Do ái sinh sầu ưu,do ái sinh sợ hãi; ai thoát khỏi tham ái, không sầu, đâu sợ hãi?Kinh Pháp Cú (Kệ số 212)
Người có trí luôn thận trọng trong cả ý nghĩ, lời nói cũng như việc làm. Kinh Pháp cú
Nếu người nói nhiều kinh, không hành trì, phóng dật; như kẻ chăn bò người, không phần Sa-môn hạnh.Kinh Pháp cú (Kệ số 19)
Người ta trói buộc với vợ con, nhà cửa còn hơn cả sự giam cầm nơi lao ngục. Lao ngục còn có hạn kỳ được thả ra, vợ con chẳng thể có lấy một chốc lát xa lìa.Kinh Bốn mươi hai chương
"Nó mắng tôi, đánh tôi,
Nó thắng tôi, cướp tôi."
Ai ôm hiềm hận ấy, hận thù không thể nguôi.Kinh Pháp cú (Kệ số 3)
Lửa nào bằng lửa tham! Chấp nào bằng sân hận! Lưới nào bằng lưới si! Sông nào bằng sông ái!Kinh Pháp cú (Kệ số 251)
Những người hay khuyên dạy, ngăn người khác làm ác, được người hiền kính yêu, bị kẻ ác không thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 77)
Hương hoa thơm chỉ bay theo chiều gió, tiếng thơm người hiền lan tỏa khắp nơi nơi.
Kinh Pháp cú (Kệ số 54)
Như đá tảng kiên cố, không gió nào lay động, cũng vậy, giữa khen chê, người trí không dao động.Kinh Pháp cú (Kệ số 81)
Chớ khinh tội nhỏ, cho rằng không hại;
giọt nước tuy nhỏ, dần đầy hồ to!
(Do not belittle any small evil and say that no ill comes about therefrom. Small is a drop of water, yet it fills a big vessel.)Kinh Đại Bát Niết-bàn
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
Phần 2, tựa phát khởi có 5 ý: Lúc bấy giờ... phần sau nêu 10 hiệu. Nói lúc bấy giờ là nói ngay trong lúc đại chúng đang nhóm họp. Trước khi nêu vấn đề hợp ngay lúc đó.
Mười hiệu đó là tôn hiệu xưng tán đức giáo chủ (Phật Thích Ca Mâu Ni) đầy đủ nhiều đức tướng. Vì thế lúc mới đầu chúng đem lòng khát ngưỡng Phật là bậc chí đức. Nói lược gồm bốn đức: 1) Phật đủ 10 hiệu [34] 2) đủ ba món minh 3) trí đức 4) đoạn đức [35]. Phàm hễ nói tới đức không thể nói hết được, cũng do mỗi vị đầy đủ đức để nói. Về mười hiệu Phật sẽ giải thích ở đoạn khác; còn về trí đức, đoạn đức như trên đã giải thích. Thích Ca Mâu Ni về trước là danh hiệu gọi thông dụng, song ở đây (Trung Hoa) có cách gọi khác. Từ Thích Ca là họ, Trung Hoa dịch là Năng Nhân; Mâu Ni là tên, dịch là Tịch Mặc (Năng Nhân: nhân từ và vắng lặng). Người nhân từ mà còn trầm tĩnh vắng lặng là nhân đức lại là người suy tư. Suy rộng đến chỗ cùng cực con đường của Phật đi có thể đạt đến, là hàng đệ tử (học trò) của Phật, đó há không phải trách vụ đó sao? Nước Tây Trúc (Ấn Ðộ ngày trước) gồm có bốn chủng tộc: a) Thích Ca b) Dòng Kim Luân c) Sát Ðế Lợi và d) Bà La Môn. Bốn chủng tộc sẽ giải thích ở một đoạn khác. Nếu luận chủng tộc là thuộc dòng giống hoặc Phật thuộc họ Thích hoặc gọi là Cồ Ðàm hoặc Cam Giá v.v... Tùy mỗi thế hệ mà dòng họ Thích khác nhau. Do sách ghi nhận, dân quy tụ về đông đúc, trước kia là nơi đại vương chiếm ngự, bị quân Rợ địch xâm chiếm dồn đến Kỳ Sơn. Từ đó đều quy về một đô thị. Vào tháng 8 năm đầu Phật nói kinh này, chính là thời điểm khởi sự nói kinh Nhân Vương.
Chú giải dẫn lời bình luận của ngài Chân Ðế tam tạng [36]dẫn có 3 phần: 1) đức Phật trụ thế thuyết pháp 45 năm 2) Ba lần Phật chuyển pháp luân [37] trải đều thời gian 45 năm 3) Vì hai phần Hiển-Mật giáo lấy đó suy luận là thời gian trước sau đầy đủ. Ở đây do một nhà nói ba thời kỳ không sai khác, chỉ nhìn hình thức để thấy có diệt hay không. Vì sau khi đức Phật thành đạo trải qua 50 năm Ngài thuyết pháp các kinh luận nói giống nhau. Một, không thể nói khác, chỉ có thuyết cho rằng Ngài du hành năm 12 tuổi, 35 tuổi thành đạo v.v... là có phần hơi khác. Hai, do 12 năm đầu Phật thuyết bốn kinh A Hàm [38] là hai điểm không thể khác. Ba, sau thời thuyết kinh Bát Nhã và kinh Pháp Hoa là 8 năm tại núi Linh Thứu, là ba điểm không thể khác. Lấy khoảng cách số năm đó tính gia giảm đôi chút hẳn rõ cuộc đời đức Phật. Nay nói năm đầu tiên ngày mồng tám phải là sau khi Phật giảng các bộ kinh Bát Nhã, tiếp theo nói kinh Nhân Vương cũng trong thời gian đó, nhưng cho biết ngày 8 của tháng chính là ngày mồng 8 tháng giêng mà kinh lược không nói rõ. Phật vốn an trụ và tự chứng ngộ nên Ngài trụ lâu ngồi ngay ngắn như chỗ ngồi ban đầu cũng đúng; nhưng gọi ngồi ngay ngắn do nhờ đức tu hiển lộ nơi bản tánh vậy. Hàng thập địa không như thập địa nói trên, như kinh nêu dẫn đồng Phật. Nhưng nơi trụ địa của Phật cũng chính trụ Lăng già [39]không do thứ lớp thập trụ nên không theo thứ tự thập địa, trong khi phần chú giải lấy riêng nhập chung để giải thích. Tuy không trái lý nhưng rốt lại không thể luận chung nên để riêng. Ngoài ra còn nói rằng, Phật nhập đại Tam Muội hoàn toàn vắng lặng. Trước nói chỗ trụ địa đâu có trái với lý vắng lặng, lấy một đời tu luận chỗ trụ địa là bậc trí. Nay Phật nhập định hướng đến thuyết pháp hẳn còn do dự; vào định sau đó quán căn cơ mỗi hạng, quán cơ rồi mới thuyết pháp. Muốn thuyết pháp phải theo trình tự như vậy. Vì thế nói nhập định mà nói rộng gồm có bốn ý:
1) Quán căn cơ cho hợp thuốc 2) Nhân định tâm mà phát trí huệ 3) Thuyết pháp đúng phép 4) Lấy Thánh sánh với phàm là đạt bốn ý đó; cũng có thể đối trị bốn tất đàn [40]tức do nhân duyên vậy. Ngoài ra, nói đại vắng lặng có hai nghĩa : a) Trước dựa lý giải thích. Lý luận đưa tới nghĩa rốt ráo là Niết Bàn hay tịch diệt. Nên dùng 3 đức đại Niết Bàn để phân tích. Gọi là đại chỉ pháp thân (rộng lớn), tịch là Bát Nhã (trí tuệ, tuệ giác), diệt là giải thoát. Có đầy đủ ba đức ấy mới gọi là vào sâu thiền định. Nương theo đó trụ còn đâu hơn nữa? Nên lấy nhà làm ví dụ, đào xới cũng là nhà dẫn tới thông tỏ vào nhà là ngộ đạo. Phẩm Pháp Sư kinh Pháp Hoa nói: ‘từ bi là nhà’ cũng hữu lý lắm chứ! Nhưng đại vắng lặng cũng có nghĩa chiếu soi. Ðại vắng lặng tức là chiếu soi, chiếu soi nhưng luôn vắng lặng. Vừa chiếu soi vừa luôn vắng lặng, tuy động mà vẫn vắng lặng là soi sáng đến vô tận. Vắng lặng mà thường chiếu soi nên thuần tịnh. Dùng lời chiếu soi hợp với vô ngại; cũng vì vậy mà căn nhà trống đủ sức dung chứa, cũng như Bát Nhã chiếu soi vậy. b) Kế nương pháp quán làm lộ hiện trí tuệ nghĩa là phải quán tâm. Trước tiên kinh dẫn phải quán cảnh mà bốn câu (Kinh Kim Cang) gọi căn nhà trống chính là một cảnh, tối sáng tự chiếu. Với căn nhà tối phải dùng ánh sáng để quán, tuy sáng-tối khác nhau mà cảnh luôn ẩn khuất. Bốn câu kế nêu rõ pháp để thí dụ như mặt trời hiện. Bốn câu ứng hợp trí sanh nên cảnh hiện, cũng như do mặt trời lên mọi vật được soi sáng. Nếu vẫn còn tối là do tâm mê mờ, như mặt trời lặn mọi vật đều tối tăm. Cũng như hư không chẳng sáng chẳng tối, chỉ do mặt trời mà có tối sáng. Do mê che mờ trí nhưng thật ra theo lý tánh vẫn thường hằng, cũng đồng nghĩa viên tức tròn đầy. Luận tối sáng tuy khác nhưng tánh nó hằng thanh tịnh, nhưng ngay như đưa vào thể bất tư nghì để chỉ chỗ viên cực nên nói tối sáng không đồng điểm tế vi hiển bày tuệ giác Phật như kinh dẫn giải v.v... Vô minh tuy nhiễm nhưng tánh nó soi không thiếu một việc gì cả. Bởi thế nên hết thảy chúng sanh có tuệ giác không thể làm phai mờ mất được. Vì sợ nhầm lẫn nên cần phải giải thích, cũng chỉ có thể tóm lược rõ ở mặt văn thể. Sau lấy thể tánh thí dụ hoàn toàn không một mảy may nào có thể làm tăng giảm. Thử suy nghĩ việc đức Phật phóng hào quang, nếu cứ theo việc mà hiểu cũng chỉ do ta suy nghĩ; còn phóng quang hóa độ từ Phật phát khởi, ý nghĩa gần giống (nhưng khác nhau). Phần luận ở đây dựa lý giải thích nên nói như vậy. Thế là không nghĩ mà suy nghĩ; suy nghĩ nơi vô tướng [41]; vô duyên [42]mà duyên, duyên nơi pháp tánh [43]; làm được như thế là tự đạt được đại lạc (Niết Bàn an lạc). Nhưng pháp vốn vô tướng, nghĩ về nó là tướng sanh; tánh vốn vô duyên duyên vào đó là tánh khởi. Luận suy như thế làm gì! Trường hợp đặc biệt do nhân duyên không suy nghĩ nhưng thấy hào quang hiện ra sáu loại làm rung động khiến chúng nghi ngờ.
Vua Ba Tư Nặc biết chắc chỉ có Phật quyết định, nhưng Phật còn trong định chưa chấp thuận được việc đại chúng thỉnh cầu. Ngay lúc ấy có nhiều thứ âm nhạc hay trổi lên báo cho chúng biết. Do đó đức Phật từ trong định dậy bước lên pháp tòa rồi sau đó tuyên thuyết phần chánh tông như kinh nói.
Hỏi: Về cõi vô sắc như: nếu che khuất ánh sáng hẳn vẫn còn sắc, đã vô sắc lấy gì chiếu soi?
- Ðáp : Trong tuy không còn sắc thô nhưng có sắc tế, và điều đó cũng hợp với câu hỏi. Nếu luận hào quang Phật hữu vô đều chiếu, ấn hào quang xuống hiện vô tướng soi rọi cõi sắc, vô sắc không còn nghi ngờ nữa. Nhưng với sắc tế chỉ thiên nhãn thấy được còn nhục nhãn nhìn không thấu suốt. Phần nhận xét đây kể luôn chỗ thấy không thấu đạt của nhị thừa, vì huệ nhãn nhị thừa soi chiếu KHÔNG cũng không thể thấy suốt, hẳn phải đạt thiên nhãn mới thấy được. Kinh cũng nói rằng cõi sắc, vô sắc không phải hàng Thanh Văn, Duyên Giác phải biết. Vì các pháp đều nói theo diệu ngôn; luận cõi sắc, cõi vô sắc rõ thật quả không giống nhau. Hữu và Vô bất định theo các tông thuyết minh không thể nói một cách tổng quát được. Phóng quang trí huệ phải biết là việc chính mà biểu hiện hay thi triển là có thật. Hào quang vốn do nơi trí, cũng chính từ trí sau đó phát ra ánh sáng, nên lấy huệ làm gốc. Hoa nở do cây, nhờ cây nên sau đó mới kết trái. Lấy đạo làm nhân, lại lấy ánh sáng làm duyên kết hợp nhau cho thấy, như phần giải thích cần biết. Ở đây lấy cái phi tưởng thấy hoa, vì có tướng nên có tưởng, không dựa hai điểm khác nhau này phân tích nên cần theo văn để khảo cứu. Như trên nói rõ đức giáo chủ hiện thân tướng là ứng thân, nhưng nói có cảm là có ứng: ý cần suy nghĩ.
