Vui thay, chúng ta sống, Không hận, giữa hận thù! Giữa những người thù hận, Ta sống, không hận thù!Kinh Pháp Cú (Kệ số 197)
Nay vui, đời sau vui, làm phước, hai đời vui.Kinh Pháp Cú (Kệ số 16)
Ví như người mù sờ voi, tuy họ mô tả đúng thật như chỗ sờ biết, nhưng ta thật không thể nhờ đó mà biết rõ hình thể con voi.Kinh Đại Bát Niết-bàn
"Nó mắng tôi, đánh tôi,
Nó thắng tôi, cướp tôi."
Ai ôm hiềm hận ấy, hận thù không thể nguôi.Kinh Pháp cú (Kệ số 3)
Hương hoa thơm chỉ bay theo chiều gió, tiếng thơm người hiền lan tỏa khắp nơi nơi.
Kinh Pháp cú (Kệ số 54)
Dầu mưa bằng tiền vàng, Các dục khó thỏa mãn. Dục đắng nhiều ngọt ít, Biết vậy là bậc trí.Kinh Pháp cú (Kệ số 186)
Nên biết rằng tâm nóng giận còn hơn cả lửa dữ, phải thường phòng hộ không để cho nhập vào. Giặc cướp công đức không gì hơn tâm nóng giận.Kinh Lời dạy cuối cùng
Như đá tảng kiên cố, không gió nào lay động, cũng vậy, giữa khen chê, người trí không dao động.Kinh Pháp cú (Kệ số 81)
Không nên nhìn lỗi người, người làm hay không làm.Nên nhìn tự chính mình, có làm hay không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 50)
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê.Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hèn.Kính Pháp Cú (Kệ số 29)
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
3. Thế đế vãng sanh:
Hỏi: Vãng sanh Tây Phương Cực Lạc là do tâm quá khứ vãng sanh, tâm hiện tại vãng sanh, hay tâm vị lai vãng sanh? Nếu tâm quá khứ vãng sanh, tâm quá khứ đã diệt, không thể vãng sanh; nếu tâm vị lai vãng sanh, tâm vị lai chưa đến, làm sao vãng sanh; nếu tâm hiện tại vãng sanh, tâm hiện tại niệm niệm không trụ nơi nào, làm sao vãng sanh? Như vậy, trong ba thời quá khứ, vị lai, hiện tại, tìm tâm không thấy, tại sao hiện nay lại khuyên vãng sanh Tây Phương Cực Lạc? (21)
Đáp: Dùng thời gian suy luận, ba thời đã diệt (quá khứ), chưa sanh (vị lại) và hiện tại không dừng trụ, thì không có sự sanh chân thật, giống như ngọn đèn, không phải ngọn lửa quá khứ đang cháy, vì đã diệt mất, không phải ngọn lửa vị lại đang cháy, vì chưa sanh khởi, cũng không phải ngọn lửa hiện tại đang cháy, vì không ngừng nghỉ, mà cũng không phải là không cháy, bởi vì ngọn lửa đang trừ khử bóng tối, phát ra ánh sáng, niệm niệm tương tục, giống như dòng nước, thay đổi không ngừng, liên miên không dứt. Trong mọi thời điểm, [lửa] có bốn công dụng: trừ diệt bóng tối, phát ra ánh sáng, tỏa ra sức nóng và đốt cháy tim đèn. Ở đây cũng tương tự, do nghiệp vãng sanh Tịnh độ đã chín muồi, Thánh chúng đến nghinh tiếp, đưa về Tịnh độ, xả bỏ thân nhơ uế cõi Ta Bà, được thân thanh tịnh cõi Cực Lạc. Duyên sanh ba đời, không thường không đoạn. Tuy các pháp vốn tịch diệt, nhưng nghiệp báo rõ ràng. Các pháp vốn vô sanh, nhưng sanh tử tương tục. Không phá hoại thế tục mà kiến lập Đệ nhất nghĩa đế. Đây là ý nghĩa muốn trình bày. Trong Kinh Duy Ma Cật, ngài Duy Ma Cật hỏi ngài Xá Lợi Phất: “Nếu các pháp không có tướng sanh diệt, tại sao ngài lại hỏi tôi là chết ở nơi đâu, sanh đến chốn này?” Đoạn này thuyết minh các pháp tịch tĩnh không đến không đi, cho nên nói không sanh diệt. Đoạn sau nói có thế giới tên là Diệu Hỷ, Đức Phật hiệu là Vô Động, đấy là cõi mà ngài Duy Ma Cật thị hiện diệt độ để sanh đến cõi Ta Bà. Ngài Duy Ma Cật nói: “Diệt là pháp có tướng bại hoại hư dối, sanh là pháp có tướng tương tục hư dối.” Đây là pháp thế tục giả danh, không phải tướng sanh diệt chân thật. Trong pháp Đệ nhất nghĩa, suy luận ba đời, rốt ráo không có ý nghĩa vãng sanh. Hiện nay khuyên xả ly cõi Ta Bà uế trược, vãng sanh cõi Cực Lạc, đây chỉ là pháp Thế tục đế, giả danh sanh diệt, nhưng không phải không có sự xả ly cõi Ta Bà để vãng sanh cõi Cực Lạc. Ông lẽ nào chỉ bàn lý Đệ nhất nghĩa đế mà phá hoại tác dụng nhân quả của Thế tục đế. Hiện nay, y vào môn nhân quả của Thế tục đế mà khuyến khích sự vãng sanh Tịnh độ.
4. Quán sắc không tà.
Hỏi: Kinh Kim Cương Bát Nhã nói:
Nếu dùng sắc thấy Phật
Dùng âm thanh cầu Phật
Người đó hành tà đạo
Không thể thấy Như Lai.
Lại nói: “Xa lìa tất cả các tướng gọi là chư Phật.” Tại sao hiện nay dùng pháp quán Phật hữu tướng, hành tà đạo mà cầu vãng sanh? (22)
Đáp: Các kinh Kim Cương Bát Nhã, Quán Vô Lượng Thọ đều là lời dạy của Phật. Quán vô tướng, quán hữu tướng đều không phải là chỗ phàm phu có thể luận bàn tà chánh, mà có ý nghĩa rất sâu xa. Không thể y vào Kinh Kim Cương Bát Nhã mà chỉ trích Kinh Quán Vô Lượng Thọ. Ông không những ôm trong lòng sự khen chê, tự thành tội nặng, mà kiến giải Phật pháp của ông cũng chưa được dung thông. Vì sao? Hai bộ kinh này vì hành giả căn cơ khác biệt, học tập không đồng, kiến giải sai khác mà giảng nói khác nhau.
(a) Do hành giả căn cơ khác biệt: Những người căn cơ nông cạn chưa thể quán lý, cho nên dạy họ quán sắc [tướng], quán báo thân, hóa thân Phật. Những người căn cơ thâm sâu có thể quán thực tướng, cho nên dạy họ quán vô tướng, quán pháp thân. Nếu người căn cơ thấp học pháp cao, thì pháp cao không lợi ích, như trong kinh nói có người uống Cam lộ mà vẫn chết yểu. Còn người căn cơ cao mà học pháp thấp, thì pháp tu đã không tiến bộ mà còn thụt lùi. Cho nên Đức Phật nói pháp khác nhau cho hai loại căn cơ khác nhau.
(b) Do sự học tập không đồng: Những người sơ học mới vào đạo, quán hạnh nông cạn, chưa thể học pháp cao, không thể dạy họ quán thực tướng. Trước tiên dạy họ quán sắc tướng, điều luyện tâm thức, sau khi thành tựu, thì mới dạy họ pháp quán vô tướng. Ví như vào biển lớn, từ chỗ nông đến chỗ sâu. Những người tu tập lâu năm mới có thể dạy họ pháp quán vô tướng. Đức Phật muốn những hành giả sơ học không bị vướng mắc vào sắc tướng, cho nên chê đó là “tà”, chứ không có ý nghĩa đó là tà kiến. Ví như có người keo kiết học pháp Bố thí ba la mật. Sau khi trừ diệt san tham, đang bị kẹt vào pháp bố thí, Đức Phật muốn họ tiến tu pháp Trì giới ba la mật, nếu như ngài không chê pháp bố thí, thì hành giả đó không thể nào thăng tiến tu học pháp trì giới. Cho nên Đức Phật mới chê bai pháp bố thí, khen ngợi pháp trì giới. Đây là Đức Đại Thánh tùy vào căn cơ mà thuyết pháp. Những người ngu muội, chấp vào mặt chữ, không hiểu ý nghĩa chân thật mà Phật muốn nói. Hiện nay, Đức Phật chê bai pháp quán hữu tướng là tà đạo, ý nghĩa cũng tương tự như vậy.
(c) Do kiến giải sai khác: Nếu hiểu rõ ý nghĩa “sắc tức là không”, thì sự quán sắc không phải là tà. Nếu cho rằng “sắc không phải không”, thì sự quán sắc là tà. Nếu hiểu “không tức là sắc”, thì sự quán không không phải là tà. Nếu cho rằng “không khác với sắc”, thì sự quán không là tà. Đây là do không hiểu rõ ý nghĩa “sắc không”, nên tự phân tốt xấu. Đâu có liên quan gì đến “sắc không” mà biện biệt chánh tà. Nếu ông hiểu rõ ý nghĩa này thì dù quán sắc cả ngày cũng là chánh, còn như mê muội bổn ý của Phật, thì dù quán không cũng là tà. Lành thay diệu chỉ của Phật, ông phải nên khéo léo suy ngẫm!
5. Phật đến không đến.
a. Sự khác biệt giữa đến và không đến.
