Không trên trời, giữa biển, không lánh vào động núi, không chỗ nào trên đời, trốn được quả ác nghiệp.Kinh Pháp cú (Kệ số 127)
Ví như người mù sờ voi, tuy họ mô tả đúng thật như chỗ sờ biết, nhưng ta thật không thể nhờ đó mà biết rõ hình thể con voi.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Mặc áo cà sa mà không rời bỏ cấu uế, không thành thật khắc kỷ, thà chẳng mặc còn hơn.Kinh Pháp cú (Kệ số 9)
Vui thay, chúng ta sống, Không hận, giữa hận thù! Giữa những người thù hận, Ta sống, không hận thù!Kinh Pháp Cú (Kệ số 197)
Khi ăn uống nên xem như dùng thuốc để trị bệnh, dù ngon dù dở cũng chỉ dùng đúng mức, đưa vào thân thể chỉ để khỏi đói khát mà thôi.Kinh Lời dạy cuối cùng
Ðêm dài cho kẻ thức, đường dài cho kẻ mệt,
luân hồi dài, kẻ ngu, không biết chơn diệu pháp.Kinh Pháp cú (Kệ số 60)
Nhẫn nhục có nhiều sức mạnh vì chẳng mang lòng hung dữ, lại thêm được an lành, khỏe mạnh.Kinh Bốn mươi hai chương
Cỏ làm hại ruộng vườn, sân làm hại người đời. Bố thí người ly sân, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 357)
Hãy tự mình làm những điều mình khuyên dạy người khác.
Kinh Pháp cú
Sự nguy hại của nóng giận còn hơn cả lửa dữ. Kinh Lời dạy cuối cùng
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
1.– ĐẠO-ĐỨC
Minh-Giáo-Tung[1] Hòa-Thượng[2] nói: TÔN, không có gì tôn hơn ĐẠO. ĐẸP, không có gì đẹp hơn ĐỨC. Giữ được đạo-đức, tuy là người thất-phu nhưng không phải là kẻ cùng khổ. Không giữ được đạo-đức, tuy là người cai-trị thiên-hạ, nhưng không phải là người vinh-hiển.
Xưa kia, ông Bá-Di và ông Thúc-Tề là người chết đói trên núi Thú-Dương[3] nay đem so-sánh phần đạo-đức của hai ông ấy ai cũng đều hoan-hỷ. Ngược lại, xưa kia, vua Kiệt, vua Trụ, vua U, vua Lệ[4] là những vị nhân-chủ, nay đem so-sánh phần đạo-đức của các ông vua ấy, ai cũng đều phẫn nộ.
Vì vậy, người tu học chỉ lo mình không đầy-đủ đạo-đức, chứ đừng lo mình sẽ không có quyền thế và địa-vị.
2.– HỌC HỎI
Hòa-Thượng Minh-Giáo nói: Cái học của Thánh-hiền, quyết định không phải học một ngày mà đầy-đủ được. Ban ngày học không đủ phải học tiếp đến ban đêm. Gom góp năm này tháng khác, tự nhiên mới thành.
Nay có người học, ít khi thốt ra một lời bàn hỏi người khác, không hiểu họ lấy gì giúp ích cho tính-địa và, trở thành mỗi ngày thêm mới mẻ.
3.– NGHĨA VÀ LỢI
Hòa-Thượng Minh-Giáo nói: Thái-Sử-Công[5] đọc sách Mạnh-Tử[6] đến chỗ vua Lương-Huệ-Vương[7] hỏi ngài Mạnh-Tử: “Ngài chỉ cho tôi cách nào để có lợi cho nước tôi”, bất giác ông để sách xuống thở dài và than: “Ôi, LỢI thực là đầu mối của sự loạn-lạc!” Vì vậy, đức Phu-Tử[8] ít nói đến lợi mà Ngài chỉ thường nói về cách đề-phòng cội gốc của nó mà thôi. Cội gốc tức là đầu mối. Cái tệ ham lợi của những người tôn quí cũng như cái tệ ham lợi của những người bần tiện, không biết lấy gì mà phân-biệt được. Tại nơi công, ham lợi không minh thì pháp-luật loạn. Tại nơi tư, dối trá để lấy lợi thì công việc loạn. Công việc loạn thì người người tranh nhau sinh bất bình, pháp-luật loạn thì dân oán chẳng phục. Và, sự ngang trái, đấu-tranh, không nghĩ gì đến sự chết chóc, từ đó phát sinh. Đó chẳng phải LỢI thực là đầu mối của sự loạn-lạc sao?
Thánh-hiền thường răn việc bỏ lợi, tôn trọng nhân nghĩa, đời sau lại có người cậy vào lợi mà lừa nhau, làm thương tổn phong hóa, bại hoại chính giáo rất nhiều. Họ công nhiên phô-trương và thực-hành đường lối tranh lợi của họ, mà họ lại muốn chỉnh lại phong-tục thiên hạ, để cho thiên hạ không bị kiêu-bạc, thì ý muốn ấy có thể được chăng?
4.– ĐỀ PHÒNG
Hòa-Thượng Minh-Giáo nói: Những cái ác mà người ta làm, có cái ác hữu-hình và có cái ác vô hình. Cái ác vô hình hại người và, cái ác hữu hình giết người. Giết người là ác nhỏ và hại người là ác lớn. Trong bữa tiệc vui có thuốc độc, trong buổi bàn bạc cười đùa có giáo mác, trong nơi nhà kín có hổ báo và trong nơi làng xóm có giặc cướp.
Mình chưa phải là thánh-hiền, cần phải chặn đứng nó ở lúc chưa nảy mầm và đề phòng nó bằng lễ pháp. Nếu không đề phòng, nó sẽ làm hại một cách ghê gớm.
5.– CẢNH GIÁC
Hòa-Thượng Minh-Giáo nói: Khi Hòa-Thượng Đại-Giác-Liễn[9] trụ-trì chùa Dục-Vương, nhân có hai vị Tăng tranh nhau mãi về lợi dưỡng do thí-chủ cúng, mà vị chủ-sự không sao xử đoán được. Ngài Đại-Giác gọi hai vị Tăng ấy đến trách rằng: Xưa kia, ông Bao-Công[10] khi làm quan coi việc xử án tại Khai-Phong. Một hôm có một người dân tên là Trương-Huệ-Minh thân tới chỗ ông Bao-Công, tự trình bày một việc như sau: Trước đây ông Lý-Giác-An có đem gửi tôi (Trương-Huệ-Minh) một trăm lạng bạc. Không may ông ấy bị bệnh mất. Nay tôi đem số bạc trên trả lại gia đình ông ấy, nhưng con ông ấy là Lý-Cảnh-Văn nhất định không nhận. Tôi mong Ngài triệu con ông ấy lại và trả giúp tôi. Ông Bao-Công ngạc-nhiên và than rằng: Đây thực là việc lạ-lùng! Ông liền triệu con ông Lý-Giác-An là Lý-Cảnh-Văn đến và nói rõ sự việc như trên. Ông Lý-Cảnh-Văn từ chối: Cha tôi khi còn sống, không làm gì có bạc đem gửi riêng nơi nhà khác. Hai người cố nhường nhau. Bất đắc dĩ, ông Bao-Công trao số bạc ấy cho các tự-quán trong thành, để làm lễ cầu-siêu cho người đã mất. Đó là việc mắt tôi (Hòa-Thượng Đại-Giác) trông thấy. Đó là những người ở trong cõi trần-lao, còn biết xa của mến nghĩa như thế, huống chi các ông là đệ tử Phật, lại không biết liêm-sỉ à! Nói rồi, Ngài liền y theo pháp tùng-lâm[11] đuổi hai vị Tăng ấy ra khỏi chùa.
6.– ĐẠI KHÍ
Hòa-Thượng Đại-Giác-Liễn lần đầu tiên đi thăm Lô-Sơn, Viên-Thông-Nột Thiền-Sư[12] chợt thấy Hòa-Thượng, đã kỳ-vọng ngay Hòa-Thượng là bậc ĐẠI KHÍ. Có người nghi ngờ hỏi Thiền-Sư: Sao Thiền-Sư lại tự biết rằng Hòa-Thượng Đại-Giác-Liễn là bậc đại-khí? Viên-Thông-Nột Thiền-Sư đáp: Hòa-Thượng Đại-Giác-Liễn là người trung-chính không ỷ lại, động-tĩnh tôn-nghiêm và Hòa-Thượng còn có đạo, học, hạnh, nghị, nói ít nhưng lý đủ. Phàm, người có tư-bẩm như thế, ít ai không thành bậc đại-khí.
7.– TRI-TÚC
Đời Tống-Nhân-Tôn, niên hiệu Hoàng-Hựu năm đầu, nhà vua sai Tiểu-sứ (đeo hoa tai bạc) cầm một chiếu-thư (viết trên vải dày màu lục, ép vào mảnh gỗ thước mốt), triệu Viên-Thông-Nột Thiền-Sư trụ-trì[13] Hiếu-Từ đại-già-lam[14]. Viên-Thông-Nột Thiền-Sư cáo bệnh không dậy và Ngài liền viết sớ dâng lên nhà vua, tiến cử Hòa-Thượng Đại-Giác ứng nhận chức trụ-trì như chiếu-thư.
Có người nghi ngờ hỏi Viên-Thông-Nột Thiền-Sư: Thánh-thiên-tử tôn sùng đạo-đức, ơn xuống cả nơi tuyền-thạch như thế, tại sao Thiền-Sư lại cố từ? Viên-Thông-Nột Thiền-Sư đáp: Tôi lạm dự vào hàng Tăng, kiến văn chưa suốt, may được ở yên nơi rừng núi này, ăn cơm rau, uống nước suối cũng là quí lắm rồi. Vả lại, có những lời dạy của Phật Tổ tôi còn chưa làm trọn, huống là các việc khác! Bậc Tiên-triết có nói: “Nơi có tiếng tăm lừng lẫy khó ở lâu được”. Bình-sinh, tôi thực-hành kế tri-túc (biết đủ) không muốn đem thanh-danh, quyền lợi buộc vào mình. Tôi nghĩ, nếu thanh-danh, quyền lợi đầy-đủ theo ý muốn của tâm mình, thì biết ngày nào đủ được!”
Ông Tô-Đông-Pha thường nói: “Biết an thì vinh, biết đủ thì giàu, tránh danh trọn tiết, khéo trước khéo sau, Viên-Thông-Nột Thiền-sư được các điểm ấy vậy”.
8.– THỦ TIẾT
Hòa-Thượng Viên-Thông-Nột nói: Mệnh người què ký-thác ở cái gậy, mất gậy thì ngã (té), mệnh người qua sông ký-thác ở cái thuyền, thuyền hư thì chìm. Phàm, những người tu học ở chốn lâm hạ tự mình không giữ gìn lấy mình, nương cậy vào thế-lực ngoài là hơn, một mai nếu mất chỗ nương cậy, thì đều không thể tránh khỏi được những hoạn-nạn như những người bị ngã và bị chìm kia.
9.– TỰ LUẬT
Hòa-Thượng Viên-Thông-Nột nói: Xưa kia, Bách-Trượng Đại-Trí Thiền-Sư[15] dựng tùng-lâm, lập qui-củ, là muốn cứu cái tệ bất chính của thời tượng-quí[16]. Nhưng, Thiền-Sư không biết rằng những học-giả thời tượng-quí lại trộm qui-củ của Ngài để phá tùng-lâm của Ngài.
Đời thượng-cổ, người ta tuy ở tổ, ở hang, nhưng người người tự-luật. Sau thời ngài Đại-Trí, tuy người ta ở nhà cao, lầu rộng, mà người người tự-phế. Có người nói: “An, nguy do đức, hưng, vong do số.” Nếu như vậy, người giữ được đức, thì ở đâu cũng được, hà tất phải dựng tùng-lâm? Nếu đạt được lý-số, thì lúc nào cũng thành lễ pháp, hà tất phải dùng qui-củ?
10.– DỰ-BỊ
Hòa-Thượng Viên-Thông-Nột nói với ngài Đại-Giác: Thánh-hiền xưa, trị tâm khi chưa phát sinh, phòng tình khi chưa loạn động. Vì, biết dự bị thì không phải lo lắng. Người canh nơi cửa cấm, thường thường đánh mõ, báo cho bạo-khách biết là mình vẫn có mặt nơi đây, đó là công việc dự phòng. Công việc có dự-bị thì làm dễ, vội vàng thì làm khó. Hiền-triết xưa có cái lo chung thân, chứ không có cái lo chốc lát. Thực là lời nói ám chỉ vào sự dự bị này vậy.
11.– THÀNH-ĐẠT
Hòa-Thượng Đại-Giác-Liễn nói: Ngọc không giũa không thành vật, người không học không biết đạo. Nay biết được xưa, sau biết được trước, hay bắt chước, dở tự răn, xem qua sự lập thân, nổi tiếng ở đương thời của các bậc tiền-bối, ít có ai là không do sự học-vấn mà thành đạt được.
12.– DIỆU-ĐẠO
Hòa-Thượng Đại-Giác nói: Lý của diệu-đạo, thánh-nhân thường ngụ ở kinh Dịch. Đời Chu suy, pháp-luật của các vị tiên vương hư-hoại, lễ nghĩa mất, sau đó những lời nói, chước-thuật kỳ lạ, thỉnh thoảng tung ra, làm loạn phong tục. Đến khi giáo pháp của đức Phật Thích-Ca truyền vào Trung Quốc, thuần đem đệ-nhất nghĩa-đế[17] chỉ bảo cho người, mà trước sau dựng nên hạnh-nguyện từ-bi để hóa-độ chúng-sinh. Đó cũng là hòa theo kịp thời vậy.
Từ khi có nhân-dân đến nay, lúc khí-hóa còn thuần-phác, thì chính-giáo của thời Tam-Hoàng[18] đơn-giản mà trong trắng như mùa Xuân. Tình người như lỗ hổng, mỗi ngày khơi đào thêm, nên chính-giáo của thời Ngũ-Đế[19] rõ-ràng, văn-vẻ như mùa Hạ. Thời và đời chuyển khác, tình người cũng theo ngày tháng mà dời đổi, nên chính-giáo của thời Tam-Vương[20] nghiêm-mật như mùa Thu. Như các bản văn Cáo, Thệ[21] của thời nhà Thương, nhà Chu xưa kia, các học giả đời sau xem tới còn có chỗ khó hiểu, thế mà người dân đương thời phải nghe theo không dám trái lệnh, như vậy, so sánh phong tục thời ấy với thời nay như thế nào? Sang đời Tần đời Hán, sự tệ hại còn có ở khắp cả mọi mặt – không mặt nào là không có –, đến nỗi người trong thiên-hạ không muốn nghe tới nữa. Lúc ấy, giáo-lý đức Phật mới truyền tới Trung-Quốc. Giáo-lý ấy nhất định đổi mới con người bằng lý tính-mệnh, dạy răn con người bằng hạnh từ-bi. Phật-giáo có mặt trong thời gian ấy – thời gian được coi như mùa Đông vậy.
Trời có bốn mùa xoay vần để sinh-thành muôn vật, thánh-nhân lập giáo, phù-trì lẫn nhau để hóa-thành thiên-hạ, cũng như thế mà thôi. Song, xét đến chỗ cùng cực, không có hình-thức nào là không vướng chút tệ-tích. Tệ-tích ấy dĩ nhiên chỉ là dấu vết, còn đạo thì là một. Do đó, cần có các bậc thánh-hiền ra đời để cứu đời. Nhưng, từ đời Tần, đời Hán đến nay đã hơn một nghìn năm, phong-tục dần dần đơn bạc, giáo-pháp thánh-nhân đặt bày la-liệt, để chê-bai nhau, khiến cho nhân-dân không biết theo đâu. Đại-đạo tan-hoại, không trở lại như xưa được, thực đáng than tiếc vậy!
13.– HÀNH ĐẠO
Hòa-Thượng Đại-Giác nói: Người làm chủ một phương, muốn thực-hành lẽ đạo mà mình đã có được, để làm lợi cho người, trước tiên cần phải đánh đổ lòng ham muốn của mình, để ra ơn cho người, nhún lòng mình xuống đối với hết thảy mọi giai-cấp và, coi vàng lụa như phẩn-thổ. Được như thế, đương nhiên bốn chúng[22] sẽ tôn kính mà hướng về mình.