Kế nói về mưa hoa là hiện vô số hoa có biến đổi hay không; biến đổi là tâm hoa, không biến đổi là ngoại hoa. Chỉ trời cõi sắc hay cõi vô sắc dùng định lực nhiều hơn nên mới biến hóa. Các trời dục giới không như thế nên không nói biến hóa, xét trên lý là như vậy. Nói về cõi đất chấn động; chấn phải làm rung rinh, động là chuyển động; chấn phải làm đảo lộn, động phải có nguyên nhân, có cớ, có ý thức; có ít nhất 6 nhân duyên làm mặt đất chấn động. Theo kinh Tăng Nhất A Hàm nguyên nhân mặt đất chấn động có 8 duyên. Sau đây dẫn ý làm tâm động; những việc như thế không những chỉ hợp sự mà còn phải hợp lý nữa như thiền gia có câu chuyện phướn động, gió động. Cũng có sự tích nói thể đất vốn tịnh; động ắt hẳn có sự thay đổi bên ngoài. Việc này rất hợp với câu chuyện trên. Kinh A Hàm nói có 8 duyên để dạy dừng các duyên, để quy chân là thường biến hiện. Song dừng biến hiện chưa chắc trở về chân mà quy chân hẳn dừng mọi duyên, ngoài ra các việc khác nên biết. Kinh Tăng Nhứt A Hàm nói trong 8 duyên do tầng thượng hạ phong luân gây ra; chẳng qua từng phong luân hợp với bốn đại tạo ra gió, trên dưới chạm vào nhau đưa tới việc chấn động. Ðộng hẳn phát ra thành tiếng, tiếng tạo ra sấm, đó là một thuyết. Câu dẫn trên bị thiếu mất một chữ, mà kinh A Hàm đề xuất trước có sự bất nhất giữa đồng và dị, về ý nghĩa của động để trị ba món phiền não: 1) tham 2) si 3) mạn, tái sanh lên cõi trời. Tiếp theo giải thích rõ hơn. Thánh nhân có bốn đức: 1) Lấy Phật để dụ bậc nhất thiết trí [44] là trí vô úy. Nếu nói người, Phật cũng là người, vì thế Phật là người vô thượng trong chúng sanh 2) Mười tám pháp bất cộng mà Ðại Tiểu Thừa nói khác nhau về pháp tướng, song cùng trong một pháp bất cộng 3) Như ở đây luận giải không phân nhị thừa cũng lấy cộng hay bất cộng bát nhã để nói. 4) Cùng lý cũng nói không cùng hay như phàm phu nơi trần thế.
Về pháp thân nói ba loại gồm chung Ðại Thừa, Tiểu Thừa song cũng chỉ một loại mà thôi; ngoài ra các thân khác như ta thường thấy giải thích, nên hiểu những gì kinh nói để đạt đạo mà ở đây lược bớt.
Phải hiểu rằng từ thời thuyết kinh A Hàm về sau, Phật nói kinh thời gian cộng là 41 năm, tính chung một năm sau thuyết kinh Nhân Vương này là đúng vào năm Phật 72 tuổi; cộng 8 năm sau cùng Phật nói kinh Pháp Hoa, là 50 năm thuyết pháp ròng rã. Nếu có thuyết nói khác chính đó thấy có sai lầm. Ở đây hồ nghi hai việc: 1) Số nghi vấn tăng có 2 điểm: a) y theo chỗ chỉ người v.v... b) Nêu danh ca ngợi đức. Vua Nguyệt Quang tên họ như thế chưa hẳn đúng, vì nguyên tên ông là Ba Tư Nặc. Sau khi nhập đạo ông có pháp danh là Nguyệt Quang, cũng như vua Gia Tấn hiệu Tổng Trì của Thiên Thai v.v... tất cả đều ca ngợi công đức hàng thập địa vậy. Việc giải thích phần nhiều theo Thông giáo cũng là một điều hiển nhiên. Ðã nói hành đại pháp phải lấy Ðại Thừa trị quốc, há không đề cập tới ba phái khác ư ? 2) Tuần tự hỏi theo trong số người tại gia, nhưng chỉ nêu 2 người phần nhiều là một pháp tự, khác nhau là điều tiện lợi. Lại hỏi ông Tu Bồ Ðề một việc gồm những việc đại chúng chưa sẵn sàng hiểu, chẳng hạn Như Lai giác ngộ; chữ Ngộ phải viết như thế này, thế này mới đúng. Ðề nghị nên sửa cách viết, nhưng Phật vắng lặng mà hằng chiếu soi, đâu có đợi giác rồi sau mới ngộ chứ? Ở đây thử nêu điểm đặc thù như thế là biểu tỏ nghi cách nói vậy. Ở cõi này trỗi nhạc mà trong mười phương Phật đều nghe. Cũng giống như một hóa thân có duyên hiện ở cõi này hoàn toàn không có khoảng cách, đây kia nữa. Giả sử có Bồ Tát trong 10 phương tập họp lại để tấu nhạc cũng giống như vậy. Phật dự biết trước thời khắc nhân duyên, tức nghĩ biết trước việc xảy ra mà tùy cơ ứng biến nên nay đã đúng lúc thuyết kinh Bát Nhã Nhân Vương này. Như vị lương y chẩn bịnh cho toa hợp ba nghiệp, thuận ba vòng (kẻ cho, người nhận và vật đưa ra) hợp thời đúng lúc. Kinh nói tòa sư tử là tòa ngồi như đã giải thích. Cũng nên biết rằng sư tử là vua trong loài thú dùng để thí dụ oai lực Phật vô úy cũng như sư tử trong loài người. Ngoài ra, cũng ví Phật như núi chúa Kim Cương mô tả hình dạng Ngài oai dũng bất động như núi chúa vậy. Lại cũng chứng tỏ pháp thân Phật đủ bốn đức [45] mà 8 ngọn gió [46]không thể lay động nổi, vững như núi Tu Di không khác. Hễ dung nghi không phải cõi Thật báo thân tướng hiện ra rất đặc dị nên dùng núi chúa thí dụ.
Lấy giáo trùm lên tông nghĩa lý khác nhau; văn tuy đồng song ý không giống mà nghĩa hẳn phải chung. Như quả đất và hư không là hai mô tả cái rất thực tế, đó là chỗ nương của tịch quang (vắng lặng soi chiếu) vậy, hay cũng có thể nói có 6 thông là thăng hư không mà không có thần thông là ở dưới đất, sự lý đã định như vậy. (^) Phẩm quán không
Kinh này lấy Bát Nhã làm chính nên phần chánh tông thuyết minh phẩm quán không. Căn cứ phần sau hợp với phần trước phân làm hai điểm: quán không thế nào và phân tích nội dung.
Trước nói về quán không và sau lần lượt phân tích nội dung. Ý phẩm này thừa trên tiếp dưới làm thông một mạch không gián đoạn nên tên phẩm danh thường được giải thích trước, phân thành bốn điểm: một điểm chung và 3 điểm riêng. Ðiểm chung y bát nhã vô tướng do Dụng mà ba phái có khác nên nói như thế nọ thế kia v.v... Nói vô tướng vì diệu trí bát nhã chiếu soi đến tận cùng vô tướng. Ðã vô tướng thì nội ngoại đều vắng lặng; trong vắng lặng 6 căn [47], sáu trần bên ngoài cũng đều vắng lặng. Cảnh bị duyên và người quán toàn là Không nên có tên Quán Không. Ngoài ra, nhìn ở khía cạnh phàm phu lấy chủ động đối với bị động; phàm phu do không biết, ngoại đạo vọng chấp, nhị thừa rơi vào chấp Không đều thuộc ba tàng cần phải phá trừ. Nhưng Bồ Tát dùng chánh trí quán xét Không chẳng không, năng-sở bổ sung nghĩa nhau, nên phải dựa nơi trí mới hiểu rõ vậy. 1) Luận về phàm phu, phàm phu chấp có, nhị thừa chấp không. Tiểu Thừa thuộc hai bên, chấp một bên dù không thuộc nhị thừa, nhưng dựa theo so sánh phẩm vị chỉ riêng thập trụ còn chấp. Còn đối với hàng Bồ Tát không còn chấp hai bên và giữ trung đạo. Ðây thuộc biệt quán. Nhưng luận về quán phải nêu rõ hai chữ quán Không. Quán thuộc người, cảnh là duyên để quán, năng-sở đều không là vô tướng. Chủ yếu nơi đệ nhứt nghĩa [48]Không là trung đạo. Quán Không như vậy làm sao gọi tri kiến Phật chân thật được? Ðoạn dẫn chứng sau chứng minh ngược lại dùng cái thấy của không thấy mới là thấy đúng. Nhân đây giải rộng điểm chung, điểm riêng rõ ràng có 6 phẩm như văn bên dưới.
Trước hết mong chư vị hiểu ý, ý nói đây là việc hộ quốc. Căn cứ lời tán dương trên chủ yếu chỉ nhắm vào vua Ba Tư Nặc. Ở đây thỉnh ý nhắm chung đến 16 quốc gia khác nhau. Vấn đề không phải do nhiều người, lời thỉnh cầu hẳn có chủ tâm mà Ba Tư Nặc là nhân vật chính. Phật biết ý thỉnh vấn không thuộc một người, pháp hỏi phải đúng như vậy. Nhân thể mở rộng hai phần hộ quốc, như lời thưa thỉnh cũng nằm trong 2 phẩm sau nơi các trang kinh v.v... Qua khỏi thập địa nhân chính là phẩm Ứng Sanh giáo hóa mà nói phẩm Tán Hoa là không đúng. Các vị quốc vương dù có ý này cũng là thiện cảm đối với Phật, nhưng Phật mở rộng hai việc hộ quốc các vị bị dội lại cũng là việc tế nhị sâu sắc. Ý này sẽ trình bày sau, vua mong Phật giải bày hai sự hộ quốc như thế nào. Câu trả lời Phật dựa ý chung chung trình bày. Mới đầu Ngài dùng lời thô nhuyễn, khó dễ nói, vua chỉ biết một mà không biết hai. Phật biết rõ điều đó. Hai bên phải trải qua chỗ loại bỏ này. Nhưng đem thế, xuất thế, chân đế, tục đế để luận khiến đất nước bất an mà sanh ra kiêu mạn; không bằng nêu rõ nhân quả xuất thế gian thì chân-tục đều bao hàm, nhưng vẫn theo nhu cầu trả lời nhiều ít. Nếu đòi ít ban cho nhiều là đúng cách của thầy trò. Như kinh Pháp Hoa dẫn thí dụ con đòi ba thứ xe mà cha ban cho một loại, đâu chẳng khoái lắm sao! Nhưng dựa theo ý không tham, không keo kiệt để hiểu ý người dẫn đạo từ bi; do từ bi mới có khả năng hướng dẫn. Ðiều này chỉ có Phật, do ý tác động, song phân biệt để nói. Nếu dùng tướng để nói phòng quả tức phòng hộ; tin thực hành Ðại Thừa làm gì có việc quốc gia bất an ư? Vua nghe giải thích hai cách phòng hộ như thế là lời khuyên nhắc về ba huệ (văn-tư-tu) tán dương điều thiện đến chỗ tuyệt mỹ vậy. Nói đại sự nhân duyên nêu cái đẹp đến cùng như thế; không phải đặc biệt bát nhã song một đời đều dùng lời để diễn tả. Do đó, giải thích đưa ra nhiều nhằm thuyết minh ở phẩm Tán Hoa sau. Phàm cung cấp sự kiện phải biểu hiện bằng pháp và đây cũng là phương pháp giải kinh. Nếu đi thẳng việc để giải làm sao đầy đủ chỗ thấy để thực hành nhân quả. Nghĩa bắt đầu thay đổi nên lấy sự biểu lộ lý song hành với nhau. Giải rõ hai việc phòng hộ chia hai: a) Từ "lúc bấy giờ..." trở lên lời thưa thỉnh Phật giải thích hai việc phòng hộ. Câu trả lời gồm thế nào là phòng hộ quả và hộ nhân, nói chung. Ðó là việc độ bốn loài chúng sanh [49], nên biết việc phòng hộ tuy luận nhân quả nhưng điểm chính là hóa độ chúng sanh. Dùng Phật quả độ sanh và lấy hộ nhân độ chúng sanh, chỉ Phật ngộ bản tánh lìa cả hai (nhân quả) mới không có việc phòng hộ. Nên dựa nhân làm rõ quả, nhắm thẳng sự tu hành để giải thích. Ví thử đối với thực hành không chấp lý nên tự sáng tỏ; văn tóm gọn để nói Bồ Tát đạt Phật quả như thế, như thế... Nên biết dựa nhân rõ quả hiện lý, là cảnh được chuyển hóa. Nếu giải thích hết thảy đều như huyễn, năm đường [50]đều do huyễn mà ra. Nếu luận chúng sanh được giáo hóa chính là 9 cõi; còn ở đây căn cứ giới nội nên nói như thế; 2) Về trí hay giáo hóa, không quán sắc Như v.v... Có 5 việc nay tóm tắt thành bốn: ngũ ấm [51], ngã, nhơn, tri kiến là chúng sanh được giáo hóa. Như kinh lấy bốn đức: Thường-Lạc-Ngã-Tịnh để trừ dứt nhân-ngã vì sợ lầm lạc. Thấy có hai: nhơn, pháp là người giáo hóa. 3) Phật quả là giữ gìn phòng hộ bốn đức (thường, lạc...) có thể gồm ý nghĩa thấy phòng hộ quả. 4) Nhị đế là chỗ nương hai việc phòng hộ, nhưng nói không quán để che lấp chỗ sai quấy. Như nói bát nhã hay quán để quán trí, lấy không tuệ làm gốc, lấy không quán sắc là che Hữu; Không quán như thế là che Không. Chỉ quán pháp tánh [52] khác không như kinh giải thích... thấy một bên là không quán vậy. Nếu hoàn toàn biết pháp tánh, không dính mắc tới ý đoạn văn đề cập, đó là viên trí thì chỗ nào chẳng quán, chỗ nào chẳng nhiếp". Tuy không đề cập nhưng lý đã có bên trong, nên nói tóm lại cũng giống hư không, ấy chính là không của chân không; không chướng ngại hữu của diệu hữu. Nêu điểm này để tả trạng thái cái Một đều vô ngã vô tướng, ấy là hàng Bồ Tát vậy. Tóm lại nên dè dặt phòng hộ "nhân" là điểm chính sẽ giải thích trong phẩm sau. Bây giờ, tóm kết như thế này: nhấn mạnh việc phòng hộ quả, không phải ngăn ngừa nhân, đều nhất quán với đoạn nói trên. Nếu Như tức sắc là thấy riêng biệt, không xuất phát từ nghĩa Không đến từ giả, như bốn đức: Thường-Lạc-Ngã-Tịnh. Nếu đổi vị trí nhứt thiết "hành" văn nghĩa thật tiện vô cùng. Song vì kinh không thể tự quyết đoán mà phải tùy thuộc lâu dài. Hiểu năm ấm tạo ra điên đảo hay không giải thích đúng lý như ở đây. Nhưng nói tùy phiền não diệt v.v... đối lại chỗ diệt năm ấm có trong 9 cõi. Việc diệt tùy phiền não [53] có cấp độ sâu cạn khác nhau, nhưng bản chất cũng chỉ có một, cũng như nước dung chứa được mọi vật. Tri kiến và người thọ trì như kinh dẫn trên; chúng sanh nhơn, ngã nên cũng liên hệ tới những câu trước làm cho bị trở ngại nên phải dùng đối tác giải thích thứ tự phải rõ ràng minh bạch. Bồ tát hiểu đơn giản là tịnh danh, tức là thanh tịnh - đều Như - giống Như đề cập ở đây không khác. Câu trả lời Phật lờ ý niệm thọ ký, dùng chân không bác bỏ; nay đã rõ các pháp đều Như nên dùng diệu hữu để nói. Ngoài ra, do động, tĩnh đối nhau như ở phần giải thích đã rõ. Nhưng đoạn Thường hiển trung đạo chưa phải ở giữa phải lìa như kinh A Hàm, nên lấy chỗ Diệu giải thích chỗ lìa, tuy gần có thể lìa mà vẫn thành xa. Nhưng dùng tịnh danh Hữu cho rằng không quán sắc, vì bản chất sắc là Như Như. Chỉ vì tình chấp chưa rời, cảm thọ chưa quên, quán pháp chưa thông, lý tánh chưa hiển lộ nên phải từ bỏ, cũng như phải phòng hộ như các phần khác ở trên đã giải thích.