Hỏi: Kinh Kim Cương Bát Nhã nói: “Như Lai không từ nơi nào đến, cũng không đi về đâu, cho nên gọi là Như Lai.” Kinh Duy Ma Cật nói: “Tôi quán Như Lai, niệm trước không đến, niệm sau không đi, hiện tại không trụ.” Ngài Văn Thù Sư Lợi nói:
Không trụ cũng không đi
Không thủ cũng không xả
Xa lìa nơi sáu nhập
Kính lạy vô sở quán.
Theo lời dạy của các kinh Đại thừa này, Đức Phật không đến cũng không đi. Hiện nay, do nhân duyên nào mà Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói có Hóa Phật nghinh tiếp, hành giả theo Phật vãng sanh. Có đi có đến, trái ngược với các kinh vừa nêu trên. (23)
Đáp: Diệu lý sâu xa, thực tướng bình đẳng, pháp thân Như Lai vốn không sanh diệt, dùng bổn nguyện lớn, vô hạn đại bi, tiếp dẫn chúng sanh. Từ chân thân biến hiện hóa thân, đến khắp mười phương tiếp dẫn chúng sanh chín phẩm. Vì hóa thân tức là chân thân, không có sự tới lui, tùy căn cơ chúng sanh mà ứng hiện, nên có sự tới lui. Kinh Kim Cương Bát Nhã căn cứ vào “hóa thân tức là chân thân” nên nói không tới lui, còn Kinh Quán Vô Lượng Thọ căn cứ vào “chân thân biến hiện hóa thân” nên nói có sự tới lui.
Có người giải thích rằng thực sự không có Phật từ Tây Phương đến cõi này nghinh tiếp, cũng không có Phật tiếp dẫn chúng sanh vãng sanh Tịnh độ, mà chỉ là lực tăng thượng duyên phát xuất từ chủng tử công đức bổn nguyện từ bi của Phật, khiến cho các chúng sanh có duyên với ngài, tu các công đức niệm Phật, ba phước, mười sáu pháp quán để làm nhân duyên vãng sanh, tự tâm họ biến hiện Đức A Di Đà đến tiếp dẫn và hành giả theo Phật vãng sanh Tịnh độ. Nói Đức Phật đến nghinh tiếp, không phải thực sự nghinh tiếp, mà chỉ là chủng tử công đức của Phật và của hành giả hòa hợp sanh khởi đồng thời, khiến cho hành giả thấy Hóa Phật đến nghinh tiếp, cho nên nói là đến, thực sự không có đến. Công đức bi nguyện của Đức A Di Đà trạm nhiên thường tịch, không đến không đi. Tâm thức chúng sanh nương vào uy lực công đức bổn nguyện thù thắng của ngài, tự tâm của họ biến hiện, thấy có sự đến đi, thấy có sự tiếp dẫn vãng sanh. Đó là tướng phần của tự tâm biến hiện, không liên quan gì đến Phật. Kinh Kim Cương Bát Nhã nói không đến không đi là căn cứ vào công đức của Phật, Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói có đến có đi là căn cứ vào tâm tướng của chúng sanh.
Lại có người giải thích rằng nếu căn cơ chúng sanh thích hợp, Đức Phật cảm ứng, bèn biến hiện hóa Phật, đến khắp mười phương tiếp dẫn vãng sanh. Thế nhưng, Hóa Phật giống như ngọc như ý, như trống trời, không tác ý mà vẫn thành tựu sự việc. Đối với sự tới lui mà nói không tới không lui, đây là căn cứ vào chân thân mà nói, như phần trên đã bàn qua. Hoặc căn cứ vào sự sanh diệt, niệm niệm không trụ, vừa sanh khởi là diệt tận, không thể di động. Sanh khởi ngay đó, diệt tận ngay đó.
Sanh khởi nơi khác, diệt tận nơi khác, tương tự tương tục, tạm gọi là tới lui. Giống như đốm lửa quay nhanh, không phải vòng tròn mà có tướng vòng tròn. Tạm gọi là tới lui, thực sự không có tới lui. Cho nên Luận Vật Bất Thiên của ngài Tăng Triệu có nói: “Gió thổi tróc núi mà vẫn thường tĩnh lặng, ngựa chạy tứ tán mà không hề di động, nhật nguyệt lặn mọc mà chưa hề lên xuống.” Đây là nói đến sự sinh diệt quá nhanh chóng, tựa hồ không hề di động.
b. Hai nghĩa Phật và thường.
Hỏi: Kinh Đại Niết Bàn nói: “Xả bỏ sắc vô thường, chứng được sắc thường. Thọ tưởng hành thức cũng giống như vậy.” Lại nói: “Chư Phật thờ pháp làm thầy, vì pháp là thường nên chư Phật cũng là thường.” Ba thân bất động, không dời không đổi, nhưng hiện nay lại nói sanh diệt không trụ, đây là ý nghĩa gì? (24)
Đáp: Sự tranh luận này, không phải hiện nay mới có. Các học giả của tông Niết Bàn cho rằng ba thân đều là thường, không sanh không diệt. Họ dẫn chứng chi tiết các kinh Niết Bàn, Bồ Tát Bổn Nghiệp Anh Lạc, v.v..., cho rằng ba thân đều là thường. Đây là phần lớn căn cứ vào kinh điển. Còn các học giả của tông Nhiếp Luận đem các bộ luận Nhiếp Đại Thừa, v.v..., ra dẫn chứng rằng ba thân thường có ba nghĩa: (a) ngưng nhiên thường, tức là thân pháp tánh; (b) bất đoạn thường, tức là thân thọ dụng; (c) tương tục thường, tức là thân biến hóa. Tuy mỗi thân đều là thường, nhưng ý nghĩa thì khác biệt, bởi vì hai thân sau là do nhân duyên sanh. Luận Đại Trí Độ cho rằng vì hai thân sau do nhân duyên sanh, cho nên mọi tạo tác đều là vô thường. Nếu như “ngưng nhiên” thì phải đồng nhất với thân pháp tánh, do liễu nhân chứng đắc. Hơn nữa, hai thân đó phải không do năm ấm tạo thành, không có sự suy tư nghĩ tưởng, nói năng, động tác. Dùng những ý nghĩa này mà suy luận, hai thân sau không phải là “ngưng nhiên thường.” Muốn hiểu rõ chi tiết, có thể đọc Luận Duy Thức, v.v... Vả lại, căn cứ vào biến kế sở chấp, chúng sanh đều cho rằng chư Phật “có đến có đi”, thành thử [kinh luận] mới nói không đến không đi để phá những sự chấp trước này. Trong Kinh Duy Ma Cật, ngài Duy Ma Cật nói: “Lành thay, Văn Thù Sư Lợi! Không có tướng đến mà đến, không có tướng thấy mà thấy, v.v...” Hiện nay, Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói có đến có đi, không có sự trái nghịch với các kinh điển Đại thừa. Mỗi kinh căn cứ vào một ý nghĩa, đều là lời dạy vi diệu của chư Phật.
6. Phật danh hữu thuyên.
Hỏi: Trong Kinh Pháp Cú, Phật bảo Bồ tát Bảo Minh: “Thiện nam tử! ông hãy quán danh tự của Đức Phật này là có? là không? là có thật? là không có thật? Thiện nam tử! Nếu danh tự là có, thì khi nói ‘thức ăn’, người nghe cũng phải no bụng. Nếu như no bụng, thì các thực phẩm trên thế gian đều trở nên vô dụng, bởi vì nghe ‘thức ăn’ liền được no thì cần gì phải ăn!” Ý nghĩa của đoạn kinh này muốn nói rằng “danh tự tức là không”, không thể giảng giải giáo pháp của Phật. Hiện nay dạy cho người khác chuyên tâm niệm Phật, tiêu trừ tội nặng, vãng sanh Tây Phương, có khác gì nói “thức ăn” làm người nghe no bụng, nói “nước uống” làm người nghe hết khát! (25)
Đáp: Các kinh điển Đại thừa vi diệu đều cho rằng danh tự là hư giả, không có thực chất, cho nên mới nói “ngôn tự không có thể tánh”; hoặc nói “không có văn tự”; hoặc nói “danh nghĩa là khách (không thực), Bồ tát phải nên quán sát như vậy.” Thế nhưng, nếu Đức Phật ngồi an nhiên im lặng thì Kiều Trần Như sẽ không có hy vọng đắc đạo, ông Tu Bạt Ma cũng chẳng thể chứng quả A la hán. Tuy là kẻ nói người nghe khác biệt, không thể nói lời xuông cho người khác được no bụng, nhưng chung quy, danh tự có công năng giảng giải, làm cho người nghe hiểu rõ nghĩa lý, cho nên mới có ví dụ ngón tay chỉ trăng.