14.– AN NGUY
Hòa-Thượng Đại-Giác nói: Các bậc tiền-bối có tư-chất thông minh, nhưng không biết lo nghĩ về sự an, nguy. Trường-hợp mà những tai-họa xảy đến với Uẩn-Thông Thiền-Sư ở chùa Thạch-môn[23] và, xảy đến với Hiểu-Thuấn Thiền-Sư ở chùa Thê-Hiền[24], đáng làm gương để răn dạy chúng ta.
Song, như vậy thì định-nghiệp của nhân-sinh hẳn khó minh biện chăng? – Xét rõ căn nguyên của nó thì biết rằng sự việc xảy ra chỉ do ở chỗ sơ xuất, khinh-mạn và không lo nghĩ xa mà thôi. Cho nên có sách nói: “Họa hoạn nấp ở chỗ ẩn-vi, nhưng phát sinh ở chỗ sơ-xuất của con người.” Đem việc đã xảy ra của hai vị Thiền-Sư cũng như lời nói trên đây mà quan-sát, chúng ta càng nên cẩn thận và sợ hãi.
15.– TÌNH NGHĨA
Hòa-Thượng Vân-Cư-Thuấn, tự Lão-Phu, khi Ngài trụ-trì chùa Thê-Hiền tại Lô-sơn, quan Quận-Thú Nam-Khang (Hòe-Đô)[25] có sự giận tức riêng với Ngài, nên Ngài mắc hàm oan và, phải trở về làm người thế-tục, mặc áo thường dân. Sau đó, Ngài đi thăm Hòa-Thượng Đại-Giác ở Kinh-đô. Khi Ngài đến đất Sơn-Dương, gặp mưa tuyết, phải vào nghỉ trong quán trọ. Tại đây, một buổi chiều, có một người khách dẫn hai gia-bộc, phá tuyết mà tới. Tới nơi, họ trông thấy ngài Lão-Phu, họ vui mừng như người quen biết cũ. Sau khi họ thay quần áo, họ đến trước lạy Ngài. Ngài Lão-Phu hỏi thăm, người khách nói: Người này xưa kia ở Động-Sơn vẫn mang gánh hành-lý và theo hầu Thiền-Sư đến Hán-Dương, tên là Tống-Vinh ạ! Ngài Lão-Phu nói chuyện cùng họ về việc đã qua. Người khách ta-thán mãi. Sáng sớm hôm sau họ sửa soạn cơm nước cúng-dường, tặng năm lạng bạc và gọi một người gia-bộc tới trước Ngài, người khách nói: Cậu này thường lui tới kinh-thành, biết hết những chỗ đường xá, quan ải hiểm-trở, cậu ấy theo hầu thì sự đi lại của Thiền-Sư quyết không lo ngại gì. Do đó, ngài Lão-Phu đi tới kinh-đô một cách bình-an.
Suy thế, càng biết tình-nghĩa của hai người trong lúc bình thường trước kia vẫn còn vậy.
16.– TỰ GIỚI
Hòa-Thượng Đại-Giác nói: Thuấn-Lão-Phu phú-tính giản-trực, không biết đến các việc quyền-hành, của cải. Hàng ngày Ngài có khóa biểu nhất-định và, không bao giờ thay đổi chút nào. Dù rằng đến việc thắp đèn, quét đất Ngài cũng đều tự làm lấy. Ngài thường nói: Cổ-nhân (Bách-Trượng, Đại-Trí Thiền-Sư) có lời răn: “Một ngày không làm, một ngày không ăn.” Nếu tôi làm trái, tôi là người thế nào? Tuy thân hình Ngài đã trở về già, nhưng chí-khí Ngài càng bền. Có người nghi ngờ hỏi: Sao Ngài không sai người chung-quanh làm? Ngài Thuấn-Lão-Phu đáp: “Thân-thể tôi giờ đây trải qua sự lạnh, nóng thay đổi, ngồi, dậy bất thường, tôi không muốn làm mệt người khác.”
17.– CHÂN THỰC
Ngài Thuấn-Lão-Phu nói: Truyền giữ đạo Phật, điều quí-trọng hơn hết là hết thảy phải chân-thực.
Phân-biệt tà, chính, trừ bỏ vọng-tình là cái thực trị tâm. Biết nhân, quả, rõ tội, phúc là cái thực thao-lý (biết giữ chí không thay đổi và việc làm hợp lý). Mở rộng đạo-đức, tiếp đón người từ các phương tới là cái thực trụ-trì. Lượng tài-năng, mời giữ việc là cái thực dùng người. Xét nói, làm, định nên, không là cái thực cầu hiền.
Người không giữ được đức chân-thực thì chỉ là tự giới-thiệu hư-danh mà không có ích gì về đạo-lý. Vì vậy, người biết giữ chí không thay đổi và việc làm hợp lý, chỉ cần ở chỗ thành-thực. Nếu giữ được đức chân-thực không thay đổi, thì dù gặp lúc bình thường hay trắc trở cũng có thể đạt tới nhất trí được.
18.– CHÍ-KHÍ
Thuấn-Lão-Phu nói với ngài Viễn-Lục-Công[26] ở Phù-sơn: Muốn nghiên-cứu đạo nhiệm-mầu vô-thượng, khi khốn cùng chí-khí phải càng bền, lúc già yếu chí-khí phải càng mạnh, không nên theo đòi, bám víu vào thanh-danh, quyền lợi, để chôn vùi chí-đức của mình. Viên ngọc quí trong suốt, thì màu xanh tím cũng không làm phai mờ được nguyên-chất của nó, cây thông quen lạnh giá hàng năm, thì sương tuyết cũng không làm điêu tàn được tiết-tháo của nó. Thế nên, tiết nghĩa là đức lớn trong thiên hạ. Chỉ có Ngài (Viễn-Lục-Công) là bậc siêu việt đáng chuộng, há Ngài không tự cường! Cổ-nhân nói: “chim bằng tung cánh bay một mình, phong-thái cao hơn bạn”. Câu ấy hợp với chí-khí của Ngài vậy.
19.– CHÍNH THÂN
Hòa-Thượng Phù-Sơn-Viễn nói: Người xưa gần thày, chọn bạn, sớm hôm không dám lười biếng. Đến như việc làm bếp, giã gạo hay lăn-lộn vào cả các việc hèn hạ cũng chưa bao giờ ngại nhọc. Tại Diệp-Huyện[27] nơi ngài Qui-Tỉnh Thiền-Sư, tôi đã từng thí-nghiệm đầy đủ những việc ấy. Một khi còn có tâm ngoái lại sự lợi hại, so sánh sự được mất, thì thái-độ theo, không theo hay lừng chừng cầu an sẽ hiện ra và không có việc gì là không làm.
Thân đã không chính thì học đạo làm sao được!
20.– TỰ CƯỜNG
Ngài Viễn Công nói: Trong trời đất thực có những vật dễ sinh. Nhưng, nếu một ngày ấm mà mười ngày lạnh, thì cũng chưa thấy vật nào có thể sinh được.
Diệu-đạo vô thượng rõ-ràng ở nơi tâm và ngay trước mắt mình, nên cũng dễ thấy được. Song, điều cốt yếu là chí phải bền, làm phải tận lực, thì ngay nơi mình đứng, ngồi cũng có thể mong đợi là đạt tới được. Nếu một ngày tin, mười ngày ngờ, sớm siêng tối nản, thì không những ngay trước mắt khó thấy, mà tôi sợ rằng suốt đời cũng vẫn xa cách diệu-đạo vậy.
21.– THỦ XẢ
Ngài Viễn Công nói: Điều quan yếu của trụ-trì, trước tiên phải xét kỹ về vấn đề THỦ, XẢ (lấy hay bỏ). Sự tích cực của thủ hay xả, quyết định ở trong tâm, nhưng mầm mống của sự an hay nguy được đặt định ở bên ngoài. AN, không có sự an một ngày. NGUY, cũng không có sự nguy một ngày. Mà nó hình thành đều từ chỗ gom góp dần dần. Vì vậy, chúng ta không thể không xét kỹ.
Dùng đạo đức trụ-trì cần phải gom góp đạo đức. Dùng lễ nghĩa trụ-trì cần gom góp lễ nghĩa. Dùng bóc lột trụ-trì đương nhiên là gom góp oán hận. Oán hận gom góp, thì trong ngoài trái nhau. Lễ nghĩa gom góp, thì trong ngoài hòa vui. Đạo đức gom góp, thì trong ngoài cảm phục. Cho nên, đạo đức, lễ nghĩa lan rộng thì trong, ngoài vui, mà bóc lột, oán hận nhiều thì trong, ngoài buồn.
Ôi, cảm xúc buồn, vui ứng hợp với họa, phúc vậy!
22.– NHÂN, MINH, DŨNG
Ngài Viễn Công nói: Trụ-trì có ba đức tính cần yếu là: Nhân, Minh, Dũng. NHÂN là thực hành đạo đức, hưng hiển giáo hóa, an định người trên kẻ dưới, vui hòa tân khách tới lui. MINH là tuân theo lễ nghĩa, biết rõ an nguy, xét hiểu hiền, ngu, biện minh phải, trái. DŨNG là việc làm quả quyết, quyết đoán không ngờ, gian quyết trừ, nịnh quyết bỏ. Nhân mà không có Minh, như có ruộng không cày. Minh mà không có Dũng như có lúa không làm cỏ. Dũng mà không có Nhân như biết gặt lúa mà không biết gieo giống.
Trụ-trì đủ ba đức tính ấy thì tùng-lâm hưng thịnh, thiếu một thì suy, thiếu hai thì nguy và, nếu ba đức tính ấy không có một, thì đạo trụ-trì phế hủy.
23.– TUYỂN TRẠCH
Ngài Viễn Công nói: Người trí, kẻ ngu, người hiền, kẻ bất tiếu, như nước và lửa không thể cùng chung trong một đồ đựng được và, cũng như mùa lạnh và mùa nắng, không thể nào cùng là một mùa được. Đó là cái phần đã định sẵn vậy.
Người hiền trí thì thật thà, mềm dẻo, ngay thẳng phúc hậu, họ mưu làm những việc đạo đức nhân nghĩa. Khi họ nói ra lời gì, làm việc gì, họ chỉ sợ không hợp nhân tình và không suốt vật lý. Ngược lại, những kẻ bất tiếu thì gian, hiểm, dối, nịnh, cậy mình, khoe tài, ham muốn cầu lợi và, hết thảy việc gì họ cũng đều chiếu cố tới. Cho nên, tùng-lâm được người hiền thì tu theo đạo đức, dựng đặt cương kỷ, và nơi này trở thành nơi truyền bá chính pháp. Nhưng, nếu trong ấy lẫn một kẻ bất tiếu thì họ quấy phá mọi người, làm loạn chúng Tăng, khiến cho trong ngoài không yên, dù có lễ pháp của ngài Đại-Trí đi nữa, phỏng có dùng gì được?
Trí, ngu, hiền, bất tiếu đã có sự hơn kém như thế, há không biết lựa chọn ư?
24.– ĐẠO TÌNH
Ngài Viễn Công nói: Trụ-trì ở ngôi trên, nên đem lòng khiêm cung để tiếp người dưới. Những người giữ chức sự ở dưới, phải tận tình để phụng sự người trên. Trên dưới đã hòa thì đạo trụ-trì thông suốt.
Nếu trụ-trì ở ngôi trên, kiêu ngông tự tôn, người chấp sự ở dưới thì lười biếng, kiêu mạn tự xa, khiến cho tình người trên kẻ dưới không thông thì đạo trụ-trì bế-tắc.
Bậc cổ đức trụ-trì khi nhàn rỗi vô sự, thường cùng những người theo học, thung dung bàn bạc tất cả mọi vấn đề. Vì vậy mà một lời nói hay nửa câu được chép vào truyện ký cho tới nay còn xưng-tụng, thì việc ấy như thế nào? Sở dĩ có việc ấy, một là, muốn cho tình trên dưới được thông suốt và đạo không bị ngăn che, hai là, dự biết tài năng, tính tình của những người theo học được hay không, để trong sự tiến, thoái đều được thích hợp. Như thế tự nhiên trên dưới êm hòa, nghiêm kính, xa gần qui kính, và sự hưng thịnh của tùng-lâm do đấy mà được.
25.– HƯ DANH
Ngài Viễn Công nói với Khả-Chân Thiền-Sư[28] ở chùa Đạo-Ngô: Người học chưa đạt đạo hay khoe khoang sự kiến văn, thông thạo về cơ giải, dùng miệng lưỡi bàn cãi linh lợi tranh thắng, không khác gì như nơi nhà xí, tô vẽ màu mè chỉ làm tăng thêm mùi hôi thúi mà thôi.
26.– TRỊ TÂM
Ngài Viễn Công nói với Pháp-Diễn Thủ-Tọa[29]: Tâm làm chủ thân và là gốc của muôn hạnh. Tâm không đạt tới chỗ diệu ngộ thì vọng tình tự-sinh. Vọng-tình đã sinh thì thấy lý không rõ. Thấy lý không rõ thì phải trái lầm loạn. Cho nên muốn trị tâm phải cầu diệu ngộ. Ngộ thì tinh thần hòa, khí lực tĩnh, dung-mạo kính-ái, sắc tướng trang-nghiêm và vọng tưởng, tình-lự đều tan-hòa vào chân tâm. Dùng phương thức ấy mà trị tâm, thì tâm tự linh-diệu. Sau đó, dẫn dắt người, chỉ chỗ mê lầm, thì ai lại không theo sự giáo-hóa của mình.
27.– HÀNH TRÌ
Ngũ-Tổ Diễn Hòa-Thượng nói: Thời nay, những người học đạo ở chốn tùng-lâm, tiếng tăm không nổi, không được người ta tín kính, vì phạm hạnh không được thanh-bạch, là người không chính đáng. Lại nữa, hoặc họ tạm cầu tiếng khen, lợi dưỡng, khoe khoang sâu rộng sự trang-sức hoa mỹ, bị các thức giả chê cười. Vì những lẽ ấy làm che lấp mất lẽ quan-yếu và vi diệu của đạo. Tuy có đạo đức như Phật Tổ, nhưng khi họ đã có ý nghĩ, hoặc nghe, hoặc thấy, hoặc ngờ vực về mình thì họ không tin.
Ngày sau các ông có ở nơi am tranh, nên lấy lời khuyên trên này mà tự gắng sức hành-trì.
28.– LẠC ĐẠO
Ngài Diễn Tổ nói: Sư-ông[30] khi mới trụ-trì chùa Dương-Kỳ, nơi này nhà cũ, đòn tay hư mục, chỉ tạm che gió mưa mà thôi. Nhưng, vừa tới cuối mùa Đông thì tuyết rơi đầy giường, không chỗ ở nào được gọi là thanh thản. Các Tăng-sĩ thấy thế, tỏ lòng chân thành, nguyện sung vào việc sửa chữa. Sư-ông từ khước nói: “Xưa kia, đức Phật của chúng ta có nói: Thời nay đương thuộc về kiếp giảm, nơi bờ cao, hang sâu, còn thay đổi bất thường, thì làm sao chúng ta được trọn vẹn như ý và tự cầu cho mình đầy đủ được! Các ông đi xuất gia học đạo, làm việc đến nỗi tay chân chưa yên, mà đã bốn, năm mươi tuổi rồi há còn có công phu rảnh rang để phụng sự cho căn nhà đẹp đẽ, đầy đủ sao? Cuối cùng Sư-ông không thuận theo. Ngày mai, Sư-ông lên pháp đường đọc bốn câu kệ như sau:
Dương-Kỳ sạ trụ ốc bích sơ,
Mãn sàng tận tát tuyết trân-châu.
Súc khước hạng, ám ta hu,
Phiên ức cổ nhân thụ hạ cư.
Phỏng dịch:
Dương-Kỳ vừa ở vách nhà hoang,
Tuyết tựa châu rơi ngập trắng giường.
