rằng Đa Bảo Phật chẳng được thuyết pháp mà thu thần diệt độ. Sư giải chẳng giống như vậy. Vị Phật ấy bảo các Tỳ Kheo. Tỳ Kheo là những vị thọ nhận sự hóa độ; sao lại chẳng nói. Rõ ràng là Đa Bảo lại được mở ra 3 và chẳng được hiển thật. Cho nên Thích Luận nói rằng: Chẳng được thuyết pháp vậy. Dùng nghĩa nầy; tuy lại diệt độ mà tại tại xứ xứ đều có nói kinh Pháp Hoa. Liền tùy hỷ tác chứng. Từ „vui lớn nói dùng Như Lai thần lực“ trở đi. Phần thứ 2 làm rõ chỗ phân thân từ xa đến. Việc nầy có 7 phần. Một là vui nói thỉnh thấy Đa Bảo. Hai là ưng tập phân thân. Ba là vui nói thỉnh đến. Bốn là phóng quang từ xa đến. Năm là chư Phật cùng đến. Sáu là nghiêm tịnh cõi nước. Bảy là đồng muốn mở cửa tháp.
Giải thích về phần thỉnh đầu tiên rằng: Nhờ vào thần lực của Phật muốn mở cửa tháp để thỉnh Phật. Tập Phật tức là phụ thuộc. Phụ thuộc tức là mời những vị ở phía dưới. Phía dưới xuất hiện tức là muốn mở gần, hiển xa. Đây là nguyên do của việc lớn. Há chẳng phải nhờ vào thần lực của Phật, nên mới hỏi. Ngoài ra như đoản văn ấy.
Từ „lúc bấy giờ Phật phóng bạch hào“ trở đi. Phần thứ 4 phóng quang mời đến. Ba là biến thành đất sạch. Đây là lý do chính của Tam Muội. Tam Muội lại có 3. Đầu tiên biến Ta Bà, là bội xả hay biến dơ thành sạch. Kế đến là biến 200 Na Do Tha. Đây là thắng xứ chuyển biến tự tại. Sau đó biến 200 Na Do Tha. Đây là tất cả xứ ở cảnh không ngại. Lại nữa lần đầu, một biến tịnh là biểu hiện tịnh trừ Tứ Trụ. Kế đến một là biến tịnh, biểu thị cho tịnh trừ trần sa. Sau đó một, biến tịnh biểu hiện cho tịnh trừ vô minh. Lúc ấy chư Phật ngồi trên tòa Sư Tử. Phần thứ 7 là cùng muốn mở cửa tháp lại có 5. Một là chư Phật hỏi thăm nhau; hai là Đức Thích Ca mở tháp; ba là 4 chúng đều cùng thấy nghe; bốn là 2 Đức Phật phân chia chỗ ngồi để ngồi; năm là 4 chúng thỉnh thêm. Chư Phật đều cùng muốn mở cửa tháp. Tác pháp như trong tăng cùng với ý muốn. Sự tập hợp to lớn làm sáng tỏ chỗ ý Phật muốn. Hoa Nghiêm lại nói mười phương cùng Phật đồng nói Hoa Nghiêm. Đại Phẩm lại nói rằng: Một ngàn vị Phật cùng nói Bát Nhã. Tất cả đều chẳng nói là Đức Thích Ca phân thân. Chuẩn kim kinh là giống với phân thân nầy. Kia mang phương tiện; cho nên trong lúc ấy chẳng hiển nói vậy. Nay kinh chẳng phải thường hay là số nhiều; lại nói thẳng là phân thân, hàm chứa việc đến và sự mong cầu.
Từ „lúc bấy giờ Đức Thích Ca thấy“ trở đi. Phần thứ 2 là mở tháp; tức là khai quyền. Thấy Phật tức là hiển thật. Lại là chứng trước, lại sẽ khai sau. Như gỡ chìa khóa cửa là gỡ đi động cơ chướng ngại vậy. Từ „dùng âm thanh lớn“ trở đi. Phần thứ 2 Đức Thích Ca xướng lên qua tâm lưu thông với con người. Lại nữa chia làm 3. Một là tiếng lớn xướng tên của Như Lai chẳng lâu dài. Phần thứ 2 là làm rõ sự phụ thuộc lúc đến. Từ „Phật muốn dùng“ trở đi. Phần thứ 3 là làm rõ sự phó chúc có nơi đó. „Hữu tại“ nghĩa là nếu Phật ở đời thì tùy cơ lợi vật. Tự nói chánh pháp, chẳng chờ người khác. Nay Phật hóa duyên, cơ ấy đã hết và muốn làm cho pháp nầy được lợi ích, vô cùng; cho nên liền phó chúc lưu thông. Phó chúc ấy „hữu tại“. Hữu nầy có 2 ý. Một là gần gũi làm cho có sự hiện diện. Phó chúc cho 8 vạn, 2 vạn cựu trụ Bồ Tát ở quốc độ nầy để hoằng khai. Hai là xa xôi làm cho hữu tại; giúp cho đệ tử chính ở nhiều ngàn thế giới vi trần phía dưới, làm cho xúc xứ lưu thông. Lại phát khởi thọ lượng. Kệ có 48 hàng, tụng phần bên trên 3 ý. Đầu tiên có 3 hàng rưỡi. Tụng Đa Bảo diệt độ. Phần thứ 2 có 8 hàng rưỡi, tụng về phân thân tập hội. Phần thứ 3 có 36 hàng, tụng về Thích Ca phó chúc. Phần trước 2 như câu văn.
Từ „Bảo Đại chúng rằng“ trở đi. Phần thứ 3 lại có 2. Tám hàng rưỡi đầu cùng với 3 Phật, dùng sự khuyến hóa lưu thông. Kế đến có 27 hàng rưỡi đưa ra việc khó giữ gìn pháp và dùng sự khuyến hóa lưu thông. Tựu chung phần đầu có 3. Một hàng rưỡi đầu là xuyên qua tâm của con người. Kế đến từ „Đa Bảo nầy“ trở đi. Phần thứ 2 có 3 hàng, chính thức đưa ra 3 vị Phật dùng làm sự khuyến khích trì kinh. Kế đến từ „việc nầy có thể giữ gìn“ trở đi. Phần thứ 3 có 4 hàng hay trì kinh nầy. Tức là cúng dường 3 Phật cùng với việc gặp 3 Phật. Dùng sự giải thích và ý khuyên giải. Từ „chư thiện nam tử“ trở đi. Phần thứ 2 có 27 hàng rưỡi, đưa việc pháp khó giữ, lấy đó làm sự khuyến khích lưu thông; lại có 2. Hai mươi hàng đầu chính thức đưa ra việc khuyến khích. 27 hàng rưỡi giải thích ý khuyến khích. Tựu chung đầu tiên ấy lại có 3. Một hàng đầu khuyến khích huấn dục. Kế đến „ngoài ra các kinh điển“ trở đi. Phần thứ 2 có 17 hàng, chính thức đưa ra việc khó giữ gìn và lấy đó khuyến khích lưu thông.
Từ „sau ta vì Phật đạo“ trở đi. Phần thứ 2 có 2 hàng giải thích ý khó giữ gìn. Nếu có người hay thọ trì tức là giữ gìn thân Phật. Ý nầy há dễ. Phần thứ 2 là „chư thiện nam tử“, với ta“ trở đi có 7 hàng rưỡi làm sáng tỏ có thể trì, khó trì, hay thành thắng đức, lấy ý ấy để giải thích khuyến tấn. Tựu chung điều nầy lại có 3. Một hàng rưỡi đầu nói về lần nữa người ham trì kinh. Kế đến „kinh nầy khó trì“ trở đi. Phần thứ 2 gồm một hàng rưỡi làm sáng tỏ việc hay trì, khó trì, liền đó chư Phật hoan hỷ tán thán.
Kế đến từ „cho nên dũng mãnh“ trở đi. Phần thứ 3 có 4 hàng rưỡi, làm sáng tỏ chỗ hay trì, khó trì tức là thành thắng hạnh. Thắng hạnh ấy có tự, tha.
Bố úy thế, bên Thiên Trúc gọi là Sa Bội. Ở đây gọi là Bố Úy Thiên Trúc; còn gọi là Liêu Đà. Ở đây nói sự khác nhau của Hiền Kiếp. Giải thích về Phẩm Đề Bà Đạt Đa
Lúc sanh tiền người, trời tâm thục. Nhơn đây mà
đặt nên tên gọi. Tức là do nhơn duyên để giải thích về tên. Nguyên nhân thực hành thì nghịch; nhưng lý lại thuận; tức là ý của Viên Giáo; chẳng phải là ý của giáo khác. Bản địa thanh lương, Tích ấy chỉ cho Thiên Nhiệt, giống với bịnh của chúng sanh.
Bảo Xướng Kinh Mục nói rằng: Phàm là Pháp Hoa có 4 cách dịch; 2 còn và 2 mất. Đàm Ma La Lợi. Đây là nói Pháp Hộ, Tây Tấn Trường An dịch, gọi là Chánh Pháp Hoa. Pháp Hộ nhưng phu diễn. An Trấp sở thừa là Cưu Ma La Thập. Ở đây dịch là Đồng Thọ, người thuộc nước Quy Tư. Nhân đời Ngụy Tần, năm Hoằng Thỉ thứ 5 nhằm ngày 23 tháng 4 lưu lạc đến Trường An và dịch Đại Phẩm xong. Đến mùa hè năm thứ 8 ở Thảo Đường tự, dịch Diệu Pháp Liên Hoa nầy, ra lệnh cho Tăng Duệ giảng. Duệ mở ra 9 triệt. Đương thời có 28 phẩm. Cư dân ở Trường An thỉnh phẩm nầy giữ lại bên trong. Cho nên khi truyền đến Giang Đông chỉ còn 27 phẩm.