Mặt khác, thể tánh danh tự là không, cho nên mới có ví dụ “qua sông bỏ bè.” Đức Phật biết phàm phu chấp vào danh tự sanh khởi mê hoặc, hoặc thương, hoặc ghét, gây tạo tội chướng; hoặc khen, hoặc chê, khởi tâm sanh sát, tạo đủ mười nghiệp ác, đọa vào ba đường ác. Vì muốn diệt trừ phiền não cho họ, bèn nói danh tự là hư giả. Dù được khen hay bị chê, đâu có gì làm cho mình vinh hay nhục. Nếu nói vì được khen nên cảm thấy vinh dự, vì bị chê nên cảm thấy sỉ nhục, như vậy tức là nói “thức ăn” thì được no, nói đến “lửa cháy” thì bị thiêu đốt. Thật ra, dù cả ngày nói đến “cao lương mỹ vị” cũng không tránh khỏi sự đói khát, dù lúc nào cũng nói đến “lửa cháy” cũng chẳng bị tai họa cháy thân. Cho nên biết rằng thể tánh của danh tự là hư giả, vốn không chân thật. Phàm phu không tỏ ngộ, khởi tâm thương ghét, tranh đoạt hư danh, đọa ba đường ác. Ngược lại, nếu cho rằng danh tự vô dụng, không có công năng, thì khi gọi nước đáng lẽ lửa đến, khi gọi người nam đáng lẽ người nữ đến. Hiện nay, kêu nước nước đến, gọi nữ nữ đến, không có sự lẫn lộn, cho nên biết danh tự vẫn có công năng như lưới dùng để bắt cá, bẫy dùng để bắt thỏ. Do đó, Phạm Vương đã thỉnh Đức Phật chuyển pháp luân, và Đức Phật cũng đã tùy thuận căn cơ chúng sanh mà giảng nói kinh pháp. Ý chỉ thâm sâu của Tam tạng sáng chói nơi Long cung, mười hai bộ kinh được tuyên dương trên Linh Thứu. Trời người phàm thánh đều lãnh hội pháp mầu, năm nẻo tứ sanh đều tôn sùng lời Phật dạy. Nghe nhớ đọc tụng được lợi ích vô cùng, xưng niệm danh hiệu Phật đều vãng sanh về Tịnh độ. Như vậy, đâu thể nói danh tự là hư dối, không có công năng hoằng truyền Chánh pháp. Phần III. Hội thông sự mâu thuẫn của
Luận Nhiếp Đại Thừa.
1. Hội thông ba địa.
Hỏi: Luận Du Già Sư Địa nói: “Bồ tát Tam địa mới vãng sanh Tịnh độ.” Hiện nay khuyên phàm phu và các Bồ tát Tam hiền trở xuống vãng sanh là có ý gì? (26)
Đáp: Các bộ luận khi bàn về vãng sanh đều có căn cứ riêng biệt, sự thủ xả cũng không giống nhau. Các cõi Tịnh độ đã có sự thô diệu hơn kém khác nhau, sự vãng sanh cũng có giai bậc cao thấp không đồng. Như Kinh Nhân Vương Bát Nhã nói: “Chỉ có Đức Phật trụ cõi Tịnh độ, các bậc Tam hiền Thập thánh đều trụ cõi quả báo.” Đây muốn nói rằng các bậc Bồ tát Thập địa trở xuống đều không được sanh Tịnh độ. Bởi vì Đại viên kính trí của Đức Phật biến hiện cõi Tịnh độ vô lậu, nên gọi là tịnh; còn các bậc Bồ tát Thập địa trở xuống, bổn thức của các ngài biến hiện cõi Tịnh độ hữu lậu, nên không gọi là tịnh. Thức thứ tám là thức quả báo, cho nên cõi biến hiện gọi là cõi quả báo. Nếu bàn về phương diện tu tập bố thí, trì giới, thiền định, đắc vô lậu định, có thể dùng định lực để vãng sanh các cõi Tịnh độ, thì phải đến bậc Bồ tát Tam địa mới được tự tại. Bởi thế, Luận Du Già Sư Địa mới cho rằng chỉ có các bậc Bồ tát Tam địa trở lên mới được vãng sanh Tịnh độ. Nếu như chứng đắc trí vô phân biệt, đoạn trừ nhân chấp và pháp chấp, đoạn trừ phiền não kiến đạo, chứng ngộ Bách pháp minh môn, được vãng sanh các Tịnh độ của chư Phật, thì phải là bậc Bồ tát Sơ địa trở lên. Còn nếu bàn về việc nương vào bổn nguyện đại bi của Phật tiếp dẫn tất cả chúng sanh phàm phu ngu chướng, cho đến những người phạm tội thập ác ngũ nghịch, chỉ cần phát tâm Bồ đề đều được vãng sanh, thì không thể căn cứ vào lập luận của Luận Du Già Sư Địa cho rằng chỉ có bậc Bồ tát Tam địa trở lên mới được vãng sanh Tịnh độ, và nếu vậy, thì ngay cả các Bồ tát Sơ địa, Nhị địa cũng chưa được vãng sanh. Thế nhưng, Bồ tát Long Thọ được Phật thọ ký chứng bậc Sơ địa vãng sanh thế giới Cực Lạc, lẽ nào có thể nói chưa chứng Tam địa không được vãng sanh, mà đi ngược tông chỉ của Kinh Quán Vô Lượng Thọ!
Kinh Nhân Vương Bát Nhã nói bậc Bồ tát Sơ địa chứng Bách pháp minh môn, thấy được một trăm cõi Phật, làm sao nói họ không được vãng sanh Tịnh độ? Lại như Kinh Hoa Nghiêm nói các Bồ tát phàm phu mới phát tâm, phát nguyện vãng sanh Tịnh độ đều được vãng sanh. Do đây biết rằng Luận Du Già Sư Địa chỉ căn cứ vào khía cạnh “đắc định tự tại ly chướng được vãng sanh Tịnh độ” mà thôi.
2. Hội thông biệt thời. a. Giải luận phá chấp.
Hỏi: Hai bộ luận Nhiếp Đại Thừa và Câu Xá do hai ngài luận sư Vô Trước và Thế Thân biên soạn, giải thích ý nghĩa của các kinh luận, có bốn ý thú và bốn câu bí mật, trong đó có câu “Chỉ do phát nguyện mà được vãng sanh Tịnh độ, đây là biệt thời ý.” Hiện nay khuyến tấn mọi người tu tịnh nghiệp để vãng sanh Tây Phương Cực Lạc, đây là lý lẽ gì? Từ khi Luận Nhiếp Đại Thừa được phiên dịch đến nay đã hơn trăm năm, các vị tôn đức đã đọc qua và đều không tu Tịnh độ cầu vãng sanh Tây Phương. Hiện nay lại nói niệm Phật được vãng sanh, há chẳng đã đi ngược với bổn ý của Luận Nhiếp Đại Thừa? (27)
Đáp: Luận Nhiếp Đại Thừa nói: “Chỉ do phát nguyện mà được vãng sanh Tịnh độ, đây là biệt thời ý.” Từ xưa đến nay, các vị tôn đức đều dùng đoạn văn này để chứng minh rằng niệm Phật không được vãng sanh trong hiện đời. Hiện nay, chúng tôi sẽ biện minh rằng “Niệm Phật liền được vãng sanh trong hiện đời”, và đây là ý nghĩa chân thật mà hai ngài Vô Trước và Thế Thân muốn nói. Tại sao? Trong luận nói: “chỉ do phát nguyện”, tức là không đề cập đến “hành trì.” Không đề cập đến sự hành trì niệm Phật, mà chỉ đề cập riêng đến việc “phát nguyện” cho nên mới nói là “chỉ do phát nguyện.”
Nếu “chỉ do phát nguyện” mà được vãng sanh, đây là “biệt thời ý.” Nói cách khác, “biệt thời” nghĩa là không phải “chỉ do phát nguyện” mà lúc lâm chung được vãng sanh. Hiện nay, chí tâm niệm Phật tức là ý nghiệp hành thiện, xưng niệm danh hiệu Phật tức là khẩu nghiệp hành thiện, chắp tay lễ bái tức là thân nghiệp hành thiện. Do ba nghiệp thiện này có thể diệt trừ tội nặng trong tám mươi ức kiếp. Hành và nguyện phối hợp nhau, liền được vãng sanh (trong hiện đời). Đâu phải chỉ là phát nguyện xuông! Luận chủ Vô Trước nói “chỉ do phát nguyện” có nghĩa là “nếu như nguyện có kèm theo sự hành trì thì đây không phải là biệt thời ý.” Những người nghiên cứu không chịu suy ngẫm sâu xa ý nghĩa này, bèn vội phát biểu võ đoán rằng “niệm Phật vãng sanh cũng là biệt thời ý.” Nếu vậy, tại sao trong Luận Nhiếp Đại Thừa không tuyên bố rõ rằng “ví như niệm Phật A Di Đà được vãng sanh là biệt thời ý.” Luận đã không nói “niệm Phật, tu mười sáu pháp quán, tu tập ba phước là biệt thời ý”, cho nên biết rằng niệm Phật, v.v..., không phải là biệt thời ý.
Có người cho rằng “niệm Phật, tu mười sáu pháp quán cũng là phát nguyện”, hoặc có người giải thích “luận chủ tuy nói chỉ do phát nguyện, nhưng hàm ý niệm Phật, v.v..., cũng là biệt thời ý.” Hiện nay, chúng ta cứu xét hai lời giải thích này xem chúng có mục đích làm lợi ích chúng sanh hay chỉ là sự giải thích quàng xiêng? Về phương diện lợi ích, lời giải thích thứ nhất sẽ khiến cho vô lượng chúng sanh trôi lăn trong năm nẻo, trồi hụp trong ba đường ác, không thể vãng sanh Tịnh độ, thoát ly sanh tử. Về phương diện giải thích, nếu xét kỹ ý nghĩa của luận, thì lời giải thích thứ hai không hợp với bổn ý của luận chủ mà chỉ là sự phát biểu bâng quơ sai lạc. Các bộ luận Câu Xá, v.v..., khi tranh luận về tông chỉ và nghĩa lý, đều căn cứ vào lời dạy của Phật (kinh) để khải định ý chỉ và quy hướng, huống chi, hiện nay lời dạy của Phật trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ, v.v..., đều chỉ bày tường tận các pháp tu, hoặc giảng giải ba phước là nhân chánh cho sự vãng sanh Tây Phương, hoặc chỉ bày mười sáu pháp quán là chánh nghiệp cho sự sanh về Cực Lạc. Tại sao lại cho rằng tất cả đều chỉ là phát nguyện?