Rụt cổ nằm co thầm trách phận,
Gốc cây xưa nghỉ, nhớ làm giường!
29.– NGHĨ VÀ LÀM
Ngài Diễn Tổ nói: Tăng-sĩ giữ tâm như thành, phụng-trì giới-luật, ngày đêm suy nghĩ, sớm hôm thực-hành. Thực-hành không vượt suy nghĩ, suy nghĩ không vượt thực-hành. Có cái trước mà thành cái sau, như người cày ruộng có bờ, thì lỗi lầm của sự vượt qua sẽ ít.
30.– PHÁP ĐỘ
Ngài Diễn Tổ nói: Tùng-lâm là nơi nặn đúc ra các bậc thánh, rèn luyện cho các người thường. Là nơi nuôi nấng các bậc tài-khí và là nơi đem sự giáo-hóa đến khắp muôn phương. Nơi ấy tuy là nơi ở, nơi tụ họp của nhiều người, nhiều hạng, nhưng sự quản-lĩnh được nghiêm-chỉnh thì trong đó mỗi người đều có bổn-phận và tình-nghĩa thày trò. Nay các nơi không lo về việc giữ gìn pháp-độ của các bậc tiên-thánh, lại hay đem tình thiên lệch đối với người ưa kẻ ghét, lấy lẽ phải của mình để đổi mới người khác. Như vậy, những người hậu-học lấy pháp-độ nào để tu tiến!
31.– BIẾT NGƯỜI
Ngài Diễn Tổ nói: Lợi sinh và truyền đạo cần ở chỗ được người. Nhưng, biết người thực khó, thánh-triết còn lo. Nghe lời nói của họ, nhưng chưa bảo-đảm được việc làm của họ. Tìm thấy việc làm của họ, nhưng sợ sơ-sót tài-năng của họ. Chỉ có tự mình thường giao-du cùng họ, thấy rõ đầy-đủ gốc ngọn, xét chí-hạnh, xem khả-năng, sau đó, giữ vững đạo-niệm và âm-thầm trọng-dụng mới có thể biết được. Biết được, thì những kẻ mua danh, sửa dáng hẳn không dung được sự dối trá của họ và, ngay cả những sự tiềm-ẩn, bí-mật của họ cũng thấy được uyên-nguyên.
Thực ra, về lẽ thực của sự xem xét, hiểu rõ và nghe rõ về một người, không phải một sớm một chiều mà có thể đạt tới được. Vì vậy, sau khi Nam-Nhạc, Hoài-Nhượng Thiền-Sư[31] yết-kiến Huệ-Năng, Đại-Giám Thiền-Sư[32] còn phải làm việc trong mười lăm năm. Và, khi Mã-Tổ, Đạo-Nhất Thiền-Sư[33] yết-kiến Nam-Nhạc, Hoài-Nhượng Thiền-Sư cũng phải theo hầu Thiền-Sư hơn mười năm, mới được trao truyền đại-pháp. Thế mới biết, khi các bậc tiên-thánh trao và nhận đại-pháp, quyết không dám truyền-trì cho những vị ít ỏi tài-đức. Như một cái đồ đựng nước, muốn truyền nước sang một cái đồ đựng khác, cái đồ đựng ấy phải như thế nào mới truyền sang được. Như các vị đương-gia, chủng-thảo[34], phải như thế nào mới có thể nối được pháp-qui rộng lớn của Phật-giáo. Đó là minh-nghiệm về lẽ thực của sự xem xét, hiểu rõ và nghe rõ về một người. Minh-nghiệm rồi, há lại còn dung-dưỡng những kẻ nói giỏi, dáng khéo, giả dối, nịnh hót, sung vào hàng tuyển chọn đại pháp-khí ư?
32.– HUỆ VÀ ĐỨC
Ngài Diễn Tổ nói: Quyền bính lớn lao của trụ-trì là ở chỗ biết ra ân-huệ và có đức-độ. Ân-huệ và đức-độ đều phải làm cả hai, nhất định không thể bỏ một được. Ân-huệ mà không có đức-độ, thì người ta không kính. Có đức-độ mà không biết ra ân-huệ thì người ta không nhớ. Nếu biết ra ân-huệ làm cho người ta nhớ, lại biết giữ thêm đức-độ, thì sự ra ân-huệ ấy đáng đủ, để làm yên người trên kẻ dưới và, dụ-dẫn được các người khác từ bốn phương lại. Nếu biết đức-độ làm cho người ta kính, lại nhờ có sự ra ân-huệ thêm vào, thì sự duy-trì đức-độ ấy, đáng đủ để nối dõi bậc tiên-giác và dẫn-dắt kẻ ngu-mê.
Cho nên, người khéo trụ-trì, nuôi dưỡng đức-độ để làm việc ra ân-huệ, tuyên-dương việc ra ân-huệ để duy-trì đức-độ. Đức-độ mà nuôi dưỡng được thì đối với việc gì cũng bất khuất. Ân-huệ mà thực hành được thì có ân-nghĩa. Do đó, đức-độ và ân-huệ gom góp lẫn cho nhau, ân-huệ và đức-độ làm việc lẫn cho nhau. Như thế, đức-độ không dùng đến tu, mà được kính như Phật Tổ, ân-huệ không phải mệt nhọc, hao-phí mà được nhớ như cha mẹ. Và, những người ở khắp nơi – ngũ hồ, tứ hải – có chí với đạo, ai mà không quay về.
Trụ-trì có nhiệm-vụ truyền-bá đạo-đức, hưng hiển giáo hóa, mà không rõ điều quan-yếu trên đây thì không được!
33.– SƯ-TƯ
Hòa-Thượng Diễn Tổ từ chùa Hải-Hội dời về chùa Đông-Sơn, ngài Phật-Giám ở chùa Thái-Bình và ngài Phật-Nhãn ở chùa Long-Môn[35], hai vị nghe tin, lên tận đầu núi thăm hỏi và hầu hạ.
Hòa-Thượng Diễn Tổ họp các vị kỳ-cựu và các vị chủ sự lại. Hòa-Thượng cho sắm nước quả dùng trong cuộc dạ-thoại. Hòa-Thượng Diễn Tổ hỏi ngài Phật-Giám: Mùa lúa của Thư-Châu chín chưa? Ngài Phật-Giám đáp: Chín rồi. Hòa-Thượng Diễn Tổ lại hỏi: Mùa lúa của chùa Thái-Bình chín chưa? Đáp: Chín rồi. Hòa-Thượng Diễn Tổ lại hỏi: Lúa nếp tại các trang-trại thu được bao nhiêu tất cả? Ngài Phật-Giám suy nghĩ chưa kịp đáp, Hoà-Thượng Diễn-Tổ nghiêm sắc, đanh tiếng nói: Ông lạm-dự làm chủ một chùa, việc không cứ lớn, nhỏ đều phải để tâm xét kỹ. Kế-hoạch chi dùng hàng năm của thường-trụ[36] quan hệ đến cả chúng mà ông còn không biết, thì những việc nhỏ nhặt khác, ông không nói ra tôi cũng có thể thấy được. Giữ việc nơi sơn-môn[37] phải biết nhân, biết quả như Sư-ông (Phương-Hội Thiền-Sư) giúp Sư Tổ Từ-Minh[38] vậy ông không nghĩ của thường trụ nặng như núi sao?
Hẳn là trong lúc tầm thường, Hòa-Thượng Diễn Tổ đã sẵn có những cơ-biện lanh lẹ, ngược lại, ngài Phật-Giám lại giữ lễ đệ-tử, ứng-đối thong thả, nên mới xảy ra trường hợp như thế! Trong bộ Học-Ký, người xưa nói: “Thày nghiêm nhiên hậu đạo học mới được tôn trọng”. Cho nên, con cháu thuộc dòng-dõi sơn-môn Đông-Sơn, có nhiều bậc hiền-đức cao siêu hơn người. Thực là nguồn xa dòng dài vậy.
34.– ĐẠO-THUẬT
Ngài Diễn Tổ thấy Tăng-sĩ nào có tiết nghĩa mà có thể xây-dựng thành đạo-nghiệp được, trong nhà, có sự chống đối gay go, Ngài vẫn thản nhiên không tỏ ra bênh vực bằng lời nói hay sắc diện. Song, xét đến những kẻ có tính thiên, tà, siểm, nịnh làm những việc tạp-nhạp, vụn vặt, không thể dạy được, thì Ngài lại ái-trọng hơn.
Thực, người đời không thể lường được ý nghĩ của Ngài. Nhưng, đó hẳn là phương-sách thủ, xả của ngài Diễn Tổ có đạo-thuật vậy.
35.– NHẤT TÂM
Ngài Diễn Tổ nói: Người xưa thích nghe lỗi mình, mừng làm việc thiện, tăng-trưởng sự bao-dung những người chưa hoàn hảo, cẩn-hậu đối với sự ẩn ác của người, nhún nhường trong việc giao bạn, siêng năng việc cứu giúp quần chúng và, không bao giờ đem so sánh sự được hay mất để sinh ra hai lòng. Cho nên, ánh sáng rộng lớn ấy soi sáng cả xưa nay vậy[39].
36.– XỬ SỰ
Hoà-Thượng Diễn Tổ nói với ngài Phật-Giám: Điều quan-yếu của trụ-trì là xử sự với chúng quí cho đầy đủ, xử sự với mình chỉ nên giản-ước, còn những điểm nhỏ-nhặt khác đừng quan tâm tới. Dùng người nên tỏ lòng thành thực, nói năng nên lựa chọn cẩn-trọng. Lời nói cẩn trọng tự nhiên chủ nhân có được sự tôn trọng. Tỏ lòng thành thực tự nhiên chúng-tâm cảm mến. Được tôn-trọng, dù không cần uy-nghiêm, quần chúng vẫn phục. Đã cảm mến, dù không ra lệnh, công việc vẫn tự thành. Và, tự-nhiên người hiền, người ngu đều thông suốt lòng mình. Ngược lại nếu duy-trì bằng thế-lực, ép bức bằng đuổi mắng, bất đắc dĩ mà người ta phải theo nhưng sự tai hại, hay kém hiệu-lực của nó sẽ gấp muôn lần vậy.
37.– HƯỚNG ĐẠO
Ngài Diễn Tổ nói với ông Quách-Công-Phụ[40]: Tính tình người ta không giữ được mực thường mãi mãi, mà nó tùy theo sự giáo-hóa có thể thay đổi dần dần. Từ xưa, Phật-pháp tuy có sự hưng suy, nhưng trong lý hưng suy ấy đều do sự giáo-hóa mà nên. Xưa kia, công việc làm lợi ích cho người của các vị Tổ-sư thuộc phái Nam-Nhạc (Giang-Tây), các Ngài thường đem lại sự hay, đẹp, hòa, vui cho con người bằng thuần-phong, tiết chế con người bằng thanh-tịnh, thấm-nhuần con người bằng đạo-đức, giáo hóa con người bằng lễ nghĩa, khiến cho những ai tham học đều thu-liễm được sự trông thấy, nghe thấy một cách bất chính, ngăn lấp được sự tà vạy, dứt bỏ được sự ham muốn và lãng quên về lợi-dưỡng. Do đó, dần dần họ có thể đi tới chỗ thiện, xa điều lỗi, đạo thành, đức đủ mà họ không tự biết.
Người đời nay cách xa người đời xưa nhiều. Nhưng, nếu ai quyết-định muốn tham-cứu đạo Phật, cần phải bền chí không đổi, đặt kỳ-hạn cho sự giác-ngộ và, sau đó, dù họa hoạn được mất, đều phó cho định-nghiệp, không nên có tính cách tạm thời cầu mong tránh khỏi, hay lo xa là việc không thành, mà không làm nữa, thì tự-nhiên đạt thành. Nếu chỉ một chút suy nghĩ lại, nảy sinh trong lòng, thì không những đời nay không trọn, mà cho đến nghìn đời, muôn kiếp sau này cũng không khi nào thành-tựu được.
38.– THIỀN CƠ
Ông Công-Phụ từ đất Đương-Đồ (châu Thái-Bình) qua sông thăm Hoà-Thượng Bạch-Vân-Đoan[41] tại chùa Hải-Hội. Hòa-Thượng Bạch-Vân hỏi: Trâu của ông thuần chưa? Ông Công-Phụ đáp: Thuần rồi. Ngài Bạch-Vân quát mắng. Ông Công-Phụ vẫn khoanh tay đứng im. Ngài Bạch-Vân nói: Thuần rồi, thuần rồi! Việc này không khác gì việc chứng-ngộ của ngài Nam-Tuyền[42] và ngài Đại-Qui[43]. Nói rồi, Ngài liền tặng ông Công-Phụ một bài kệ:
Ngưu lai sơn trung,
Thủy túc, thảo túc.
Ngưu xuất sơn khứ,
Đông xúc, Tây xúc.
Phỏng dịch:
Trong non trâu đủ đồ dùng,
Dong chơi ngoài núi Tây, Đông mặc tình[44].
Ngài lại nói : Bậc Thượng-đại-nhân, dạy ba nghìn người, biết được lễ vậy ![45]
39.– KHÔNG THỰC
Ngài Bạch-Vân nói với ông Công-Phụ: Năm xưa Khả-Chân Thiền-Sư[46] ở chùa Thúy-Nham thường tự khoe là ta say sưa về thiền-quán và, luôn luôn dùng miệng lưỡi linh-lợi biện-luận, trách mắng chư phương, cho rằng chưa có vị nào được vừa ý mình. Nhưng, thực ra vị ấy chưa tỏ ngộ được đại-pháp. Một ngày kia ngài Kim-Loan-Thiện Thị-giả[47] gặp Khả-Chân Thiền-Sư cười mà bảo rằng: Sư-huynh tham thiền tuy nhiều, nhưng không diệu ngộ, được gọi là si-thiền vậy.
40.– HOẰNG-ĐẠO
Ngài Bạch-Vân nói: Sự thịnh suy của đạo không phải là thường-pháp, mà đều do ở người hoằng đạo. Cổ-nhân nói: “Biết giữ thì còn, nếu bỏ thì mất.” Thực vậy, đạo chẳng bỏ người mà do người bỏ đạo. Người xưa hoặc ở trong rừng núi, hay ẩn ở nơi triều-thị, không bị lôi kéo vào danh lợi, không bị mê hoặc bởi thanh sắc, nên thanh dự được vang dội một thời và mỹ danh lưu truyền muôn thuở. Như thế, há rằng người xưa làm được mà người đời nay không làm được chăng? Không, đều bởi sự giáo-hóa chưa đến nơi và, ta làm không tận lực mà thôi. Có người lại cho rằng người xưa thật-thà nên giáo-hóa được và, người đời nay bạc bẽo nên không giáo-hóa được. Đó chỉ là lời cổ-hoặc, thực không đủ xét nghiệm.
41.– NÓI VÀ LÀM
Ngài Bạch-Vân nói với ông Vô-Vi-Tử[48]: Nói mà không làm được chẳng bằng đừng nói. Làm mà không hiểu lời nói chẳng bằng đừng làm. Nói ra phải nghĩ tới chỗ chung-cục của nó. Và, định làm phải xét đến chỗ ngăn-trở của nó. Vì vậy, bậc tiên-triết cẩn trọng lời nói và, lựa chọn việc làm. Nói ra không phải để cầu cho lý được hiển-lộ, mà hầu mong mở tỏ chỗ chưa ngộ cho học-giả. Làm việc không phải là muốn hay riêng cho mình, mà hầu mong dạy chỗ chưa thành cho học-giả. Cho nên, nói ra có pháp độ, làm việc có lễ-tiết, mới có thể nói không bị mang họa và, làm không bị mang nhục. Nói phải là mực thước và, làm phải là khuôn-pháp. Kinh Dịch nói: “Nói và làm là then chốt của người quân-tử, là căn bản của việc sửa mình”. Nói và làm, làm động đến trời đất[49], cảm đến quỉ-thần[50], thực đáng kính vậy.