Đến đời nhà Lương có Mãn Pháp Sư giảng kinh 100 biến; rồi thiêu thân ở quận Trường Sa. Nhưng lấy phẩm nầy để trước phẩm an trì. Vị ấy tự mình an lòng, chẳng nghe thiên hạ. Trần có Nam Nhạc Thiền Sư; kế đến phẩm nầy sau đó tại Bảo Tháp. Sau đó lấy làm Chánh Pháp Hoa. Thật là cân xứng. Nay thì bốn việc nhàm ấy hỗn tạp hòa lẫn. Thấy Trường An có bản cũ; cho nên rõ biết 2 vị Sư sâu được ý kinh. Đề Bà Đạt Đa lại gọi là Đạt Đẩu. Ở đây dịch là Thiên Nhiệt. Kẻ nầy phá tăng cùng với 500 vị Tỳ Kheo đi khỏi. Thân Tử (Xá Lợi Phất) nhắm nghiền mắt. Mục Liên mang chúng trở lại. Khi mở mắt ra phát ra lời thệ, thệ báo oán nầy; dùng gậy và 30 đấu gạch đá, nhiều bằng 15 khuỷu tay dùng để ném Phật. Sơn thần che tay, đá nhỏ đúng vào chân Phật, bị thương và ra máu. Bảo Xà Vương (Vua A Xà Thế) thả voi say ra để giẵm lên Phật. Làm cho Hoa Sắc Tỳ Kheo Ni chết. Bỏ độc vào 10 trái dưa muốn lễ chân Phật và gây thương tích cho Phật. Đây là tội ngũ nghịch. Nếu tạo ra 3 nghịch và dạy cho vua bỏ đồ độc vào trái dưa để hại Phật; nhưng Phật đã nhiếp hóa. Dùng việc nầy để phản nghịch. Lúc sống, trời người tâm nhiệt. Từ đấy được tên gọi là Thiên Nhiệt. Đây là Tích. Nếu theo gốc để giải thích thì: Chúng sanh phiền não; cho nên Bồ Tát lại nhiệt (tâm). Cũng giống như bịnh nầy hành khổ mà được qua khỏi. Phẩm nầy theo ý thì dẫn dụ như xưa để hoằng truyền lợi ích kinh điển, chẳng phải ngoa. Làm sáng tỏ, nay tuyên nói sự việc qua kinh nghiệm chẳng hư. Đưa ra việc khuyến tấn; nay làm cho lưu thông.
Câu văn lại có 2. Một là sanh xong trước Phật, liên hoa hóa sanh. Làm rõ việc ngày xưa Đạt Đa thông hiểu kinh điển, Thích Ca thành đạo. Hai là từ „ở thời ấy cõi dưới, nơi Đa Bảo, từ Bồ Tát“ trở đi làm sáng tỏ việc ngày nay Văn Thù thông kinh, Long Nữ làm Phật. Bẩm giáo thượng nhiên, tuyên thông công ích, há chẳng lớn sao! Cho nên Đề Bà Đạt Đa thọ ký. Văn Thù có thể rõ ý v.v...
Phần thứ nhất có 3. Một là làm rõ việc từ xưa đến nay cái tướng trì kinh của Thầy trò. Hai là kết hội xưa nay và ba là khuyên tin. Phần thứ nhứt có trường hàng kệ tụng. Trường hàng lại có 4. Một là làm sáng tỏ về thời tiết lúc cầu pháp. Hai là đối với trong nhiều kiếp ở giữa và thấp hơn; chánh thức làm rõ việc cầu pháp. Ba là lúc ấy có tiên nhơn trở đi, làm sáng tỏ chỗ cầu được pháp sư. Bốn là vua nghe rồi sáng tỏ và thọ pháp phụng hành. Phần thứ nhất như câu văn, đối với nhiều kiếp giữa và dưới. Phần 2 lại có 2. Một là làm sáng tỏ sự phát nguyện. Vì muốn đầy đủ. Hai là làm sáng tỏ chỗ tu hành. Trong việc hành ấy lại có 2. Một là làm sáng tỏ việc muốn Tín Đồ siêng năng hành trì bố thí như câu văn. Hai là thời thế, nhơn dân làm sáng tỏ vì sự đầy đủ Bát Nhã truy cầu diệu pháp. Kệ có 7 hàng rưỡi, tụng bên trên về trường hàng. Hai câu đầu tụng phần một là thời tiết lúc cầu pháp. Kế đến là tuy làm. Phần thứ 2 gồm 1 hàng rưỡi. Tụng phần 2. Chính thức cầu pháp. Kế đến „thì có A Tư“ trở đi. Phần thứ 3 gồm 1 hàng rưỡi, tụng phần thứ 3 được thuyết pháp sư. „Lúc ấy Vua nghe Tiên nói“. Phần thứ 4 có 2 hàng rưỡi, tụng về việc thọ pháp phụng hành.
„Sau đó lại chẳng vì đây“ trở đi. Phần thứ 5 gồm 1 hàng rưỡi kết chứng khuyến tin.
Từ „bảo chư Tỳ Kheo! Vua là“ trở đi. Phần thứ 2 là kết hội xưa nay, lại có 2. Một là chính thức kết hợp xưa nay với câu văn. „Do Đề Bà“ trở đi. Phần thứ 2 làm rõ việc Thầy trò công báo đầy đủ. Trong sự đầy đủ ấy lại có
2. Trước tiên làm sáng tỏ đệ tử nguyên nhân của báo đã mãn. Kế đến „Phật bảo tứ chúng“ trở đi. Phần thứ 2 là làm sáng tỏ việc Pháp sư, quả lành sẽ thành. Trong đệ tử ấy lại có 3. Trước tiên là làm sáng tỏ cái nguyên nhân đầy đủ. Kế đến 32 tướng. Làm sáng tỏ các quả tròn đầy. Sau đó tất cả là nguyên nhân Đề Bà. Kết luận chứng minh cho việc thông kinh là lợi ích.
Đầu tiên là đầy đủ 6 Ba La Mật. Độ nghĩa là thật nhiều. Như Đại Luận nói: Xả bỏ và nương tựa vào chánh; nên gọi là Đàn. Phòng chỉ thất chi gọi là giới. Dã mạ (mắng chửi) chẳng báo gọi là nhẫn. Vì công việc thị chung, gọi là tinh tấn. Bốn thiền bát định gọi là Thiền. Phân địa liền tránh, gọi là Bát Nhã. Lại nữa nếu gom thập thiện thành 6 là từ chẳng sát sanh đến chẳng vọng ngữ là Đàn. Chẳng nói 2 lưỡi là Thi; chẳng ác khẩu là Nhẫn; chẳng ỷ ngữ là Tinh Tấn; chẳng tham sân là Thiền; chẳng tà kiến là Bát Nhã. Bồ Tát Thiện Giới quyển 10 nói rằng: Lục Ba La Mật có 3 loại. Một là đối trị. Nghĩa là keo kiệt thì ác, sân thì lười, loạn là si v.v... Hai đó là tương sanh; nghĩa là bỏ nhà, trì giới, gặp nhục liền nhẫn. Nhẫn rồi tinh tấn, tinh tấn rồi điều hòa 5 căn. Căn điều phục rồi, rõ biết Pháp giới. Ba đó là quả báo. Giàu có đầy đủ 6 lực, thọ mạng an biện. Lại nữa ngoài ra những kinh khác nói rằng: Quả báo của việc bố thí là giàu có và quả báo của việc giữ giới là sanh vào đường lành. Quả báo của nhẫn nhục là đoan chánh, quả báo của tinh tấn là thần thông. Quả báo của thiền định là sanh thiên; quả báo của trí tuệ là phá phiền não. Như vậy, tất cả thí dụ ấy đều là tam tạng làm rõ tướng của lục đạo vậy. Nếu thí, thọ, tài vật 3 việc ấy tất cả đều không; nên gọi là Đàn. Chẳng thấy việc trì và phạm; nên gọi là giới. Hay nhẫn việc khó nhẫn gọi là nhẫn. Thân tâm chẳng động, gọi là tinh tấn. Chẳng loạn, chẳng mê muội, gọi là Thiền. Chẳng trí chẳng ngu; gọi là Bát Nhã. Như vậy thông suốt qua các thí dụ tức là thông giáo trong tướng của lục độ. Nếu nói Đàn thì có 10 lợi. Keo kiệt, phiền não, xả tâm tương tục cùng với chúng sanh giống nhau của riêng. Sanh vào nhà giàu có; sự sanh ấy là do bố thí trước đó. Bốn chúng ái lạc xứ, chúng không khiếp sợ; nổi tiếng khắp nơi; tay chân mềm mại. Cho đến ở đạo tràng thường gặp những bậc thiện tri thức.
Giới có 10 lợi. Đầy đủ tất cả trí, như sở học của Phật. Trí là chẳng hủy bỏ lời thệ nguyện, chẳng thoái lui, an trụ nơi hạnh nguyện. Bỏ lại sanh tử, ham vui Niết Bàn, được tâm chẳng trói buộc, được cả Tam Muội; chẳng nghèo, tin vào tài vật.
Nhẫn lại có 10 lợi. Đó là lửa, đao, nước độc, tất cả đều chẳng thể hại được. Phi nhơn hộ trì, thân tướng trang nghiêm. Đóng cửa ác lại, sanh vào cõi trời Phạm Thiên. Ngày đêm thường an lạc, thân chẳng lìa khỏi niềm vui.