Có tám lý do để biết rằng luận chủ không chủ trương
“niệm Phật là biệt thời ý”:
(1) Luận sư giải thích kinh văn là vì ý nghĩa của kinh thâm sâu, những người tầm thường khó hiểu rõ bổn ý của Phật. Các nhà luận sư tạo luận giải thích lời Phật là muốn cho người trí kẻ ngu đều được hiểu rõ. Hiện nay, những lời dạy về pháp Niệm Phật Vãng Sanh của các kinh Quán Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Thọ và A Di Đà rất rõ ràng, người trí kẻ ngu đều hiểu rõ, đâu có khúc mắc gì mà cần phải được giải thích.
(2) Ngài tỳ kheo Pháp Tạng phát Bốn mươi tám nguyện lớn tiếp dẫn chúng sanh, lẽ nào đem “biệt thời ý” để phát những lời nguyện lớn hay sao? Trong bổn nguyện có câu “Nếu như niệm Phật mà không được vãng sanh, thề không thành Phật”, do đây biết rằng công hạnh niệm Phật, v.v..., nhất định sẽ được vãng sanh. Điều này nằm trong Bốn mươi tám nguyện và không phải là biệt thời ý. Còn câu “Chỉ do phát nguyện không được vãng sanh” không nằm trong Bốn mươi tám nguyện, và đó là biệt thời ý.
(3) Trong Kinh Xưng Tán Tịnh độ, hằng hà sa chư Phật mười phương đều hiện tướng lưỡi rộng dài chứng minh cho sự vãng sanh, chả lẽ các ngài chứng minh “biệt thời ý”? Chư Phật hiện tướng lưỡi vốn vì các chúng sanh không tin pháp môn Tịnh độ. Những chúng sanh đó cho rằng công phu niệm Phật ít ỏi, làm sao trong một đời mà được vãng sanh, rồi khởi tâm hủy báng, không tin lời Phật dạy, cho nên các ngài hiện tướng lưỡi rộng dài, nói lời thành thật, khiến cho bọn họ thấy mặt nghe lời, đều dứt trừ nghi hoặc, phát khởi lòng tin.
(4) Kinh A Di Đà trước tiên khuyên chúng sanh phải nên phát nguyện cầu sanh Cực Lạc, kế đến dạy phải niệm danh hiệu Phật A Di Đà từ một ngày cho đến bảy ngày, đến lúc mạng chung liền được thánh chúng đến tiếp dẫn vãng sanh. Nếu niệm Phật chỉ là phát nguyện, thì phần trên đã khuyên phát nguyện, phần dưới cần gì phải dạy pháp niệm Phật? Cho nên biết rằng phần trên là nguyện, phần dưới là hành. Hành nguyện phù hợp thì được vãng sanh. Lẽ nào niệm Phật chỉ là phát nguyện?
(5) Luận Vãng Sanh và Luận Nhiếp Đại Thừa đều do Bồ tát Thế Thân biên soạn. Chả lẽ trong Luận Vãng Sanh nói niệm Phật vãng sanh Tây Phương không phải biệt thời ý, mà trong Luận Nhiếp Đại Thừa lại cho rằng niệm Phật là biệt thời ý, không được vãng sanh trong hiện đời hay sao? Giả như hai bộ luận này do hai luận sư kiến giải khác biệt sáng tác, chúng ta cũng vẫn phải đặt nghi vấn tại sao chỉ có Luận Nhiếp Đại Thừa đạt được ý chỉ của Kinh, còn Luận Vãng Sanh lại mê mờ lời dạy của Phật? Huống chi hiện nay hai quyển luận đều do ngài Thế Thân biên soạn, ý nghĩa đâu thể mâu thuẫn với nhau. Nếu dùng luận để thăm dò bổn ý luận sư, phải nên biết rằng chỉ có “phát nguyện suông” mới là biệt thời ý!
(6) Luận Vãng Sanh nói đến năm môn: (a) thân nghiệp lễ bái, (b) khẩu nghiệp niệm Phật, (c) ý nghiệp quán sát, (d) phát nguyện, và (e) hồi hướng. Nếu ba môn trước đã là phát nguyện, thì đâu có khác gì môn thứ tư (phát nguyện). Nếu nói giống nhau thì đâu gọi là năm môn. Nếu nói khác nhau thì ba môn trước là hành, chứ không phải nguyện!
(7) Luận Đại Thừa Khởi Tín do ngài Mã Minh trước tác nói rằng niệm Phật vãng sanh Tây Phương chính là hành môn, không phải biệt thời ý. Do đây biết rằng bổn ý của ngài Thế Thân khi tạo luận cũng giống như ngài Mã Minh, không bao giờ cho rằng các môn Niệm Phật, v.v..., là biệt thời ý. Ngài Mã Minh tạo Luận Đại Thừa Khởi Tín chỉ dạy cho hàng Bồ tát sơ cơ, nói có tám nhân duyên để tạo luận, trong đó nhân duyên thứ bảy nói: “Chỉ rõ phương tiện chuyên tâm niệm Phật vãng sanh cõi Phật quyết định không còn thoái chuyển lòng tin Đại thừa. Lại nữa, những chúng sanh mới học Đại thừa, muốn cầu chánh tín, lòng tin chưa vững, e rằng ở lâu nơi cõi Ta Bà này, không được thường gần gũi chư Phật để cúng dường, lòng tin Đại thừa khó thành tựu, hoặc giả sẽ bị thoái thất. Nên biết đức Như Lai có phương tiện thù thắng nhiếp thọ hộ trì tín tâm của hành giả, nghĩa là dùng nhân duyên niệm Phật vãng sanh các cõi Tịnh độ, thường gần gũi chư Phật, vĩnh viễn lìa xa ác đạo. Như trong khế kinh có nói nếu hành giả chuyên niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà ở thế giới Tây Phương Cực Lạc, rồi đem thiện căn tu hành hồi hướng cầu sanh về thế giới ấy, ắt sẽ đưọc vãng sanh. Vì thường gặp Phật, tín tâm Đại thừa sẽ không bị thoái chuyển.” Nếu siêng tu pháp quán Chân như Pháp thân của Phật, ắt được vãng sanh, trụ trong chánh định.
(8) Nếu cho rằng niệm Phật không phải là hành môn, thì sự tu tập ba phước, mười sáu pháp quán có phải là hành môn hay không? Nếu [tu ba phước, mười sáu pháp quán] là hành môn, trong phần quán Đất nói rằng tu pháp quán Đất thành tựu sẽ diệt trừ tám mươi ức kiếp tội chướng sanh tử, sau khi mạng chung sẽ được sanh về Tịnh độ, tâm không còn nghi. Còn như niệm danh hiệu Phật A Di Đà, trong mỗi niệm cũng diệt trừ được tám mươi ức kiếp sanh tử tội nặng sanh tử, vãng sanh Tây Phương. Tại sao diệt tội giống nhau mà một pháp là hành môn, một pháp không phải là hành môn? Tu pháp quán được vãng sanh, còn tu niệm Phật không được vãng sanh? Nếu cả hai pháp tu đều không phải hành môn, thì bà Vi Đề Hy và năm trăm thị nữ do tu pháp quán này mà được được Phật thọ ký vãng sanh hay do tu các hạnh khác mà được vãng sanh? Nếu do tu pháp quán này được vãng sanh, nhưng pháp quán này không phải hành môn, như vậy làm sao được vãng sanh? Nếu tu pháp quán này không được vãng sanh, bà Vi Đề Hy cần gì phải thỉnh cầu pháp tu không vãng sanh? Và Đức Như Lai việc gì phải giảng pháp không vãng sanh? Nếu cả hai đều là nguyện môn thì ắt chúng chỉ là một, cần gì phải phân ra mười sáu pháp quán? Hai lời giải thích võ đoán ở trên, không những không hiểu kinh văn, mà còn hủy báng chánh kiến, hại mình hại người. Đối với Phật pháp và chúng sanh đều không lợi ích.
b. Hành tướng của biệt thời ý.
Hỏi: Nếu chỉ phát nguyện suông là biệt thời ý, vậy biệt thời ý là gì? (28)
Đáp: Đức Phật biết chúng sanh phiền não sâu nặng, trôi lăn trong sanh tử, trồi ngụp trong biển khổ, không ngày xuất ly, nên ngài mới tán thán thế giới Tây Phương Cực Lạc y báo chánh báo trang nghiêm, khuyến khích chúng sanh vãng sanh Tịnh độ. Chúng sanh tuy nghe Phật dạy, do vì phiền não chướng có nặng có nhẹ, sự tỏ ngộ có sâu có cạn, thành thử sự tu tập có cao có thấp.
(a) Có một hạng chúng sanh nghe lời Phật dạy bèn chê bai, phỉ báng. Bọn họ không những không sanh Tây Phương, mà còn tự làm cho mình trầm luân biển khổ. Hạng người này vô duyên đối với pháp môn Cực Lạc.
(b) Có một hạng chúng sanh nghe pháp Tịnh độ, tuy khởi lòng tin sâu và không phỉ báng, nhưng vì còn tham mê ngũ dục, lưu luyến Ta Bà, không dám phát nguyện, không chịu tu hành. Bọ họ tu thiện, hoặc sanh cõi trời, hoặc lại tiếp tục tạo ác, trầm luân ác đạo. Hạng người này cũng không có duyên với cõi Tây Phương Tịnh độ.
Hai hạng người vừa nêu trên, hoặc không có tâm nguyện cầu, hoặc sanh tâm hủy báng, cho nên Kinh Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác nói: “Nếu có chúng sanh nghe giáo pháp Tịnh độ, nghe như không nghe, lại còn phỉ báng, ta nói hạng người đó chưa được giải thoát, mới từ ác đạo đầu thai làm người.” Không có lòng tin, hoặc không có hạnh nguyện, cho nên chưa được giải thoát.