42.– THIỀN NĂNG
Ngài Bạch-Vân nói với ngài Diễn Tổ: Chí năng của những người tu thiền phần nhiều chỉ thấy những việc đã xảy ra, chứ không thể thấy những việc chưa xảy ra. Tu Chỉ, Quán, Định, Tuệ là phòng trước những việc chưa xảy ra, còn Tác, Chỉ, Nhiệm, Diệt[51], là biết sau những việc đã xảy ra. Cho nên, công dụng của Tác, Chỉ, Nhiệm, Diệt dễ thấy, mà chỗ làm của Chỉ, Quán, Định, Tuệ khó biết. Chỉ có người xưa chí quyết vào đạo, dứt bỏ vọng-niệm khi nó chưa nảy mầm, thì tuy rằng có Chỉ, Quán, Định, Tuệ, Tác, Chỉ, Nhiệm, Diệt, cũng đều là sự bàn luận về gốc ngọn mà thôi. Vì vậy có chỗ nói: “Nếu còn có một lời nói nào vướng vào gốc ngọn bằng đầu sợi lông thì cũng đều là dối mình”. Người xưa thấy suốt đến nơi, nên không dối mình vậy.
43.– TRÁCH-NHIỆM
Ngài Bạch-Vân nói: Thấy nhiều Tăng-sĩ chưa bao giờ nghĩ đến kế hoạch cho tùng-lâm. Tôi sợ rằng từ đó mà tùng-lâm suy kém. Dương-Kỳ tiên-sư nói: Người trên kẻ dưới lẩn tránh trách-nhiệm cho yên thân, thì thực là tai-họa lớn cho pháp-môn[52].
Xưa kia tôi ở ẩn trong thư-viện chùa Qui-Tôn. Tôi mở xem kinh sử không những qua mắt mấy trăm lần, mà xem đến nỗi các sách ấy hư nát rất nhiều. Mỗi khi mở sách ra xem, là tôi quyết định biết được những ý mới. Đem việc ấy mà suy nghĩ, tôi thấy rằng “học không phụ người” là như thế.
44.– TRI CƠ
Ngài Bạch-Vân đầu tiên trụ-trì chùa Thừa-Thiên (Cửu-Giang), sau Ngài dời về chùa Viên-Thông – khi ấy Ngài còn ít tuổi. Bấy giờ ngài Hối-Đường[53] ở chùa Bảo-Phong nói với ngài Nguyệt-Công-Hối[54]: Vị tân trụ-trì chùa Viên-Thông là người thấy suốt nguồn gốc một cách rõ-ràng, thực không hổ là người nối pháp của ngài Dương-Kỳ. Nhưng, tiếc rằng Ngài đắc dụng quá sớm, chẳng phải là phúc của tùng-lâm. Nhân đó, ngài Công-Hối mới hỏi: Tại sao vậy? Ngài Hối-Đường nói: “Công-danh, mỹ-khí tạo vật thường tiếc, không muốn cho người ta được hoàn-toàn. Người ta cố mong muốn được điều ấy, thì tạo-vật quyết đoạt lấy.”
Đến khi ngài Bạch-Vân mất ở chùa Hải-Hội (Thư-châu), năm ấy Ngài mới có 56 tuổi, các thức-giả cho ngài Hối-Đường là người biết cơ-vi, thực là bậc triết-nhân vậy.
45.– TỰ THẮNG
Ngài Hối-Đường tham học cùng ngài Nguyệt-Công-Hối ở chùa Bảo-Phong. Ngài Công-Hối thấy rõ ý chỉ sâu xa của kinh Lăng-Nghiêm, được coi là bậc hải-thượng độc bộ[55]. Ngài Hối-Đường mỗi khi nghe được một câu một chữ, như là được viên ngọc báu và, vui mừng khôn xiết. Trong hàng Tăng-sĩ, đôi khi có một số người bàn trộm về Ngài. Ngài Hối-Đường nghe được nói: “Rút tỉa sở trường của người, mài giũa sở đoản của mình, mình hiềm với họ làm chi!” Ngài Anh-Thiệu-Vũ[56] nói: Hối-Đường Sư-huynh, đạo-học được các Tăng-sĩ tôn-trọng, mà còn lấy sự tôn đức tự-thắng làm hơn và, cho những điều chưa thấy chưa nghe được làm thẹn-hổ, khiến cho tùng-lâm tự mở rộng ra mà thu hẹp người ta vào chỗ có khuôn pháp. Như thế, sẽ có sự bổ ích lớn lao vậy!
46.– MƯU-ĐỊNH
Ngài Hối-Đường nói: Sự quan-yếu của trụ-trì là nên chọn lấy những sự có ý nghĩa xa rộng và nên bớt những sự nhỏ nhặt gần gũi. Những việc mà mãi mãi chưa giải quyết được nên hỏi bậc lão thành. Những việc còn ngờ vực nên hỏi người hiểu biết. Ví dù có chỗ chưa hiểu biết hết, cũng không đến nổi phải tranh-luận nhiều. Kỳ hoặc, người chủ ưa thích lòng riêng tư, tự-dụng và tự giữ lấy việc LẤY hay CHO tùy ý, một mai gặp phải mưu-kế của tiểu-nhân thì tội ấy sẽ về ai? Cho nên, có chỗ nói: “Mưu tính cần nhiều người và, quyết-đoán chỉ một mình”. Mưu tính cần nhiều người, vì nhiều người có thể quan sát được đến chỗ cùng cực của sự lợi hại. Quyết-đoán chỉ một mình, vì nó có thể đặt định được sự phải trái nơi tùng-lâm.
47.– LỢI SINH
Ngài Hối-Đường không đi dự cuộc lễ theo lời mời của chùa Qui-Sơn, ông Trần-Oánh-Trung[57], huyện Diên-Bình gửi thư khuyên rằng: Cổ nhân, trụ-trì không có chức-sự, mà chỉ lựa chọn người có đức vào chức-sự ấy. Người đương gánh vác chức-sự ấy, quyết phải đem đạo-lý mà mình đã tu chứng được, để giác-ngộ cho nhân-dân nơi địa-phương ấy, chứ hoàn-toàn không phải dùng quyền thế, địa vị, thanh-danh, lợi-dưỡng để cải-biến.
Nay những người tu học, đại-đạo chưa rõ mà đều chạy theo dị-học, trôi vào danh-tướng, liền bị thanh-sắc quấy động. Như thế người hiền, kẻ bất tiếu, chung cùng lẫn lộn, không thể phân-biệt rõ ràng được. Và chính lúc này cần có các bậc lão thành, còn giữ được lòng trắc-ẩn, cho đạo là trách nhiệm của mình, để thay đổi lại tình thế, như ngăn chặn trăm sông đừng cho thuận dòng xuôi chảy, thực không khó vậy. Nếu các vị lui về, tìm cầu sự vẳng lặng cho được an-nhàn, đó là cái tốt của sự độc thiện kỳ thân, nhưng chẳng phải là chỗ tùng-lâm trông mong nơi các Ngài vậy.
48.– DÙNG NGƯỜI
Ngài Hối-Đường một ngày kia thấy ngài Hoàng-Long[58] có nét mặt không vui, nhân đó, ngài Hối-Đường đón hỏi duyên cớ. Ngài Hoàng-Long đáp: Tôi chưa chọn được người giữ chức Giám-Thu. Ngài Hối-Đường liền tiến cử Cảm Phó-Tự[59]. Ngài Hoàng-Long nói: Cảm-Phó-Tự tính tình còn thô bạo, sợ kẻ tiểu nhân mưu hại. Ngài Hối-Đường thưa: Vậy có Hóa Thị-Giả[60], tính-tình hơi liêm-cẩn. Ngài Hoàng-Long nói: Hoá Thị-Giả tuy liêm-cẩn nhưng không bằng Tú Trang-Chủ[61], là người có độ lượng mà trung-thành.
Ngài Linh-Nguyên[62] thường hỏi ngài Hối-Đường: Không hiểu sao, ngài Hoàng-Long chỉ cần dùng một chức Giám-Thu mà lo nghĩ quá như thế? Ngài Hối-Đường nói: Từ khi có nước, có nhà đến nay ai cũng đều phải xét kỹ trong sự được người và dùng người làm căn bản. Đấy há riêng gì ngài Hoàng-Long làm như thế, mà các bậc tiên-thánh cũng từng răn như vậy.
49.– TINH TIẾN
Ngài Hối-Đường nói với ông Cấp-Sự Chu-Thế-Anh[63]: Khi tôi mới vào đạo, tôi tự thị là đạo rất dễ. Nhưng, sau khi tôi yết-kiến Hoàng-Long tiên-sư, tôi nghĩ lại về những việc thường dụng của tôi đối với đạo-lý, tôi thấy có mâu-thuẫn rất nhiều. Tôi liền gắng sức thực-hành trong ba năm. Dù gặp mùa lạnh buốt hay nắng gắt, tôi vẫn bền chí không dời. Và, sau đó tôi mới thấy được sự sự như lý. Ngày nay dù là khi tôi ho-hắng hay khoa tay cũng đều là như ý của Tổ-Sư từ phương Tây lại[64].
50.– BẤT ĐỒNG
Ông Chu-Thế-Anh hỏi ngài Hối-Đường: Người quân-tử không may có chút sai lầm nhỏ thì những người nghe thấy hay trông thấy đều chỉ-mục không ngớt. Trái lại, kẻ tiểu-nhân suốt ngày tạo ác, mà không bị như thế là sao vậy? Ngài Hối-Đường đáp: Đức của người quân tử như viên ngọc quí, nếu trong viên ngọc ấy tự-nhiên sinh ra vết, tất nhiên phải hiện ra ngoài và người trông thấy viên ngọc ấy như thế, coi là kỳ-dị, nên không thể không chú ý được. Còn kẻ tiểu nhân, hàng ngày họ chuyên làm những lỗi ác thì cần nói làm chi.
51.– ĐẠO
Ngài Hối-Đường nói: Đạo của thánh-nhân như trời đất nuôi nấng muôn vật, và không có vật gì là không đầy đủ trong đạo ấy. Đạo của chúng-nhân như: giang, hà, hoài, tể, núi, sông, gò, hang, cỏ, cây, côn-trùng… đều dung hết lượng của nó mà thôi. Và, nó không biết ngoài lượng của nó ra thì trong vũ-trụ này vật gì cũng đầy đủ đạo ấy.
Vậy, có hai đạo ư? Không, do sự thấy được có nông, sâu và thành-tựu có lớn, nhỏ mà thôi.
52.– THIỆP THẾ
Ngài Hối-Đường nói: Sự việc đã bỏ lâu không thể mong chóng thành, điều xấu chồng chất nhiều không thể trừ bỏ ngay, sự ưu-du không thể lưu-luyến mãi, nhân-tình không thể tốt mãi, và họa-hoạn không thể cẩu-thả và mong tránh khỏi được.
Là bậc thiện-tri-thức hiểu suốt được năm việc ấy, thì trong sự thiệp-thế sẽ không bị buồn phiền.
53.– TRỌNG HIẾU
Ngài Hối-Đường nói: Sự tiến, chỉ của Hoàng-Long tiên-sư rất nghiêm-trọng. Ai trông thấy Ngài cũng đều kính sợ. Tăng-sĩ nào có việc gì xin nghỉ, thì phần nhiều Ngài dứt khoát từ chối. Nhưng, khi Ngài nghe thấy ai xin về thăm song-thân già yếu, thì khí sắc Ngài vui hòa, hiện trên nét mặt, Ngài tỏ hết lễ độ và còn gửi phẩm vật về biếu.
Ngài mến người cung kính sự hiếu như thế.
54.– ĐỘ LƯỢNG
Ngài Hối-Đường nói: Xưa kia, Hoàng-Long tiên-sư cùng Vân-Phong, Văn-Duyệt Hòa-Thượng[65] mùa Hạ an cư tại chùa Phụng-Lâm, đất Kinh-Nam. Tính Hòa-Thượng Văn-Duyệt hay biện luận. Một hôm Hoà-Thượng Văn-Duyệt cùng một số Tăng-sĩ bàn cãi ồn ào, mà Hoàng-Long tiên-sư vẫn thản nhiên xem sách như không biết gì cả. Sau khi bàn cãi xong, Hòa-Thượng Văn-Duyệt đến đầu bàn của Hoàng-Long tiên-sư quắc mắt trách: Ngài ở đây tập độ lượng của bậc thiện-tri-thức à? Hoàng-Long tiên-sư cúi đầu tạ lễ và vẫn xem kinh như cũ.
55.– TỰ XẢ
Hoàng-Long-Nam Hòa-Thượng nói: Xưa kia tôi cùng ngài Văn-Duyệt đi thăm đất Hồ-Nam, chúng tôi trông thấy một vị Tăng đi hành cước[66] mang một cái rương. Ngài Văn-Duyệt lấy làm kinh-dị, cau mày trách rằng: Những vật-dụng trong phòng mình sao không chịu bỏ lại, đem đi làm chi, để làm bận-bịu và mệt nhọc cho mình và cho người phải mang gánh?
56.– NHÂN TÌNH
Ngài Hoàng-Long nói: Trụ-trì cần được chúng-nhân và được chúng-nhân cần phải có tình. Tiên Phật thường nói: “Nhân tình là ruộng phúc của thế-gian”. Vì vậy, đạo cũng do đó mà sinh.
Thời có bĩ, thái (suy, thịnh); sự có tổn, ích (kém, hơn), tất nhiên cũng đều bởi nhân tình mà có. Tình có thông, tắc nên bĩ, thái sinh; sự có hậu, bạc, nên tổn, ích tới. Và, chỉ có bậc thánh-nhân mới suốt được tình thiên-hạ. Do đó trong kinh Dịch có những quẻ như: Càn dưới Khôn trên là quẻ THÁI. Càn trên Khôn dưới là quẻ BĨ. Nay lấy tượng-hình mà nói thì Tổn trên Ích dưới (Tốn trên Chấn dưới) là quẻ Ích, Tốn dưới Ích trên (Cấn trên Đoài dưới) là quẻ TỔN. Càn là trời, Khôn là đất. Trời ở dưới đất ở trên, ngôi vị có trái, nhưng ngược lại là THÁI (thịnh), vì trên dưới giao-cảm nhau. Chủ ở trên, khách ở dưới, nghĩa coi là thuận, nhưng ngược lại, lại là BĨ (suy), vì trên dưới không giao-cảm nhau. Cho nên, trời đất không giao-cảm, mọi vật không sinh-dục, nhân-tình không giao-cảm, muôn việc không hòa-hảo. Ý-nghĩa của Tổn, Ích (kém, hơn) cũng do nơi đây vậy.
Là người trên, đối với mình thì kiệm-ước mà rộng rãi với người dưới, người dưới hẳn vui lòng mà phụng-sự người trên, như thế há không phải là ích ư? Trái lại, người trên khinh miệt người dưới mà buông thả cho sở thích của mình, thì người dưới quyết định oán hận mà phản-bội người trên, như thế há không phải là Tổn ư? Vì vậy trên dưới giao-cảm thì THÁI (thịnh), không giao-cảm thì BĨ (suy), mình kém (tổn), thì người hơn (ích), mình hơn thì người kém, tình người được mất há dễ-dàng ư? Tiên-Thánh thường dụ: “Người là thuyền, tình là nước. Nước chở thuyền và cũng có thể lật úp thuyền. Nước thuận thuyền nổi, nước trái thuyền chìm.”
Cho nên, trụ-trì được nhân-tình thì hưng thịnh, mất nhân-tình thì phế hủy, được hoàn toàn thì hưng-thịnh hoàn-toàn, mất hoàn-toàn thì phế-hủy hoàn-toàn. Cũng như cùng làm việc thiện thì phúc nhiều, cùng làm việc ác thì họa lắm. Thiện ác đồng loại, suốt như xâu chuỗi ngọc, hưng phế tượng hành, rõ như xem mặt trời. Đó là sự chứng-nghiệm của nhiều đời vậy.
57.– DỤNG TÂM
Ngài Hoàng-Long nói với ông Kinh Công[67]: Phàm, những việc chú tâm làm, thường nên mở rộng con đường thẳng trước mặt mình, để cho mọi người đi được, mới là dụng tâm của đại-nhân. Nếu con đường ấy là con đường hiểm, hẹp không thông, thì chẳng riêng gì những người khác không đi được, mà cả gia đình mình cũng không có chỗ đặt chân vậy.