Tinh tấn cũng có 10 lợi. Đó là: kẻ khác chẳng thể đánh bại. Phật gìn giữ, phi nhơn hộ trì. Nghe pháp chẳng quên, chưa nghe có thể nghe. Tăng trưởng biện tài, được tánh Tam Muội. Ít bịnh não, tùy theo việc ăn uống có thể tiêu hóa. Như hoa Ưu Đàm tăng trưởng.
Thiền có 10 lợi. Đó là an trụ nơi nghi thức, thể hiện cảnh giới từ bi, chẳng hối nhiệt. Giữ gìn các căn, được niềm vui không cần ăn uống. Lìa ái dục, tu thiền bất không. Ra khỏi lưới ma, an trụ nơi cảnh giới của Phật; thành tựu sự giải thoát.
Bát Nhã có 10 lợi. Đó là chẳng chấp nơi tướng bố thí; chẳng nương vào giới; chẳng trụ ở nhẫn lực; chẳng lìa sự tinh tấn nơi thân tâm. Thiền không chỗ trụ; ma chẳng thể nhiễu hại được. Ngôn luận của kẻ khác, chẳng thể động. Đạt đến việc sống chết; cuối cùng khởi lòng thương cao cả. Chẳng vui với quả vị của Nhị Thừa.
Bốn việc trên thực hiện ở Đàn. Một là kẻ tu đạo, phá sự tham lam keo kiệt. Hai là trang nghiêm Bồ Đề. Ba là mình, người lợi ích. Muốn thí, lúc thí, thí rồi; tất cả đều hoan hỷ; nên gọi là tự lợi. Đói khát được miễn trừ; nên gọi là lợi tha. Bốn là đời sau được quả lành lớn. Đời sau được nhiều tôn quý, tài sản của cải.
Bốn việc trên thực hiện ở việc trì giới. Đó là tự tu thiện pháp, diệt trừ giới ác; trang nghiêm Bồ Đề, nhiếp hóa chúng sanh. Khi ngủ yên; chẳng hối hận. Nơi chúng sanh, không có tâm hại. Sau thọ quả báo trời, người được vui cảnh Niết Bàn.
Bốn việc nên tu nhẫn. Tu nhẫn là trừ việc chẳng nhẫn được. Trang nghiêm Bồ Đề, nhiếp hóa chúng sanh. Đây, kia lìa lo sợ. Đời sau chẳng sân, quyến thuộc không hoại, chẳng thọ khổ não. Được trời người và Niết Bàn an lạc
Bốn việc nên tu tinh tấn. Tinh tấn phá trừ sự giải đãi, trang nghiêm Bồ Đề, nhiếp phục chúng sanh. Tăng trưởng pháp lành là tự lợi; chẳng não hại kẻ khác là lợi tha. Sau được lực lớn thẳng tiến Bồ Đề.
Bốn việc nên tu Thiền Định. Định là phá trừ tâm loạn, trang nghiêm Bồ Đề; nhiếp hóa chúng sanh. Thân tâm tịch tĩnh là tự lợi; chẳng não chúng sanh là lợi tha. Sau được thân thanh tịnh. An ổn được Niết Bàn.
Bốn việc nên tu Bát Nhã. Trí huệ phá trừ vô minh; trang nghiêm Bồ Đề, nhiếp hóa chúng sanh. Trí huệ tự vui là tự lợi; hay giáo hóa chúng sanh là lợi tha. Hay diệt trừ phiền não và trí chướng v.v... là quả lớn. Như thí dụ nầy. Là biệt giáo làm sáng tỏ lục độ tướng. Nguyệt Tạng phần một nói rằng: Nếu chúng sanh chỉ nương vào sự đọc tụng, cầu bồ đề thì người nầy đắm trước thế tục; thường chẳng trừ khử phiền não, làm sao có thể điều phục kẻ khác. Người nầy chấp trước tật đố; gọi là lợi phú quý. Cống cao ngã mạn là khinh mạn hủy báng kẻ khác. Thường chẳng được căn lành nơi cõi dục huống hồ là căn lành ở cõi sắc hay vô sắc. Hà huống là Nhị Thừa Bồ Đề.
Huống nữa là vô thượng Bồ Đề; như sức nóng của ngôi sao, không thể làm khô biển cả được. Khẩu khí chẳng thể làm cho núi bị giao động. Ngó sen, tơ tằm chẳng tạo thành đồi núi. Cái gì ở trong đời chẳng thể mãn Bồ Đề. Cái gì là đệ nhứt nghĩa ? Đó là tạo ra tất cả những việc phước. Hoặc tu thân, tu tâm, tu huệ. Dùng đệ nhứt nghĩa để huân tu; tức là mau đầy đủ lục Ba La Mật. Hoặc đi, hoặc ngồi, xả phan duyên, tưởng là Đàn. Xả phan duyên, chẳng phạm; gọi là Thi. Ở cảnh giới chẳng sanh bệnh nhọt là lẫn lộn. Chẳng xả nơi lìa là tinh tấn. Đối với việc chẳng buông lung là Thiền. Đối với các pháp, thể tánh chẳng sanh là Bát Nhã.
Lại nữa đối với âm xả là Đàn. Chẳng kể niệm ấm là Thi. Đối với ấm, vô ngã tưởng là lẫn lộn (sằn). Đối với ấm khởi oán tưởng là tinh tấn. Đối với ấm, chẳng đốt cháy là thiền. Đối với ấm, rốt ráo bỏ tức là Bát Nhã.
Đối với cảnh giới xả là Đàn. Đối với cảnh giới chẳng nhiễu trược là Thi. Đối với giới, xả bỏ nhân duyên là Sằn. Đối với cảnh giới, số số xả bỏ là tinh tấn. Đối với cảnh giới, chẳng khởi phát là Thiền. Đối với cảnh giới như huyễn tưởng là Bát Nhã. Những điều như vậy là đệ nhứt nghĩa đế, thiện xảo phương tiện, thậm thâm yếu pháp. Hay đủ sáu Ba La Mật. Dùng pháp nầy tự vi, vi tha. Ba đời Bồ Tát tất tu pháp nầy thành Bồ Đề; cho nên phi thế tục vậy. Pháp nầy hay tưởng đến chúng sanh ở con đường phiền não và khổ sở. Ở yên nơi đạo Bồ Đề. Hoa Nghiêm thất địa mới làm sáng tỏ niệm niệm đủ 10 Ba La Mật, tu tập tất cả Phật Pháp, để cầu Phật đạo, thiện căn; cùng với tất cả chúng sanh là Đàn. Hay diệt trừ tất cả phiền não nhiệt là Thi. Đối với tất cả chúng sanh, chẳng có chỗ bị thương là nhẫn. Cầu việc lành không chán là tinh tấn. Tu đạo, tâm chẳng tán loạn, thường hướng đến tất cả trí là Thiền. Nhẫn các pháp không sanh môn là Bát Nhã. Hay khởi vô lượng trí môn là phương tiện. Cầu chuyển thắng trí là nguyện. Tà ma chẳng thể làm trở ngại là lực. Đối với tất cả pháp tướng, nói như thật. biết được thật. Đây là 10 Ba La Mật đầy đủ vậy.
Bốn nhiếp đạo phẩm, 3 giải thoát, tất cả các pháp trợ Bồ Đề. Đối với trong từng niệm niệm, tất cả đều đầy đủ. Các địa đều niệm niệm đầy đủ. Địa nầy là hơn cả. Như thí dụ nầy là tướng lục độ của Viên Giáo. Kế đến 32 tướng phía dưới sẽ làm sáng tỏ cái quả của Viên. Ba mươi hai tướng ấy là:
Bàn chân bằng thẳng vững chãi; gót chân nhô lên như mu rùa. Tướng do kiên cố bố thí nên có hàng ngàn nan hoa, an ủi kẻ sợ hãi. Chân dài, tay dài, ngón chân dài, tròn thẳng với thân. Ba tướng ấy cùng một nghĩa là chẳng sát giới. Bảy xứ đầy đủ, mi, trán, tay, chân đều đầy đủ. Nghĩa là thường là thí chủ. Tay chân hợp lại mềm mại, nhu nhuyến. Đó là Tứ Nhiếp. Bàn chân ngay ngắn chẳng hiện ra lông và xoay về phía bên phải. Ba tướng cùng một, hay dùng pháp lành để nhiêu ích chúng sanh. Xương đều và tướng của ruột như nai chúa, dùng kinh thơ dạy người chẳng kiểu cách. Da mũi chẳng dính bụi dơ là một tướng. Như hỏi liền đáp. Tướng màu hoàng kim. Nhẫn nhục thích thú y phục. Nam căn ẩn sâu. Có tướng hòa hợp tranh tụng, thân cao như Phạm Thiên. Tay dài quá đầu gối là một tướng. Với tâm từ bi dạy dỗ. Vai đầy đặn. Ngực rạng ngời như ngực Sư Tử. Ba tướng ấy cùng một. Hay khiến cho sự bố thí được tăng trưởng. Ngực có chữ vạn là tướng chẳng làm não hại chúng sanh. Lông mi như Ngưu Vương. Hai tướng ấy cùng một; chẳng dùng sự nhuế ái để nhìn chúng sanh. Trên đỉnh đầu có tóc xanh. Hai tướng ấy làm một. Những công đức ở tại trước người. Một lỗ chơn lông có một ánh sáng. Hai tướng ấy cộng lại là chẳng nói dối. 40 răng trắng trong. Hai tướng ấy cộng lại chẳng nói hai lưỡi. Lưỡi dài, rộng, tướng Phạm thinh. Hai tướng ấy cộng lại là chẳng nói lời thô ác. Hai má như Sư Tử, tướng nầy chẳng ỷ ngữ. Bốn răng đều nhau là lìa khỏi tà mạng. Tất cả chúng sanh công đức sánh với một sợi lông của Phật. Những sợi lông công đức của Phật sánh với một vẻ đẹp. Những vẻ đẹp ấy là một tướng. Các tướng ấy cùng với lông trắng, nhục kế. Bạch hào, nhục kế trăm ngàn vạn ức, cho đến thành tiếng của Phạm Thiên.