(c) Có một hạng chúng sanh, túc duyên với Phật A Di Đà đã chín muồi, nghe giáo lý Tịnh độ, khởi lòng kính tin, phát thệ nguyện lớn, nguyện được vãng sanh Tây Phương Tịnh độ, quyết định không cầu quả báo trời người. Người này tuy phát nguyện mạnh mẽ, nhưng hoặc vì nhân duyên phiền não, vẫn tiếp tục đam mê ngũ dục, hoặc phóng dật biếng nhác, không thể tu đạo, gặp ác tri thức, tạo nhiều tội ác, hoặc lúc mạng chung không gặp được thiện tri thức, hoặc thân mang bệnh nặng, cuồng loạn mất trí, hoặc tâm trí tán loạn, không hiểu ý người khác nói, hạng người như vậy chỉ phát nguyện xuông, chưa từng tu hạnh Tịnh độ. Tuy không được vãng sanh ngay trong đời này, nhưng sự phát nguyện của họ sẽ là nhân duyên cho sự vãng sanh trong những đời sau. Hoặc giả, do sức mạnh thù thắng của sự phát nguyện mà sau này họ sẽ nhất định ra công tu hành. Đối với hai hạng người này (chưa thể tu, dự định tu), luận mới nêu lên ý nghĩa “biệt thời ý”, và vì thế, trong kinh mới cho rằng những người này sẽ được vãng sanh Tây Phương. Bởi có những người ngu độn cho rằng chỉ cần phát nguyện mà không cần phải tu tập nhân duyên Tịnh độ, cho nên luận sư giải thích cho rằng đó là biệt thời ý “không phải chỉ do phát nguyện mà được vãng sanh Tịnh độ trong hiện đời.” Người đời sau đọc luận, không hiểu ý thú, bèn cho rằng niệm Phật cũng không được vãng sanh. Đây là điều vô cùng sai lầm.
(d) Có một loại chúng sanh, thiện căn sâu dầy, phiền não mỏng ít, may gặp thắng duyên, nghe được giáo pháp Tịnh độ, sanh lòng tin thanh tịnh sâu xa, phát nguyện tu hành, lâm chung như trong kinh đã nói tường tận. Đây là hạnh nguyện đầy đủ, liền được vãng sanh, khác với hạng người chỉ phát nguyện, cho nên đây không phải là giáo pháp “biệt thời.” Đức Phật đối với hai hạng người chưa được vãng sanh ở trên, nói rằng phát nguyện sẽ được vãng sanh. Luận sư e bọn họ hiểu lầm rằng chỉ cần phát nguyện cũng sẽ được vãng sanh giống như người hạnh nguyện đầy đủ, cho nên mới nói rằng những người chỉ phát nguyện sẽ không được vãng sanh hiện đời, đây là “biệt thời ý.” Các ngài ví dụ sự phát nguyện như một đồng tiền vốn, sự niệm Phật tu hành như chín trăm chín mươi chín đồng tiền trung gian, và sự vãng sanh Tịnh độ như đồng tiền thứ một ngàn. Vì thế trong Luận Nhiếp Đại Thừa mới có ví dụ dùng một đồng tiền làm vốn sanh ra một ngàn đồng tiền. Lại như, niệm Phật Đa Bảo không thể lập tức chứng được giai vị Bất thoái. Vị Bất thoái tức là bậc Bồ tát Sơ trụ. Hành giả lúc niệm Phật Đa Bảo, hoặc là đang ở giai vị dưới Thập tín, hoặc là đang ở giai vị Sơ tín, v.v..., không thể niệm Phật Đa Bảo liền có thể vượt qua mười ngàn đại kiếp từ Sơ tín lên đến Sơ trụ, mà trong giai đoạn trung gian phải tu tám vạn bốn ngàn môn Ba la mật thì mới lên đến Sơ trụ. Vả lại, niệm Phật Đa Bảo và giai vị Bất thoái là nhân duyên xa cho nên gọi là biệt thời ý. Phần IV: Đối với phàm phu vãng sanh nêu rõ bổn xứ.
1. Năm nẻo vãng sanh.
Hỏi: Chỉ riêng loài người mới được vãng sanh Tịnh độ, hay các chúng sanh khác cũng được vãng sanh? Còn những người đã đầu thai vào trong các cảnh giới khác có được vãng sanh Tịnh độ hay không? (29)
Đáp: Tất cả chúng sanh trong năm nẻo đều có thể tu Tịnh nghiệp vãng sanh Cực Lạc. Chẳng hạn chư thiên đến nghe Phật giảng Kinh Quán Vô Lượng Thọ, và đoạn dưới của kinh nói rằng vô lượng chư thiên, long, dạ xoa, v.v..., nghe Phật thuyết giảng thảy đều hoan hỷ. Kinh Xưng Tán Tịnh độ, trong phần mở đầu nói vô lượng chư thiên, a tu la, v.v..., vì muốn nghe pháp đều đến tham dự. Do đây biết rằng tất cả đều có thể phát nguyện vãng sanh Tịnh độ, đều có thể tu tập tịnh nghiệp, vãng sanh Tây Phương. Hơn nữa, Kinh Bồ Tát Xử Thai nói: “Vua rồng biến hiện thân người thọ giới Bát quan trai, kim xí điểu muốn ăn thịt rồng mà không được, bèn hỏi vua rồng đã thọ pháp gì, vua rồng nói thọ giới Bát quan trai. Kim xí điểu bèn theo vua rồng xuống long cung. Lúc đó các rồng nam, rồng nữ nghe pháp Bát quan trai, phát lòng kính tin. Sau khi mạng chung, tất cả đều được vãng sanh thế giới Cực Lạc.” Lại như Kinh Tùy Nguyện Vãng Sanh nói: “Nếu đem tài vật, ruộng vườn của người chết bố thí cho Tam bảo, sức mạnh thù thắng của sự bố thí có thể diệt tội báo địa ngục cho họ. Do nhân duyên này, người chết được giải thoát, xa lìa tất cả khổ não, vãng sanh Tịnh độ của chư Phật mười phương.” Do đây biết rằng tất cả chúng sanh trong năm nẻo đều được vãng sanh Cực Lạc.
2. Trung ấm cõi Cực Lạc.
a. Trung ấm có hay không
Hỏi: Thọ sanh nơi cõi Ta Bà trược uế này, hễ có hình sắc đều phải thọ thân trung ấm, chết nơi đây sanh nơi kia. Có bốn loại ấm: trung ấm, sanh ấm, bổn ấm và tử ấm. Không biết sự vãng sanh từ cõi Ta Bà sang cõi Tịnh độ có cần thân trung ấm hay không? (30)
Đáp: Có hai cách giải thích. (a) Có người cho rằng không có trung ấm, bởi vì vừa mạng chung ở cõi Ta Bà thì đã ngồi hoa sen ở cõi Cực Lạc. Đây thuộc về sanh ấm, bởi vì ngồi vào hoa sen cũng giống như nhập vào bào thai. (b) Cách giải thích hiện nay của chúng tôi không hẳn như vậy. Ví như pháp thọ thai ở Ta Bà, phải từ nơi chết đến nơi sanh mới thọ sanh ấm. Chẳng hạn như chết ở cõi Dục sanh về cõi Sắc, trước tiên cần phải thọ thân trung ấm cõi Sắc, sau khi đến cõi Sắc mới thọ thân sanh ấm cõi Sắc. Hiện nay, ý nghĩa vãng sanh Tịnh độ cũng tương tự như vậy, không thể ở ngay cõi uế trược mà có thể thọ thân sanh ấm của cõi Tịnh độ. Phải đến ao báu nơi cõi Tịnh độ, thân trung ấm mới trở thành thân sanh ấm. Cõi Vô sắc không có sắc thân, có thể không cần thân trung ấm truyền thọ tâm thức để thọ sanh, còn cõi Tịnh độ có sắc thân, tại sao không chấp nhận có thân trung ấm truyền thọ tâm thức đến đó để thọ thân sanh ấm?
b. Sự khác biệt của trung ấm.
Hỏi: Nếu như có thân trung ấm, thì phải đến ao báu ở cõi Cực Lạc mới có thể ngồi vào hoa sen, và sau đó hoa mới nở. Tại sao đang ở cõi Ta Bà, thân trung ấm của hành giả vãng sanh đã ngồi hoa sen? Nếu vậy có khác với thân sanh ấm ở cõi Tịnh độ hay không? (31)
Đáp: Chả lẽ lấy lý do thân trung ấm nhập vào hoa sen ở Ta Bà mà cho là giống như thân sanh ấm ở cõi Cực Lạc hay sao? Vãng sanh Cực Lạc là nhờ sức mạnh thù thắng của phước đức, tuy cũng là thân trung ấm, nhưng nương vào hoa sen mà hóa sanh, khác với thân trung ấm bình thường của cõi trược uế. Tuy thân trung ấm, thân sanh ấm cùng trụ trong hoa sen, nhưng có sự hơn kém, sáng tối khác nhau để phân biệt hai loại ấm thân này. Lại còn dùng hai nghĩa “thú sanh” [1] và “chí sanh” [2] để nêu rõ sự sai khác của trung ấm và sanh ấm. Nếu cho rằng trung ấm, sanh ấm cùng ở trong hoa, không thể phân biệt, thì ở cõi Ta Bà, trung ấm, sinh ấm đều không có hoa, như vậy có thể cho rằng hai ấm này cũng không có sự khác biệt hay sao? Có người cho rằng trung ấm, sanh ấm tuy đều không có hoa, nhưng có thể phân biệt bằng sự thọ thai, xuất thai, v.v... Điều này đối với ba trường hợp thai sanh, noãn sanh và thấp sanh thì có thể phân biệt, còn đối với trường hợp hóa sanh, làm sao phân biệt trung ấm và sanh ấm? Do đây biết rằng có thân trung ấm.