58.– KHÔNG DỐI
Ngài Hoàng-Long nói: Người ta trong lúc nói năng, im lặng, cử-động, đặt định, tự nhủ là trên không dối trời, ngoài không dối người, trong không dối tâm, thực đáng cho là được vậy. Song, còn phải răn giữ cẩn-trọng khi ở một mình trong nơi ẩn-vi. Và, quả như không có mảy may nào dối gạt, đó mới đáng cho là được.
59.– TRƯỞNG LÃO
Ngài Hoàng-Long nói: Chức Trưởng-Lão[68] là đồ đựng đạo-đức. Tiên-thánh dựng tùng-lâm, bày kỷ-cương, đặt danh-vị, lựa chọn các Tăng-sĩ có đạo-đức gọi là Trưởng-Lão. Trưởng-lão phải thực hành đạo-đức, chứ không phải là tạm trộm cái tên ấy mà thôi.
Từ-Minh tiên-sư thường nói: Cùng với những vị giữ đạo chết già nơi gò đống, hang hốc, chẳng bằng hành đạo, lĩnh chúng ở nơi tùng-lâm. Như thế, há chẳng phải khéo giữ chức Trưởng-lão thì đạo-đức của Phật Tổ còn vậy ư?
60.– TÍCH LŨY
Ngài Hoàng-Long nói với Ẩn-sĩ Phan-Diên-Chi[69]: Đạo học của Thánh-hiền không phải thành được ở chỗ vội-vàng, cẩu-thả, mà phải ở chỗ tích-lũy. Điều cốt yếu của sự tích-lũy chỉ là CHUYÊN và CẦN. Bỏ hết tham muốn, thực-hành không mệt, nhiên hậu đạo-lý mở rộng, tâm-lượng đầy đủ, có thể thông suốt hết được sự lý vi-diệu trong thiên-hạ.
61.– MÔ PHẠM
Ông Phan-Diên-Chi nghe sự trì-pháp và hành-đạo của ngài Hoàng-Long rất nghiêm-mật, nhân đó, ông hỏi Ngài về sự quan-yếu của pháp-đạo ấy. Ngài Hoàng-Long nói: Cha nghiêm thì con kính. Qui-huấn ngày nay là mô-phạm ngày sau. Như người sửa đất, chỗ cao làm cho thấp xuống, chỗ trũng làm cho bằng lên. Người kia leo lên núi ngàn tầm, ta cũng leo lên bằng họ; người kia chịu khốn cực để xuống dưới vực sâu chín tầng, ta cũng xuống dưới ấy bằng họ. Tài khéo muốn lên cao của họ đã cùng, vọng-tưởng muốn xuống thấp của họ đã hết, tự-nhiên họ tự phải nghỉ.
Ngài Hoàng-Long lại nói: Khí ấm-áp của mùa Xuân, mùa Hạ, là đem lại sự sinh-dục cho vạn vật, giọt sương tuyết của mùa Thu, mùa Đông là đem lại sự thành-thục cho vạn vật. Như thế, tôi không muốn nói, được ư?
62.– THIỀN-QUAN
Trong thất ngài Hoàng-Long có truyền-tụng về TAM-QUAN-NGỮ[70] và, hàng Tăng-sĩ ít người khế-hợp được cơ ấy. Có lúc, có vị chợt hỏi Ngài, mong được Ngài đáp lại, nhưng Ngài chỉ nhắm mắt ngồi nghiêm, quyết không trả lời là được hay không được. Nhân đó, ông Phan-Diên-Chi hỏi gặng thêm, Ngài Hoàng-Long nói: “Người đã qua được quan-ải, thì cứ vung tay mà đi. Trái lại, người còn phải hỏi anh coi quan-ải là đi được hay không đi được, đó là người chưa qua được quan-ải”.
63.– ĐẠT ĐẠO
Ngài Hoàng-Long nói: Đạo như núi, càng lên càng cao, đạo như đất, càng đi càng xa. Người học đạo nếu kiến-thức ty-tiểu, lập chí thiển-cận, chỉ làm, gọi là tận lực rồi thôi. Nhưng, chỉ những người có chí tìm đạo, mới đạt tới chỗ cùng-cực trong lẽ cao xa của đạo. Những người kiến-thức và năng-lực ty-thiển kia sao sánh được với người có chí tìm đạo.
64.– CHUYÊN NHẤT
Ngài Hoàng-Long nói: Trời đất, mặt trời mặt trăng ngày xưa, cũng như trời đất, mặt trời mặt trăng ngày nay. Tính-tình vạn vật ngày xưa, cũng như tính-tình vạn vật ngày nay. Trời đất, mặt trời mặt trăng vẫn không thay đổi và, tính-tình vạn vật cũng vẫn không thay đổi, tại sao chỉ riêng có đạo là thay đổi? Ôi, vì người học đạo, hiểu đạo chưa đến nơi! Họ chán cũ, vui mới, bỏ đây, lấy kia. Như người muốn đến nước Việt, họ không đi xuống phương Nam, lại đi lên phương Bắc! Thực là khác người vậy! Song, như thế họ chỉ làm mệt tâm, khổ thân và dù rằng, coi như chí của họ càng siêng, mà đạo càng xa vậy!
65.– NHẤT Ý
Ngài Hoàng-Long nói với ngài Oanh-Thiệu-Vũ: Người học đạo, chí cần hướng về một chỗ, lâu không thoái-chuyển, tất nhiên, ngày kia diệu-đạo sẽ quay về. Nếu người học đạo, tâm còn ưa, ghét, tình thả theo tà, thì tuy có chí-khí như người xưa, tôi sợ rằng cứu-cánh họ cũng chẳng thấy được đạo.
66.– TỰ LƯỢNG
Bảo-Phong-Anh Hoà-Thượng nói: Bậc lão-túc các nơi hay đem phê-phán lời nói của các bậc tiên-giác và nhặt lấy các bài công-án[71] để diễn-giải thêm. Những việc làm ấy không khác gì bưng đất đắp thêm vào núi Thái, bốc nước tưới thêm vào biển Đông. Núi biển kia đâu nhờ vào việc làm ấy mà cao sâu hơn.
Xem cái chí muốn làm thêm lên cho các bậc tiên-giác của các vị kia, thấy rằng các vị kia không tự biết là việc làm ấy không hợp với sức mình.
67.– TỰ TỈNH
Ngài Anh-Thiệu-Vũ mỗi khi thấy những học-chúng phóng túng, không sợ nhân-quả, Ngài thở dài nói: Kiếp sống lao-lục như khách, thuyền tạm trú nơi quán trọ, bến sông, ở thì tùy duyên đi thì quên hết và, thời gian của họ được bao lâu! Các ông không biết liêm-sỉ, can phạm danh-phận và làm nhơ-nhuốc tôn-giáo đến như thế! Đại-trượng-phu chí đặt ở chỗ mở rộng đạo Tổ, dắt dẫn hậu-lai. Không nên chuyên làm những sự ham muốn riêng mình, mà không kiêng tránh điều gì. Vì, ham muốn như thế, chỉ tự vời lấy họa hoạn cho mình một đời và tạo ra tai-ương muôn kiếp mà thôi. Các ông nên biết rằng: Chịu khổ nơi địa-ngục, ngã-quỉ, súc-sinh chưa phải là khổ. Nhưng, rất tiếc, mặc áo ca-sa này mà bỏ thân người, mới thực là khổ!
68.– MẠT PHÁP
Ngài Anh-Thiệu-Vũ nói với ngài Hối-Đường: Phàm xưng là thiện-tri-thức[72], phải giúp thêm vào việc xiển-dương sự giáo-hóa của Phật-Tổ, làm cho các hàng Tăng-sĩ hối-chuyển tâm-tính, hướng tâm về diệu-đạo, thay thói ác-nghịch, đổi tục bất thiện, hẳn không phải là những nguời thiển-căn, bạc đức có thể làm được.
Tỳ-Khưu[73] thời mạt-pháp không tu đạo đức, ít có tiết nghĩa, thường thường hớn-hở làm những việc luồn cúi, đút lót như con cẩu vẫy đuôi xin thương, tìm cầu thanh-lợi ở cửa nhà quyền quí. Một mai, nghiệp đầy, phúc hết, trời, người chán ghét, làm nhơ nhớp chính-tông, làm liên-lụy đến thày bạn, há không thở dài được ư!
Ngài Hối-Đường im lặng gật đầu.
69.– TÂM TÍCH
Ngài Anh-Thiệu-Vũ nói với ông Phan-Diên-Chi: Cái học đời xưa trị tâm, cái học đời nay trị tích (dấu vết). Tâm với tích cách nhau như trời đất vậy.
70.– LẬP CHÍ
Ngài Anh-Thiệu-Vũ nói với Chân-Tịnh-Văn Hòa-Thượng[74]: Vật lớn mau tất gẫy non, công chóng thành tất dễ hoại. Không suy tìm cái kế lâu dài, lại tạo cái công chóng thành, như thế, đều không phải là tư-chất cao xa rộng lớn.
Trời đất đầy đủ lẽ linh-diệu mà còn cứ ba năm lại trở lại một năm nhuận[75] mới thành công, mới đủ sự hoả-dục, huống là lẽ vi-diệu của đại-đạo, vội-vàng mà làm xong được chăng? Cốt yếu ở chỗ chứa góp công-đức dần dần mới được. Cho nên có chỗ nói: “Muốn chóng thì không thông đạt, giữ tế-hạnh thì không lầm lẫn”. Vậy muốn thành đạt mỹ-mãn phải lâu ngày và phải có mưu kế trọn đời. Thánh-nhân nói: “Vững tin để giữ gìn chí-khí, lanh lẹ để gia sức thực-hành, trung-hậu để đạt thành sự-nghiệp.” Như vậy, việc dù lớn cũng quyết thành.
Ngày xưa, Mộ-Triết Thiền-Sư[76] khi giữ chức Thị-giả thường thường ban đêm Ngài chỉ ngồi không ngủ. Ngài dùng khúc gỗ tròn làm gối, hơi buồn ngủ thì gối lăn, Ngài tỉnh lại, thức dậy và ngồi yên như cũ. Hoặc có người cho là Ngài dụng tâm thái quá. Ngài Mộ-Triết nói: Duyên phận trí-tuệ của tôi rất mỏng-manh, nếu tôi không khắc-khổ, rèn luyện chí-khí, sợ bị vọng-tập lôi kéo, huống chi đây chỉ là mộng ảo không thực, đâu phải là kế trường cửu. Ngày xưa ở đất Tương-Tây, tôi đã mục-kích thấy sự thao-lý như thế! Do đó, tùng-lâm phục danh Ngài và kính tụng đức Ngài.
71.– XUẤT XỬ
Chân-Tịnh-Văn Hòa-Thượng tham học nơi ngài Hoàng-Long lâu ngày, nhưng những năm đầu Ngài không thốt ra một lời nào trước chúng nhân. Và, mãi sau này Ngài mới nhận lời thỉnh của chùa Động-Sơn.
Tiện đường đi qua ngả Tây-Sơn, Ngài ghé thăm Hương-Thành, Cảnh-Thuận Hòa-Thượng[77]. Hòa-Thượng Cảnh-Thuận nói đùa:
Gia-Cát tích niên xưng ẩn-giả,
Mao lư kiên thỉnh xuất sơn lai.
Tùng hoa nhược dã chiêm xuân lực,
Căn tại thâm nham dã trước khai.
Phỏng dịch:
Gia-Cát[78] năm xưa xưng ẩn-sĩ,
Lều tranh cố thỉnh, hạ sơn rồi!
Hoa thông như thêm hơi xuân lực,
Căn tại hang sâu nở rạng ngời.
Ngài Chân-Tịnh lễ tạ và lui.
72.– XÉT THỰC
Ngài Chân-Tịnh cử Quảng-Đạo-Giả[79] trụ-trì chùa Ngũ-Phong. Chúng nhân bàn tán cho rằng Quảng-Đạo-Giả là người dốt nát vụng về, không có tài ứng thế. Đến khi trụ-trì, Quảng-Đạo-Giả sửa mình một cách tinh-nghiêm, xử chúng bằng đức khoan-dung, chưa bao lâu hàng trăm sự phế-hủy đều được sửa sang lại đầy-đủ. Khi ấy, hàng Tăng-sĩ vãng lai, lại cạnh-tranh huyên-truyền khen ngợi. Ngài Chân-Tịnh nghe được, nói: Người học đạo sao hay dễ-dàng trong sự khen, chê vậy! Tôi thường thấy nơi tùng-lâm có vị hay bàn trộm vị trưởng-lão kia hành-đạo an chúng, vị trưởng-lão kia không xâm-dụng của thường-trụ và cùng chúng cùng chịu sự cam khổ. Phàm gọi là thiện-tri-thức làm chủ một chùa, hành đạo, an chúng, không xâm dụng của thường-trụ và cùng chúng cùng chịu sự cam khổ là việc quyết phải làm, còn cần phải nói làm chi! Như các sĩ, đại-phu làm quan vì nước, an dân lại nói: tôi không nhận của hối-lộ, không nhiễu dân. Vậy, không nhận của hối-lộ, không nhiễu dân há là ngoài phận-sự của quan-chức ư?
73.– TỰ TÀM
Ngài Chân-Tịnh trụ-trì chùa Qui-Tôn, hàng năm hóa-chủ đem dâng nạp rất nhiều vật-dụng, vật-thực như vải, lụa v.v… Ngài Chân-Tịnh trông thấy cau mày, than: Đây là cao huyết của lòng tin, tôi thẹn không đủ đức, sao dám nhận lãnh!
74.– CHÍNH TÂM
Ngài Chân-Tịnh nói: Tỳ-Khưu thời mạt-pháp, ít có vị có tiết-nghĩa. Bình thường, thấy các vị bàn luận những sự việc xa rộng thì tự cho mình là không ai bằng. Nhưng đến khi có chút ân-huệ bằng một bữa cơm, thì trước kia có tư-tưởng bất đồng, sau này lại xu-phụ, trước chê sau khen. Tìm được vị, thấy phải nói là phải, thấy trái nói là trái, trung-chính không bí-ẩn, thực ít vậy!
75.– THỂ CÁCH
Ngài Chân-Tịnh nói: Sự thụ-dụng của Tỳ-Khưu không nên quá đầy-đủ, vì quá đầy-đủ thì sẽ hư-hỏng. Việc làm cho vừa ý, không thể do nơi nhiều mưu kế, vì nhiều mưu kế thì sau sẽ thất-bại. Sự việc có thành tất có hoại!
Tôi thấy Hoàng-Long tiên-sư bốn mươi năm ra đời làm việc lợi sinh, khi nói, khi im, khi động, khi tĩnh, chưa bao giờ Ngài dùng nhan-sắc để làm vui, dùng lễ-mạo cho thích-hợp và, dùng văn tài để lao-lung các Tăng-sĩ đương thời. Trong chúng, quả như có ai là người có kiến-thức muốn noi theo đạo-lý chân-thực, thì Ngài uốn nắn cho thành-thục. Sự thận-trọng của Ngài thực được như thể-cách của cổ-nhân, các nơi ít có vị nào sánh kịp. Ngày nay tôi đối với chúng, sự gì cũng đều theo như pháp vậy.
76.– TỰ AN
Ngài Chân-Tịnh khi ở chùa Bảo-Ninh (Kiến-Khang), ông Thư-Vương[80] làm lễ trai-tăng và cúng Ngài một tấm lụa nõn. Ngài hỏi vị Tăng thị-giả: Đó là vật gì? Vị Tăng kia đáp: Đây là thứ lụa tốt. Ngài Chân-Tịnh lại hỏi: Dùng làm gì? Vị Tăng kia đáp: Có thể may ca-sa. Ngài Chân-Tịnh chỉ vào tấm y vải Tăng-già-lê[81] và nói: Bình thường tôi vẫn mặc tấm y này, người ta trông thấy cũng chẳng ai hiềm ghét gì. Ngài liền sai đem giao cho vị coi kho bán đi lấy tiền cúng-dường chúng Tăng. Ngài không may mặc những phục-sức như thế.