32 tướng ấy nguyên nhơn tuy khác nhau mà nếu luận về nguyên nhơn chân thật thì do tinh tấn trì giới. Tinh tấn không giới thường chẳng được thân của người, trời; hà huống là tướng khác sao? Đây chính là tam tạng giáo tướng bổn vậy. Không, vô sanh là Thông giáo tướng bổn. Đạo chủng trí là Biệt giáo tướng bổn. Thật tướng là Viên giáo tướng bổn.
80 vẻ đẹp gồm: 20 chỉ tay, chân biểu hiện. 8 nơi bằng thẳng đầy đủ nơi mắt cá chân, đầu gối và đùi vế 6 nơi đều tốt đẹp. Vai đầy, khuỷu tay, bàn tay 6 nơi đầy đủ. Hai xương hông có 3 nơi tốt đẹp. Nơi tiểu tiện hai chỗ ẩn sâu. Hai bắp tay, hai lưng và eo có 2. Sườn, nách nhô lên, 6 nơi ở bụng, ngực, lưng, trán đầu có 4. Răng trên, dưới và môi trên dưới khít khao. Hai má, hai lông mày, hai mắt, hai lông mi, hai lỗ mũi, trán cao, hai nách, hai tai, đầu tròn. Nếu phân biệt 4 loại nghĩa của vẻ đẹp thì theo tướng ấy có thể rõ.
Từ „bảo chư tứ chúng“ trở đi. Phần thứ 2 làm sáng tỏ việc Thầy, diệu quả sẽ thành. Trong sự ấy lại có 3. Đầu tiên là làm sáng tỏ chánh quả thành tựu. Kinh Phân Đà Lợi (Pháp Hoa) nói rằng: Điều Đạt làm Phật, hiệu là Đề Hòa La Gia. Tiếng Hán gọi là Thiên Vương. Nước tên là Đề Hòa Việt. Tiếng Hán gọi là Thiên Địa.
„Lúc bấy giờ Thiên Vương khi Phật ở đời 20“ trở đi. Phần thứ 2 làm sáng tỏ sự hóa độ. „Lúc ấy Thiên Vương khi Phật vào Niết Bàn“ trở đi. Phần thứ 3 là sự lợi ích sau khi diệt độ. „Phật bảo Tỳ Kheo“ trở đi. Phần thứ 3 khuyên tu như câu văn.
Liên Hoa hóa sanh theo Thai Kinh nói rằng: Khi Liên Hoa sanh, chẳng phải thai, noãn, thấp, hóa mà là hóa sanh. Chẳng hóa mà nói là hóa vậy. Thật chẳng giống như 4 loại sanh trong đó có hóa sanh.
Thỉnh Quan Âm rằng: Liên Hoa hóa sanh là cha mẹ. Vô Lượng Thọ Quán nói rằng: Ở lâu nơi đài hoa là thai sanh; nhưng thật ra chẳng phải là thai. Ví dụ như hoa sen sanh lại gọi là thấp, noãn, mà chẳng phải thấp, noãn v.v...
„Lúc ấy nơi hạ phương“ trở đi. Phần thứ 2 làm sáng tỏ ngày nay Văn Thù Thông Kinh lợi ích lại có 2. Đầu tiên là làm rõ chỗ Văn Thù thông kinh. Hai là „từ Văn Thù nói rằng: ta ở trong biển ấy“ trở đi là làm sáng tỏ chỗ lợi ích. Phần thứ nhất lại có 5. Một là làm sáng tỏ Trí Tích thỉnh lui. Phần Đà Lợi kinh nói rằng: Hạ phương Phật từ chỗ Bồ Tát gọi là Bát Nhã Vật La. Hán dịch là Trí Tích. Phần thứ 2 từ „Thích Ca“ trở đi, làm sáng tỏ việc Đức Thích Tôn dừng lại và ra lệnh chờ sự chứng minh việc thông kinh lợi ích. Trí Tích nghĩa là Đa Bảo vì chúng sanh mà xuất hiện. Khuyên việc lưu thông đã xong; nên rút lui. Thích Ca dừng lại tuy là Tích Môn việc đã xong, mà Bản Môn thì chưa ảnh hưởng. Cho nên bảo Văn Thù giữ Đa Bảo. Phật có một ý, không phải Bồ Tát thì chẳng rõ.
Từ „lúc bấy giờ Văn Thù“ trở đi. Phần thứ 3 Văn Thù tìm đến. Phần 4 là Trí Tích Bồ Tát. Trí Tích hỏi chỗ hóa cơ. Năm là Văn Thù Sư Lợi nói: Văn Thù đáp chẳng dùng miệng để tuyên dương. Tựu chung phần 5 nầy lại chia ra 7. Một là đáp sự lợi ích sâu xa. Chỗ nói chưa xong. Hai là mông ích tập chứng. „Các Bồ Tát nầy“ trở đi. Phần thứ 3 tất cả đều được Văn Thù hóa độ. Chỉ những người Thanh Văn. Phần thứ 4 là gốc của các Thanh Văn. Đầu tiên là thưa về quyền giáo, trụ ở con đường Nhị Thừa. Phần Đà Lợi kinh nói rằng: Liên Hoa từ ao mọc lên, gốc ấy phát tâm Bồ Tát. Hoa nầy ở trên không, nói Ma Ha Diễn sự. Gốc ấy phát tâm Thanh Văn. Hoa ở tại không trung thường nói việc dứt lìa sanh tử.
Từ „nay tất cả tu hành“ trở đi. Phần thứ 5 nay nghe thật giáo, tất sẽ trụ ở pháp Đại Thừa. „Văn Thù nghĩa là Trí Tích“ trở đi. Phần thứ 6 Văn Thù kết luận về sự lợi ích. Từ „lúc bấy giờ“ trở đi. Phần thứ 7 Trí Tích dùng kệ để tán thán. Từ „Văn Thù nói ta ở nơi biển“ trở đi. Phần thứ 2 làm sáng tỏ sự lợi ích. Câu văn chia làm 9. Một là Văn Thù tự thục. Hai là Trí Tích hỏi. Ba là đáp. Bốn là Trí Tích chấp biệt giáo làm nghi. Năm là Long Nữ làm sáng tỏ Viên giáo và giải thích chỗ nghi. Sáu là Thân Tử hiếp tam tạng quyền nan. Bảy là Long Nữ dùng một sự thật trừ nghi. Tám là lúc chúng nghe thấy được lợi ích. Chín là Trí Tích Thân Tử mặc nhiên tin phục.
Phần thứ 5 Long Nữ làm sáng tỏ Viên Giáo giải thích chỗ nghi. Đầu tiên kinh thuật lại, hiện ra thưa thỉnh cung kính. Kế đến có 3 hàng rưỡi kệ lại chia làm 3. Nửa hàng đầu làm sáng tỏ việc trì kinh được hiểu rõ. Kế đến 2 hàng làm rõ sự thành tựu 2 thân. Một hàng sau đó dẫn Phật để làm chứng.
Tội, phước theo Ước giáo có 7 phương tiện chuyển làm. Nay ở câu kệ sâu xa đạt đến chẳng tội, chẳng phước, nhập vào một thật tướng. Gọi đây là sâu đạt. Thập phương tức là 10 pháp giới, cùng dùng thật huệ. Cho nên nói là chiếu khắp. Đầy đủ 32 tướng, sâu được cái lý của pháp thân; cho nên thêm có tướng tốt. Như Đại Phẩm làm sáng tỏ, muốn được tất cả pháp sẽ học theo Bát Nhã, như được châu như ý. Nhị Thừa hay được không; không, vô tướng hảo vậy v.v...
Phần thứ 6 Thân Tử (Xá Lợi Phất) lại hỏi. Trước tổng nói về việc khó tin, sau giải thích việc ra khỏi 5 ngại.
Phần thứ 7 Long Nữ hiện thành, minh chứng cho việc ấy có 2. Một là dâng châu báu được viên mãn, rõ biết. Hạt châu tròn tượng trưng cho sự tu nầy được nguyên nhân viên mãn. Dâng Phật là sẽ lấy nhơn khắc quả. Phật thọ liền là quả ấy rộng ra. Điều nầy tức là một niệm ngồi nơi đạo tràng, thành Phật chẳng hư. Hai là chánh thức chỉ nhơn viên mãn, quả tròn đầy. Thai Kinh nói rằng: Ma, Phạm, Thích Nữ tất cả đều chẳng bỏ thân, chẳng thọ thân. Tất cả ở nơi thân được thành Phật vậy. Kệ nói rằng: Pháp tánh như biển lớn. Chẳng nói là có, không. Phàm phu, hiền thánh, người – bình đẳng chẳng cao thấp. Chỉ tại tâm dơ nhớp; chấp chứng như tay ngược.