Ðoạn từ:"Bạch Phật rằng:..." trở đi: nói rộng pháp không quán dẫn tới phần Bồ Tát phải hộ trì Phật quả làm rõ ba nghĩa bát nhã : 1) dựa vô trụ nêu rõ thật tướng bát nhã. Ðầu tiên chú tâm phần trên để hỏi: nếu tất cả các pháp đều như trước nói thì Bồ Tát hộ trì giáo hóa chúng sanh, không có chúng sanh để giáo hóa, chẳng hóa ra rơi vào lối tà hữu-vô.
Hỏi: Như vậy, phải chăng đã nói lược ẩn dụ?
- Ðáp: Thật cũng khó xác định rõ, có hai ý như sau:
a) Chân không giáo hóa b) Tục có giáo hóa, vì pháp tánh trong ngũ ấm, tức là Thường-Lạc-Ngã-Tịnh, đều không trụ trong pháp quán. Kinh cựu dịch phần nhiều giải ba câu chính, kinh tân dịch đây thêm vào thành bốn câu. Bốn câu ba pháp quán đều vô trụ không trụ cũng chẳng trụ, vì hết thảy đều Như, tức thể thật tướng trung đạo là minh, nên lấy thật để nói; giá có chúng sanh giả thật nhưng tà. Sau nêu rõ tục có giáo hóa để nói thế tục đế dùng ba pháp giả nên thấy có cái gọi là chúng sanh. Nhưng thật ra tất cả pháp tánh đều thật. Vì nhận thật thấy nên không có một chúng sanh để thấy. Như thế cho đến chư Phật, thánh hiền cũng đều thấy, và cũng đều không thấy. Như thí dụ đã nêu trên thấy có chánh tà. Nói chánh kiến thấy đúng; tà kiến thấy sai. Nay dùng giả danh làm danh cho rằng thấy tất cả các pháp là biết chư Phật, phàm thánh v.v... đều dùng cái không thấy mà thấy là thấy thật thể các pháp. Ðó là pháp nhị đế tuy khác do giáo hóa nên cần phòng hộ quả, ngăn dứt nhân, chưa từng bỏ một bên. Trong ba pháp giả đây không phải có thật nhân tạo thành ba pháp, vì ở đây không nói tiểu giáo vậy. Song hoặc dẫn giải đoạn về nhị không để sau lấy tiểu giáo đạt đại giáo v.v... 2) dựa nghĩa quán chiếu để chiếu soi bát nhã, nhưng nói có pháp, không nói phi pháp Ðại thừa như trong phần giải thích câu hỏi... 3) Nay nói có pháp soi sáng cảnh, nói không phi pháp là để tóm tắt, đúng ra phải nói pháp, phi pháp đều chẳng phi pháp. Nói pháp là không là có, phi pháp là không. Chẳng phi pháp cũng là đệ nhất nghĩa trung đạo rốt ráo không. Dựa theo văn giải đáp phải hiểu rõ ràng đúng như vậy. Vì phàm phu chưa rõ không thể thấu đạt, nên nói pháp Ðại thừa làm sao chiếu soi. Vì lẽ đó nên dẫn đoạn trên để lấy ý mà giải đáp. Ma ha diễn Trung Hoa dịch là Ðại Thừa cũng như bát nhã nói đây cùng nghĩa mà khác tên vậy.
Phật trả lời lấy tự tánh bát nhã soi sáng chẳng phi pháp, tạm có thể quán chiếu chính cái Không vốn thật không. Nói pháp Không đây chẳng phải không pháp nên bảo Không không phải phi pháp; đã nói pháp không mà là pháp tánh không. Vì pháp Không này chẳng soi chiếu mới thành Không, chẳng tác dụng nên Không. Ngay như bát nhã tánh lìa vô tự tánh nên lý vốn Không. Vì thế nên thọ, tưởng, hành, thức không cho chí mười hai nhân duyên không đều y theo lý bát nhã vậy.
Sau nêu rõ pháp Không dẫn theo đại luận có 6 pháp chứng minh. Vì quả báo không, so không tuy một nhưng lại khác. Năm ấm vốn xoay quanh (quả báo) không; Do vì các pháp theo quả báo nên mười hai nhập [54] thọ dụng Không. Do văn, cảnh thọ dụng tương đối mỗi bên có khác nên 18 giới [55]mang tánh chất riêng không. Thậm chí sáu thức chỉ lưu một điểm tinh minh hợp thành sáu hòa hợp tánh thành kiến văn giác tri (thấy-nghe-nhận thức-biết) riêng biệt. Sở dĩ chỉ một sắc tâm nhưng có ấm (5 ấm), nhập (12 nhập), giới (18 giới) mở hiệp không giống nhau, là do bịnh chấp không đồng, cho nên nói như thế, như thế... Ngoài các điểm trên bàn nghi vấn do mê lầm, bởi mê nên cần phải làm cho sáng tỏ. Sáu đại [56]đều dẫn đến Không. Sở dĩ gọi đại, vì mỗi thứ có cùng khắp tất cả nhưng có tướng ẩn, tướng hiện, tướng diệt; phần này như kinh Lăng Nghiêm có giải thích rõ. Ngoài ra, cũng dẫn chứng kinh A Hàm về sáu ông vua tranh luận (lục thức), vì năm thức trước (nhãn, nhỉ, tỉ, thiệt, thân) mỗi thức tự làm chủ phần mình nên cứ muốn lãnh phần hơn. Nhân duyên nghĩa là vốn không, do ba đời nhân quả mà có sanh có diệt, nhưng so chân lý cảnh có chung riêng, có hơn kém v.v...
Sau phân biệt giải ba nghĩa chữ duyên sanh: vì sanh diệt bản chất nó chẳng phải Không. Nay lấy điểm nhanh gấp của không không dừng nghỉ làm rõ nghĩa Không là không. Vì muốn làm sáng tỏ nghĩa Không nên nói tức có tức không v.v... Nói tóm lại các pháp hữu đều quy về nghĩa Không, có khác đôi chút với phần chú giải. Các phái Tiểu Thừa luận dẫn chứng minh pháp sanh diệt trước sau phần giống điểm khác mỗi mỗi đều phân minh. Song tất cả không khỏi có sự nhầm lẫn. Ngọn lửa lan nhanh khí thế dữ dội; đúng ra phải gọi lửa quá nhanh lan tràn cháy trong tích tắc mãnh liệt; nhanh đến độ không theo kịp để thí dụ, nghĩa Không cũng thế. Bên trên dùng các pháp để chỉ rõ nên biết các pháp liền sanh liền diệt. Kế dùng tâm chứng minh gọi sát na hay tích tắc; nhưng ý lại khó hiểu nên phải giải thích như trong một niệm có 90 sát na. Luận một sát na là thời gian rất ngắn mà phải trải qua 900 lần sanh diệt; giả sử lấy tình đo lường phân biệt hoàn toàn không thể giải được nên phải dùng ý niệm bất tư nghì (không thể nghĩ bàn) để mới có thể lãnh hội. Như Viên giáo - Ðốn giáo chỉ rõ ràng cho rằng một niệm quán khắp vô lượng kiếp [57]thì 900 lần sanh diệt thật chẳng đủ vào đâu, nên phải dùng lý hiểu, khó có thể dùng lời tả hết được.
Sau giải thích 90 sát na nhìn chung theo hai khía cạnh: phàm và không. Nếu tính từ một tới nhiều thì một niệm bao hàm 90 sát na, một sát na có 900 lần sanh diệt. Chín mươi sát na phải là ngàn lần sanh diệt. Muốn xác định thật không thể được, vì tâm vốn Không. Nhưng nếu tính từ nhiều tới ít sanh diệt không hiện ở sát na; sát na không hiện nơi nhứt niệm. Trong niệm muốn xác định thật cũng không thể được, vì chính niệm ấy là Không. Cho nên nói rằng tâm-pháp như bất khả đắc, đây là tâm Không. Tâm-pháp không rơi vào không đó là ai. Và đem tứ đại phân tích phải hình thành bởi các căn. Ðem chia chẻ tứ đại đến điểm cực nhỏ phân phân cũng bất khả đắc; như thế phân tích đến lân hư (vi trần lượng tử) là phân tích đúng, không như lối phân tích của ngoại đạo. Sắc diệt tâm không hẳn nhiên vô trụ có thể đạt đến vậy. Nhưng do dừng ở sanh diệt là duy trì tam tạng Phật quả, nhưng mong đạt vô sanh, vô lượng, vô tác là xa vời không thực tế. Cớ sao người đời nay muốn đem cái tâm thô thiển luận bàn chỗ uyên thâm của Phật Pháp? Ta chưa thấy khả năng con người phản ảnh nhưng chỉ thấy sắc - không; suy bàn rộng lời dạy tuy lược mà lý lại đạt. Như Thông giáo cho rằng Thể Không nên không nói khác được. Riêng giải rõ tâm-sắc có một có khác, do tâm hay tạo tác vì thế nên không khác; pháp được tạo tác nên không phải một. Ngoài ra do quyền giáo nên không một, thật lý nên không khác. Ðây chính là tôn chỉ của Biệt giáo. Nhưng sắc-tâm luôn tròn sáng, bản lai (bộ mặt thật) luôn vắng lặng. Khéo bàn ý đầy đủ bên trong. Vì duy trì Phật quả Phật quả được thành tựu; muốn dùng trí bát nhã (trí tuệ), bát nhã sáng soi, muốn hóa độ chúng sanh chúng sanh được độ. Không những chỉ Bồ Tát hộ trì mà chư Phật cũng trợ lực hộ trì. Tại sao thế? Vì theo lý tất cả điểm đề cập đều giống nhau, nếu không như thế thì tổn thương đến huệ mạng làm mất pháp thân giả hữu làm sao giữ được cái vô úy? Kinh cũng dùng tâm nêu sắc để trở lại được soi sáng, cho nên biết sắc cũng vậy.
Sau dùng trí bát nhã soi sáng thành hai pháp quán chiếu để chỉ rõ trung đạo không. Vì bát nhã Không nên vô tướng, vì vô tướng nên chiếu soi; chỗ được chiếu soi hoàn toàn vắng lặng. Kinh Ðại Phẩm gọi đó là Ba nhược cũng là Bát nhã nói lệch đi. Song bát nhã phải hiểu rõ không có một pháp nhỏ nào có thể đắc cả. Vì thế, không các duyên các pháp đều Không gọi là Không kiến, nhưng không phải không thấy. Không thấy vì câu thiếu một chữ chỉ cái vô tướng, ấy là chân thật bát nhã, tức chứng đạt địa trụ. Như trên nói vô lượng pháp môn của Thông giáo - Biệt giáo để đạt chánh đẳng tương tợ trí bát nhã cho chí các pháp Không cũng hoàn toàn không. Nói gọn gồm 12 pháp như đề cập ở đây hoặc 18 pháp Không như Ðại Luận giải thích v.v... Nhưng lấy Không phá Hữu, Hữu thành Không; Hữu tái lập lại được bất cứ gì nhưng vẫn là thế tục. Vì pháp hiệp nên có; vì có pháp nên có hợp tan. Tan là Không, là chân; hiệp là có, là tục. Tập (chứa nhóm) cũng là hiệp cả hai chân-tục luận mỗi pháp một bên. Một bên là hai bên nhưng không phải trung đạo. Cả hai đều sáng là viên (tròn đầy). Tròn đầy là trung (ở giữa) là diệu. Mượn ba pháp đối chiếu để giải thích cần phải biết. Kế nêu rõ được và mất. Kinh Kim Cang Bát Nhã cho rằng nếu thấy có pháp đạt được là còn bị vướng chấp tướng: ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả đều vướng chấp thấy. Thấy tạm bợ như thế chưa dứt vẫn có pháp chứ không phải không pháp nên không thể khai nhãn được. Vướng chấp hợp với mắt; nếu không cái thấy hữu vi ở đây đều đúng. Vì không khác thế gian nên chỗ thấy như phàm nhơn không phải do chánh quán. Cùng phàm phu mà Phật xuất thế gian hiểu rõ tướng thế gian hiển nhiên có khác. Tuy nhiên nếu thấy pháp thế gian không hiệp không tan ấy là thánh pháp; còn cảnh giới phàm chưa từng khác cũng chưa từng không khác, thế nên chấp chỗ tu chứng thế nào được.
Phần sau luận về các pháp, nêu tôn chỉ rõ pháp quán, nhận xét rằng sắc tức không; lý cùng biến nên bất động. Pháp ấy bình đẳng không hai không khác nên không thể đạt được.
Vì không sanh nên cũng không diệt; vô tướng cũng không vô tướng nên các pháp đều Như. Những phần luận khác như kinh giải thích là sơ địa. Rõ ràng tâm có đầy đủ 84,000 sát na trong mỗi niệm, chỉ một việc thật lý đồng nhất nầy nên dịch lầm là trí. Vì thế, phá tục ngoài kinh trong nhứt tâm phải hiểu là tất cả pháp. Vì nơi mỗi địa cũng có đủ công đức các địa khác như ở phần giải nêu rõ. Do nghĩa chuyển tải, diệt chính là nghĩa năng đoạn như kinh Kim Cang song tùy theo nghĩa gọi tên; tên tuy khác nhưng lý đồng. Dựa theo danh tự, ý nghĩa văn để biểu hiện công đức bát nhã sâu rộng không thể nghĩ bàn. Kinh trước trình bày lời Phật dạy, sau nêu rõ công đức rộng lớn. Trước nói về kinh văn là giáo pháp chư Phật dạy không hiện ra nơi ba phần: danh tự, ý nghĩa và câu văn hay cũng gọi là danh thân, cú thân, văn thân, chính là ba đoạn, bao hàm thanh lẫn sắc chung làm một hợp thành giáo thể, như kinh dẫn dụng giải thích v.v... Ðây là điểm tựa của văn tự bát nhã. Văn tự gồm đủ hai phần: tài và pháp thí; dùng thất bảo [58] bố thí là tài thí; khiến đạt được bốn quả (59) là pháp thí. Không giống như kinh đây nói khởi một niệm tin là hơn cả việc bố thí pháp nữa. Lấy niềm tin để hiểu phải hiểu sâu mới tin mà qua nhiều lần so sánh để biết được.