Hơn nữa, trong địa ngục, thân trung ấm đã bị thiêu đốt, lẽ nào lại không khác biệt với thân sanh ấm. Do đây biết rằng thân trung ấm và sanh ấm nơi cõi Tịnh độ cũng có sự khác biệt tương tự như vậy. Thế nhưng, chưa thấy kinh luận nào đề cập đến vấn đề này, do đó không thể phán định là có hay không có thân trung ấm vãng sanh Tịnh độ. Tuy không có kinh văn dẫn chứng, nhưng ý nghĩa “có thân trung ấm” vẫn hợp lý hơn. Nếu không, thân vãng sanh Tịnh độ là thân gì?
c. Trung ấm mặc y phục.
Hỏi: Nếu có thân trung ấm, không biết thân trung ấm cõi Cực Lạc có mặc y phục hay không? (32)
Đáp: Điều này kinh luận đều không đề cập đến. Thế nhưng, nếu y theo sự nhận định [của soạn giả], thì thân trung ấm phải mặc y phục. Luận Câu Xá nói: “Tất cả thân trung ấm cõi Dục, trừ thân trung ấm của tỳ kheo ni Tiên Bạch, đều không mặc y phục, bởi vì thân trung ấm cõi Dục không có tâm hổ thẹn. Tất cả thân trung ấm cõi Sắc đều mặc y phục, vì có tâm hổ thẹn.” Do đây suy luận, thân trung ấm cõi Tịnh độ đều mặc y phục, bởi vì cõi Tịnh độ thù thắng hơn cõi Sắc, lẽ nào thân trung ấm lại không mặc y phục?
d. Hình tướng của trung ấm.
Hỏi: Hình tướng thân trung ấm của cõi Tịnh độ ra sao? (33)
Đáp: Ý nghĩa này cũng do sự nhận định mà biết. Ở cõi Ta Bà, thân trung ấm cõi trời đứng thẳng. Thân trung ấm cõi địa ngục, đầu phía dưới, chân hướng lên. Thân trung ấm cõi người, ngạ quỷ và bàng sanh thì đi ngang, giống như chim bay. Thân trung ấm cõi Tịnh độ cũng đứng thẳng. Lại có một cách giải thích khác cho rằng thân trung ấm cõi trời thọ sanh trong tướng đứng, còn thân trung ấm Tịnh độ thọ sanh trong tướng ngồi.
e. Có ăn mùi hương hay không.
Hỏi: Khi thân trung ấm chưa đến Cực Lạc, nó sẽ ăn uống như thế nào trên lộ trình qua mười vạn ức cõi Phật? (34)
Đáp: Thân trung ấm cõi Dục, lúc chưa thọ thai, phần lớn dùng hương thơm để làm thức ăn. Thân trung ấm cõi Cực Lạc thọ sanh về cõi đó nhanh như khoảng khảy móng tay, thời gian không dài, cho nên không cần ẩm thực. Hơn nữa, trên lộ trình qua mười vạn ức cõi Phật, thân trung ấm có thể dùng mùi hương ở các cõi Phật làm ẩm thực trước khi thọ sanh ở cõi Cực Lạc. Ý nghĩa về thân trung ấm nhiều vô lượng, ở đây không thể nói hết. Phần V: Đối với phàm phu vãng sanh nêu rõ sự tăng trưởng lòng tin.
1. Chư Phật chứng thành.
Hỏi: Đức Như Lai giảng pháp tùy thuận căn cơ chúng sanh. Ngài thường giảng cho những người có lòng tin đối với Phật pháp, chứ không giảng cho những kẻ có tâm nghi ngờ. Kinh Dược Sư nói: “Đức Phật bố thí pháp cho những người có lòng tin, chứ không giảng pháp cho những kẻ nghi hoặc.” Tại sao trong vài bộ kinh, chư Phật hiện tướng lưỡi rộng dài khuyến tấn chúng sanh phát khởi lòng tin, còn trong những bộ kinh khác lại không hiện tướng lưỡi mà chỉ thuần tuyên thuyết diệu lý. Hơn nữa, giảng pháp thâm diệu, phàm phu không hiểu, khởi lòng hoài nghi, sanh tâm hủy báng. Chẳng hạn khi Đức Phật nói Kinh Pháp Hoa, hội tam quy nhất[3], hàng Nhị thừa, v.v... không khởi lòng tin, cho nên Đức Phật Đa Bảo hiện bảo tháp để chứng minh, Đức Bổn Sư đã phải hiện tướng lưỡi rộng dài để chứng tỏ sự chân thật, và phải ba lần khuyên chúng sanh nên tin lời dạy của ngài, sau đó mới tiếp tục giảng kinh. Hiện nay, Kinh A Di Đà chỉ bàn về cảnh tướng y báo chánh báo, trang nghiêm thanh tịnh của cõi Tây Phương, khuyến tấn hành giả vãng sanh, sanh khởi chánh tín, cần gì chư Phật sáu phương hoặc mười phương phải cùng nhau hiện tướng lưỡi rộng dài để khuyến khích chúng sanh phát khởi lòng tin? (35)
Đáp: Phần dưới của Kinh Xưng Tán Tịnh Độ nói Đức Bổn Sư tự thuật việc hằng hà sa chư Phật mười phương thấy ngài đang giảng thuyết Kinh Xưng Tán Tịnh độ, mỗi vị đều ở tại bổn xứ cùng lên tiếng tán thán: “Đức Phật Thích Ca ở nơi thế giới Ta Bà, vào thời ác năm trược, mà có thể chứng đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, vì các chúng sanh giảng pháp cực kỳ khó tin.” Đức Bổn Sư, sau khi được chư Phật tán thán, đã nói với Xá Lợi Phất: “Ta ở đời ác năm trược chứng đắc A nậu đa la tam miệu bồ đề, vì các chúng sanh giảng thuyết pháp môn khó tin nhất thế gian, đây là điều cực kỳ khó khăn.” Đức Như Lai giảng thuyết hàng trăm ngàn bộ kinh, ngài chưa bao giờ cho là khó khăn, mà lúc giảng Kinh Xưng Tán Tịnh độ, Đức Bổn Sư cùng hằng hà sa chư Phật mười phương đều nói rằng kinh này là khó tin khó giảng. Thông thường, khi Đức Phật giảng nói mười hai phần giáo, tất cả ngoại đạo đều sanh tâm phỉ báng, còn các đệ tử Phật đều phát khởi tín tâm. Hiện nay, Phật nói Kinh A Di Đà, cho rằng những chúng sanh tạo tội ngũ nghịch thập ác, chỉ cần niệm Phật liền có thể vãng sanh Tịnh độ, thì ngay những Phật tử kiền thành cũng khởi tâm nghi ngờ, không tin lời dạy này của Phật. Hiện nay, hãy quán sát bốn chúng Phật tử đều là những người chánh tín, nhưng vẫn nghi ngờ rằng niệm Phật chưa chắc được vãng sanh hiện đời, cho nên biết rằng bộ kinh này khó gợi được lòng tin của mọi hàng Phật tử. Chư Phật biết trước trong đời vị lại sẽ có nhiều chúng sanh nghi ngờ, nên cùng hiện tướng lưỡi để chứng minh cho lời dạy chân thành, khuyến khích mọi người tu học.
Hơn nữa, đối với sự kiện các bậc Bồ tát Tam hiền trở lên, hoặc các bậc đại thiện tri thức như ngài Long Thọ, v.v..., được vãng sanh Tịnh độ, thì ngay những kẻ phàm phu trược ác cũng tin rằng có thật. Bọn họ cho rằng những bậc thù thắng, phước nhiều tội ít, được vãng sanh thì không có gì lạ. Lại nữa, đối với sự kiện những phàm phu tạo tội ngũ nghịch thập ác, đến lúc lâm chung chí thành khẩn thiết niệm mười danh hiệu Phật, nương vào bổn nguyện Phật mà được vãng sanh, thì các Bồ tát Thập địa, Tam hiền cũng đều tin tưởng mà không khởi tâm nghi ngờ. Chỉ riêng trường hợp hạ phẩm hạ sanh, những kẻ tạo tội ngũ nghịch thập ác, không tội ác nào không làm, nhưng đến lúc lâm chung, gặp thiện tri thức dạy niệm Phật, đầy đủ mười niệm liền được vãng sanh Tịnh độ, thì những kẻ không tin điều này chính là những người đang tạo tội thập ác, không tin niệm Phật vãng sanh Tịnh độ. Bọn họ tự cho rằng mình là những phàm phu tội lỗi, từ vô thỉ đến nay đã tạo vô số tội ác, niệm Phật mười niệm làm gì có đủ công đức để diệt trừ tội nặng, vãng sanh Cực Lạc; hoặc cho rằng đây là lời Phật khuyến khích, lấy việc gần để ví cho việc xa; hoặc cho rằng đây là biệt thời ý. Đủ loại giải thích mông lung, không tin vào sự vãng sanh hiện đời. Tán đồng lời Phật dạy thì ít, còn phỉ báng thì nhiều. Ít người tin lời dạy này của Phật, do đây chư Phật cùng nhau hiện tướng lưỡi rộng dài bao trùm cõi Tam thiên để chứng minh pháp môn niệm Phật là xác đáng, quyết định được vãng sanh, đồng thời hộ niệm cho các hành giả tu hành được vãng sanh Tịnh độ.