Phần thứ 8 „lúc bấy giờ Sa Bà“ trở đi, làm rõ lúc thấy, nghe lại có 2. Trước tiên làm rõ chỗ thấy nghe. Hai là người, trời hoan hỷ. Kia đây đều được lợi ích. Nam Phương duyên theo Thụ Nghi dùng 8 tướng thành đạo; còn ở nơi đây duyên theo Bạc Chỉ, dùng Long Nữ để giáo hóa. Đây là sức mạnh của quyền xảo vậy. Được một thân, tất cả thân và phổ hiện sắc thân Tam Muội vậy. Giải thích về Phẩm Trì
Hai vạn Bồ Tát phụng mệnh hoằng truyền kinh
điển; cho nên gọi là Phẩm Trì. Lại thêm khuyến khích 80 vạn ức Na-do-tha hoằng kinh nữa; cho nên gọi là phẩm khuyến trì.
Hỏi: Tại sao lại như vậy ?
Đáp: Hai vạn là ở phẩm Pháp Sư, đầu tiên là số lượng riêng. Cho nên phụng chỉ thọ trì. 80 vạn ức na-do¬tha cùng với trước, không biệt mệnh. Dừng lại là thông tim. Nay mắt Phật thấy làm cho phát thệ ra điều nầy và đất nầy thông kinh. Thông kinh chứng nghiệm, thâm ý sâu xa của Phật ân cần; cho nên khuyến khích về việc hoằng pháp. Lại có 2 ý. Tựu chung câu văn chia làm 2. Trước tiên làm rõ việc thọ trì. Câu văn đầu tiên ấy lại chia làm 3. Một là 2 vạn Bồ Tát phụng mệnh ở đất nầy trì kinh. Hai là 500 và 8.000 Thanh Văn phát thệ nguyện đến nước kia lưu thông. Ba là chư Ni thỉnh thọ ký.
Hỏi: Những vị Thanh Văn nầy đã thành Đại Sĩ vì sao chẳng thể ở đất nầy để hoằng pháp ?
Đáp: Vì dẫn kẻ sơ tâm ban đầu hành Bồ Tát chưa hay trong đời ác khó làm việc thông kinh. Lại nữa muốn mở ra nơi phẩm An Lạc Hạnh vậy.
Phần thứ 2 khuyến trì có trường hàng kệ tụng. Trường hàng ấy có 5. Một là Phật dùng mắt xem thấy. Hai là Bồ Tát thỉnh cầu. Ba là Phật yên lặng. Bốn là Bồ Tát rõ ý. Năm là phát lời thệ nguyện thông kinh. Mắt thấy, mặc nhiên khuyến thỉnh mà chẳng nói nên lời.
Từ trên đến đây tuy chưa biệt mệnh, mà đưa ra công đức của việc trì kinh, sâu xa dẫn chứng rõ ràng. Đa Bảo phân thân từ xa đến khuyến khích phát tâm. Đây là ý nghĩa ân cần đầy đủ. Có ý muốn mệnh tuyên; tức là phát thệ, không phiền và lại nói. Lại còn hộ trì cho lời nguyện của Thanh Văn ở tha phương; cho nên chẳng xưng dương. Kệ có 20 hàng, thỉnh hộ trì kinh; chẳng phân chia ra nhỏ. Tìm văn có thể rõ được. 17 hàng phía trước là bị nhẫn và nương theo đó hoằng kinh. Lần lượt 21 hàng sau là vào thất để hoằng kinh. Tiếp tục 31 hàng là ngồi chỗ ngồi để hoằng kinh. Kế tiếp 41 hàng tổng kết việc thỉnh thêm.
Trung A Hàm phần thứ 6 nói rằng: A Lan Nhã ở đây dịch là vô sự. Đầu Đà ở đây phiên dịch là Đẩu Số. Kinh Bảo Vân quyển thứ 6 nói rằng: A Luyện Nhi xứ Tỳ Kheo thấy Vua, Vương Tử, Bà La Môn cùng tất cả người đến, Tỳ Kheo xướng lên „lành thay có thể cùng ngồi xuống. Ông ta cũng cùng ngồi. Ông ta không ngồi, Tỳ Kheo lại cũng chẳng ngồi. Vì đó thuyết pháp làm cho hoan hỷ. Sau khi Phật diệt độ, cuối đời ác chẳng cùng thể thức với Tỳ Kheo. Tuy nói giới pháp mà được linh hoạt, mà ở nơi giới pháp chẳng vui làm. Trải qua 5 lần pháp thân; ngoài tất cả đạo pháp, lại cũng như thế. Nói như dùng lỗ mũi con người để nói Chiên Đàn, liền tự không có mùi thơm lại cũng chẳng tự nghe được. Trời, người, long thần, Cưu Bàn Trà rốt cuộc chẳng cúng dường người không có giới hạnh. Ngoài ra 4 phần lại nói như vậy. Chẳng có thể đến với Diệu Pháp. Tất nhiên phải do tịnh giới là chỗ khởi lên. Ngoài 4 ấy ra lại cũng như vậy. Nếu gặp kẻ sắp chết hay bịnh nặng, đau đớn bức bách, chẳng thể chạy chữa, thì nên niệm Phật Tam Muội, thường chẳng rời bỏ tất cả khổ nạn, cướp đoạt lấy tâm nầy. Người kia tự rõ biết, là pháp nầy vậy. Tức là rõ biết tất cả pháp đều không. Nhẫn nhục là áo giáp bằng đồng.
Trung A Hàm phần thứ 5 nói rằng: Vị Tỳ Kheo răng đen kêu oan với Phật rằng: Xá Lợi Phất mạ lỵ con và mắng con. Phật liền cho đòi Xá Lợi Phật đến để hỏi có thật mạ lỵ chăng ? Ngài Xá Lợi Phất thưa:
Tâm không định thì mới nói lời mạ lỵ. Còn tâm con đã ổn định rồi, sao có thể nói lời mạ lỵ được. Như Tê Giác gãy sừng chẳng thể chạm vào người đẹp được. Như đồng tử tàn ác, xấu hổ chẳng làm não hại người kia. Tâm con như đất, nước, gió, lửa. Tịnh hay chẳng tịnh, đại tiểu tiện, lấy nước sôi, nước rảy đổ lên người, vẫn thọ nhận, chẳng có lời mạ lỵ. Tâm nầy như chổi quét sạch. Tịnh hay không tịnh đều quét hết. Lại như cái bình bị vỡ để trong nhà, thường hay chảy rỉ. Tự quán cửu khổng (chín lỗ) thường chảy ra đồ bất tịnh. Sao còn mạ lỵ kẻ kia để làm gì ? Lại cũng giống như rắn, chó chết trói vào cổ của đồng tử thanh tịnh; xấu hổ tự thẹn mình; nên chẳng mạ lỵ kẻ kia.
Phật hỏi rằng: Những người xấu ác như vậy thì ông quán ra sao ?
Đáp rằng: Người có 5 loại. Một là thân lành mà miệng, ý chẳng lành. Hay nhớ chuyện lành nầy mà chẳng nhớ đến những chuyện chẳng lành. Như Tỳ Kheo mặc y bá nạp thấy phẩn dính xấu xa. Bên trái thì nắm, bên phải thì bỏ ra. Lìa bỏ cái bất tịnh và chỉ giữ cái sạch sẽ. Nghĩ rằng thân nầy sạch cho nên quy về cho thân của mình. Bỏ miệng, ý nầy lấy giới là miệng, ý của con. Lại nữa miệng thanh tịnh mà thân ý chẳng thanh tịnh. Lại nghĩ rằng miệng nầy, bỏ thân, ý nầy. Như khát nước gặp hồ nhiều cỏ, phá cỏ để tìm nước sạch, thân dừng lại sự khát. Lại nữa ý tịnh mà thân, khẩu không thanh tịnh. Lại nghĩ rằng ý nầy chẳng dùng cho thân, khẩu nầy. Như đi đường khát nước, nước còn ít dưới vũng chân trâu. Nếu ta dùng 2 tay lấy nước thì nước sẽ khuấy lên đục; nên quỳ gối xuống và dùng 2 tay đưa nhẹ vào miệng thì sẽ nhận được nước và trừ sự đỡ khát.
Lại nữa 3 nghiệp đều bất tịnh. Tuy chẳng thể dùng để khổ nhớ, ví như trên đường gặp bệnh nhơn, khiến đặt chỗ yên ổn. Nhớ việc chẳng sạch, liền được gặp thiện tri thức, chữa cho 3 nghiệp nầy; chớ làm cho đọa lạc vào tam đồ.
Lại có 3 loại đều tịnh. Thường nhớ nghĩ người nầy lấy sự tự huấn, hà huống là nhớ nghĩ chuyện nhỏ và nguyện nhỏ. Như hồ nước trong có nhiều hoa và cỏ. Khi khát vào đó thì được tỉnh lại. Thường nhớ nghĩ cảnh giới để lấy cái xấu của ta đi. Đây là trong 3 tạng giáo. Dùng khổ, vô thường, bất tịnh, vô ngã, không, làm áo giáp. Tỳ Bà Sa quyển thứ 8 nói rằng: Nhớ nghĩ mạ lỵ là một lời nói; ngoài ra tất cả đều hô hoán lên. Cuối ngày, sự hô hoán đối với ta là gì ? Lại nữa ở đây là lời nói thô lậu thấp hèn. Ở kia là lời nói xưng tán. Nếu ta cứ nhớ lời nói thấp hèn thì chẳng nơi nào được vui cả. Lại nữa xem chữ mạ lỵ nầy, nếu điên đảo vì chữ ấy tức là thành ra tán thán. Lại nữa mạ lỵ là một giới, ít phần; một nhập, ít phần; một ấm, ít phần. Mạ lỵ ít, chẳng mạ lỵ nhiều. Lại nữa ai thành tựu sự mạ lỵ thì kẻ mạ lỵ thành tựu. Thành tựu tự chính người kia. Đối với ta làm gì ? Lại nữa mạ lỵ ấy là một chữ. Một chữ chẳng thành mạ lỵ; hai chữ thành mạ lỵ. Chẳng phải một lúc mà gọi 2 chữ. Nếu gọi chữ sau thì chữ trước liền mất đi.