77.– BẤT BIẾN
Ngài Chân-Tịnh nói với ông Thư-Vương: Hàng ngày những việc phải thì gia sức làm, những việc trái thì cố ngăn tránh, chứ không nên lấy sự khó, dễ mà thay đổi tâm chí. Nếu ngày nay cho là khó, lắc đầu ngoảnh đi, biết đâu ngày kia lại có việc chẳng khó hơn ngày nay ư?
78.– TRỌNG NGƯỜI
Ngài Chân-Tịnh mỗi khi nghe thấy một nơi nào có vị đạo-đức mất đi, Ngài thương tiếc, than thở đến rơi lệ. Khi ấy, Ngài Trạm-Đường[82] làm Thị-giả thấy thế thưa rằng: “Vạn vật sinh trong vũ-trụ này, đã có hình-chất thì sự khô chết, tàn lụi, không thể tránh được. Hòa-Thượng tự chuốc lấy khổ đau làm chi!” Ngài Chân-tịnh nói: “Pháp-môn hưng-thịnh nhờ các vị có đạo-đức chấn-hưng, nay các vị đều mất đi, thì tùng-lâm quyết suy kém vậy! Ông có thể lấy lời nói của tôi làm chiêm-nghiệm! Chú thích:
[1] Minh-Giáo-Tung tức Phật-Nhật, Khế-Tung Thiền-Sư, tự Trọng-Linh, hiệu Tiền-Tử ở Hàn-Châu. Ngài họ Lý ở Đàm-Tân (Đằng-Châu). Ngài nối pháp Động-Sơn, Hiểu-Thông Thiền-Sư, thuộc đời thứ 10 của phái Thanh-Nguyên. Ngài xuất-gia năm 7 tuổi, 13 tuổi đắc độ, 19 tuổi đi tham học các nơi. Ngài thường đem theo tượng đức Quán-Âm và hàng ngày Ngài niệm danh-hiệu đức Quán-Âm một vạn lần. Ngài xem hết các kinh-sách thế-gian và làm ra bộ luận Nguyên-Giáo hơn mười vạn chữ, để chống lại sự bài-bác Phật-Giáo của ông Hàn-Dũ. Sau này, bọn các ông Âu-Dương-Tu, Trình-Sư-Mạnh v.v… dâng bộ luận này lên vua Tống-Nhân-Tôn. Nhà vua xem khen ngợi, cho lưu lại bảo-tạng của nhà vua và gọi là bộ Phụ-Giáo (3 quyển) đồng thời ban cho ngài bảo hiệu là “Minh-Giáo” cũng như một bộ phương-bào màu tím.
[2] Hòa-Thượng (Upàdhyàya-Khosha): Trung-Hoa dịch là “Lực-Sinh”, có nghĩa là đệ-tử nhờ đạo-lực của thày mà sinh-trưởng pháp-thân. Còn dịch là “Y-học”, nghĩa là đệ-tử nương theo thày học giáo-pháp xuất-thế-gian.
[3] Bá-Di, Thúc-Tề: Hai ông này là con của ông Sơ, tự Tử-Triều, họ Mặc-Thai, làm vua nước Cô-Trúc. Ông Bá-Di tên là Doãn, tự Công-Tín, tên thụy là Bá-Di. Ông Thúc-Tề tên là Trí, tự Công-Đạt, tên thụy là Thúc-Tề. Khi vua cha sắp mất, di-mệnh lập ông Thúc-Tề lên nối ngôi. Ông Thúc-Tề trọng đạo luân-thường, nhường cho anh là Bá-Di. Nhưng, ông Bá-Di trọng chữ hiếu, theo di-mệnh của cha, nhất định không nhận. Kết cục hai ông đều bỏ nước ra đi, quốc dân lập Trọng-Tử lên thay. Hai ông nghe tin ông Tây-Bá-Xương (Văn-Vương) có thiện-tâm, chuyên nuôi những người già yếu, hai ông liền về nơi này. Sau khi vua Văn-Vương mất, vua Vũ-Vương dấy binh đánh vua Trụ, hai ông ra trước đầu ngựa nhà vua mà can rằng: Cha mất không chôn, vội dấy việc can-qua, có phải là người con hiếu không? Bày tôi giết vua, có phải là bày tôi trung không? Nhà vua không nghe, vẫn đem binh đánh vua Trụ. Vua Vũ-Vương bình-định xong thiên-hạ và thiên-hạ tôn nhà Chu. Hai ông xấu-hổ không ăn gạo của nhà Chu, liền lên ẩn ở núi Thú-Dương và hàng ngày chỉ hái rau vi mà ăn. Sau, hai ông đều chết đói tại núi này.
[4] Kiệt, Trụ, U, Lệ: a)- Vua Kiệt nhà Hạ tên là Lý-Quý, con vua Đế-Phát. Vì, tính-tình hay hại người, đa sát nên gọi là Kiệt. Ông vua này hoang-dâm vô-đạo, say mê nàng Muội-Hỷ, xây Quỳnh-lâu, Dao-đài, đổ rượu đầy ao để bơi thuyền chơi. Sau bị vua Thang đem quân đánh, vua Kiệt thua chạy và chết ở Nam-Sào.
a. b)- Vua Trụ, nhà Thương, tên là Tân và cũng có tên là Thụ, con vua Đế-Ất. Vì, tính-tình tàn hại điều thiện-nghĩa, nên gọi là “Trụ”. Ông vua này say-mê nàng Đắt-Kỷ, làm những trò chơi: rượu đổ đầy ao, thịt treo đầy rừng, bắt nam, nữ khỏa-thân, đuổi nhau đùa giỡn, xây cung Trường-Dạ, Lộc-Đài, giết chú và làm nhiều việc tàn ác khác. Sau vua Vũ-Vương đem binh đánh, vua Trụ thua và bị chết cháy ở Lộc-đài.
b. c)- Vua U nhà Chu, tên là Cung-Niết, con vua Tuyên-Vương. Vì tâm-địa mê-muội, úng-tắc không thông, nên gọi là “U”. Ông vua này làm nhiều điều tàn-ác, lại mê-say nàng Bao-Tự, đốt lửa ở Ly-sơn để làm cho nàng cười. Sau bị giặc Khuyển-Nhung giết ở chân núi Ly-sơn.
c. d)- Vua Lệ nhà Chu, tên là Hồ, con vua Di-Vương. Vì, tính-tình hay sát-hại những người vô tội, nên gọi là “Lệ”. Ông vua này làm nhiều việc vô đạo bạo ngược. Nhiều người bị giết vì tội phỉ-báng ông. Sau nhiều người trong nước nổi lên chống, vua Lệ phải bỏ chạy sang đất Trệ.
[5] Thái-Sử-Công : Ông Tư-Mã-Đàm làm quan Thái-Sử-Lệnh. Sau này, con ông là Tư-Mã-Thiên nối vào chức-vị của cha. Tôn trọng chức vị của cha nên gọi là Thái-Sử-Công.
[6] Mạnh-Tử tên là Kha, tự là Tử-Dư, người nước Trâu, làm ra bộ sách Mạnh-Tử 7 thiên.
[7] Lương-Huệ-Vương : Ngụy-Vũ-Hầu tên là Kích, đóng đô tại Biện-Thành, đổi hiệu là Lương. Con của ông tên là Oanh, tiếm ngôi và đặt tên thụy là Huệ, nên gọi là Lương-Huệ-Vương.
[8] Phu-Tử : Danh-từ tôn xưng đức Khổng-Tử. Đức Khổng-Tử tên là Khâu, tự Trọng-Ni. Ngài sinh tại xóm Quyết-Lý, làng Xương-Bình, ấp Châu, nước Lỗ, đời Chu-Linh-Vương năm thứ 21 và mất vào đời Chu-Kính-Vương năm thứ 41 (trước Tây-Lịch 551-479). Thân-phụ ngài là Thúc-Lương-Hột, thân-mẫu ngài họ Nhan. Ngài hỏi lễ nơi ngài Lão-Tử, học nhạc nơi ông Trành-Hoằng, học đàn cầm nơi ông Sư-Tượng. Ngài làm quan Tư-Không nước Lỗ sau làm Đại-Tư-Khấu, quyền nhiếp việc Thừa-Tướng. Sau ngài chu du khắp nơi trong 13 năm, nhưng không được trọng-dụng. Năm 58 tuổi ngài trở về nước Lỗ, san-định kinh Thi, kinh Thư, hiệu-đính kinh Lễ, kinh Nhạc, tán-chú kinh Dịch, làm kinh Xuân-Thu. Ngài có 3.000 đệ-tử, nhưng có 72 người là thông suốt lục nghệ, Ngài thọ 73 tuổi. Đời Đường, niên-hiệu Khai-Nguyên năm thứ 27, truy phong tên thụy là Văn-Tuyên-Vương và tặng cho các đệ-tử ngài vào các tước : Công, Hầu, Bá. Đời Tống-Đại-Trung, niên-hiệu Tường-Phù năm đầu, thêm vào tên thụy là Chí-Thánh Văn-Tuyên-Vương. Đời Nguyên, niên-hiệu Đại-Đức năm thứ 10, phong thêm vào tên thụy là Đại-Thành, Chí-Thánh, Văn-Tuyên-Vương. Đời Minh, niên-hiệu Gia-Tĩnh năm thứ 9 đổi là Chí-Thánh Tiên-Sư và bỏ những tước của 72 hiền-sĩ. Đời Thanh, niên-hiệu Thuận-Trị năm thứ 2, định tên thụy là Đại-Thành, Chí-Thánh, Văn-Tuyên Tiên-Sư, Khổng-Tử và đến năm thứ 14 lại đổi là Chí-Thánh, Tiên-Sư, Khổng-Tử.
[9] Đại-Giác-Liễn tức Hoài-Liễn Thiền-Sư ở chùa Dục-Vương (Minh-châu). Ngài tên tự là Khí-Chi, họ Trần, ở Chương-Châu (Phúc-Kiến). Ngài nối pháp Lặc-Đàm-Chừng Thiền-Sư, thuộc đời thứ 14 của phái Thanh-Nguyên.
[10] Bao-Công: Tên là Chửng, tự là Hy-Nhân, làm quan Ngự-Sử nhà Tống. Tính-tình ông nghiêm-nghị, không bao giờ cười và xử án rất giỏi.
[11] Tùng-lâm: Chúng Tăng hòa-hợp ở một nơi, như nhiều cỏ cây xanh tốt, um-tùm, tụ lại thành rừng, gọi là Tùng-lâm. Có chỗ còn dùng danh-từ “Lâm-hạ” (dưới rừng), chỉ cho nơi tu của các Tăng-sĩ, vì thời xưa, tự-viện hay xây cất tại nơi rừng núi thanh vắng.
[12] Viên-Thông Cư-Nột Thiền-Sư ở Lô-Sơn, tự là Trọng-Mẫn. Ngài họ Kiến ở Tử-châu (Tây-Thục). Ngài nối pháp Diên-Khánh, Tử-Vinh Thiền-Sư, thuộc đời thứ 10 của phái Thanh-Nguyên.
[13] Trụ-trì: Trụ Pháp-vương gia, trì Như-lai-tạng. An-trụ ở đời để bảo-trì Phật-pháp. Đây là danh-từ chỉ vào vị làm chủ tùng-lâm hay tự-viện. Có chỗ còn gọi là Chủ-Pháp.
[14] Già-lam: Đây là tiếng Ấn-Độ, đọc đủ là Tăng-già-lam-ma (Sanghàrama). Trung-Hoa dịch là “Chúng viên”, có nghĩa là nơi chúng Tăng ở. Nay gọi chung cho các tự-viện. Nơi tự-viện rộng lớn gọi là Đại-già-lam.
[15] Bách-Trượng, Đại-Trí Thiền-Sư tức là Hoài-Hải, Đại-Trí Thiền-Sư ở núi Bách-Trượng (Giang-Tây). Ngài họ Vương ở Thường-Lạc (Phúc-châu). Ngài nối pháp Mã-Tổ, Đạo-Nhất Thiền-Sư, thuộc đời thứ 2 của phái Nam-Nhạc.
[16] Tượng-quí: Cuối thời tượng, bắt đầu sang thời mạt. Phật-pháp lưu-truyền được chia làm ba thời-kỳ: Thời chính, thời tượng và thời mạt. Sau khi đức Phật nhập Niết-bàn, giáo-pháp của ngài còn lưu-hành một cách chân-chính gọi là thời chính-pháp. Sau thời chính-pháp, giáo-pháp ấy chỉ còn mường-tượng như thời chính mà thôi, gọi là thời tượng pháp. Sau thời tượng-pháp, giáo-pháp ấy, mất hết ý-nghĩa chân-chính, dần-dần đến chỗ tiêu-diệt gọi là thời mạt-pháp.
[17] Đệ nhất nghĩa đế: Tức là chân-lý thâm diệu, đạo-lý chân-thực. Và, đạo-lý này đối với các pháp cao siêu hơn hết.
[18] Tam Hoàng: Có rất nhiều thuyết, nay chỉ nêu vài thuyết mà thôi. Tam Hoàng: Thiên-Hoàng, Địa-Hoàng, Nhân-Hoàng. Hoặc: Toại-Nhân, Phục-Hy, Thần-Nông. Hoặc: Phục-Hy, Thần-Nông, Hoàng-Đế.
[19] Ngũ Đế: Cũng có nhiều thuyết. Hoặc: Thái Hiệu (Phục Hy), Viêm Đế (Thần Nông), Hoàng Đế, Thiếu Hiệu và Chuyên Húc. Hoặc: Hoàng Đế, Chuyên Húc, Đế Hiệu, Đế Nghiêu và Đế Thuấn.
[20] Tam Vương: Hạ, Vũ Vương. Thương, Thang Vương. Chu, Văn Vương.
[21] Cáo, Thệ: Những bản văn nhà vua ban xuống để răn dạy dân phải theo một điều gì gọi là “CÁO”, như Tửu-cáo (răn việc không nên uống rượu) v.v… Những bản văn minh ước, cam kết với chư hầu gọi là “THỆ”.
[22] Bốn chúng: Thiện nam, tín nữ và các vị Tăng, Ni.
[23] Uẩn-Thông Thiền-Sư ở chùa Thạch-môn, quận Tương-châu. Ngài nối pháp Thủ-Sơn-Niệm Thiền-Sư, thuộc đời thứ 9 của phái Nam-Nhạc. Khi ngài ở chùa Thạch-Môn, ngài hay gom góp những chữ viết và thi-văn của cổ-nhân. Viên Thái-Thú vào chùa chơi trông thấy, sai người đến mượn ngài những văn-phẩm ấy, đến ba lần, ngài không cho mượn. Do đó, viên Thái-Thú giận, sai người mời ngài về quận-đường và đánh ngài. Khi ngài về, chúng Tăng ra đón ở bên đường. Vị Thủ-Tọa tới trước ngài hỏi thăm: Tại sao vô cớ mà viên Thái-Thú lại làm nhục Hòa-Thượng? Ngài lấy tay chỉ xuống đất và nói: Đất bằng nổi đống xương. Bỗng nhiên, có đống xương đùn lên cao ba thước, theo chỗ ngài chỉ tay. Viên Thái-Thú nghe biết, cho người ra gạt bỏ đi, nhưng gạt đến ba lần, đống xương ấy vẫn cứ đùn lên như cũ. Viên Thái-Thú lo sợ ngày đêm. Và, trong tháng ấy, cả gia đình viên Thái-Thú ấy đều chết ở Tương-châu.