Sau luận câu không phải câu văn mà chính là làm rõ văn tự bát nhã cũng như tin hiểu các pháp. Cho rằng câu không phải câu là dựa theo nghĩa đối câu như văn dẫn trên. Tuy chứa đựng bốn câu nằm trong ý nghĩa của ba đế hợp với nghĩa bát nhã, song hết thảy đều không. Như vậy, ba câu cũng tức là một câu; một câu cũng tức là ba câu hay cũng chẳng ba, cũng không phải một mà vi diệu sâu xa không thể nghĩ bàn. Nhưng câu cũng có thể hiểu là văn; không có câu văn tự bất thành. Cũng có thể văn tự hội đủ ba đế đều mất ý nghĩa, do lìa tánh. Chỉ có lìa tánh là giải thoát, giải thoát là bát nhã, và cũng chính là văn tự bát nhã này. Vì vậy luận Chỉ quán nói rằng đạt văn chẳng phải văn; văn chẳng phải không văn, ý này ứng hợp nhau vậy. Nhưng bát nhã không phải câu mà làm rõ nghĩa câu là Không. Chỉ bát nhã luận Câu hay Không Câu là dựa theo tánh lìa thể. Nếu nội ngoại, tự tha lìa hết mỗi mỗi muốn đạt đến đều bất khả đắc; chỗ bất khả đắc ấy mới chân thật bát nhã ở ngay bên trong. Vì thế nói rằng bát nhã chẳng phải câu, câu chẳng phải bát nhã, đều lìa tánh và hoàn toàn bất khả đắc. Ngoài ra, cũng nói bát nhã chẳng phải Bồ Tát để chỉ rõ nhơn-pháp đều không. Vì bát nhã là pháp mà Bồ Tát là nguời hành pháp bát nhã. Pháp thực hành Không nên người hành cũng không. Vì thế, trong bát nhã Bồ Tát bất khả đắc, đây nói rõ nhơn không; y cứ theo lý chân nêu rõ pháp Không. Hồ nghi câu như trên có nhiều nên lược bớt. Luận rõ nhơn không, văn tóm lược không thể có sự lầm lẫn được. Ở đây bàn chính là làm rõ ý nghĩa thực hành bát nhã, vì thế nói Bồ Tát cũng Không mà lược bớt vậy. Song cái KHÔNG tồn tại đó, không phải Hữu, nên rõ như thế.
Tại sao thế? Theo giải thích trên chẳng phải nghĩa Bồ Tát nên ở Thập địa có 13 lần sanh đều cho rằng bất khả đắc, đâu chẳng nói đúng nhơn không ư? Ai nói trái lại là tà không phải tát bà nhã [59]cũng không phải Ðại thừa. Cái Không đây lấy nhơn nêu pháp cho thấy rõ nhân quả đều không. Vì tát bà nhã là quả, ma ha diễn (đại thừa) là cổ xe, thừa (cổ xe) đồng thời cũng là nhân. Nhân quả đều không là nghĩa pháp không; há chẳng đúng lấy nhơn không nêu rõ pháp không ư?
"Nếu thấy cảnh..." dùng phần này giải thích y lời dạy tu pháp quán, quán xét có tà chánh v.v...Tuy nghĩa không phải Không dùng điệp văn giải thích cho lời nói thêm mạnh mà cách đơn giản phải hiểu ngược lại. Nếu cho rằng thật có cảnh có thể thấy lại rơi vào vọng tưởng không phải chỗ thấy sâu bậc thánh. Thế nên đơn giản giải thích rằng thấy Hữu ba cõi, nhưng lấy chỗ thấy cảnh v.v. đối chiếu ba loại bát nhã. Vì nơi cảnh-trí nói có thọ, tuy Không chẳng phải bát nhã, nếu lấy kiến chấp cố giữ đó đều là vọng tưởng. Ðó chính là quả báo của chúng sanh như kinh nói rõ. Sau nói về sáu thức. Do vì chấp tướng thấy có nên khởi vô minh phiền não thành nghiệp quả trong ba cõi. Trong kinh phần nhiều có 3 chữ: ba cõi Không, trong căn bản vô minh đối với nghiệp quả trước tạo thành ba đường, cùng với vô minh tập khí còn thừa sót cũng hình thành ba cõi như thế. Nhưng mỗi cõi đều hàm chứa nghĩa Không, chứa có nghĩa là tích tập, lấy Không nói để giải thoát, nơi ba cõi đều mắc vòng chấp thủ, nên chấp ba đức Không chẳng phải bát nhã; do đó hết thảy đều không. Ngài Tịnh Danh nói: trừ bịnh không trừ pháp, ở đây nên lấy câu nói đó mà suy nghiệm. Ba cõi 9 loài sanh diệt trong phần giải thích có hai là phàm-thánh. Trước làm rõ điểm hơn là Kim Cang tạng dẫn lối dắt người chứng pháp Không và cũng cho biết rõ không cả nguyên nhân. Như Kinh Hoa Nghiêm phần sau nêu tâm kim cương dùng lý vi tế, nhập vào cửa huyền môn. Ðảo ngược chữ tàng (chứa nhóm, tàng trử) nhưng bỏ mất trật tự lớp lang đối chiếu với kinh. Phật thấu đạt ba pháp vô vi [60]chỉ rõ quả cực cao đạt pháp Không. Ba pháp vô vi không có trong hệ Tiểu Thừa là hư không vô vi, trạch diệt vô vi, phi trạch diệt vô vi. Nay dùng lời thật để giải thích: hư không như nói vô sắc mà vẫn hiện hữu. Luận Khởi Tín nói đó là hư không đổi lại sắc hữu có thể thấy tướng; không sắc mà hiện thấy cũng là Không. Nếu có tu tập như nghe thuyết pháp như không nghe để quy về bát nhã, thấy hết thảy pháp đều Như. Sau nói về tu tập giữ gìn Phật quả như đã xác minh. Ðó chính là duy trì Phật quả và cũng là hộ trì tát bà nhã; hết thảy quả đức mười lực v.v... là như thế. Ðây nói rõ hai điểm thời gian và số chúng được lợi ích như đã giải thích. (^) Phẩm Bồ Tát giáo hóa
Việc giáo hóa lấy lợi tha làm căn bản. Nếu chẳng lợi người, vật lấy gì gọi là giáo hóa? Ðể giáo hóa người phải tự giáo hóa mình trước. Nếu không tự chế chuyên tu lấy gì để giáo hóa? Cho nên trước nói rõ việc quán Không, nay trở thành pháp để tự thực hành. Ðây nói rõ việc giáo hóa làm lợi tha cho đời sau. Phẩm này chính là để giải đáp phần Nội hộ hỏi ở trước, đem mình và người ra để nói. Không phân biệt mà phân biệt, tức là hành lợi tha, trước hết giải thích phẩm danh có 3 mục :
a) Nói về giáo hóa; giáo là dạy bảo chỉ cho chúng sanh xa lìa hết thảy mọi điều ác; hóa là hoán chuyển căn cơ tu theo thiện pháp. Phật giáo hóa chúng sanh bằng pháp thiện ác tương đối này để đạt thành Bồ Tát. Ðây là Thánh phàm tương đối. Ngoài ra, Phật cũng dùng pháp này giáo hóa các vị quốc vương làm cho họ hiểu trí tuệ (tuệ giác). Ðây là chân-tục tương đối. Phàm nêu rõ việc giáo hóa là làm thay đổi có ba nghĩa như kinh dẫn rõ v.v... song phẩm này phần chính tuy nói về Nội hộ mà đề cập tới giáo hóa các vị quốc vương, là đã bao hàm phần Ngoại hộ. Tuy dựa tục-đế làm cho ta hiểu tuệ giác để đạt pháp Không, nhưng trên thực tế có cả chân-đế ở trong. Ở đây lý giải thích chỉ một mà nghĩa quán thông rõ sự vậy.
b) Thuận duyên giải: "Bạch Phật rằng..." lại chia hai ý : trước nêu hỏi, nói rằng ủng hộ thập địa hành Bồ Tát, đây phải bao trùm hai lớp năng sở; có nghĩa một, lấy bát nhã làm năng hộ và hai lấy các pháp làm sở hộ. Sau lấy việc tu thập địa làm sở hộ, Bồ Tát làm năng hộ. Ủng hộ duy trì những gì đáng ủng hộ, là ủng hộ cái không rơi vào tà kiến. Ðây là điểm đáng nói vậy. Tại sao nói làm những gì có thể làm rồi đặt thành 3 nghi vấn: cho rằng Bồ Tát hạnh thực hành thật thông suốt. Trong chỗ thực hành đó làm thế nào hành cái có thể thực hành; và trong chỗ thực hành có tự có tha, là hai việc nương theo phẩm vị nào để thực hành và hóa độ chúng sanh? Luận về thấy chúng sanh có chấp có lìa, nay lấy tướng nào thấy chúng sanh kham chịu giáo hóa? Căn cứ theo phần luận đáp sau về năm pháp nhẫn [61]Bồ Tát thực hành mà thập địa là phẩm vị tu tập. Tự và tha (mình và người) đều là tướng huyễn mà Bồ Tát hiểu rõ như thế. Nhưng kinh cũng luận lại tự và tha để nêu rõ mục tiêu, không phân biệt mà phân biệt tức hành hạnh lợi tha.
c) Câu: Phật dạy... phần trả lời 2 điểm lấy năm pháp nhẫn trả lời câu hỏi trước. Vì phục nhẫn v.v... là một trong năm pháp nhẫn của Bồ Tát, dựa phẩm vị trước sau mỗi pháp có phân ba phẩm; mỗi phẩm có tăng, nhưng vị trí bất định hợp thành pháp Không, dựa theo lý chân, nên gọi chung là nhẫn. Ðó là chỗ nương theo tu tập của Bồ Tát tức hành cái có thể hành như trong phần giải thích. Giải thích dùng năm nhẫn cùng với sáu loại chủng tánh [62] để đoạn dứt mê lầm; văn từ có thay đổi có thể không được rõ nét, nên trước phải đưa ra điểm khác rồi sau mới hợp chung lại. Sở dĩ nói tướng khác vì căn cứ theo thông thường để giải thích, Sơ địa của Biệt giáo chứng nhập như Viên giáo, đã phá trừ được vô minh, có thể phân thân làm Phật ở hàng trăm cõi khác nhau, nhưng kinh này chỉ nêu thập địa rồi phân thành bốn nhẫn, đó là trước ba, sau một; đối với thập địa trước hai nhẫn: tín, thuận; sau ba nhẫn mới phá trừ được vô minh. Nếu như vậy cũng giống sơ địa chứng nhập như Viên-Biệt giáo không khác. Nhưng chỗ đoạn mê lầm của hai pháp nhẫn tín-thuận có khác, chỉ đoạn sắc tâm thô, phiền não dày ở ba cõi. Ðây là hai điểm khác với thông thường. Việc này cần phải biết phân biệt hai đường dựa theo việc tu chứng để luận hướng tới như Viên giáo vậy. Nay theo lời dạy làm chuẩn, không dựa theo phẩm hơn của thập địa nên chỗ đoạn mê lầm có phần khá hơn. Ðiều đó phải hợp ý nghĩa thành lập; vô sanh nhẫn phân thành 3 phẩm: thượng-trung-hạ, như kinh này dẫn giải. Vì căn tánh chúng sanh có lợi, có độn không giống nhau. Người lanh lợi ở ba phẩm đầu đã phá được vô minh, rồi ba phẩm sau mới trừ hết chúng dù đã dựa phẩm đầu để phá, nhưng không theo như Viên giáo. Người độn căn chưa đoạn dứt vô minh ở tín - thuận nhẫn nên còn chịu ảnh hưởng hổ tương. Ðạt đến ba nhẫn sau dứt vô minh mới định vị được, do căn tánh thấp kém phải tiếp cận mới xác định được phẩm vị vậy. Nhưng chỗ phá trừ phiền não (mê lầm) tuy phân sắc-tâm khác nhau chỗ thô tế như đối với kẻ lợi căn là vô minh, người độn căn là kiến-tư hoặc (mê lầm), chưa chắc chắn huống là còn pháp tất đàn chi phối. Trước hết pháp vô định nêu có đường hướng, mỗi pháp dùng danh tướng đều bị sai lầm. Bậc hữu học có chí phải tận tâm, nếu quả thật đặt họ ở chỗ Không như vậy. Kinh nói phát tướng tin hiểu đồng nghĩa với tin thọ, tức phát tín tâm trước nhất. Kinh cũng gọi đó là tưởng, bởi vì đúng lý là tưởng. Dựa lý khởi xướng cũng trong ý nghĩa đó, do vậy ở đây phân biệt Viên-Biệt khác nhau. Phục nhẫn ở đầu thập trụ dựa theo phẩm vị so sánh; nói theo nhị thừa nhưng cao hơn trí hiểu biết có thể chế phục vô minh. Giải thích cũng dựa tín Viên-giáo để giải, nhưng sợ chấp như trừ bốn trụ chấp ở đây văn giống nhau. Nhưng vì vô minh lầm lạc, nên nói đoạn tức đoạn mê lầm. Nghĩa đã thông suốt thì tiến thoái không lầm để tiếp tục trưởng dưỡng hạt giống Thánh. Dung hợp điểm này hoặc lý luận xuất thánh thai hợp phần đúng, hoặc riêng biệt. Giải điểm hồ nghi phần nhiều chú ý tới một vài từ, cuối cùng cũng đề cập xuất thánh thai. Khởi đi từ Càn Huệ địa chưa có lý sâu nhưng gốc phải là Văn Huệ nên nói Càn Huệ. Nay dùng tu huệ sợ lầm như trên, nên khởi đi từ Càn Huệ địa, nhưng thật ra đúng phải nói ở Phục Nhẫn. Giải thích đúng nên chỉ giải tên khác nhau giữa mỗi phẩm vị mà thôi. Nghi vấn phần nhiều chỉ một câu, dù một ngàn từ không đúng kinh vẫn phủ nhận chỗ vô dụng đó; cũng như lấy 10 tâm nói chung ý vậy. Vì thế lấy bốn ý dứt bốn niệm xứ, nơi thân tâm thọ pháp khiến không khởi điên đảo. Dứt ba nghiệp phát ra thiện căn làm cho ba độc (tham-sân-si) lắng yên. Dừng ba nghiệp phát ba nhẫn làm dứt ý niệm nhân quả ba đời. Lại nêu rõ thập hồi hướng [63]là phẩm vị đạo chủng tánh cũng do tu phục nhẫn tiến đến bình đẳng, cùng với thánh đạo sơ địa làm nhân, đều nhắm trước trông sau còn có 10 nhẫn để tu quán nhẫn thứ tự cần phải biết. Trước quán sắc ấm do giới nhẫn, có nghĩa tạo tác hay không, gốc giới, sắc ấm vẫn bao hàm chung. Quán sắc ấm phát sinh giới nhẫn, nhưng không nói sắc bao hàm nguyên nhân. Phần nầy có luận riêng. Quán như thế mà biết phẩm nhẫn như đã giải thích. Cũng như do tưởng nghĩ trong định mà đạt huệ tức hành pháp Không, giải thoát. Thức tâm vương nhưng có thể thọ nhận trước sau không nhất định. Quán sát nhân quả ba đời Không nên đạt pháp Không nơi ba pháp nhẫn như đã biết. Quán chung nhị đế (chân đế-tục đế) hiểu rõ pháp vô thường là vô thường nhẫn, đạt đến vạn pháp không là vô sanh nhẫn. Nhưng thập hồi hướng do vậy là đạo chủng tánh, tuy chưa đạt vô sanh vẫn nhập nơi bất sanh; song pháp nhẫn vẫn theo một chiều hướng. Tách riêng mỗi pháp để bàn như quán vô thường trụ ở vô thường; quán vô sanh trụ nơi vô sanh. Trước quán pháp định Bồ Tát do 10 tâm kiên cố [64] mà không đến từ 10 nhẫn thành đức nhẫn như đã nói. Ngoài ra, cũng bàn về tín nhẫn mà tiêu biểu là hạnh nhẫn, lấy ba tín chứng minh. Ðó là ba pháp chứng tín chứng thật phẩm vị ở sơ địa. Vì thế nêu rõ trong pháp hành theo từng phẩm vị mà trước nhất ba vị đầu trong thập địa, và sau với các địa còn lại như kinh nêu rõ. Nói trong pháp hành là cách nhẫn trong thực hành để dứt trừ phiền não ba cõi, như trước tam hiền dứt sạch phiền não thô; không giống như sơ địa chỉ mới dứt được một phần. Nếu theo chỗ tu chứng viên mãn đều giống nhau, là cùng dứt căn bản vô minh ngoại (ngoại giới) như đã rõ. Nhưng ở đây nói tâm phiền não như trên gọi sắc v.v... nên dựa sắc-tâm để nói. Nay nói sắc-tâm đều chỉ tâm nên phải luận chung về tâm.