Lại nữa có thể mạ chỗ mạ một lúc; giống như một sát na cùng diệt thì đối với ta là gì ? Như vậy thì chỉ có dùng không để làm áo giáp vậy. Phẩm thứ 17 nói rằng: Phàm, Thánh đều có 3 thọ. Vì sao lại khác nhau ?
Phàm phu đối với việc khổ thọ, có 2. Một là thân thọ khổ; hai là tâm thọ sự sầu lo; như 3 mũi tên độc. Mất vui liền sân, được vui liền hoan hỷ. Chẳng khổ, chẳng lạc tức là si. Thánh nhơn hằng thọ thân mà chẳng có tâm thọ. Đối với việc khổ chẳng sân, đối với việc vui chẳng thích; đối với sự khổ chẳng vui, chẳng si. Ba sử chẳng thể sai sử được. Đối với sử được giải thoát; cho nên nói phàm thánh khác nhau. Như vậy có, không, sai, đúng. Điều nầy dùng Biệt giáo để làm chiếc áo giáp. Nay kinh làm rõ chiếc áo giáp nầy. Dùng niệm Phật làm chiếc áo giáp. Đây là niệm đến Pháp Phật đệ nhứt nghĩa. Phật tức là pháp. Câu văn nói rằng: Niệm Phật cáo sắc; tức là pháp vậy. Phật tức là Tăng; Tăng tức là cái lý đầy đủ của sự hòa hợp. Tỳ Lô Giá Na biến đến tất cả nơi, như chiếc áo giáp nầy vậy. Một chiếc áo giáp, tất cả chiếc áo giáp; tức là chiếc áo của Viên Giáo vậy. Giải thích Phẩm An Lạc Hạnh
Giải thích phẩm nầy chia ra làm 3. Nương vào
việc phụ của câu văn về pháp môn. Việc ấy chính là thân không nguy hiểm; cho nên an ổn. Tâm chẳng ưu não; cho nên vui vẻ. Thân an tâm lạc; cho nên hay thực hành tinh tấn. Câu văn phụ ấy là: Mặc áo của Như Lai, tức là pháp thân an ổn. Vào nhà của Như Lai cho nên tâm được giải thoát an lạc. Ngồi nơi tòa Như Lai; cho nên Bát Nhã đạo hạnh tinh tấn. Lời phụ nầy phẩm bên trên, câu văn được giải thích như vậy.
Trụ ở nhẫn nhục địa cho nên thân được an lạc, mà chẳng bạo loạn; cho nên tâm vui. Quán về thật tướng của các pháp; cho nên thường hay siêng năng tinh tấn. Lại nữa pháp môn ấy an lạc nên gọi là bất động. Vui nên gọi là vô thọ. Hạnh cho nên nói là vô hạnh. Chẳng động ấy là trong 6 đường sanh tử. Hai bậc Thánh ở Niết Bàn chẳng nên động; tức là chẳng duyên vào 2 nghịch; tức là thân chẳng giao động.
Câu văn trên nói rằng: Thân thể và tay chân; tịnh mà an vui chẳng động. Tâm nầy thường hay lo sợ, chưa hề có loạn động. Tức an trụ nơi bất động như đảnh Tu Di. Thường trụ ở pháp môn bất động vậy. Vui đây là chẳng thọ nhận việc dùng đến Tam Muội quảng đại. Chẳng thọ nhận ngũ thọ của phàm phu cho đến 5 thọ của Viên Giáo, sanh ra sự thấy; tất cả lại chẳng thọ. Có thọ tức là có khổ. Không thọ tức chẳng khổ. Vô khổ vô lạc lại có tên là vui lớn. Vô hành nghĩa là nếu có chỗ thọ, tức là có chỗ hành. Vô thọ tức là không chỗ hành. Chẳng làm hạnh phàm phu; chẳng hành hạnh hiền thánh; cho nên nói là vô hạnh; mà hành trung đạo; cho nên nói là hành; tức là pháp môn vậy. Nay lại giải rộng về việc nầy. Phàm nói an lạc tức là Đại Niết Bàn. Đây là gọi tên từ quả vị vậy. Hành tức là con đường Niết Bàn. Từ nguyên nhân được gọi tên. Ngoài ra nhơn quả đều khổ, như thường thấy ngoại đạo hành khổ hạnh lại được quả khổ. Nếu như nhơn vui, quả khổ thì như đoạn kiến ngoại đạo, tứ tình giữ niềm vui ấy, sau bị báo khổ. Nếu nhơn khổ quả vui, như bể pháp Nhị Thừa, vô thường vụng độ, gia thêm công khổ cho đến khi nhập Niết Bàn. Nay nói An Lạc Hạnh nghĩa là nhơn quả đều vui. Tức là Đại Phẩm như thật xảo độ. Đại Kinh nói rằng:
Định khổ hạnh là những kẻ phàm phu; khổ lạc hạnh là Thanh Văn, Duyên Giác. Định, lạc hạnh là các Bồ Tát. Cả 7 phương tiện nhơn thô, quả thô thì tất cả chẳng phải là hạnh an lạc. Riêng việc nầy nhơn lành, quả lành nên gọi là An Lạc Hạnh. Lại còn giải thích câu văn rộng rãi thêm nữa. An Lạc Hạnh là con đường Niết Bàn. Niết Bàn lại có 3 nghĩa. Đó là 3 đức mật tạng. Hạnh ấy lại có 3 nghĩa. Đó là chỉ hạnh, quán hạnh và từ bi hạnh.
Chỉ hạnh nghĩa là 3 nghiệp nhu hòa, vi lòng đều yên lặng; tức là thể pháp hành thân. Nghĩa là như câu văn trên, nương vào Đức Như Lai.
Quán hạnh nghĩa là một thật tướng huệ, vô phân biệt quán; tức là thể của Bát Nhã hạnh; tức là ngồi trên tòa Như Lai.
Từ bi hạnh nghĩa là Tứ hoằng thệ nguyện rộng độ tất cả chúng sanh; tức là thể giải thoát hạnh. Tức như câu văn bên trên ở nơi nhà của Như Lai.
Tổng cộng 3 hạnh nầy là con đường Niết Bàn. Tổng nơi 3 đức làm cảnh của hạnh. Cảnh xưng là an lạc, đạo ấy xưng là hạnh.
Đại Luận nói rằng: Bồ Tát từ sơ phát tâm thường quán Niết Bàn hạnh đạo; nhơn ấy là lúc dùng 3 hành pháp nầy. Đạo 3 nghiệp là hạnh. Ba nghiệp thanh tịnh tức là tịnh nơi 6 căn. Sáu căn nếu tịnh phát tương tợ giải mà được vào chơn. Quả ấy là Phật nhãn, nhĩ v.v... Nhơn ấy là chỉ hạnh. Quả ấy là đoạn đức. Nhơn ấy là quán hạnh; quả ấy là trí đức. Nhơn ấy là hạnh từ bi thì quả gọi là ân đức. Lại nữa, nhơn gọi là 3 nghiệp thì quả gọi là 3 mật. Nhơn là từ bi thì hướng dẫn 3 nghiệp lợi tha. Quả là 3 tên tam luân bất tư nghì hóa. Quán như vậy thì chẳng có gì lại phân biệt. Ở trong tất cả các pháp, tất có tánh an lạc. Tất cả chúng sanh tức đại Niết Bàn, chẳng thể mất được. Hành nơi phi đạo, thông đạt Phật đạo. Đây chính là tuyệt đối chờ đợi làm sáng tỏ An Lạc Hạnh. Hạnh nầy cùng với nghĩa Niết Bàn hợp nhau. Nói rằng:
Lại có một hạnh là Như Lai hạnh. Như Lai là người an lạc, là pháp. Như Lai là người an lạc. An lạc là pháp của Như Lai. Nói chung là nghĩa nầy chẳng khác biệt. Sự riêng biệt ấy chẳng khác. Điều nầy làm sáng tỏ sự tịch diệt nhẫn, pháp không, ngồi nơi nhà của Như Lai. Điều kia làm sáng tỏ về kim ngân bảo thọ; tức là vô lậu bảo lâm. Vô lậu cùng với không, tịch diệt nhẫn hợp lại. Cát vàng, sông lớn đều vào thẳng nơi biển Tây; tức là một thật huệ cùng với các pháp không hợp lại. Được đạo người nữ tức là chẳng cười đùa. Vô Duyên đại từ nầy cùng với nhà của Như Lai hợp lại. Điều ấy gọi là nghĩa vì vô dư. Đây gọi là: vì vô thượng đạo. Lại nữa nghĩa ngũ hành lại cùng với y áo, chỗ ngồi, nhà ở, ý ấy giống nhau vậy.
Hỏi: Đại Kinh làm sáng tỏ việc những người thân thuộc nương cậy và nhà vua rồi mang cung tên đi chinh phục kẻ ác. Kinh nầy xa lìa những thế lực; chỉ làm việc từ, cương nhu đều lánh. Vì sao lại chẳng thay đổi ?