[24] Hiểu-Thuấn Thiền-Sư ở chùa Vân-Cư, quận Nam-Khang tự là Lão-Phu. Ngài họ Hồ ở Thụy-châu. Ngài nối pháp Động-Sơn-Thông Thiền-Sư, thuộc đời thứ 10 của phái Thanh-Nguyên. Khi ngài trụ-trì chùa Thê-Hiền (Lô-Sơn), sau chùa có nhiều cây lớn. Viên Thái-Thú vào đây thăm, thấy thế, muốn cho người tới đốn các cây ấy, đem về làm công-sở. Ngài không cho. Sau bị người tới cáo gian cho ngài, viên Thái-Thú làm nhục ngài, bắt ngài hoàn-tục và mặc áo thường-dân. Trước đây, ngài có quen Hòa-thượng Đại-Giác ở Kinh-Đô. Ngài liền vào kinh để thăm Hòa-Thượng Đại-Giác. Khi ngài đi, có hai lực-sĩ cáng ngài đến trước cửa chùa La-Hán, chúng bỏ ngài đó và trở về. Trở về, chúng nói với nhau rằng: “Ông này, bây giờ có còn là Trưởng-lão của chùa ta đâu mà chúng ta cáng đi xa”. Ngài vào tới kinh, gặp Hòa-Thượng Đại-Giác, Hòa-Thượng hết sức cung-kính ngài. Một hôm, vua Nhân-Tôn sai tịnh-nhân làm cơm cúng-dường chư Tăng. Các tịnh-nhân thấy Hòa-Thượng Đại-Giác hầu ngài hết sức cung-kính. Họ về tâu lại với nhà vua. Nhà vua mời ngài vào cung khen ngợi là bậc Đại-sĩ, liền viết vào cái quạt: “Không có lỗi lầm. Được trở lại làm Tăng và về ở chùa Thê-Hiền như cũ”. Đồng thời, nhà vua còn ban cho bát vàng, áo tím và cho người tiễn đưa về chùa. Về chùa, ngài cho người đi an-ủi hai người cáng ngài ngày trước và lên pháp-đường ngâm bài thơ cảm-hứng như sau:
1. Vô đoan bị trắm uổng tao truân,
2. Bán tải hữu dư tác tục-nhân.
3. Kim nhật tái qui Tam-Giáp tự,
4. Kỷ đa hoan hỷ, kỷ đa sân !
ii. Phỏng dịch :
1. Vô cớ bị gièm, oan-uổng ư?
2. Lại làm người thế nửa năm dư!
3. Nay về Tam-Giáp, chùa xưa cũ,
4. Vui, giận lòng dâng giữa lúc chừ!
[25] Hòe-Đô: Quận Nam-Khang (Giang-Tây) là Thủ-phủ của miền Giang-Tả (Trung-Hoa). Trước phủ-đường này có cây hòe lớn, lâu đời, nên người ta thường gọi nơi này là Hòe-đô (nơi Thủ-đô có cây hòe).
[26] Viễn-Lục-Công tức Pháp-Viễn, Viên-Giám Thiền-Sư ở Phù-Sơn (Thư-Châu). Ngài họ Vương ở Trinh-châu. Ngài nối pháp Diệp-Huyện, Qui-Tỉnh Thiền-Sư. Ngài Pháp-Viễn thường cùng với 7, 8 vị khác như: Đạt-Quan-Dĩnh, Tiếc-Đại-Đầu v.v… thường sang nước Thục. Mấy lần gặp trở ngại về thủ-tục giao-lưu, ngài Pháp-Viễn đều dùng trí thông-minh, khéo-léo mà thoát khỏi, nên các vị gọi ngài là “Viễn-Lục-Công”.
[27] Diệp-Huyện tức là Quảng-Giáo-Viện, thuộc Diệp-Huyện (Nhữ-châu), do Qui-Tỉnh Thiền-Sư làm Chủ-pháp. Qui-Tỉnh Thiền-Sư họ Giả ở Ký-châu. Ngài nối pháp Thủ-Sơn-Niệm Thiền-Sư và thuộc đời thứ 9 của phái Nam-Nhạc. Tính-tình ngài rất mực khô-khan, đạm-bạc và nghiêm-mật. Tăng-chúng đều sợ. Ngài Phù-Sơn-Viễn và ngài Thiên-Y-Hoài nghe cao-phong của ngài, liền rủ nhau đến tham thiền. Gặp mùa nghiêm-đông, hai vị tới lễ Thiền-Sư. Thiền-Sư múc nước té ướt hết và đuổi đi. Các vị khác đều đi hết, duy chỉ có hai vị cứ ngồi yên đấy, không dậy. Thiền-Sư đuổi mãi vẫn không đi và nói: Hai chúng tôi muốn tới tham thiền nơi Thiền-Sư, nên không vì gáo nước mà bỏ về. Thiền-Sư nói: Thực tâm tham thiền à. Cho dậy, cất hành-lý! Và, cử ngài Phù-Sơn-Viễn giữ chức Điển-Tọa (trông coi vật thực, vật dụng trong chùa). Nhân khi Thiền-Sư ra ngoài, ngài Phù-Sơn-Viễn thấy Tăng-chúng quá khổ, mới lấy ít dầu và miến nấu cho chúng Tăng dùng. Khi Thiền-Sư về biết được, bắt ngài Phù-Sơn-Viễn phải bán áo mà đền và còn đuổi ra khỏi chùa, các bạn hữu xin cho Phù-Sơn-Viễn tuy ra khỏi chùa nhưng được vào nghe pháp, Thiền-Sư cũng không cho. Dù vậy, ngài Phù-Sơn-Viễn vẫn ra ngoài, ở trọ nơi mái hiên ngoài phố, chứ không đi xa. Một hôm Thiền-Sư ra phố, trông thấy, bắt phải nộp tiền thuê trọ. Ngài Phù-Sơn-Viễn lại đi xin tiền trả đủ số tiền ở trọ. Tỉnh Thiền-Sư thấy thế, công-nhận là người có pháp-khí, thực tâm tham-thiền, liền gọi về chùa, lên trượng-đường trước chúng Tăng, trao cho y-bát và pháp-hiệu.
[28] Khả-Chân Thiền-Sư trụ-trì chùa Đạo-Ngô (Đàm-Châu). Ngài nối pháp Thạch-Sương-Viên Thiền-Sư, thuộc đời thứ 10 của phái Nam-Nhạc.
[29] Pháp-Diễn Thủ-Tọa tức là Ngũ-Tổ, Pháp-Diễn Thiền-Sư ở Kỳ-châu. Ngài họ Đặng. Ngài nối pháp Bạch-Vân-Đoan Thiền-Sư, thuộc đời thứ 13 của phái Nam-Nhạc. Thủ-Toạ là người đứng đầu chúng trong nơi tùng-lâm hay tự-viện. Thủ-Tọa đưới quyền điều-khiển của Trụ-Trì.
[30] Sư-ông tức là chỉ về vị sư là thày của thày mình. Trong bài này, Sư-ông chỉ cho Phương-Hội Thiền-Sư ở núi Dương-Kỳ (Viên-châu). Ngài Phương-Hội họ Lãnh ở Nghi-Xuân, nối pháp Từ-Minh, Sở-Viên Thiền-Sư, thuộc đời thứ 10 của phái Nam-Nhạc.
[31] Nam-Nhạc, Hoài-Nhượng Thiền-Sư họ Đỗ ở Kim-Châu. Ngài nối pháp Lục-Tổ Huệ-Năng, Đại-Giám Thiền-Sư.
[32] Huệ-Năng, Đại-Giám Thiền-Sư là vị tổ thứ sáu của Thiền-tôn (Trung-Hoa). Ngài họ Lô ở Phạm-Dương. Ngài nối pháp Ngũ-Tổ, Hoàng-Nhẫn Đại-Sư.
[33] Mã-Tổ, Đạo-Nhất Thiền-Sư họ Mã ở huyện Thập-Phương (Hán-châu). Ngài nối pháp Nam-Nhạc, Hoài-Nhượng Thiền-Sư.
[34] Đương-gia, chủng-thảo: Đảm-đương gia-nghiệp của Phật-Tổ gọi là Đương-gia. Như người làm ruộng biết thu-nạp và gìn giữ những hạt giống tốt để gieo trồng, gọi là Chủng-thảo.
[35] Phật-Giám, Huệ-Cần Thiền-Sư ở chùa Thái-Bình (Thư-châu). Và Phật-Nhãn, Thanh-Viễn Thiền-Sư, đều nối pháp Ngũ-Tổ-Diễn Thiền-Sư, thuộc đời thứ 14 của phái Nam-Nhạc.
[36] Thường-trụ: Pháp không có sinh-diệt, biến-thiên gọi là thường-trụ. Thông thường, ám-chỉ thường-trụ là tùng-lâm, tự-viện hay là thường-trụ-vật.
[37] Sơn-môn: Thông thường, sơn-môn chỉ cho tùng-lâm, tự-viện hay là tổ-đình của các giáo-phái. Xưa kia, tự-viện hay ở trong rừng núi, nên cổng tự-viện này gọi là “ Sơn-môn”.
[38] Từ-Minh, Thạch-Sương, Sở-Viên Thiền-Sư ở Đàm-châu. Ngài họ Lý ở Kim-châu. Ngài nối pháp Phần-Dương, Thiện-Chiêu Thiền-Sư, thuộc đời thứ 9 của phái Nam-Nhạc. Phương-Hội Thiền-Sư là đệ-tử của Từ-Minh, Sở-Viên Thiền-Sư. Ngài Phương-Hội hầu-hạ và trông nom mọi việc cho ngài Từ-Minh từ Nam-Viện đến Hưng-Hóa suốt 30 năm.
[39] Những điển-tích:
a. Thày Tử-Lộ nghe người khác nói lỗi mình thì mừng.
b. Vua Vũ-Vương nghe người nói điều thiện thì lạy.
c. Ông Chu-Công cho người quân-tử phải lấy lượng bao-dung những người chưa hoàn-hảo.
d. Vua Thuấn có tâm che giấu điều ác và tuyên-dương điều thiện của người.
e. Ông Án-Bình-Trọng rất thành-thực và kính trọng bạn bè mãi mãi, không bao giờ thay đổi.
f. Ông Đoan-Mộc-Tứ siêng làm việc cứu giúp quần chúng một cách chân thành.
[40] Ông Quách-Công-Phụ tên húy là Chính-Tường, tên hiệu là Tịnh-Không Cư-sĩ, làm quan đến chức Đề-Hình và học pháp nơi Bạch-Vân, Thủ-Đoan Thiền-Sư.
[41] Bạch-Vân, Thủ-Đoan Thiền-Sư ở Thư-châu. Ngài họ Cát ở Hàng-Dương. Ngài nối pháp Dương-Kỳ, Phương-Hội Thiền-Sư, thuộc đời thứ 12 của phái Nam-Nhạc.
[42] Nam-Tuyền, tức Phổ-Nguyện Thiền-Sư. Ngài họ Vương ở Trịnh-châu. Ngài nối pháp Mã-Tổ, Đạo-Nhất Thiền-Sư. Một hôm, ngài lên thiền-đường nói: “Vương lão-tử từ nhỏ đi chăn trâu, dù chăn nơi khe suối bên Đông hay bên Tây cũng khó khỏi sự xâm-phạm vào lúa mạ của người ta. Chi bằng vào nơi đồng không, không còn thấy chi nữa”.
[43] Đại-Qui tức Linh-Hựu Thiền-Sư ở Đàm-Châu. Ngài họ Triệu ở Trường-Khê (Đàm-Châu). Ngài nối pháp Bách-Trượng, Hoài-Hải Thiền-Sư, thuộc đời thứ 3 của phái Nam-Nhạc. Một hôm, ngài lên thiền-đường nói: Sau đây, một trăm năm, Lão-tăng này sẽ làm thân một con trâu trong nhà đàn-việt dưới núi. Nách bên hữu con trâu này có 5 chữ: “Qui-Sơn Tăng mỗ giáp”. Người đương thời gọi là Qui-Sơn-Tăng thì bỏ trâu, mà gọi là trâu, thì bỏ Qui-Sơn-Tăng. Vậy, cứu-cánh sẽ gọi là cái gì? v.v…
[44] Bốn câu kệ trên ngụ ý nói: Tu đã minh-tâm, kiến-tính, đương nhiên ngoại cảnh không thể nhiễm-trước được. Như con trâu có đầy đủ cỏ nước, được rèn-luyện thuần-thục, thì tha hồ tới đâu cũng không e-ngại.
[45] Câu này ngụ ý nói: Đã được luyện trong lò giác-ngộ, xứng đáng là người giác-ngộ.
[46] Khả-Chân Thiền-Sư ở chùa Thúy-Nham Hồ-Châu, người ở Phúc-châu, nối pháp Thạch-Sương, Sở-Viên Thiền-Sư.
[47] Thiện Thiền-Sư ở chùa Kim-Loan, người ở Phúc-châu, là cao-đệ và là Thị-Giả của Từ-Minh, Thạch-Sương, Sở-Viên Thiền-Sư. Một hôm ngài cùng với ngài Khả-Chân đi núi, ngài lấy một viên ngói đề trên hòn đá bảo ngài Khả-Chân hướng vào viên ngói này, nói ngay được một chuyển-ngữ thì cho vào gặp Từ-Minh Thiền-Sư. Ngài Khả-Chân suy nghĩ không nói được. Ngài Kim-Loan-Thiện cười là “Si-Thiền”.
[48] Ông Vô-Vi-Tử họ Dương tên là Kiệt, tự là Sơ-Công hiệu là Vô-Vi Cư-sĩ. Ông người châu Vô-Vi, làm quan đến Lễ-Bộ và học pháp nơi Thiên-Y-Hoài Thiền-Sư.
[49] Động đến trời đất: Triều-đại vua Thang nhà Thương, có một thời-gian bị hạn đến 7 năm. Quan Thái-Sử tâu với nhà vua: Nên dùng người làm vật hy-sinh, để cầu đảo. Nhà vua nói: Ta cầu mưa cho dân, nay đem người dân làm vật hy-sinh, ta không thể làm như vậy được. Ta sẽ tự làm vật hy-sinh để cầu đảo. Thế rồi vua Thang giữ trai giới, cắt tóc, cắt móng tay đi xe trần, ngựa trắng, mình khoác áo cỏ Bạch-trữ về tự làm vật hy-sinh, cầu đảo ở cánh đồng Tang-Lâm. Vua Thang tự trách mình 6 việc:
1. Việc chính-trị không có tiết-độ chăng?
2. Người dân bị mất chức chăng?
3. Nữ-nhân hầu-hạ nhiều chăng?
4. Cung-thất lộng-lẫy chăng?
5. Có những việc hối-lộ thịnh-hành chăng?
6. Nhiều kẻ xu nịnh chăng?
b. Vua Thang tự-trách xong thì trời mưa rất lớn trong vài dặm vuông.
[50] Cảm đến quỉ-thần: Sách Thế-Ngữ chép: Lỗ-Lĩnh Tiên-Sinh ẩn-tu trong núi. Một hôm mất con gà trống, thường gáy để báo-hiệu buổi sáng. Tiên-Sinh liền làm bài kệ cầu khấn với Xã-Thần, Thần địa-phương, đại ý nói: Tôi có con gà hẳn là bị cáo bắt mất v.v… Sáng hôm sau thấy một con cáo chết ở trước chỗ Tiên-Sinh cầu khấn hôm qua.
[51] Chỉ, Quán…: Chỉ: Đình-tức vọng-niệm. Quán: Như lý suy tưởng. Định: Tâm không vọng-động. Tuệ: Tùy duyên soi tỏ. Tác: Làm điều thiện. Chỉ: Ngưng việc ác. Nhiệm: Dùng đúng chân lý. Diệt: Dứt bỏ phiền-não.
[52] Pháp-môn: Lời Phật dạy, làm pháp-tắc cho đời gọi là pháp. Giáo-pháp ấy là chỗ thông-suốt của các Thánh nhập đạo gọi là môn.
[53] Hối-Đường, Hoàng-Long, Tổ-Tâm, Bảo-Giác Thiền-Sư. Ngài họ Ô ở Nam-Hùng. Ngài nối pháp Hoàng-Long-Nam Thiền-Sư, thuộc đời thứ 12 của phái Nam-Nhạc.
[54] Công-Hối tên húy là Hiểu-Nguyệt, tự Công-Hối, đắc-pháp nơi Lang-Đô-Giác Thiền-Sư vào đời Tống-Hy-Ninh, ngài ở tinh-xá Bảo-Phong, thuộc Loa-Đàm (Hồng-Châu), ngài làm bộ Lăng-Nghiêm Tiêu-Chỉ.
[55] Hải-thượng độc bộ: Xưa Viên-Thúc nói với Tạ-Trang: Đất Giang-Đông không có tôi thì ông là người độc bộ. Độc bộ có nghĩa là bước đi riêng của mình, mà không ai có thể bước theo được.