Ðoạn sau đề cập phiền não tập nhiễm, nói tập là do vô minh sai sử, cho chí sau khi vô minh diệt mới phân biệt rõ tập nhiễm. Nói mỗi phiền não đương nhiên phải nêu thói quen cố hữu thật cũng khó dứt, như phần luận riêng. Trong việc nhiếp hóa Phật một thân hay nhiều thân; như hóa thân khác thân hiện hữu; nhưng theo thông thường chỉ sự phân thân của Phật ở trăm nghìn cõi khác nhau. Ðã phân thân do nhiều thân từ một thân; một phân thân thành nhiều thân, song chỉ khác nhau ở chỗ cạn sâu mà thôi. Suy gốc từ ngọn một thân hiện vô số thân; suy ngọn từ gốc nhiều thân từ một thân cũng do lời nói nên có khác. Như một thân đã Không thì nhiều thân cũng không; chẳng một cũng chẳng nhiều mà ở giữa. Nếu dùng 15 tâm phân tích đến cùng hết thảy căn bản hành Bồ Tát do bốn pháp để nhiếp hóa[65]. Mười lăm tâm khởi từ đây là đầu mối khởi sanh các pháp hành nên gọi chúng là chủng tử (hạt mầm). Nói đoạn dứt tâm ba cõi là dứt phiền não trói buộc trước sau, ý nghĩa có hai mặt: sắc tâm nên chỗ đồng chỗ dị khác nhau như trước đã luận. Sắc-tâm chưa nhóm phiền não không phải mê lầm thô nên đều cần phải đoạn. Phần nầy do phẩm vị cao mà phiền não chi li vi tế, không thể phân sắc tâm cũng không phân được đúng chỗ nào nhiễm, nên không biết nhiễm nào để đoạn trừ. Nhưng nếu sau tâm đẳng giác hướng đến sự tu tiến cũng đoạn được vi tế hoặc [66] còn vô minh để đoạn dứt, nhưng sau đó nói đoạn cả hai chính là dứt trừ mê lầm không hàm nghĩa Hữu đề cập ở đây. Trước nói nghĩa Không nên biết rằng từ bậc Thánh hiền lên đến chư Phật trọn không thể lấy lý luận suy được. Phần 5 nói rõ tịch diệt nhẫn, phải xem bốn pháp nhẫn trước có khác nhau ở điểm có cùng hay vô tận. Phần 4 nói rõ nhân địa tuy dứt nhưng chưa sạch tới cùng hoặc nói đúng hoặc còn thói nhiễm mà chỉ Phật mới hoàn toàn dứt sạch; sợ có sự lẫn lộn như đoạn nầy, dùng nghĩa tịch diệt làm tâm; sắc, tưởng, tập đều trừ, là do năng (tác động) - sở (bị động) đối đãi nhau nên với danh tướng chưa thể bỏ được. Nếu luận nhẫn đến cùng, đến vô sanh cũng như vô diệt không có tâm nào mà chẳng tịnh, không tưởng nào chẳng diệt. Không diệt chỗ diệt là chân tánh tịch diệt (vắng lặng). Chư Phật, Bồ Tát chỗ chứng đắc giống nhau. Nên nói cũng giống chỗ dụng công của Nhẫn nhập vào định Kim Cang dựa theo pháp tu đạt để hiểu ý nghĩa, rằng dụng công thâm hậu không còn pháp nào riêng khác để chứng. Dù không theo lớp lang nhưng vẫn phân thứ tự nhân quả mà điểm khác nhau là chỗ phân cực. Cho nên có ý rằng hành trong nhẫn, do dựa theo nhẫn phân chia thứ tự nhân là Bồ Tát, quả là Tát Bà Nhã; cùng quán đệ nhất nghĩa đế (vô tướng phân biệt) nói có tướng là do vọng nhưng nói Kim Cang là tâm. Tướng, vô tướng gồm phần sau để nói quả cao tột là Tát Bà Nhã. Thậm chí vượt lên cả nhị đế lấy quả Ðẳng giác so sánh Diệu Giác địa mười một là Tát Vân Nhã, dịch là nhứt thiết trí, chính là quả Ðẳng giác. Giác chẳng hữu chẳng vô, phải là quả Diệu Giác-Tát Bà Nhã. Theo giải thích dịch nhứt thiết chủng trí như đã có ở quyển trung. Ðầu tiên hai chữ "Nhã" nêu trên cũng làm phân vân không ít người, nên cựu dịch đơn giản phần giống điểm khác và dịch đảo ngược. Theo đó suy thì Tát Vân Nhã chưa đạt đích nên dựa theo thể để nói; còn Tát Bà Nhã là quả vị tối cao dựa theo dụng mà nói. Vì thế nói Tát Bà Nhã như cổ xe chuyên chở giáo hóa ba cõi vậy. Như thế phần giải thích có hai điểm dị đồng đương nhiên cần phải biết. Do đó ở đây nêu cả hai để bàn và theo như giải thích trên đều dung hợp cũng như nói bất định. Kim Cang thí dụ cho định dẫn theo lối cựu dịch có hai ý: lời giải tuy không phủ bác; song nói hai loại Kim Cang không giống như thí dụ của Ðại kinh, có thể ví kinh Kim Cang này là định, hay phá phiền não nhưng tự thể không hư hoại như đã chứng minh. Như Ðại Luận nói: đem lông rùa sừng thỏ có thể nghiền vụn so với vật đồng loại cảm nhau như đá quí kim cương. Ðiểm chính phát xuất từ Ðại Luận, ở đây nói Ðại kinh sợ lầm lẫn nên nói không phá diệt âm thanh là vậy. Kinh Lăng Già ví như vàng, vật bằng vàng rắn chắc không gì phá hoại được như ở đây có thể chứng minh hai nghĩa khác nhau. Xưa nay phần nhiều không luận điểm đó, nên phải nêu ra cho rõ. Nhưng trong lúc tu hạnh nhẫn phải theo thứ tự có ba điểm: a) thứ tự dưới trên b) tuân theo nhân quả c) nhập phẩm vị phải có trước sau.
Tát Bà Nhã như trên dịch là nhứt thiết chủng trí; ở đây dịch là nhứt thiết trí; hai cách dịch này sẽ lẫn lộn với nhau. Quả Ðẳng giác hoặc hữu hoặc vô, nay Bát Nhã chỉ chung nên không như Biệt giáo. Dẫn chứng hai câu chứng minh song chẳng nói tới Ðẳng giác. Tâm tập nhiễm vô minh hoàn toàn vô tướng để bàn tới chỗ rốt ráo cùng cực, nên hành giả phải gia tâm nỗ lực hiểu, song trí để bàn tuy có thể rõ tướng nhưng chưa đạt được vô tướng do trí hữu hạn. Trí không tự đánh mất Bát Nhã không tự chiếu soi được. Ngoài việc thấy tướng như ở đây phải biết rõ chỗ rốt ráo của tướng mới gọi là Tát Bà Nhã. Nếu gọi Tát Vân Nhã do trí chưa đủ đạt đến chỗ cao tột; đạt đến cùng đích thì tướng, vô tướng đều dứt sạch. Do đó vượt qua khỏi nhị đế còn cảnh nào hiện hữu? Giác chẳng còn hữu vô mà xuất phát nơi trí. Do vậy đến chỗ tận cùng của pháp tánh cũng chỉ là giả danh; hẳn từ đó khởi sanh không có hữu vô; không kia đây nên năng sở đều dứt, muốn không sáng cũng không thể được liệu vô minh còn sao? Ðạt đến đây là ngộ được tướng ngã, nhưng chính nó hoàn toàn vô tướng, khi dứt sạch vô minh mới hoàn toàn vô tướng. Cũng có thể nói vô minh chưa dứt chưa thấy được vô tướng. Nếu giải thích như vậy cũng chưa được thoả đáng, vì ở đây nói diệt hết hay không hết tướng. Tạm hay ở một nhưng không hay ở hai, nhưng làm cho cả hai không hay thì cái một cũng chưa hoàn toàn. Có thể dùng lý hiểu khó nên phải dùng lời mới diễn đạt hết mà địa mười một Tát Vân Nhã phải là quả vị Ðẳng giác; lý nói Hữu chưa dứt nên phải giải thích trước. Như nói Hữu nhằm ám chỉ quả vị Ðẳng giác, sợ lầm lẫn với trên, nên đoạn sau giải thích chỗ lầm đó. Hai ý trước đều nói chữ "Nhã" - Tát Bà Nhã đương nhiên phải là quả Diệu giác; đạt đến chỗ cao tột là đạt Tát Vân Nhã cũng như mặt trời chiếu sáng, nên biết Tát Bà Nhã biểu lộ sự nghĩ ngợi quy về nhứt như. Lấy đây giáo hóa như cổ xe để hóa độ ba cõi; như xe vua cũng là cỗ xe chuyên chở. Tin những điểm sâu xa kinh nêu rõ như ở đây mới có thể đo lường được các địa...
Sau luận về vô duyên đại bi [67], nói rõ phần nhiếp hóa, là quả giác ngộ đạt đến rốt ráo viên mãn. Chuyên chở do trí lấy vô duyên làm duyên, do cảnh khổ chúng sanh trong ba cõi mà hành hạnh bi để giáo hóa; nên vì hết thảy chúng sanh trải tâm từ ba mặt mà bi phải biểu lộ như đã nói.
Ðoạn :"Này Thiện nam tử, lại nêu rõ tôn chỉ đưa đến kết luận: "Vì Phật giáo hóa và chúng sanh được giáo hóa do cơ duyên có cảm hóa nhau. Nhận xét gần, nhìn chung không đến từ một trong ba cõi mà có sự dung hợp như ba cõi duy tâm nên lấy đây làm tôn chỉ. Giải thích phần lớn tuy nói về tự hành nhưng cũng gồm cả phần lợi tha. Cho dù cần diệt khổ nhưng cũng làm trong an lạc nên điều quan trọng không đến từ các phần trên. Nên nói hết thảy phiền não chúng sanh không phát nguồn từ chỗ ẩn tàng trong ba cõi. Như trên nói nghĩa bí tàng của ba cõi, cũng chỉ rõ chỗ ẩn Không. Ở đây nói cảnh được giáo hóa lại khác, hai mươi hai căn nói chung thành chẳng phải không có lý như đoạn nói rõ các quả báo. Nhưng không phát xuất từ ba cõi, như nghi vấn KHÔNG, giáo hóa không từ ba cõi. Nơi sáu căn thì mười có tám gồm luôn thức ấm, hơi thở, thân mạng chung riêng đều thành cũng trong hai mươi hai căn. Lý đã rõ ràng đều từ căn này sinh Pháp thân chư Phật hóa hiện cũng không đến từ ba cõi. Nhưng do Phật đã phá diệt bốn ma [68] nên không còn trong ba cõi. Nay do pháp thân an nhiên tự tại; ứng hóa thân thị hiện khắp đó đây. Ứng hóa thân tức là pháp thân nên không ở ba cõi; pháp thân cũng là ứng thân nên không ở trong ba cõi. Kinh giải chung hai ý nên nói ứng hóa, pháp thân. Căn cứ đoạn sau giải thích nói ngoài ba cõi không có chúng sanh, tức không có chúng sanh riêng khác, Phật không giáo hóa ai nên nói ngoài ba cõi không có chúng sanh. Vì thế... phần giải thích lấy nghe, nói để bàn; nghe phải bình tâm suy xét. Các kinh ngoại đạo nói cũng có nghe tựa như kinh Phật, song chưa đạt đến lý liễu nghĩa (rốt ráo hoàn toàn) nên đó không phải do bảy đức Phật [69]nói. Có kinh giải thích như Ðại kinh, dẫn các kinh phổ thông chứng minh ba thân Phật ở khắp bốn quốc độ không khác nhau. Nên biết ngoài ba cõi không có ba quốc độ riêng biệt, giới nội, ngoại chỉ là một ở đây đã nói rõ. Kế hỏi giới ngoại sự thật có hữu vô không? Câu trả lời là hữu vô đều không nhất định mà phát xuất từ thánh giáo mới làm sáng tỏ hữu vô. Như kinh Pháp Hoa nói rằng, ngoài 300 do tuần [70] biến lập hóa thành ngoài ba cõi có các phương tiện riêng. Dựa theo giới nội-ngoại để nói hữu-vô, tức có phân biệt phần pháp tánh. Như ngài Tịnh Danh nói: 10 phương quốc độ hữu vô không cùng tận, đâu thể lấy một hướng định được hữu vô. Nhưng hỏi rằng, dựa vào Thánh giáo có hữu vô như thế há không mâu thuẩn sao? Ðáp: Trong đó đã hợp thông ý nhau như chúng sanh có hai loại: 1) giới nội là chúng sanh thật có quả báo có sanh tử 2) giới ngoại là chúng sanh biến dịch nhân quả có pháp tánh, nhưng kinh này nói không là không chúng sanh phần đoạn (sanh tử); các kinh khác nói có, là có chúng sanh biến dịch. Thành ra hữu vô đề cập đây khác nhau khá nhiều. Nay nói không có chúng sanh biến dịch, sợ nhầm lẫn nên nói nhằm ý riêng. Muốn hiểu tường tận cũng phải nêu cho biết. Giới nội nói có tức có chúng sanh phần đoạn, nói không tức không có chúng sanh biến dịch tùy theo nghĩa. Cho nên lấy Thanh Văn sanh ở giới ngoại nêu làm thí dụ cho rõ. Chúng sanh cõi Bạch Ngân không có phiền não ô nhiễm, vì không phiền não nên vô sanh. Ðó cũng còn một lần sanh, nhưng sự thật Thanh Văn vô minh vẫn còn nguyên vẹn, đâu đã đạt được vô sanh ư? Các bậc Thầy Vệ Thế Sư ngoại đạo tức là thầy phái Ðại Hữu cho rằng ngoài ba cõi còn có thế giới riêng. Họ lấy đó thí dụ và cho rằng còn có chúng sanh khác nữa. Nếu không phân biệt chỗ khác nhau ấy tức giống như tà thuyết ngoại đạo chủ trương. Luận Khởi Tín nói, nếu cho rằng ngoài ba cõi có chúng sanh nào tức là Kinh ngoại đạo nói mà chính để chỉ chủ trương của phái Vệ Thế Sư như ở đây đề cập. Phái ấy chỉ toàn xác minh như lai tạng là vô thỉ vô chung nên không nói chúng sanh có khởi thủy; và đây là điểm khác nhau. Ðúng vậy, nếu y cứ sự thật bàn ý chính không nói đến hữu vô. Nói hữu vô theo nghĩa tất đàn cũng phá đối trị chấp. Nên nói hữu giống phàm phu ngoại đạo; nói vô cũng giống Nhị Thừa. Như Phật, Bồ Tát biết thật thấy đúng nên không hữu không vô, chẳng như, chẳng khác, trung thật đúng lý không giống tình tưởng phân biệt của ba cõi. Ðây chỉ kinh Pháp Hoa mới làm sáng tỏ điểm rốt ráo này.