Đáp: Đại Kinh biểu luận, cho đứa con ra ở một nơi riêng, sao gặp được mà chẳng nhiếp thọ. Kinh nầy biểu minh cho việc nhiếp thọ. Đầu tiên phá 7 phần, chẳng phải chẳng có sự bẻ gãy. Mỗi mỗi đưa ra sự đi đến đoan chánh, mà việc đã qua. Lý ấy đầy đủ có 4. Kẻ nào thích hợp thì xưng nghi, tức là thế giới ý nhiếp thọ; tức là ý vì người. Triết phục tức là ý đối trị. Ngộ đạo tức là ý đệ nhứt nghĩa. Giải thích pháp môn rộng rãi là nên làm sáng tỏ bất động môn, bất thọ môn và bất hành môn. Lược bớt chẳng nói ra vậy. Phẩm nầy là Tích Môn lưu thông ý thứ 4. Nếu có 2 vạn 80 ức Na Do Tha thọ mệnh hoằng truyền kinh điển thì sâu xa rõ biết quyền thật, rộng biết tiệm đốn, lại đạt được cơ duyên. Thần lực tự tại, trược thế não loạn, chẳng chướng thông kinh, chẳng đợi, liền chỉ cho phương pháp. Nếu đầu tiên nương vào tâm đầu tiên, muốn tu viên hạnh, vào cõi trước để hoằng kinh. Vì chỗ trược, não tự hành, chẳng đứng, lại chẳng hóa công. Vì người nầy cho nên đủ chứng minh chỉ bày phương pháp, làm sáng tỏ An Lạc Hạnh. Cho nên có phẩm nầy đến. Phẩm An Lạc Hạnh nầy có thứ tự ra sao ?
Như Pháp Hoa Viên Hạnh. Một hạnh chẳng sánh được nhiều hạnh. Chẳng thể nghĩ bàn, làm sao định được trước sau. Nay há cùng một ? Phẩm Pháp Sư lược bớt, chỉ bày sự hoằng kinh; tức là dùng sự lợi tha làm căn bản. Vào trong nhà sáng sủa. Trong đây phân tích việc ác trong đời, hoằng kinh để an các việc bức bách, não hại. Đầu tiên mặc áo Như Lai. Trước sau hỗ tương, hiện bày. Nếu theo Ước (giáo) thì các việc làm lần lượt là: Các pháp từ xưa đến nay thường tự tịch diệt tướng. Nếu trái với tịch diệt mà khởi tương ưng thì đầu tiên dùng Bát Nhã mông mênh tích lũy. Tức là đầu tiên ngồi chỗ ngồi nơi các pháp chẳng sanh, mà Bát Nhã sanh; giống với thể của từ bi, thương xót chúng sanh; cho nên hành đạo. Kế đến vào trong nhà Như Lai tức dùng từ bi để cứu đời, tất nhiên lội qua, lìa khỏi chỗ biết đầu, quyết đủ an nhẫn. Kế đến là mặc áo của Như Lai. Tuy tạo ra việc nầy, lần lượt nói lúc chẳng làm. Lúc làm là vào nhà; tức là đầy đủ tất cả pháp, hà huống là từ bi và nhẫn nhục sao ?
Bốn An Lạc Hạnh là: Theo xưa nói rằng: Một là giả thật, hay là không làm thể. Hai là thuyết pháp làm thể. Ba là lìa quán làm thể. Bốn là từ bi làm thể.
Thầy Cơ nói rằng: Một là không; hai là lìa kiêu mạn; ba là trừ tật đố; bốn là đại từ bi.
Thầy Long nói: Một là thân xa lìa những việc ác, dần dần đến cái lý của không; hai là trừ miệng sai; ba là trừ ý tật đố; bốn là khởi tâm từ bi.
Ngài Nam Nhạc nói rằng: Một là những đắm trước, chánh huệ; hai là miệng chẳng nói lời sai trái; ba là trên kính dưới nhường; bốn là đại từ bi.
Thầy Thiên Thai nói rằng: Chỉ quán từ bi, hướng dẫn 3 nghiệp và lời thệ nguyện. Thân nghiệp có dừng cho nên lìa thân thô nghiệp. Có quán cho nên chẳng được thân. Chẳng được thân nghiệp, chẳng được sự hay lìa khỏi. Vô sở đắc cho nên chẳng đoạn vào phàm phu. Có từ bi cho nên cần tu thân nghiệp. Rộng lợi tất cả. Chẳng rơi vào Nhị Thừa địa. Có chỉ hạnh cho nên mặc áo nhẫn nhục. Có quán hạnh cho nên ngồi tòa Như Lai. Có lòng từ bi cho nên vào trong nhà Như Lai. Chỉ hạnh lìa khỏi; tức là thành đoạn đức. Quán hạnh vô trước; tức là thành trí đức. Từ bi lợi tha tức là thành ân đức. Ân đức sẽ thành trí đức. Trí đức có thể thông đạt đoạn đức. Đây tên là thân nghiệp An Lạc Hạnh. Ngoài ra miệng, ý thệ nguyện lại cũng như thế. Trong phẩm nầy câu văn có hỏi có đáp.
Hỏi: Trong phần đầu ca ngợi phẩm trước sâu xa hành Bồ Tát có thể như đây hoằng kinh. Sau đó hỏi về việc hành Bồ Tát cạn hơn thì trong đời ác tuyên nói kinh nầy phải chăng ?
Phật bảo: Phần thứ 2 ấy đáp lại có 3. Một là đề tài 4 hàng có chương thực hành. Hai là giải thích phương pháp tu hành. Ba là tổng quát làm sáng tỏ tướng thành tựu của việc làm.
Như tiêu đề đầu, chương ấy như câu văn. Một là an trụ trở đi. Phần thứ 2 giải thích phương pháp tức là chia làm 4 sự riêng biệt. Câu văn đầu tiên ấy lại có 2. Một là giải thích phương pháp; hai là kết những việc làm lại. Tu hành có trường hàng kệ tụng. Trường hàng lại có 2. Đầu tiên là hạ tiêu hành cận. Kế đến là Văn Thù giải thích về hành cận. Hai đề mục đầu như câu văn. Kế đến trong sự giải thích ấy lại có 2. Nghĩa là hành xứ và cận xứ. Hay nói nội phàm sơ hành thì gọi là hành xứ. Nếu lâu dài luyện tập thuần thục thì dần dần có thể gần cái lý; cho nên gọi là cận xứ. Trích dẫn phần trước việc làm gần với quả là thí dụ vậy. Hoặc nói hành xứ theo Ước (giáo) nguyên nhơn cận xứ, Ước (giáo) quả. Hành xứ làm sáng tỏ trí, cận xứ làm sáng tỏ cảnh.
Thầy Giao lại nói rằng: Thất trụ dĩ thượng, tâm thể nơi lý, vì hành xứ, đã qua phân đoạn nầy. Từ đây trở lại vô sanh, chưa thể hiện tiền, dần dần gần đến nơi lý vì cận xứ, đồng là phân đoạn. Phần 2 nầy là hành thỉ, thông (giáo) là một An Lạc Hạnh. Theo tôi (Ngài Trí Giả) thì nhà đầu tiên lấy hành làm chỗ cạn, mà Đại Kinh thì nói rằng: Thập Địa Bồ Tát lấy hành; cho nên thấy bất liễu liễu. Nên rõ hành tức là chẳng cạn cợt. Nhà kế tiếp dùng cận để làm chỗ cạn cợt.
Nên Tịnh Danh nói: Gần ấy chẳng thể so sánh với Phật tự tại huệ. Điều nầy tức là gần ấy lại thành sâu xa. Nếu cả 2 việc làm đều sâu xa thì phần thành phẩm trước của việc làm thuộc Bồ Tát hoằng kinh. Chẳng quan hệ với phương pháp sơ tâm. Nếu 2 việc làm ấy đều cạn cợt; tức là 7 phương tiện con người thực hành sao lại quan hệ với phương pháp hành của Viên (giáo). Cho nên chẳng thể nói việc sâu cạn. Tuy nhiên hành gọi là tiến thú. Cận gọi là thân tập. Thân tập cho nên tiến thú; tiến thú cho nên thân tập. Sao lại sâu cạn ? Lại nữa hành cận là phương pháp ở trên. Hành xứ là y áo của Như Lai. Cận xứ là chỗ ngồi của Như Lai. Chỗ ngồi và y áo lại chẳng có sâu, cạn. Hành cận sao lại có chỗ ưu liệt ? Lại nữa nhẫn nhục tất nhiên bên trong nhớ lại cho đến lý lịch duyên vào các việc. Con mắt soi việc làm. Ngồi chỗ không, tất nhiên thể đạt duyên bên ngoài, bắt đến cảnh chân thật. Mắt soi việc gần, che đậy công việc, chôn vùi cả hiện tại. Lại vì sao mà có cạn sâu ? Nếu như vậy thì tại sao phân ra việc làm gần ? Tới cái lý lược nói, gọi là hành xứ. Công việc phụ thêm vào, nói rộng ra gọi là cận xứ. Nói có chỗ rộng; nhưng lược bớt cái lý chẳng có sâu cạn. Nay Ước (giáo) làm sáng tỏ 3 pháp hành xứ. Một là duyên ngay thẳng với một chân lý. Một chân lý là vì tất cả chỗ quy về. Vì tất cả tạo ra việc căn bản, mà biến thành chỗ vô phân biệt.