2. Phật đầy đủ các nguyện.
Hỏi: Kinh Hoa Nghiêm nói: “Chư Phật bình đẳng, các ngài đều đã đầy đủ hạnh nguyện mới viên thành Chánh Giác, được danh xưng Lưỡng Túc Tôn.” Hiện nay Kinh Dược Sư nói Đức Phật Dược Sư lúc hành Bồ tát đạo chỉ phát mười hai đại nguyện, Kinh Vô Lượng Thọ và Kinh Bi Hoa nói Phật A Di Đà phát Bồ đề tâm và khi tu Bồ tát hạnh phát bốn mươi tám nguyện. Điều này hoàn toàn khác hẳn với tông chỉ của Kinh Hoa Nghiêm, đây là có ý gì? (36)
Đáp: Hai kinh Hoa Nghiêm và Dược Sư căn cứ vào hai tông chỉ khác nhau, nhưng không có sự trái nghịch. Trên thực tế, tất cả chư Phật đều đầy đủ tất cả hạnh nguyện, không có hơn kém. Nếu có một nguyện không thành thì không thể chứng thành Chánh Giác, không được tôn xưng là Nhất Thiết Trí. Công đức của chư Phật cũng không có sự khác biệt. Kinh Duy Ma Cật nói: “Công đức của chư Phật Như Lai đều bình đẳng.” Còn như Kinh Dược Sư nói mười hai nguyện, Kinh Vô Lượng Thọ nói bốn mươi tám nguyện, đây đều là tùy thuận căn cơ của chúng sanh mà nói. Chư Phật giáo hóa chúng sanh, tiếp dẫn những kẻ hữu duyên. Chúng sanh có duyên với Phật, ắt sẽ y theo bổn nguyện của Phật mà tu hành. Chư Phật cũng nương vào những thệ nguyện lớn của mình mà hóa độ chúng sanh. Khi chư Phật phát tâm Bồ đề, các ngài đều an trụ trong tâm nguyện rộng lớn: “Ta sẽ khiến cho tất cả chúng sanh đều nhập Vô dư Niết bàn.” Bồ tát từ lúc mới phát tâm, tu tập Bồ tát hạnh vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, thành bậc Chánh Giác. Thế nhưng chúng sanh nhiều vô tận vô biên, Bồ tát không thể nào giáo hóa tất cả. Chúng sanh giới chưa tận mà Bồ tát đã thành Phật. Tâm nguyện các ngài tuy rộng lớn, nhưng sự việc độ sanh không thể hoàn tất. Thế nhưng, có những chúng sanh đối với mười hai nguyện lớn tin tưởng chí thành khẩn thiết, hiện nay cơ duyên của họ đối với những đại nguyện này đã chín muồi. Những chúng sanh đối với bốn mươi tám nguyện của Đức Phật A Di Đà cũng vậy, phát tâm tin tưởng chí thành, hiện nay nhân duyên của họ đối với bốn mươi tám nguyện đã chín muồi. Tuy Phật Dược Sư và Phật A Di Đà có đầy đủ hằng hà sa nguyện lớn, thế nhưng đối với những chúng sanh căn cơ khác nhau, các ngài nêu lên những nguyện lớn khác nhau. Phật Dược Sư tuy cũng có bốn mươi tám nguyện, nhưng đối với các chúng sanh có duyên với mười hai nguyện, ngài chỉ nói mười hai nguyện. Tương tự, Phật A Di Đà tuy cũng có mười hai nguyện, nhưng đối với chúng sanh có duyên với bốn mươi tám nguyện, ngài chỉ nói bốn mươi tám nguyện. Ví như kho thuốc của bậc Y vương, tuy có vô lượng món thuốc, các ngài tùy theo những căn bệnh khác nhau mà điều chế những phương thuốc khác nhau. Chớ vì thấy phương thuốc đơn giản mà cho rằng liều thuốc không hay, hoặc không tin trong kho thuốc của bậc Y vương có đủ các món thuốc để trị tất cả bệnh. Kinh Hoa Nghiêm nói chư Phật bình đẳng, có đầy đủ tất cả nguyện hạnh, ví như toàn thể kho thuốc, mười hai nguyện của Phật Dược Sư, hoặc bốn mươi tám nguyện của Phật A Di Đà ví như những toa thuốc để trị những căn bệnh. Do đây biết rằng ý chỉ của Kinh Hoa Nghiêm và Kinh Dược Sư không hề trái ngược nhau.
3. Biết chắc vãng sanh.
Hỏi: Có những tướng trạng nào để biết rõ hành giả chắc chắn được vãng sanh Tây Phương hay không? Có kinh điển nào làm chứng cứ hay không? (37)
Đáp: Có ba lời dạy của Phật làm chứng cứ cho sự vãng sanh của các hành giả tu tập Tịnh độ:
a) Kinh Xưng Tán Tịnh độ nói: “Ở thế giới Ta Bà vào thời ngũ trược tạp nhiễm này, nếu các thiện nam tử thiện nữ nhân có lòng tin thanh tịnh, nghe nói pháp khó tin nhất thế gian này mà có thể sanh lòng tin hiểu, thọ trì giảng nói, y theo lời dạy của Phật mà tu hành, nên biết rằng những người này rất là hiếm có, đã từng trồng căn lành ở nơi vô lượng chư Phật. Bọn họ sau khi mạng chung, ắt sẽ vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc.
b) Kinh Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác nói: “Nếu có người nghe đến pháp môn Tịnh độ, lông tóc dựng đứng (vì vui mừng tột độ), ta nói người đó nhất định được giải thoát.”
c) Kinh Hiền Hộ, quyển một, nói: “Chúng sanh nào tu tập Chư Phật Hiện Tiền Tam Muội, nghe đến danh hiệu của Đức A Di Đà Như Lai Ứng Đẳng Chánh Giác, mà có thể buộc tâm tương tục, quán sát Đức Phật ấy, nhất tâm bất loạn, thì được gọi là Bồ tát tư duy đầy đủ, thành tựu Chư Phật Hiện Tiền Tam Muội. Hành giả do oai lực của tam muội này mà được thấy Phật A Di Đà. Lúc ấy hành giả hỏi: ‘Bạch đức Thế Tôn, chư Bồ tát thành tựu pháp nào thì có thể vãng sanh Cực Lạc?’ Đức Phật A Di Đà trả lời: ‘Người phát tâm cầu vãng sanh Cực Lạc phải thường buộc tâm chánh niệm cõi nước ấy thì ắt sẽ được vãng sanh.’” Các hành giả hãy tự quán sát, nếu như tương ưng với một trong ba kinh này thì sẽ được vãng sanh Cực Lạc.
4. Không nguyện vãng sanh về cõi Sắc.
Hỏi: Ở cõi trược uế này, chư thiên cõi Sắc cũng không có sự ưu sầu khổ não mà chỉ có sự hỷ lạc. Điều này so với cõi Tịnh độ có gì thua kém, mà chúng sanh không chịu sanh về cõi Sắc lại cầu vãng sanh Tịnh độ? (38)
Đáp: Chư thiên cõi Sắc tuy không ưu sầu khổ não, chỉ hưởng sự hỷ lạc, nhưng không phải là cực lạc, vì chung cuộc vẫn phải thọ khổ. Vì thế người tu không nguyện vãng sanh về cõi trời. Có tám ý nghĩa để biết cõi Sắc không phải Cực Lạc:
1. Cõi Sắc không có sự vui tịch diệt: Các phàm phu sanh về cõi Sắc không thể chứng được sự vui tịch diệt của Đại niết bàn.
2. Sau khi chết đọa tam ác đạo: Chúng sanh cõi Sắc và Vô sắc, sau khi hưởng hết phước báo, tùy theo dư nghiệp[4], sẽ sanh xuống các cõi trời thấp hơn, hoặc đọa ba đường ác.
3. Không có các bậc thánh để nương tựa: Cõi Sắc tuy cũng có Ngũ tịnh cư thiên (năm cõi trời có các bậc A na hàm cư trú), nhưng đâu có thể sánh với cõi Tây Phương có nhiều bậc Nhất sanh bổ xứ.
4. Không nghe Chánh pháp: Cõi Sắc làm gì có chư Phật, Bồ tát, cho đến ao báu, chim báu, cây báu đều ngày đêm giảng nói pháp mầu.
5. Tham ái thiền định: Cõi Sắc tuy cũng có tịnh định[5], nhưng có nhiều vị định[6] xen lẫn, làm cho hành giả tăng trưởng phiền não ái nhiễm.
6. Tăng trưởng tà kiến: Sanh về cõi sắc, thường gặp các ngoại đạo, dễ sanh trưởng tà kiến. Hơn nữa, sanh về cõi trời Vô tưởng, khi mạng chung thường khởi tà kiến, phỉ báng Niết bàn, đọa vào địa ngục.
7. Tam tai phá hủy cảnh giới: Cõi trời Tam thiền trở xuống bị ba loại tai ương lớn là hỏa tai (hủy hoại Sơ thiền), thủy tai (hủy hoại Nhị thiền) và phong tai (hủy hoại Tam thiền). Ở cõi Tịnh độ không có sự kiện này.
8. Bị lâm vào bát nạn: Cõi Sắc và Vô sắc tuy không có ưu sầu khổ não, nhưng lại bị xếp vào nạn Trường thọ thiên (một trong tám nạn của Phật giáo).