‘Thưa Ðại vương như tôi thường nói ...’ là dẫn việc xưa chứng minh việc nay, hết thảy chúng sanh đoạn dứt sạch quả báo nghiệp mê lầm trong ba cõi là thành Phật hay cũng gọi là giác; khoảng giữa chẳng còn phiền não, đâu còn dung chúng sanh tham đắm trong đó ư? Trong ý đây phần nhiều nghi từ "giác" cho nên đã chuyển nghiệp ba cõi là Phật, là trí là bản lai mà trong năm nhẫn ắt hẳn đầy đủ. Không còn con đường nào khác đâu còn chúng sanh nào ngoài cõi ư? Nghiệp gốc của chúng sanh là chỗ tu tập của Phật, Bồ Tát, vì tất cả chúng sanh từ vô thỉ tới nay vốn theo nghiệp nên không phải tánh đức rốt ráo, đem so với năm nhẫn bậc chánh giác (Phật) nói đây đều không khác. Kinh Tịnh Danh gọi đó là không lìa si ái làm hiển phát các đức giải thoát; cũng nói từ chỗ trọng yếu nêu ra. Nên nói trong năm nhẫn có đủ cả 14 nhẫn ba cõi không ngoài một cái tâm, một tâm không ngoài tự tánh, cho nên biết rằng tự tánh thanh tịnh vậy. Lời giải rằng, do phiền não nên cần phải tu hành, do tu hành nên mới đạt đức; đạt đức kết quả viên mãn, suy tới gốc để nói lý nó là một. Câu: Bạch Phật rằng... Phật đáp câu hỏi thứ hai trong câu hỏi trước lặp lại. Câu giải đáp thứ hai trước nêu rõ thập địa và làm sáng tỏ chỗ Phật thực hành. Ðó chính là quá trình chư Bồ Tát tu tập thanh tịnh, là quả vị cứu cánh, đạt đến tri kiến Phật trong cảnh giới vi diệu. Bồ Tát trở lại nương pháp nầy giáo hóa chúng sanh giữ gìn bản tánh thanh tịnh bên trong để làm cho không mất như đã đề cập. Kinh lấy hai bộ Pháp Hoa và Tịnh Danh để giải nghĩa thêm, một mặt trông giống mà ý khác nhau. Sau giản lược thập địa như trên có giải thích và cũng giảng rộng gốc nghiệp. Kinh giải gốc nghiệp có 5: qua trăm ngàn vạn ức quốc độ gồm ba: trí tuệ trên hết, thần thông tiếp theo và thuyết pháp dưới cùng; cũng có thể lấy đây phân đều ba cõi đồng cư giống nhau một vòng thuyết pháp thứ ba, thần thông thứ nhì và trí tuệ thứ nhất. Phân biệt tuy thế mà nói chung cũng gồm đủ, an trú; cõi thấp không có thần thông, có ánh quang minh không thuyết pháp được sao? Xem cõi trời Tứ Thiên Vương cũng có thể hiện rõ thân tướng tu tập hằng trăm pháp môn v.v...Tu tập các pháp môn trong vòng nhị đế thực hành riêng nơi các cõi mà giáo hóa chúng sanh là pháp thực hành chung. Vì thế, kinh Hoa Nghiêm nói mỗi câu theo thứ tự gia tăng tùy phần tùy lực. Các kinh: Ðịa Kinh, kinh Anh Lạc và kinh này đều nói để giáo hóa. Tướng ba cõi có chỗ giống chỗ khác hẳn có nguyên nhân giải chưa rõ vì giản lược nên khó lãnh hội được hết. Sau giải thích Phiêu Tán Vương tức là Tiểu Vương mà đa số quen gọi Phiêu Tán. Ðịa vị đó trong hạ phẩm thiện, bởi ngày nay các nước thêm vào nhưng dùng theo thứ bậc trên nhân vương e câu văn đảo ngược khó hiểu. Kinh Anh Lạc giải thích là vua Thiết Luân Vương, tương đương phẩm thượng của Thập Tín; Ðịa Kinh dùng tương đương như quả Sơ Ðịa. Dựa theo cách giải thích của Biệt - Viên giáo nói ý khác nhau cũng chưa rõ ràng dứt khoát. Trong Thập Thiện mỗi pháp còn nhân 10 là 100 pháp, căn cứ 10 điều lành nói cách nghiêm túc chỉ một điều lành hẳn chứa đủ 10 việc lành. Ðem 10 điều thiện nhân thành 100 việc thiện. Chỉ cần làm hai việc lành để nghiệm xem, chẳng hạn như không sát sanh cũng chứa đủ 10 hành động thiện. Nhân một hành động thiện mà đủ cả 10 việc lành đó cũng là ý nghĩa thập thiện vậy. Kinh cũng nói cội gốc ba cõi là gốc mê lầm; gốc mê lầm tạo rừng mê gọi là tội tánh.
Bài kệ Thủ Lư gói ghém trong 32 chữ có những câu 3,5,7 hoặc 9 chữ cũng chưa diễn được hết ý, do chưa được kiểm chứng lại. Chỉ diễn ý vì sợ nghĩa quá tổng quát, do vậy nên nói Thủ Lư như trong bài kệ. Phàm Tam Bảo có nhiều nghĩa, nhưng ở đây chỉ tán thán hai nghĩa đó là biệt tướng Tam Bảo là tướng riêng và đồng thể Tam Bảo là đứng mặt lý tánh. Do hai phái Ðại, Tiểu Thừa khác nhau nên Tam bảo không giống nhau như do nơi quy y gọi là Trụ Trì Tam bảo. Dù chỉ tán thán hai loại Tam Bảo tưởng cũng đầy đủ. Lời thông thường gọi Bảo là nghĩa đáng tôn kính; Thế Tôn là thầy dẫn đạo, Phật là danh hiệu chung. Thể rắn kim cương chỉ pháp thân không hoại. Phật tu chứng tâm hạnh bằng tám âm thanh thuyết pháp làm lợi lạc quần sanh; tuy Phật nói đồng nhau. Phật vì chúng thuyết pháp là muốn cho đạt đạo nên có hàng vạn ức chúng sanh nhưng thành một, phải có tăng bảo. Sáu trời dục giới và bốn chúng cõi người lúc đó gồm 6 chúng nhơn thiên. Trời tuy không xuất gia nhưng tâm họ như người tu xuất thế có thể làm đạo của người xuất gia nên cũng gọi họ là Bồ Tát tăng, và được chứng quả Tam Thừa vậy.
Sau tán thán ngũ nhẫn riêng hàng Bồ Tát với 14 vị đại sĩ [71] vận dụng khả năng thấu triệt chân lý đầu mối nhân quả không thể nhầm lẫn. Do vậy Tam hiền, thập thánh [72] không rời ngũ nhẫn mà 14 đại sĩ ứng dụng khác, nhưng công dụng chỉ là một. Chỉ Phật là một nhân vật biết tận gốc, hiểu mọi lẽ rốt ráo độc nhất. Quy về nhất thể cũng là nghĩa cứu cánh của Tăng bảo. Như đã nói tam bảo tạng nhưng cũng gọi là vô lượng công đức tạng để giải thích chung nghĩa chữ "tạng". Như thế nên biết Tam bảo tuy riêng mà hàm vô lượng công đức ẩn tàng bên trong; cũng vậy Tam Bảo mỗi ngôi có vô lượng công đức nên một đã bao hàm cả ba. Kinh Thập Thiện Bồ Tát khuyến phát đại bi tâm ca ngợi phục nhẫn các phẩm vị, bỏ qua phần công đức trong đó trước dẫn giải theo lối cổ, bây giờ không theo như vậy. Cho nên theo Biệt, Viên giáo bình luận, nếu Biệt giáo Thập Tín gò bó không hợp; nay phê bình phải lấy Thập Tín Viên giáo có thể giống nhau trừ bốn trụ xứ tròn đủ; nếu trừ vô minh thì nhị tạng yếu kém. Ngoài ra dẫn kinh Pháp Hoa chứng minh chúng sanh có cõi hữu dư mà nói thứ tự phải ở nơi Viên giáo mới có thứ lớp như vậy. Nên biết là tâm đại bi nhưng không thật viên mãn ở Thập Tín mới đạt được đó là nổi khổ lâu dài. Nhưng pháp liệu giản so sánh ba phái trên có thể bàn rộng hơn cần phải biết. Các phẩm thiện bậc trung, hạ Phiêu Tán Vương cho Thập Thiện là chính được nêu làm thí dụ. Thiết Luân Vương có lục luân vị, Tập Chủng với sáu chủng tánh; hai vị Ðẳng Luân Vương - vua cai trị hai cõi thiên hạ. Câu văn có thể gây hiểu lầm là điều cần phải suy nghĩ.
Nói Thất Bảo - bảy món đồ quí báu - chỉ đồ trang sức của phụ nữ có nơi Luân Vương nên không giải thích thất bảo. Trong số thí dụ đưa ra, chữ Tín giống chữ Trụ nên dễ lầm. Ba đời chư Phật khó chính là công đức phục nhẫn; phục là hàng phục, có nghĩa điều phục, lấy nhẫn hàng phục vọng tâm. Thế nên trước tiên phải hàng phục tâm mới sanh ba đời chư Phật, suy chỗ gốc để nói trước tiên ở chỗ thực hành khoảng giữa là tìm nguồn gốc thành khó phát tâm nên nói khoảng giữa là giai đoạn thực hành. Hành là người thực hành, người phải thật kiên cố không lui sụt đạt chỗ vô sanh, đó là chung điểm của hành vậy. Ở đây hiểu Tín là Trụ, độc giả xem xác định quả đúng là lý này. Chỉ đọc kinh suy ra tín tâm, song cũng chưa hẳn không phải là thập tín cho nên duy trì cả hai. Vô minh bàng bạc nên lầm lạc khó dứt cũng như đá tản mác không đủ lực nhấc lên nổi, nếu không phải trí bát nhã (tuệ giác) không thể thắng phiền não. Nói rõ công đức tin hàm hai ý: không ngoài Biệt giáo lấy Thập Tín thứ tự dần vào đến sơ địa; nếu thập tín Viên giáo là vào sơ trụ. Ở đây cũng đại khái nói vậy. Nếu muốn đầy đủ phải xét ba vị bất thoái để hiểu mỗi vị như thường tình.