Tất cả chỗ quy về tức là nhẫn nhục địa vậy. Địa đây tức là trung đạo các pháp quy về. Cho nên gọi là địa. Chúng hành hưu tức cho nên gọi là nhẫn nhục. Đây tức là hành bất hành mà hành. Vì tất cả chỗ tạo tác căn bản là như vạn vật được đất mà sanh trưởng. Các việc làm được lý giải mà thành tựu. Nếu được lý căn bản, tại việc cứng có thể trở nên mềm. Tại việc nghịch có thể trở nên thuận. Tại bạo có thể trị; tại sợ hãi có thể yên ổn. Vô lượng công đức từ đất Trung Đạo mà sanh. Đất chẳng thể sanh mà sanh được công đức. Tức là bất hành, hành mà hành. Biến vô phân biệt nghĩa là chẳng phân biệt, chẳng hành cùng hành, cái tướng sai biệt; cho nên nói: Lại nữa bất hành, bất phân biệt tức là phi hành, phi bất hành. Vô tam hành mà tam hành; cho nên nói là hành. Đồng nhứt thật đế; cho nên gọi là xứ. Như hành xứ nầy hợp với kinh văn bên trên, dừng nghỉ các việc làm, hợp lại với áo của Như Lai, theo đó mà sanh ra công đức, hợp với nhà của Như Lai. Biến vô phân biệt cùng với chỗ ngồi của Như Lai thì gọi đây là giải thích một pháp hành xứ. Đây là quy tắc của việc hoằng kinh.
Hai ước hai pháp tức là sanh pháp nhị nhẫn; nhị nhẫn tức là sanh pháp nhị không. Nhị không lại khác nhị thừa. Vì sao vậy ? -Người, pháp 2 không ấy Ước (giáo) chơn tục, giả thật; làm sáng tỏ nhị không, nhị nhẫn. Tất thấy Trung Đạo; cho nên chẳng đồng với Nhị Thừa.
Nếu liền khai tức là tứ nhẫn. Nếu tạo ra ngũ nhẫn, chỉ cho chữ hành làm tín nhẫn. Nếu tạo ra 6 nhẫn, chỉ cho chữ hòa, theo đó nhẫn. Nếu đối địa tức là khai mở 42 nhẫn. Một địa thường có 41 địa công đức. Một nhẫn há chẳng phải 41 pháp nhẫn sao ? Nay vả lại Ước (giáo) 4 nhẫn tiêu văn. Nghĩa là phục thuận vô sanh tịch tịnh nhẫn. Bốn nhẫn nầy cùng với Biệt giáo khác nhau. Hai nhẫn trước là sanh nhẫn vị, tức là chỗ cạn. Hai nhẫn sau là pháp nhẫn vị, tức là chỗ sâu. Nay Viên (giáo) sanh pháp, tất Thông (giáo) 4 nhẫn lại chẳng thông.
Vì sao 2 không lý tức là trung đạo ?
Đầu tiên trụ tu vào 4 nhẫn, nhập vào giữa, thấy 2 không lý. Cho đến tâm sau, lại cùng 2 không lý. Đại Kinh nói rằng: Phát tâm cứu cánh, 2 ấy chẳng phân biệt. Nếu Ước (giáo) không chỗ cạn, sâu mà phê phán về tứ nhẫn thì từ sơ phát tâm Viên (giáo) phục ngũ trụ; cho đến Kim Cang Đảnh; tất cả đều gọi là phục nhẫn. Đầu, sau tất cả đều chẳng sai biệt với thật tướng; nên gọi là thuận nhẫn. Đầu, sau tất cả chẳng khởi nên tâm nhị biên. Gọi là vô sanh nhẫn. Đầu, sau tất cả phải dừng nghỉ các việc làm. Gọi là tịch tịnh nhẫn. Nghe sanh tử chẳng sợ lo khổ. Nghe Niết Bàn chẳng hốt hoảng để chứng được niềm vui. Nghe Phật thường cùng vô thường, nhị thừa làm Phật, chẳng làm Phật. Nghe sanh tử Niết Bàn khác cùng chẳng khác. Nghe Phật đạo dài ngắn, khó dễ; chẳng dài chẳng ngắn chẳng khó chẳng dễ v.v... tất cả chẳng lo sợ.
Hành thử hành nghĩa là từ đầu đến cuối lấy nhị không lý nhẫn các pháp; tức là mặc áo Như Lai. An trụ nơi nhị không lý tức là ngồi nơi tòa ngồi của Như Lai. Thương chúng sanh tức là vào nhà của Như Lai. Nhị không tứ nhẫn gọi là hành. Lý tức là xứ. Đây gọi là Ước (giáo) 2 pháp làm sáng tỏ hành xứ vì quy tắc của việc hoằng kinh. Tam ước tam pháp. Tam pháp tức là bất tư nghì tam đế. Trụ nhẫn nhục địa tổng luận tam đế. Như có địa có thể nương cậy, rồi có thể nhẫn nhục.
Nhu hòa thiện thuận là thiện thuận chơn đế hay nhẫn hư vọng, thấy thích lạnh nóng v.v... Cho nên nói là thiện thuận, mà chẳng chọn bạo, lại chẳng kinh ngạc. An ở nơi tục đế, nhẫn các căn. Duyên xưng trích cơ tuyên. Cho nên nói là chẳng chọn bạo. Thể nhẫn bao bọc cho nên tâm chẳng sợ. Đối với pháp vô sở hành; tức là an nơi chân lý, có thể nhẫn nhị biên; cho nên nói là vô sở hành. Chính tại trung đạo; cho nên nói quán thật tướng. Lại chẳng được trung thật; cho nên nói bất phân biệt. Điều nầy tức là mở rộng 3 chơn lý địa, gọi là xứ nhẫn. Nhục ở nơi ngũ trụ gọi là hành. Hành đây lại có 3. Nghĩa là chỉ hành; tức là làm mà chẳng làm. Quán hành tức là phi hành phi bất hành. Từ bi hành tức là bất hành hành. Gặp bên trên y áo, chỗ ngồi, nhà cửa v.v... Đây là Ước (giáo) 3 pháp làm sáng tỏ hành xứ. Biện tài hoằng kinh quy tắc.
Thầy Long nói: Trụ nhẫn nhục địa tổng đưa ra sanh pháp 2 nhẫn, bên dưới riêng làm rõ 2 nhẫn. Nhu hòa thiện thuận làm tỏ rõ thân nghiệp; mà chẳng chọn bạo, là khẩu nghiệp. Tâm lại chẳng kinh ngạc là ý nghiệp. Cả 3 nghiệp nầy đều làm sáng tỏ việc tu sanh nhẫn. Đối với các pháp vô sở hành. Chẳng hành có tướng vậy, mà quán tưởng như thật; hành không bình đẳng. Lại bất hành, bất phân biệt chẳng hành vô tướng. Có không, cả 2 mất đều là Trung Đạo. Ba câu nầy làm sáng tỏ việc tu pháp nhẫn. Được 2 nhẫn nầy, kết làm hành xứ. Kia làm sáng tỏ 2 nhẫn chưa rõ Ước (giáo) ra sao ? Nếu 3 giáo 2 nhẫn toàn chẳng phải nghĩa của Pháp Hoa và nếu Ước, Viên giáo chẳng nên cách biệt, chẳng cách biệt v.v...
Vì sao gọi là gần bên dưới ? Phần thứ 2 cận xứ câu văn lại có 3. Xa lìa 10 não loạn tức là xa; cho nên luận gần. Lại là phụ trợ cho giới môn, giúp cho quán. Tu nhiếp tâm nầy tức là gần; cho nên luận gần. Lại là phụ thuộc vào định môn, trợ giúp quán. Quán tất cả các pháp là không. Tức là chẳng gần chẳng xa, luận gần. Lại điều nầy phụ thuộc vào huệ môn để giúp quán. Bên trên gặp duyên, lý trụ nơi nhẫn nhục địa. Nay giới môn rộng xuất các duyên của nhục; nên tu viễn ly. Chẳng cầm dao, gậy, lại chẳng thí xả. Hằng dùng chánh huệ mà xa lìa. Nên biết rằng xa, gần, rộng những hạnh bên trên là chỗ chẳng làm vậy.
Bên trên thẳng làm sáng tỏ, chẳng bạo loạn kinh ngạc. Nay định môn quảng xuất, tu định tâm. Tu định xứ. Tu định yếu môn, dùng định lực vậy. Tại bạo mà trị. Tại kinh ngạc mà an ổn. Nên rõ tức là gần luận gần. Quảng, thượng chẳng hành hành.
Bên trên thẳng làm sáng tỏ chỗ chẳng hành. Nay rộng thấy tất cả không đều trải qua các cảnh. Vô lượng, vô biên, vô ngại, vô chướng. Nên biết chẳng xa chẳng gần. Quảng thượng phi hành, phi bất hành. Tựu chung phần đầu có 10 loại nên xa. Một là thế lực giàu có. Hai là tà nhơn pháp. Ba là hung hiểm, lý luận. Bốn là Chiên Đà La. Năm là Nhị Thừa chúng. Sáu là xa lìa dục tưởng. Bảy là xa lìa kẻ bất nam. Tám là xa lìa việc nguy hại. Chín là xa lìa kẻ rầy rà. Mười là xa lìa việc nuôi súc vật v.v...
Lộ Già Gia nói điều nầy là ác luận. Lại nói là phá luận. Nghịch lộ tức là nghịch với vua, cha để luận. Lại nữa lộ ấy gọi là thiện luận. Lại gọi là Thầy phá trò. Nghịch lộ gọi là ác luận. Lại gọi là đệ tử phá Thầy.
Na La Diên là Thượng Kỷ Hí. Lại nói là Thái Trú. Thân nầy tạo ra sự biến dị. Lại nói là Duyên Tràng Trịnh Đáo quyến thuộc. Phân ra làm 10 loại có 2 bên. 9 là sanh tử và 1 là Niết Bàn. Cả 2 đều xa lìa; tức là tịch diệt cũng là cách gọi khác. Quán tâm giải thích 10 loại v.v... Cận cận xứ lại có 3 ý v.v... Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú Hết quyển thứ 8 (Phần sau)
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 18.219.119.163 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.