Có đủ tám nghĩa này, tuy có sự hỷ lạc, nhưng chung cuộc vẫn chìm trong biển khổ, cho nên sự “lạc” vẫn không phải cực lạc. So với các cõi Tịnh độ, sự hơn kém quả thật như trời vực. Bởi thế các hành giả cầu vãng sanh, quyết không nguyện sanh về cõi Sắc, mà nguyện sanh về Tịnh độ để được vĩnh viễn không thoái chuyển.
5. Trì giới được trường thọ.
Hỏi: Những người tu hành nguyện sanh Tịnh độ, hoặc trì trai giới một ngày đêm, hoặc hiếu dưỡng cha mẹ, v.v…, những nghiệp lành này, nếu không hồi hướng cầu vãng sanh, ắt sẽ chiêu cảm quả báo người, trời. Tuổi thọ cõi người không quá trăm năm, tuổi thọ cõi trời Dục dài lắm là mười sáu ngàn năm. Hiện nay dùng những công đức trì giới, v.v…, nguyện vãng sanh Tây Phương, vì sao chiêu cảm quả báo thọ mạng vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp. Công đức tu hành không hơn kém, mà quả báo thọ mạng lại khác nhau như trời với đất vậy? (39)
Đáp: Ý nghĩa này thật khó giải thích. Lời kinh trình bày nghiệp lực bất khả tư nghì, chúng ta chỉ có thể cung kính tin tưởng, không thể dùng tâm tư suy lường. Hiện nay xin trình bày một cách giải thích. Tuy rằng thọ trì giới pháp một ngày một đêm giống nhau, nhưng tâm nguyện khi thọ giới có sự hơn kém, do tâm hơn kém thành thử chiêu cảm quả báo khác biệt. Nếu như dùng tâm thọ giới để cầu sanh Tịnh độ, cầu chứng quả Phật, thì giới pháp thành nhân duyên thù diệu, chiêu cảm quả báo thọ mạng lâu dài ở cõi Tây Phương. Giả như chỉ nguyện sanh lên cõi trời, tâm nguyện không được thù thắng, thuận theo dòng sanh tử, tăng trưởng nghiệp Ta Bà, cho nên chiêu cảm quả báo thọ mạng ngắn ngủi. Do đó, giới pháp tuy đồng, vì giới duyên khác biệt, cho nên chiêu cảm quả báo thọ mạng không đồng. Hơn nữa, giới nhân tuy đồng, tâm nguyện khác biệt, do giới duyên thù thắng phù trợ giới nhân cho nên được vãng sanh Tịnh độ. Lại nữa, phần đoạn sanh tử và biến dịch sinh tử tuy đồng, nhưng lòng mong cầu và sự nhuận sanh khác biệt, cho nên quả báo có sự khác biệt. Nếu hiểu được như vậy, thì đâu còn gì phải nghi ngờ nữa!
Hỏi: Nếu lúc ban đầu thọ giới với tâm cầu sanh Tịnh độ, thì chiêu cảm quả báo vãng sanh thượng phẩm, giới pháp thành nhân duyên thù thắng, thọ mạng dài lâu. Giả như lúc mới thọ giới, tâm nguyện chỉ cầu sanh thiên, nhưng đến lúc lâm chung, lại đem công đức thọ giới (công đức vô tác của giới) này nguyện vãng sanh Tây Phương, làm thế nào để có thể chiêu cảm thọ mạng dài vô lượng a tăng kỳ kiếp? (40)
Đáp: Nghiệp báo không nhất định, hoặc chuyển nặng thành nhẹ, hoặc đổi dài thành ngắn, như trong các kinh đã nói tường tận, ở đây chúng ta sẽ không nói chi tiết. Hành giả tuy thọ giới với mục đích cầu sanh cõi trời, sau này gặp thắng duyên, lại mong sanh về Tịnh độ, hành nghiệp tuy ít ỏi, nhưng do nguyện lực tha thiết, nương vào giới phẩm trước kia, chuyển thành tăng thượng thù thắng, điều này phù hợp với bổn nguyện của Phật, chiêu cảm thọ mạng dài lâu a tăng kỳ kiếp.
6. Hối tiếc được vãng sanh.
Hỏi: Niệm Phật A Di Đà được vãng sanh Cực Lạc, đây là tương ứng với bổn nguyện của Phật thành thử vãng sanh là điều đương nhiên. Còn do nhân duyên gì mà niệm Phật Dược Sư lại được vãng sanh Cực Lạc? (41)
Đáp: Theo lời dạy của Kinh Dược Sư: “Nếu bốn chúng đệ tử thường tu tập sáu ngày Bát quan trai mỗi tháng, hoặc ngày đêm siêng cần tu tập, nguyện sanh cõi Tây Phương Cực Lạc, quán sát nhớ tưởng liên tục, từ một ngày cho đến bảy ngày, nhưng trong lúc tu tập lại khởi tâm nghi ngờ [không biết mình sẽ được vãng sanh hay không], nếu hành giả ấy được nghe công đức của Phật Dược Sư Lưu Ly Quang, thì lúc lâm chung sẽ có tám vị Bồ tát đến tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương Cực Lạc.” Hành giả này lúc đầu nguyện sanh Tây Phương, nhưng sau đó lại sanh tâm ngờ vực, hối tiếc đã tu Tịnh độ, do vì nghi chướng nên không được vãng sanh Tây Phương. Thế nhưng vì nghe được danh hiệu của Phật Dược Sư cho nên tội chướng nghi hoặc được tiêu trừ, Phật Dược Sư bèn sai khiến tám Bồ tát đến tiếp dẫn hành giả về Tây Phương Cực Lạc. Điều này hiển bày năng lực diệt trừ chướng ngại trợ giúp hành giả vãng sanh Tây Phương của Phật Dược Sư. Nếu nói đây là do nguyện lực lúc đầu cùng sự tu tập trì giới tinh chuyên chiêu cảm công đức vãng sanh thì cũng là điều hợp lý. Nếu như không nghe được danh hiệu của Phật Dược Sư ắt sẽ bị sự nghi ngờ làm chướng ngại việc vãng sanh Tịnh độ. Nếu hành giả đó không sám hối (sự nghi ngờ) thì lúc lâm chung phải niệm danh hiệu Phật A Di Đà mới được vãng sanh Tây Phương, chứ có lý nào không niệm Phật A Di Đà, lại nương vào danh hiệu Phật Dược Sư mà cầu vãng sanh Tây Phương?
7. Không khuyên vãng sanh Tịnh độ của cõi Ta Bà.
Hỏi: Theo lời dạy của Kinh Pháp Hoa, Kinh Duy Ma Cật, v.v…, cõi Ta Bà này cũng có Tịnh độ, cần gì phải cầu vãng sanh Tây Phương? (42)
Đáp: Tuy kinh nói cõi Ta Bà cũng có Tịnh độ, cùng chỗ cùng thời, không chướng ngại với cõi trược uế, và hơn nữa, mặc dù trong Kinh Duy Ma Cật, Đức Phật dí ngón chân trên mặt đất để hiện cõi Tịnh độ, hoặc trong Kinh Pháp Hoa, Đức Phật đề cập đến việc ngài thường trụ tại núi Linh Thứu, cùng các trụ xứ khác trong cõi Ta Bà, thế nhưng trong hai kinh này, từ đầu đến cuối, chưa hề khuyến khích hành giả vãng sanh về Tịnh độ của cõi Ta Bà. Đâu phải hễ nghe Phật nói đến Tịnh độ liền cất tiếng phát nguyện vãng sanh về đó. Nếu quán sát cẩn thận ý nghĩa của hai kinh ấy, e rằng Đức Phật có ẩn ý khác.
Hỏi: Phật hiện cõi Tịnh độ ắt là muốn khuyên chúng sanh vãng sanh về đó. Nếu không, ngài hiện cõi Tịnh độ để làm gì? (43)
Đáp: Đức Phật hiện cõi Tịnh độ là vì sự lợi ích khác. Lợi ích nào? Như trong Kinh Duy Ma Cật, Đức Phật hiển bày cõi Tịnh độ là để phá trừ lòng nghi của Xá Lợi Phất về sự “tâm thanh tịnh thì cõi Phật thanh tịnh,” khiến cho Xá Lợi Phất thấy được cõi Ta Bà thanh tịnh, tin tưởng lời dạy của Phật. Lại khiến cho các Bồ tát Bảo Tích, v.v…, thấy được cõi Tịnh độ liền chứng Vô sanh pháp nhẫn. Lại như Kinh Pháp Hoa muốn nêu rõ đạo lý Nhất thừa là vi diệu, Nhị thừa là thô thiển. Lúc đầu hiện cõi uế trược, lúc sau hiện cõi thanh tịnh, đều là vì những sự lợi ích như vừa trình bày, chứ không liên quan gì đến sự vãng sanh mà hiển hiện cõi Tịnh độ. Lại do công đức của cõi Cực Lạc thù thắng, ngay đến hàng hạ phẩm hạ sanh còn được giai vị Bất thoái chuyển, huống hồ các phẩm vị vãng sanh cao hơn. Các cõi Phật khác không đề cập đến điều này, cho nên đức Bổn Sư mới khuyên hành giả vãng sanh Cực Lạc, chứ không phải ngài cho rằng cõi Ta Bà không có Tịnh độ. Chú thích:
[1] Thú sanh: đang đi đến nơi thọ sanh.
[2] Chí sanh: đã đến nơi thọ sanh.
[3] Hội tam quy nhất: Gom ba thừa Thanh văn, Duyên giác, và Bồ tát vào một Phật thừa, hoặc Nhất thừa.
[4] Nhiệp còn sót lại sau khi đã quả thọ báo chính thức.
[5] Định làm tăng trưởng tịnh tâm.
[6] Định làm hành giả gia tăng tham luyến sự hỷ lạc.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 18.191.97.229 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.