[56] Anh-Thiệu-Vũ tức Hồng-Anh Thiền-Sư ở phủ Long-Hưng. Ngài họ Trần ở Thiệu-Vũ. Ngài nối pháp Hoàng-Long-Nam Thiền-Sư.
[57] Trần-Oánh-Trung tức ông Trần-Liễu-Ông, tên là Quyền, tự là Oánh-Trung, hiệu là Hoa-Nghiêm Cư-sĩ, người ở Sa-huyện. Đời Tống-Huy-Tôn, ông đậu Tiến-sĩ. Đầu tiên ông trọng-nhậm quận Diên-Bình, sau làm Thừa-Tướng. Ông lưu tâm về không-tôn của Phật-giáo.
[58] Hoàng-Long, Huệ-Nam Thiền-Sư ở phủ Long-Hưng. Ngài họ Trương ở Tín-Châu. Ngài nối pháp Thạch-Sương, Sở-Viên Thiền-Sư thuộc đời thứ 11 của phái Nam-Nhạc.
[59] Cảm Phó-Tự tức Phác-Nghiêm Thiền-Sư ở Nam-Nhạc. Ngài họ Đỗ ở Đằng-Châu. Ngài nối pháp Hoàng-Long-Nam Thiền-Sư. Đương thời ngài giữ chức Phó-Tự tức là chức-vị sau giám-tự trong tùng-lâm.
[60] Hóa Thị-Giả tức Song-Linh, Tâm-Hóa Thiền-Sư ở phủ Long-Hưng. Ngài nối pháp Hoàng-Long, Tổ-Tâm Thiền-Sư. Đương thời ngài giữ chức Thị-giả, tức là người hầu cận ngài Hoàng-Long.
[61] Tú Trang-Chủ tức Đại-Qui, Hoài-Tú Thiền-Sư. Ngài họ Ứng ở Tín-Châu. Ngài nối pháp Hoàng-Long-Nam Thiền-Sư. Đương thời ngài giữ chức Trang-chủ tức là chức-vụ trông coi về ruộng vườn của tùng-lâm.
[62] Linh-Nguyên, Duy-Thanh Thiền-Sư họ Trần ở Bản-châu, nối pháp Hoàng-Long, Tổ-Tâm Thiền-Sư.
[63] Ông Chu-Thế-Anh tên là Hiền-Mô, tự Thế-Anh, làm quan Cấp-Sự và hỏi đạo nơi Hoàng-Long-Nam Thiền-Sư.
[64] Từ phương Tây lại: Đây là chỉ cho Đạt-Ma đại-sư, Ngài là người Ấn-Độ, tức là nước thuộc về phía Tây Trung-Hoa, nên trong sách hay dùng những câu: “Tây lai” (từ phía Tây lại) “Tây qui” (trở về phía Tây) v.v… Xưa kia người Trung-Hoa còn gọi Ấn-Độ là nước Hồ, và ám chỉ ngài Đạt-Ma là Hồ-Tăng hay Hồ-Tử. Ngài Đạt-Ma gọi đủ là Bồ-đề Đạt-ma (Boddhidharma), Trung-Hoa dịch là (Đạo-Pháp). Ngài là con thứ ba của vua Hương-Chí dòng Sát-đế-lỵ ở Nam-Thiên-Trúc (Ấn-Độ). Ngài nối pháp Tổ thứ 27 của Thiền-tôn Ấn-Độ là Bát-nhã-đa-la. Năm đầu tiên niên-hiệu Phổ-Thông nhà Lương, Ngài vượt biển sang Quảng-châu. Nhà vua đón Ngài về thủ-đô Kiến-Nghiệp hỏi đạo, nhưng vua Lương không giác-ngộ, Ngài qua sông sang đất Ngụy, tức là vào năm đầu của niên hiệu Chính-Nguyên, đời Ngụy-Hiếu-Minh. Tại nước Ngụy, Ngài ở chùa Thiếu-Lâm, thuộc Tung-Sơn và, Ngài ngồi quay mặt vào vách suốt 9 năm. Sau Ngài trao truyền y và pháp cho ngài Tuệ-Khả. Đến ngày mùng 5 tháng 10, năm thứ 2, niên hiệu Đại-Thông nhà Lương, Ngài đoan-tọa mà hóa tại chùa Thiên-Thánh (Võ-Môn). Đồ chúng làm lễ an-táng Ngài ở núi Hùng-Nhĩ, và xây tháp ở chùa Định-Lâm. Sau hai năm, ông Tống-Vân nhà Ngụy, phụng mệnh đi sứ sang Tây-vực (Ấn-Độ) trở về đến núi Thông-Lĩnh, gặp Ngài mang một chiếc dép. Ông Tống-Vân hỏi: Ngài đi đâu? Ngài đáp: Tôi về Tây-thiên. Tống-Vân về tâu với nhà vua. Nhà vua sai mở mộ Ngài ra xem, thì chỉ thấy có quách không và một cái dép còn lại mà thôi. Do đó, có câu chuyện: “Chích lý Tây qui” hay “Tây qui lý” (mang một chiếc dép về Tây-thiên) vậy.
[65] Nam-Nhạc, Vân-Phong, Văn-Duyệt Thiền-Sư, người họ Từ ở Nam-Xương. Ngài nối pháp Đại-Ngu, Thủ-Chi Thiền-Sư, thuộc đời thứ 11 của phái Nam-Nhạc.
[66] Hành-cước: Tăng-sĩ không trụ nơi nào, đi lang thang khắp nơi. Bộ Tổ-Đình Sự-Uyển viết: Hành-cước là vị Tăng-sĩ xa lìa quê quán, đi bộ khắp nơi, thoát khỏi nhân tình, hệ lụy, tìm kiếm thày bạn, để cầu pháp chứng ngộ.
[67] Kinh Công tức là An-Vương-Thạch, tự Giới-Phủ, người ở đất Lâm-Xuyên. Đời Tống-Thần-Tôn, niên hiệu Hy-Ninh, phong làm Kinh-Quốc-Công và hỏi đạo nơi Hoàng-Long-Nam Thiền-Sư.
[68] Trưởng-Lão: Thông thường gọi các vị Tỳ-Khưu đạo cao, Hạ nhiều. Trong Thiền-gia còn gọi vị Trụ-Trì là Trưởng-lão, vì vị Trụ-Trì phải là người có trí-đức, nhiều tuổi hạ, đảm đương được gia-nghiệp của Như-Lai. Kinh Tăng Nhất A-Hàm nói: “Tiểu-Tỳ-Khưu gọi bậc Đại-Tỳ-Khưu là Trưởng-lão và Đại-Tỳ-Khưu gọi Tiểu-Tỳ-Khưu bằng tên không”.
[69] Ẩn-sĩ Phan-Diên-Chi là Hưng, hiệu là Thanh-Dật Cư-sĩ và hỏi đạo nơi Hoàng-Long-Nam Thiền-sư. Ẩn-sĩ là người không cầu sự vinh-hiển ngoài đời, mà tự vui với đạo.
[70] Tam-Quan-Ngữ: Ngài Hoàng-Long mỗi khi có Tăng-sĩ đến tham thiền, Ngài đều hỏi ba câu quan-yếu, để biết rõ sự chứng-ngộ của vị ấy. Ba câu sau đây được thấy ngài Long-Khánh-Nhàn trả lời:
i. Hỏi: Sinh-duyên Thượng-Tọa ở chỗ nào?
b. Đáp: Sáng ăn cháo trắng, chiều thấy đói.
c. 2- Hỏi: Tay tôi sao giống tay Phật?
d. Đáp: Dưới bóng trăng gẩy đàn tỳ-bà.
e. 3- Hỏi: Chân tôi sao giống chân con lừa?
f. Đáp: Con cò đứng trên tuyết không đồng sắc.
g. Suốt ba mươi năm không ai khế-hợp được thiền-cơ này, sau ngài Hoàng-Long tự tụng thành bốn câu như sau:
i. Sinh-duyên đoạn xứ, thân lư cước,
ii. Lư cước thân thời, Phật-thủ khai.
iii. Vị báo ngũ hồ tham thiền khách,
iv. Tam-quan nhất nhất thấu tương lai!
h. Phỏng dịch:
i. Đứt đoạn sinh-duyên, lừa dưới chân,
ii. Dưới chân, tay Phật mở ra dần.
iii. Này này thiền-khách năm hồ lại!
iv. Thấu suốt tam-quan hãy tới gần!
[71] Công-án: Án-lệnh của công quyền. Đối với Thiền-gia, đem những cơ-duyên giáo-hóa của Phật-Tổ, hiển-thị ra bằng những lời vấn đáp, những động-tác vượt cách, mục đích để phán xét sự mê, ngộ và dứt bỏ sinh tử, đời sau gọi đó là “Công-án”.
[72] Thiện-tri-thức: Có nghĩa là người có trí-tuệ, có đạo-đức, biết rõ tâm-hồn, hình tướng người, khéo dắt dẫn người làm các việc lợi ích và đi tới thiện-đạo. Có mấy loại thiện-tri-thức, nhưng đây chỉ kể ba loại thiện-tri-thức như sau:
a. 1.- Ngoại-hộ thiện-tri-thức: Người mà luôn luôn hộ-trợ cho mình không thiếu-thốn, không sợ hãi, được yên ổn tu đạo.
b. 2.- Đồng-hành thiện-tri-thức: Người cùng tu đạo với mình, luôn luôn khuyên răn, sách tiến cho mình trong việc tu đạo.
c. 3.- Giáo-thụ thiện-tri-thức: Những vị đem lời thánh-nhân dạy bảo, để cho mình bỏ ác, làm thiện, hầu đạt tới đích của đạo nghiệp.
[73] Tỳ-Khưu (Bhiksu): Có chỗ còn gọi là Bật-Sô. Trung-Hoa dịch có nhiều nghĩa: Bố-Ma, Phá-ác, Tịnh-mệnh, Khất-sĩ. Nhưng phần nhiều lấy nghĩa Khất-sĩ làm căn bản. Khất-sĩ có nghĩa là: Trên thì khất-cầu giáo-pháp của Như-Lai để tôi luyện tinh-thần; dưới thì đi xin ăn nơi chúng-nhân để giúp thân mệnh. Tỳ-Khưu chỉ cho các vị xuất-gia thụ giới Cụ-Túc. Các vị nam-giới gọi là Tỳ-Khưu, các vị nữ-giới gọi là Tỳ-Khưu-Ni.
[74] Chân-Tịnh-Văn Hòa-Thượng tức Bảo-Phong, Chân-Tịnh Khắc-Văn Thiền-Sư. Ngài họ Trịnh ở Mẫn-Hương (Hiệp-Phủ). Ngài nối pháp Hoàng-Long-Nam Thiền-Sư, thuộc đời thứ 11 của phái Nam-Nhạc.
[75] Năm Nhuận: Trong thiên Nhĩ-Nhã viết: “NĂM, nhà Hạ gọi là “Tuế”: lấy sự vận hành thứ tự của thời gian mà đặt tên. Nhà Thương gọi là “Tự”: lấy sự tế-tự xong trong bốn mùa mà đặt tên. Nhà Chu gọi là “Niên”: lấy việc lúa chín của hàng năm mà đặt tên. Nhà Đường-Ngu gọi là “Tải”: lấy ý-nghĩa sự vật đến chỗ sau cùng lại bắt đầu trở lại mà đặt tên.
a. Trương-Thuần nói: Ba năm có một tháng nhuận thì khí trời hơi đủ. Nhưng 5 năm 2 tháng nhuận, thì khí trời rất đầy đủ. Thời xưa, một năm 366 ngày, chia làm 12 tháng, mỗi tháng 30 ngày. Như vậy một năm mới có 360 ngày, còn dư 6 ngày. Và một năm có 6 tháng thiếu, dư thêm 6 ngày nữa, thành ra một năm dư 12 ngày. Ba năm dư 36 ngày, nên phải có một tháng nhuận. Tháng nhuận này mới hết có 30 ngày, vẫn còn dư lại 6 ngày. 6 ngày này cộng với số 24 ngày của 2 năm dư tiếp, thành 30 ngày, tức là 2 năm lại thêm được một tháng nhuận nữa. Như thế là 5 năm có hai tháng nhuận.
[76] Đại-Qui, Chân-Như, Mộ-Triết Thiền-Sư ở Đàm-Châu. Ngài họ Văn, ở Lâm-Xuyến (Phủ-châu). Ngài nối pháp Thủy-Nham-Chân Thiền-Sư, thuộc đời thứ 11 của phái Nam-Nhạc.
[77] Hương-Thành, Cảnh-Thuận Thiền-Sư, người đất Thục, nối pháp Hoàng-Long Thiền-Sư.
[78] Gia-Cát là tên họ, chính tên là Lượng, tự là Khổng-Minh, người ở quận Lang-Da. Ông tự đi cày ruộng ở phía Tây núi Nam-Nhạc. Và, đời còn gọi ông là Ngoạ-Long Tiên-Sinh. Ông kết bạn với ông Từ-Thứ. Khi ông Lưu-Huyền-Đức (Lưu-Bị), đóng quân ở Tân-Dã, ông Từ-Thứ giới-thiệu ông với ông Lưu-Huyền-Đức. Ông Lưu-Huyền-Đức tới thỉnh đến ba lần, ông mới chịu ra giúp. Ông được phong làm Quân-Sư. Sau làm Tể-Tướng nhà Thục-Hóa và, có tên thụy là Trung-Vô-Hầu.
[79] Quảng-Đạo-Giả tức Cửu-Phong, Hy-Quảng Thiền-Sư ở Thụy-châu. Ngài là người ở Tứ-châu (Tây-Thục). Ngài nối pháp Chân-Tịnh-Văn Thiền-Sư, thuộc đời thứ 12 của phái Nam-Nhạc.
[80] Thư-Vương tức là chỉ vào ông Vương-An-Thạch. Đời Tống-Huy-Tôn phong cho ông chức Thư-Vương. Khi ông làm Tể-Tướng ông thảo ra Tôn-Pháp, cải cách chế-độ, dân bị thiệt-hại, ta-thán rất nhiều. Nhờ có con ông là Vương-Phương làm Sùng-Chính Đại-Học-Sĩ giúp ông thực-hiện Tôn-Pháp. Vương-Phương chết, ông bị bãi chức Tể-Tướng. Trong thời gian an-nhàn, ông mơ thấy một tên quỉ-sứ dẫn Vương-Phương đeo gông sắt đến trước ông khóc và nói: Vì cha thực hiện Tôn-Pháp, nên con phải tội này. Ông hỏi tên quỉ-sứ: Làm sao giải-thoát được? Quỉ-sứ đáp: Chỉ có xây chùa và, cúng cơm cho chư Tăng mà khỏi được. Ông liền lấy tất cả ruộng đất, nhà cửa ở Kim-Lang ra làm chùa, đặt tên là chùa Bảo-Ninh, thỉnh ngài Chân-Tịnh trụ-trì và cúng-dường trai-tăng.
[81] Tăng-già-lê (Sanghali: Chúng tu thời-y): Đây là tên đại-y của Tỳ-Khưu, có từ 9 điều tới 28 điều. Tăng-già-lê: Trung-Hoa dịch là “Trùng” hay là “Hợp”, vì sự may cắt trùng, hợp nhiều mảnh vải. Y của Tỳ-Khưu được gọi là Ca-Sa (Kasàya): Trung-Hoa dịch là: hoại-sắc hay bất-chính-sắc và, có ba loại: Tiểu-y gọi là An-đà-hội (Antarvasaka: nội-y) có 5 điều. Trung-y gọi là Uất-đa-la-tăng (Uttaràsangha: thượng-y) có 7 điều. Và đại-y tức là y Tăng-già-lê.
[82] Trạm-Đường tức Lặc-Đàm Văn-Chuẩn Thiền-Sư ở phủ Long-Hưng. Ngài họ Lương ở phủ Hưng-Nguyện và nối pháp Chân-Tịnh-Văn Thiền-Sư, thuộc đời thứ 13 của phái Nam-Nhạc.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 18.222.110.231 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.