Hỏi về gốc nghiệp mà đơn giản ở thập trụ sáu tâm thoái lui có hai phần: trước là dẫn chứng kinh, và sau theo lối hỏi đáp của kinh nầy: Trong câu trả lời có hai điểm cần nêu rõ: trước hết nêu thí dụ phủ định hỏi; tiếp đến dựa theo lời Phật dạy giải đáp có suy xét, là chung cho bốn giáo (Tiệm, Biệt, Viên, Ðốn) đều hàm nghĩa thoái hay lui sụt. Như kinh không nói nguyên nhân sáu tâm bị lui sụt. Nếu dựa theo kinh này còn thập hướng thoái nữa thì 6 tâm trong thập trụ không phải là việc khó khăn. Ðây phê bình thoái tâm ở sơ kỳ để tự theo đuổi một đường; còn sau luận ba việc thoái tâm dựa theo vị sâu cạn chỉ vị đối vị hoàn toàn không đem chỗ giống tấn thoái giữa phẩm vị so sánh. Nhưng theo các sư Nhật gặp khó khăn ở chỗ dựa sáu trụ, đã đoạn kiến hoặc không sanh vào bốn ác thú tại sao còn thoái lui? Thường thì lấy bốn minh giải đáp mà kinh tịch phần nhiều bị thất lạc nên ngày nay không tìm thấy kinh chú giải. Vì thế phải dựa cách riêng để nói mỗi cách đoạn mê lầm đến cùng. Mẫu chung rơi vào chỗ vô cùng, việc phát tâm và chỗ cứu cánh tuy hai nhưng không khác nhau. Như nói sơ phát tâm cũng tức là cứu cánh, tuy có phân biệt khác nhưng chỗ tu chứng giống nhau, cho nên nói tuy hai mà không khác là vậy. Tuy lý chứng chỉ một, nhưng sơ phát tâm không dễ nên tâm ban đầu thật là quan trọng. Sau nêu rõ Bồ Tát Thiện Giác, trên tán dương hàng sơ địa dùng thân tướng trời Tứ Thiên Vương tu tập đến hàng trăm pháp môn, đem tâm bình đẳng của nhị đế hóa độ chúng sanh. Cho nên thấy cõi tục như huyễn hóa (hư huyễn) hay cũng có thể nói rằng quán xét đó thấy như Không. Quán thật và huyễn thấy chân và tục không hai, cho nên cả hai bình đẳng mới đạt đến nhứt thừa, gốc đã viên mãn ở bậc sơ trụ là nhân ban đầu. Nay gọi nhập địa mà ý gồm chung Biệt - Viên giáo; địa cũng còn gọi là trụ vậy. Kinh Pháp Hoa gọi Thừa (cổ xe) lên cổ xe báu dạo khắp bốn phương; thung dung trong 40 phẩm vị. Nhưng Bát Nhã cũng gọi là chữ có chứa đủ công đức các địa; nhẫn đến dùng vô tự thuyết tức nói đạo vô tướng. Trụ nói đúng theo lý gọi thủy - khởi đầu; địa có nghĩa là chung - chung cục. Do có thủy chung nên tên gọi có khác nhưng thật tế công đức nói chung đều gọi như thế, vì nơi đệ nhất nghĩa vẫn bất động. Theo kinh Tịnh Danh đối thiện nói pháp riêng. Riêng kinh này lý cùng sự biến, trước sau (thủy chung) như nhứt nên đệ nhất nghĩa bất động là vậy. Nhưng phần chú giải lại lấy thật, giống thật đối hình tướng để nói, đó là một cách nói. Nay đem Viên-Ðốn luận nên không thể luận. Bậc khai sĩ vua cõi trời Ðao Lợi không xuất hiện vương vị mà hiện tướng minh vương hóa độ kẻ vô duyên đạt minh trí. Kinh nêu rõ cũng gọi vô duyên là phi hữu, vô tướng là phi vô. Phi hữu vô là trung đạo - diệt đế - đế thứ ba trong tứ đế, cũng gọi là sự thật của tâm. Bao hàm pháp không, chẳng tâm tánh là nghĩa trung đạo; và cũng dùng Không không để sánh ví. Như kinh giải cũng có thể nói vô hữu là không duyên tướng, Không không hoàn toàn vô tướng là vô sanh. Tuy phân biệt pháp như thế song sự thật không khác nên không song chiếu. Kinh Viên Giác nói rằng năng chiếu sở chiếu đồng thời vắng lặng, cần nhất ở chỗ quên tình thấu lý là một. Tuệ Không chiếu sáng dùng trí tuệ soi sáng; chiếu soi nhơn và pháp. Tất cả đều không, có nghĩa không nhưng chiếu sáng nên nói không chiếu. Tâm nhẫn không phân hai hễ nói nhẫn không còn phân biệt năng sở. Ðó cũng là Diệt hoàn toàn không còn trong vòng đối đãi là trung đạo. Khởi sự do Hữu đi vào Vô, nhất như theo kinh giải chưa hoàn toàn, vì văn lược, nên phải nói rằng xuất Không vào Hữu; ra Hữu vào Không biến hóa; chỉ ở khoảng giữa không có hữu-vô. Sau nêu rõ nếu khó biết lìa sáng đến Tín nhẫn; có ba pháp có thể dùng không nhẫn, đoạn kiến hoặc, tư hoặc trong ba cõi, là những phiền não do ngoại giới sắc tâm vô tri, nên lại dùng giả quán để quán sát đó. Ðệ nhất nghĩa không dùng hai pháp phương tiện để quán mà ở đệ tam đế - diệt đế - không tự chiếu. Thật trí duyên vắng lặng vì chính nó Không mà không là vắng lặng. Phương tiện là quyền trí tự chiếu; vì vắng lặng nên rõ vô sanh. Tự chiếu nên không - hữu đều rỗng suốt như kinh dẫn giải. Pháp Không trong không quán là lấy Không soi sáng chân đế. Do duy trì các tướng như thế nên nói không hai tướng, và do giả nên biến hóa trong 6 đường. Lấy không gian để vào không tách rời lý của tam đế. Nói không hai không chiếu như đã đề cập chỗ sáng không hai tướng; không chiếu mà chiếu, tuy chiếu vẫn thuộc lý không. Ba địa Cực Nan Thắng, Diệm Huệ, Hiện Tiền như bài tụng trước thuộc về định vô tướng. Gọi định vì có thể dứt sạch tâm mê vọng ba cõi, tuy không tuệ vắng lặng rỗng suốt không có chỗ duyên. Quán sát thấy vắng lặng nhưng soi chiếu; trở lại quán chiếu quả báo có muôn ngàn sai biệt. Kinh Tịnh Danh gọi đó là vô ngã, không tạo tác, không người thọ; nghiệp thiện ác đều không mất. Bài tụng Vô Sanh Nhẫn nói rằng, người đạt đạo tới đệ thất địa đã thâm nhập pháp vô sanh; nhìn trước trông sau nên gọi là "viễn đạt". Dù chưa được báo thân đủ nhưng đối với 21 sanh thân ở thất địa Bồ Tát vẫn phải còn thọ một lần sanh nữa mới chấm dứt. Cho nên ở phần đoạn sanh tử phải chấm dứt một thân này rồi mới vào biến dịch được, nên nói vào dòng pháp lưu là vậy. Nói qua hai mươi mốt sanh thân trong thất địa, mỗi địa có 3 phẩm thành 21 lần; dùng pháp chánh quán trung đạo nhập dòng pháp lưu không còn bị trở ngại. Trở ngại căn bản từ sơ địa, nay nói ở bát địa mới đạt ngộ là ý tiếp theo của Thông giáo. Khởi thủy đầu tiên nhập vô duyên từ đã vào dòng pháp lưu đến bát địa là đạt vô duyên Kim Cang nhẫn. Nếu dựa theo Biệt giáo luận cũng có nói tâm kim cang. Dựa nhân nói quả đây không sanh vào ba cõi thọ quả báo nữa mà đã dứt ái nhiễm ba cõi. Vì ở thất địa tuy đã dứt mê lầm ba cõi nhưng do chưa đủ trí, vẫn tham đắm Phật trí, là theo con đường của nhiễm ô. Dù còn một - đạo đế - để đạt mà chưa có thể, đến bát địa đạt vô sanh mới dứt sạch thói nhiễm. Viên giáo quán chiếu ba đời là phản chiếu, vì tới đệ bát địa Bồ Tát soi sáng những việc trong ba đời như mặt trời phản chiếu những việc đã qua. Ưa thích những việc hiện tại mà gốc sâu ở vị lai chỉ cần nghĩ ngợi có thể biết, như luận Khởi Tín nói quán sát ba đời giống như ý đây. Do quán như thế nên thấy diệu lý bên trong, đúng là mượn sự hiển lý nơi kinh này, không đủ để suy nghĩ sao?
Pháp quán đảnh [73] tán thán tịch diệt nhẫn đề cập trong đoạn 12 pháp ở trước, vì tín nhẫn trước 30 tâm, cùng với thập địa chín cộng ba là mười hai, hàng đầu trên cùng là trên của mười hai pháp sư. Tịch diệt nhẫn cũng có ba phẩm; phẩm hạ bậc thấp, phẩm trung quán đảnh ở thập địa, phẩm thượng bậc cao tột diệu giác mới là pháp chính. Có thể một lần chuyển vào Diệu Giác phẩm cao tột thường hằng, vì đó là vị cuối cùng của pháp thân rốt ráo. Kinh Hoa Nghiêm gọi đó là pháp thân mầu thanh tịnh thường vắng lặng ứng hợp với tất cả. Ðối với quả Diệu Giác đây khác phân cực ngoài ba phẩm như đã giải. Cũng có thể lặp lại tóm tắt các vị ở trước để hiển lộ chỗ viên minh. Ở đây nói đoạn tức là trước đoạn những ràng buộc sai sử; tới tận cùng của vô minh, nếu không do trí diệu không thể đoạn diệt được, tất cả đều từ gốc vô minh ra. Nói tướng huân tập [74] khác với tân huân là nhiễm ô mới huân vào sau. Cũng như nói cảm được chỗ tận cùng của nhị đế là gốc trung đạo mới đạt tới cứu cánh rốt ráo. Phần sau về vô tướng viên minh gồm trong sáu câu, mỗi câu đều do chữ "đức" hiển lộ, ngoài ba đức tùy cách gọi như kinh giải thích nên biết. Thập địa Diệu giác, Bồ Tát cũng gọi giống như Phật. Có thể nói rằng nhân hết quả mãn; quả hết nhân tròn là ý nghĩa nói trên. Nhưng cũng nói ngũ nhẫn bổ sung soi chiếu; vì văn xuôi nên ngũ nhẫn lời giản lược cùng hợp lực đủ trong 40 vị. Nay tán thán ngũ nhẫn, nói nhẫn quả thật rộng lớn mà 40 vị đều có trong nhẫn. Thập địa quả Diệu giác không giống vì quả này là Bồ Tát nên sanh tử khác nhau. Nếu nói quả thập địa thì nhân sanh quả diệt; còn quả Diệu giác ngược lại. Nên nói bậc đại thánh tùy căn cơ hàng sơ cơ mà chuyển làm cho ngộ. Hàng tam hiền, thập thánh tán thán pháp thân Phật, nên lấy cõi nầy làm nơi nương thân để nêu nhân sánh quả đạt được pháp thân phẩm tối cao là viên minh vắng lặng. Ðây đứng về lý, còn về sự là cõi vô thượng báo thân, là cứu cánh Phật quả. Lý hay sự cũng là hai cõi, đến Biệt-Viên giáo có giáo thuyết, có tu chứng. Dùng giáo thuyết thập địa Biệt giáo sanh nơi báo độ; lấy tu chứng Viên giáo sơ trụ sanh vào cõi hoa tạng. Nên nói đạt đến chỗ không chướng ngại, vì nghi còn một thân sau chót. Từ đoạn này trở đi kinh bổ túc nên cũng từ đây trở đi thuộc quả Diệu Giác cuối cùng chỉ cõi Tịch Quang Tịnh Ðộ. Kế tiếp nói hết thảy chúng sanh tạm ở cõi báo độ nên nhập chung một đoạn. Ðem ba câu hỏi đáp trước đưa vào đây câu thuận dễ nghe, do tất cả chúng sanh tạm trụ nơi báo thân theo văn cựu dịch. Vì câu nghi vấn thiếu từ nên đây giải chỗ không chấp thủ. Ðúng ra phải nói Phật đem chỗ tu chứng rốt ráo nhập kim cang địa bổn nguyên vô vi; hoàn toàn vì hết thảy chúng sanh nên việc hóa độ có dài ngắn khác nhau như trong lời đáp rõ gọn. Trước tiên câu trả lời về Viên giáo nói rằng Thánh hiền do có sanh nên chỉ nói viên mà không nói tịch quang. Ðể nhường cho quả vị, nếu lấy ba phẩm luận thì Ðẳng giác đã đủ sanh được vào phẩm trung, phẩm hạ, còn gọi hiền thánh nên mượn nói khác là Viên cực vậy. Song trong ba cõi sau cũng có Tịnh Ðộ như kinh giải, ở đây chỉ nêu lên chỗ viên cực. Nó dựa chỗ tâm diệu quán thông suốt gọi là tịnh, không giống như đây luận nhân quả tương đối để nói cái vô cùng tịch quang, là ba việc tán thán giáo hóa người khác, hình thức, âm thanh cần phải biết. Ngoại đạo hoàn toàn không có nghĩa đó, vì như trên nói hư vọng tà kiến nên không mang ý nghĩa đích thật. Có thể nói thế tục đế nghĩa là hữu danh vô thật, cũng như chấp một bên tiểu giáo nêu làm thí dụ. Bàn tâm và trí e hiểu lầm nên phải dùng tâm trí quán xét, tịch diệt không còn các duyên. Quán vắng lặng duyên không gọi là không duyên chiếu soi mới ứng hợp với hai câu, sáu pháp động như trước đã giải.
Loài hàm thức sanh ra gốc do mê muội mà đạt diệu báo thân đoan nghiêm do thấy nghe pháp mà được lợi ích như vậy. Hết cuốn ba Chú thích:
[34] Thập hiệu Như Lai: Phật đủ mười hiệu là: 1- Như Lai 2- Ứng Cúng 3- Chánh Biến Tri 4- Minh Hạnh Túc 5- Thiện Thệ 6- Thế Gian Giải 7- Vô Thượng Sĩ 8- Ðiều Ngự Trượng Phu 9- Thiên Nhơn sư 10- Phật Thế Tôn.
[35] Ðoạn đức: Là một trong ba đức tự lợi lợi tha của chư Phật: 1) Trí đức: dứt sạch hết vô tri đủ vô thượng Bồ Ðề 2) Ðoạn đức: đoạn hết phiền não có dư vô thượng Niết Bàn (hai đức này thuộc về tự lợi). 3) Ân đức: có dư đức đại bi cứu giúp tất cả chúng sanh. Ðó là đức lợi tha đem lợi lạc cho người khác, mọi loài.
[36] Chân đế tam tạng: Thiền sư, người nước Ưu Thiền Ni - Tây Ấn Ðộ. Năm Ðại Ðồng thứ 13 đời Lương, Ngài hơn 30 tuổi sang Trung Quốc được vua Vũ Ðế tri ngộ. Sau gặp quốc nạn bỏ sang Bắc Tề, rồi sang Ðông Ngụy, trong lúc lưu lạc bôn ba, Ngài đã soạn thuật phiên dịch các bộ kinh Kim Quang Minh, Luận Nhiếp Ðại Thừa, luận Duy Thức và Thế Thân truyện gồm 278 quyển. Ngài viên tịch ngày 11 tháng 1 năm Ðại Kiến thứ nhất, thọ 71 tuổi.
[37] Tam chuyển pháp luân: ba lần đức Phật chuyển pháp luân. Phật giảng pháp Tứ Diệu Ðế cho hàng Thanh Văn tại vườn Lộc Uyển có ba lần chuyển: 1- Thị chuyển: Ðây là Khổ. Ðây là Tập. Ðây là Diệt. Ðây là Ðạo. Ðây là chỉ rõ bốn tướng của Tứ đế 2- Khuyến chuyển: Khổ nên biết. Tập nên đoạn. Diệt nên chứng. Ðạo nên tu. Ðó là khuyên tu về Tứ đế. 3- Chứng chuyển: Khổ ta đã biết. Tập ta đã đoạn. Diệt ta đã chứng. Ðạo ta đã tu. Ðó là Phật tự nêu mình ra để làm chứng. Hạng thượng căn nhờ Phật chuyển pháp lần thứ nhất, Hạng trung căn nhờ Phật chuyển pháp lần thứ hai, hạng hạ căn nhờ Phật chuyển pháp lần thứ ba và tất cả đều ngộ đạo.
[38] Bốn kinh A hàm: bốn bộ kinh thuộc tiểu bộ là: Trường A Hàm, Trung A Hàm, Tạp A Hàm, Tăng Nhất A Hàm.
[39] Trụ Lăng Già: Lăng Già là tên núi ở nước Sư Tử. Núi lấy tên ngọc báu Lăng Già để gọi, có nghĩa là hiểm trở vô cùng khó mà lên được. Ðức Phật trụ ở núi đó thuyết kinh.
[40] Tứ tất đàn: bốn pháp phổ thí cho chúng sanh, nên gọi là tất đàn hay cũng gọi là bốn pháp thành tựu: 1- Thế giới tất đàn 2- Vị nhân tất đàn 3- Ðối trị tất đàn 4- Ðệ nhất nghĩa tất đàn. Trong 4 nghĩa tất đàn bao quát hết 12 bộ kinh, tám vạn bốn ngàn pháp tạng, đều là thực tướng không trái ngược nhau (theo Luận Trí Ðộ q.1)
[41] Vô tướng: chỉ chân lý dứt tướng trạng, một trong ba pháp ấn: Không, Vô tướng, Vô nguyện (vô tác) đạt đến Niết Bàn giải thoát.
[42] Vô duyên: không có quan hệ ràng buộc. Không có sự vin theo của tâm thức. Nói cách khác là không duyên theo với các pháp nhiễm thế tục.
[43] Pháp tánh: cũng gọi là thực tướng chơn như, pháp giới, Niết Bàn v.v... Tánh hay tính là nói về thể, cái thể không đổi. Chân như là thể của muôn pháp; trong nhơ, sạch ở loài hữu tình, ở loài phi tình, tánh nó không thay đổi nên gọi là pháp tánh.
[44] Nhất thiết trí: tức là Phật trí, biết rõ hết thảy mọi pháp. Cho nên gọi Phật là bậc nhứt thiết hay nhứt thiết chủng trí, tiếng phạn là Tát Bà Nhã. Trí của bậc Thánh biết tất cả các cõi thế giới, chúng sanh, biết tất cả các pháp hữu vi, vô vi, biết tất cả mọi việc quá khứ, hiện tại và vị lai.
[45] Bốn đức: tức là bốn đức của Niết Bàn: chân thường - chân lạc - chân ngã - chân tịnh. Chân thường hay là Thường đức: thể của Niết bàn là vĩnh hằng, bất biến và không sanh diệt nên gọi là Thường; Lạc, Ngã, Tịnh cái thể cũng vắng lặng giải thoát, hoàn toàn an lạc không còn bị nhiễm ô chi phối.
[46] Bát phong: Tám gió hay còn gọi tám pháp là những thứ mà thế gian yêu hay ghét. Tám thứ này làm lay động được lòng người như:1- lợi, 2- suy, 3- hủy (chê), 4- dự (khen) 5- xưng (ca ngợi) 6- cơ (chế nhạo), 7- khổ, 8- lạc.
[47] Sáu căn, sáu trần: sáu căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý căn; sáu trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp trần. Căn tiếp xúc với trần sinh ra thức (nhận thức, phân biệt). Ví dụ: mắt tiếp xúc sắc phân biệt, nhận định rõ mọi vật xung quanh.
[48] Ðệ nhứt nghĩa: tức có nghĩa là đệ nhứt nghĩa đế, là chân lý có nghĩa bậc nhất, Phật Pháp có phân hai mặt: 1- tục đế là pháp thế gian nên cũng gọi là thế đế để hàng phàm phu tu học thuộc về pháp hữu vi; 2- chân đế là pháp xuất thế gian để cho hàng thánh giả hay người xuất gia xét nét, ghi tâm. Do ý nghĩa cao siêu huyền diệu nên gọi là đệ nhứt nghĩa đế hay cũng gọi là thắng nghĩa đế.
[49] Bốn loài chúng sanh: tất cả chủng loại chúng sanh có tình thức đều nằm trong 4 loài: thai sanh, noãn sanh, thấp sanh, hóa sanh. 1- thai sanh: loài sanh bằng bào thai 2- noãn sanh: loài đẻ trứng 3- thấp sanh: loài sanh nơi ẩm thấp 4- hoá sanh: loài biến hóa hình như bướm, muỗi, lăng quăng v.v...
[50] Năm đường: hay 5 cõi chúng sanh lưu chuyển: trời, nguời, a tu la, ngạ quỉ, súc sanh.
[51] Ngũ ấm: còn gọi là ngũ uẩn; uẩn hay ấm là tích tụ, chứa nhóm, hòa hợp tạo thành thân tâm của chúng sanh. Năm món này che lấp chân lý khiến chúng sanh luân hồi thọ khổ. Ðó là sắc, thọ, tưởng, hành, thức
1- Sắc: cũng tức là thân, những vật hữu hình tạo thành bởi sáu căn và sáu trần.
2- Thọ: thọ nhận mọi thứ vui sướng hoặc buồn khổ, hay không vui không khổ.
3- Tưởng: nhận ra màu sắc, chủng loại, tánh phái ...
4- Hành: đối cảnh vật đem lòng ham muốn
5- Thức: hiểu biết sự vật, nhận định đúng sai ...
[52] Pháp tánh: còn gọi là thực tướng chơn như, pháp giới, Niết Bàn. Cái thể của vạn pháp ở loài hữu tình, phi tình, tính nó không đổi gọi là pháp tánh.
[53] Tùy phiền não: phiền não phụ thuộc của tham, sân, si, mạn như ăn năn, chừa lỗi, tìm tòi, xét nét . . .
[54] Thập nhị nhập: hay còn gọi là thập nhị xứ. Nhập tức là vào, xứ là nơi, chỗ. Ðó là sáu căn: nhãn, nhỉ, tỷ, thiệt, thân, ý tiếp xúcsáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp để phân biệt màu sắc tốt, xấu v.v...
[55] Thập bát giới: mười tám giới gồm 6 căn, 6 trần như trên giải thích và 6 thức: nhãn, nhỉ, tỷ, thiệt, thân, ý thức, tức là cái biết của mỗi căn phân biệt ngoại cảnh đúng sai ra sao.
[56] Sáu đại: gồm địa, thủy, hỏa, phong, không, thức. Sáu pháp này đầy dẫy khắp tất cả pháp giới tạo nên loài hữu tình hay phi tình. Nên gọi là đại, vì phi tình do ngũ đại tạo thành, còn hữu tình do lục đại tạo thành.
[57] Vô lượng kiếp: trải qua nhiều đời, nhiều kiếp không thể tính hết được
[58] Thất bảo: bảy món quí báu như: vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não.
[59] Tát Bà Nhã: còn gọi là Tát Vân Nhã. Dịch là Nhứt Thiết Trí. Tát Bà Nhã còn gọi là nhứt thiết chủng trí, tức là trí tuệ quả vị rốt ráo viên mãn của chư Phật; chủng là chủng loại, có nghĩa là chẳng pháp nào là không thông đạt. Vì vô số phẩm loại thế gian và xuất thế gian đều hiểu suốt cho nên gọi là nhứt thiết chủng trí.
[60] Ba pháp vô vi: vô vi có nghĩa là không sanh diệt, không biến đổi. Ðây là 3 trong 6 pháp vô vi theo Duy Thức.
1- Hư không vô vi: chơn như hay pháp tánh, không thể dùng ý thức suy nghĩ hay lời luận bàn được. Nó phi sắc, phi tâm, không sanh diệt, không cấu tịnh, không tăng giảm. Bởi vì không ngã, không pháp, rời các cấu nhiễm, rỗng rang như hư không.
2- Trạch diệt vô vi: do dùng trí tuệ vô lậu, lựa chọn diệt trừ hết các nhiễm ô, nên chơn như vô vi mới hiện. Vì thế nên gọi là trạch diệt vô vi
3- Phi trạch diệt vô vi: vô vi không cần lựa chọn diệt trừ các phiền não. Tánh chơn như vốn thanh tịnh; các pháp hữu vi tạp nhiễm, vì thiếu duyên không sanh khởi, nên pháp vô vi được hiện. Gọi đó là "phi trạch diệt vô vi" (tu chứng đệ tam thiền đạt được ba pháp vô vi này)
[61] Năm pháp nhẫn: 1/ Phục nhẫn 2/ Tính nhẫn 3/ Thuận nhẫn 4/ Vô sinh nhẫn 5/ Tịch diệt nhẫn
[62] Sáu chủng tánh: 6 giống có thể sanh sản thân phận không thay đổi là: 1/ Tập chủng tánh: ở địa vị thập trụ tu tập pháp không quán, phá bỏ mê lầm về kiến thức và về tư tưởng. 2/ Tánh chủng tánh: ở thập hạnh trụ nơi pháp không, giáo hóa được chúng sanh, phân biệt hết thảy pháp tánh. 3/ Ðạo chủng tánh: ở địa vị thập hồi hướng, tu diệu quán trung đạo, nhân đó thông đạt hết thảy Phật Pháp. 4/ Thánh chủng tánh: trở lên ba bực trên gọi là Hiền. Hiền vị nương theo Thập địa của Bồ Tát tu pháp diệu quán trung đạo, phá một phần vô minh, chứng nhập địa vị Thánh. 5/ Ðẳng giác tánh: ở địa vị này Bồ Tát trông mong được diệu giác về sau, chỉ còn có một bậc nữa, nhưng cao hơn bốn địa vị trước. 6/ Diệu giác tánh: địa vị linh diệu cao hơn hết, giác ngộ trọn vẹn.
[63] Thập hồi hướng: mười tâm đại bi cứu hộ tất cả chúng sanh gọi là hồi hướng. Ðó là: 1- Cứu hộ tất cả chúng lìa tướng chúng sanh. 2- Hồi hướng bất hoại 3- Hồi hướng tâm đồng như chư Phật 4- Hồi hướng đến khắp mọi nơi chốn. 5- Hồi hướng vô tận công đức cho tất cả 6- Hồi hướng theo thiện căn bình đẳng 7- Tùy theo quán chúng sanh hồi hướng 8- Hồi hướng chân như tướng 9- Hồi hướng giải thoát không trói buộc 10- Hồi hướng đến vô lượng pháp giới.
[64] Thập kiên tâm: 10 tâm kiên cố, mười tâm không hoại hay 10 tâm Kim Cang đó là: 1- hiểu rõ pháp tánh 2- hóa độ chúng sanh 3- trang nghiêm thế giới 4- thiện căn hồi hướng 5-phụng sự đại sư 6- thực chứng cao pháp 7- rộng tu nhẫn nhục 8- trường kỳ tu hành 9- tự hành đầy đủ 10- khiến thân nhân mãn nguyện.
[65] Tứ nhiếp pháp: bốn pháp nhiếp hóa chúng sanh. Ðó là: 1/ Bố thí: Bố thí có 3 hình thức: a) của cải b) giáo pháp c) ban sự không sợ sệt đến người, vật. 2/ Ái ngữ: nói lời hòa diệu thân thương trong tinh thần xây dựng để đem tin yêu, lợi lạc đến người, vật khác. 3/ Lợi hành: làm việc lành bằng thân, khẩu, ý giúp ích cho chúng sanh. 4/ Ðồng sự: cùng làm trong một ngành nghề, cùng chia xẻ kinh nghiệm với nhau. Ở một góc cạnh khác, dùng pháp nhãn thấy căn tánh của chúng sanh, bèn tùy sở thích của họ mà phân hình thị hiện ra, để làm chung công việc với họ, giúp đỡ cho họ thân ái với mình mà thọ giáo lý.
[66] Vi tế hoặc: phiền não chi li khó thấy. Những bậc trí tuệ sắc bén, phiền não thô trọng đã hết, nhưng còn nhiễm những mối phiền não tế.
[67] Vô duyên đại bi: lòng từ bi chỉ có ở chư Phật. Ðó là lòng từ bi tuyệt đối bình đẳng khởi lên nhờ kiến giải xa lìa sai biệt và không tâm phân biệt. Hàng phàm phu và nhị thừa không thể có được như vậy.
[68] Tứ ma: bốn loại ma 1- Ma phiền não 2- Ngũ ấm ma 3- Ma ba tuần hay thiên ma và 4- Tử ma (ma chết chỉ là một trong các loài ma).
[69] Thất Phật: bảy vị Phật là 1- Tỳ Bà Thi 2- Thi Khí 3- Tỳ Xá Phù 4- Câu Lưu Tôn 5- Câu Na Hàm Mâu Ni 6- Phật Ca Diếp 7- Phật Thích Ca Mâu Ni (đó là 7 vị Phật trong hiền kiếp). Bảy vị Phật thời Quá Khứ Trang Nghiêm kiếp là: 1- Ða Bảo Như Lai 2- Bảo Thắng 3- Diệu Sắc Thân 4- Quảng Bác Thân 5- Ly Bố Úy 6- Cam Lồ Vương 7- A Di Ðà Như Lai.
[70] Do tuần: đọc là do diên hoặc du thiên hay du thiên na hoặc yojana, tên số mục để đo lường của Ấn Ðộ thời xưa. Một do tuần bằng 10 dặm (lý) của Tàu mà một dặm bằng 576m thì một do tuần tương đương 6km.
[71] Ðại sĩ: tiếng gọi chung Bồ Tát, hoặc để gọi Thanh Văn và Phật. Sĩ là từ chỉ chung hạng phàm phu, để phân biệt với phàm phu nên gọi là Ðại. Người làm việc trọng đại lợi lạc khắp mọi loài chúng sanh là Ðại Sĩ hay Khai Sĩ.
[72] Thập thánh: Ba địa trước trong Thập địa là tam hiền, 10 vị trong thập địa là Thập Thánh
[73] Quán đảnh: bên Ấn Ðộ khi một vị tân vương lên ngôi thì vị trưởng thượng trong tôn giáo dùng nước bốn biển mà rưới lên đầu của vị tân vương ban phép lành. Ấy là phép quán đảnh. Do đó, đệ tử được truyền giới, truyền pháp, truyền Phật quả đều có lễ rưới nước lên đỉnh đầu gọi là lễ quán đảnh.
[74] Huân tập: các hành vi thiện, ác, biểu hiện nơi thân, khẩu, ý, thức như xông hương vào quần áo. Hiện ra ở thân, miệng, ý gọi là pháp hiện hành. Khi phân ra ở chân như hoặc A lại Da Thức của pháp hiện hành, gọi là huân tập.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 18.191.97.133 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.