Nếu người có lỗi mà tự biết sai lầm, bỏ dữ làm lành thì tội tự tiêu diệt, như bệnh toát ra mồ hôi, dần dần được thuyên giảm.Kinh Bốn mươi hai chương
Giặc phiền não thường luôn rình rập giết hại người, độc hại hơn kẻ oán thù. Sao còn ham ngủ mà chẳng chịu tỉnh thức?Kinh Lời dạy cuối cùng
Bậc trí bảo vệ thân, bảo vệ luôn lời nói, bảo vệ cả tâm tư, ba nghiệp khéo bảo vệ.Kinh Pháp Cú (Kệ số 234)
Người thực hành ít ham muốn thì lòng được thản nhiên, không phải lo sợ chi cả, cho dù gặp việc thế nào cũng tự thấy đầy đủ.Kinh Lời dạy cuối cùng
Nay vui, đời sau vui, làm phước, hai đời vui.Kinh Pháp Cú (Kệ số 16)
Kẻ làm điều ác là tự chuốc lấy việc dữ cho mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Hương hoa thơm chỉ bay theo chiều gió, tiếng thơm người hiền lan tỏa khắp nơi nơi. Kinh Pháp cú (Kệ số 54)
Lửa nào sánh lửa tham? Ác nào bằng sân hận? Khổ nào sánh khổ uẩn? Lạc nào bằng tịnh lạc?Kinh Pháp Cú (Kệ số 202)
Người ta trói buộc với vợ con, nhà cửa còn hơn cả sự giam cầm nơi lao ngục. Lao ngục còn có hạn kỳ được thả ra, vợ con chẳng thể có lấy một chốc lát xa lìa.Kinh Bốn mươi hai chương
Không làm các việc ác, thành tựu các hạnh lành, giữ tâm ý trong sạch, chính lời chư Phật dạy.Kinh Đại Bát Niết-bàn

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Thánh Hạ Dã Hột Lí Phược Đại Oai Nộ Vương Lập Thành Đại Thần Nghiệm Cung Dưỡng Niệm Tụng Nghi Quỹ Pháp Phẩm [聖賀野紇哩縛大威怒王立成大神驗供養念誦儀軌法品] »» Bản Việt dịch quyển số 2 »»

Thánh Hạ Dã Hột Lí Phược Đại Oai Nộ Vương Lập Thành Đại Thần Nghiệm Cung Dưỡng Niệm Tụng Nghi Quỹ Pháp Phẩm [聖賀野紇哩縛大威怒王立成大神驗供養念誦儀軌法品] »» Bản Việt dịch quyển số 2

Donate


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Phẩm Pháp Nghi Quỹ Niệm Tụng Cúng Dường Thánh Hạ Dã Hột Lí Phược Đại Oai Nộ Vương Lập Thành Đại Thần Nghiệm

Kinh này có 2 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | Quyển cuối
Việt dịch: Huyền Thanh

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Tiếp kết Đàn Ba La Mật Bì Trí ấn : Ngữa lòng bàn tay phải co độ nhẫn ( Ngón giữa phải ) cùng vịn Thiền độ ( Ngón cái phải ) các ngón khác đều duỗi thẳng - liền tụng chân ngôn là :
“ ÁN – Bà Nga phộc để na nẵng địa bã đế, vĩ sa lật nhạ, bố la dãõ đã ná, sa phộc hạ “
*) OM. BHAGAVATE DÀNA ADHIPATI VISRJA PURAYA ĐANAM – SVÀHÀ
Do kết ấn tụng chân ngôn 3 biến liền diệt hạt giống
45
nghiệp keo kiệt trong vô lượng kiếp, đắc được phước của 3 loại thí là : Tư sinh thí, vô úy thí, pháp thí tức viên mãn Đàn Ba la mật ( Dàna pàramita ). Đời này được giàu có , đầy đủ tư duyên, tâm được tự tại, mau tăng thọ mệnh
Tiếp kết giới Ba La Mật Aán : 2 tay cài chéo nhau bên trong, dựng thẳng Thiền Trí ( 2 ngón cái ) tụng chân ngôn là:
“ÁN – Thi la đà lị nê, bà nga phộc đế, hồng hách”
*) OM – ‘ STLA DHÀRINI BHAGAVATE HÙM HAH
Do kết ấn này tụng chân ngôn 3 hiến liền diệt hạt giống nghiệp phá giới trong vô lượng kiếp, được công đức của 3 loại giới là : Nhiếp Luật Nghi giới , Nhiếp Thiện Pháp giới, Nhiêu ích Hữu Tình giới tức viên mãn Giới Ba La Mật ( ‘Sìla pàramita ) thường dùng giới phẩm trang nghiêm nghiệp thân khẩu ý – Hết thảy việc vi phạm 4 trọng cấm, Bật Sô Ni phạm Tha Thắng tội thảy đều thanh tĩnh, ngày sau được tùy nguyện vãng sinh
Tiếp kết Nhẫn Nhục Ba La Mật Bồ Tát Aán – Dựa theo giới Ba La Mật ấn, đem tiến lực ( 2 ngón trỏ ) hợp nhau như cây kim, kèm đứng Thiền Trí ( 2 ngón cái ) liền tụng chân ngôn là :
“ ÁN – Bà nga phộc để khất sản để đà lị nê, Hồng, phát tra “
*) OM- BHAGAVATE KSÀNTI DHÀRINI HÙM PHAT
Do kết ấn này tụng chân ngôn, ắt diệt hạt giống nghiệp
46
giận ghét trong vô lượng kiếp, được công đức của 3 loại nhẫn là : Hại ốn nại nhẫn, An thọ khổ nhẫn, đế sát pháp nhẫn tức viên mãn nhẫn nhục Ba La Mật (Ksànti pàramita) – Nghi dung đoan nghiêm khiến người ưa nhìn, chẳng khởi ganh ghét, thảy đều gần gũi phụ giúp, thắng giải thâm sâu, tùy niệm biến hóa
- Tiếp kết tinh tiến Ba La Mật Aán : Dựa theo Nhẫn Ba La Mật Aán , mở bạt tiến lực ( 2 ngón trỏ ) liền thành – chân ngôn là :
“ ÁN – Vĩ lị dã ca lị Hồng – Vĩ lị nãnh, vĩ lị nãnh, sa phộc hạ “
*) OM – VÌRYA KÀRI HÙM – VÌRYE VÌRYE – SVÀHÀ
Do kết ấn này tụng chân ngôn 3 biến liền diệt hạt giống nghiệp giải đãi, lười biếng, được 3 loại tinh tiến là bị giáp tinh tiến , Nhiếp Thiện pháp tinh tiến, lợi lạc hữu tình tinh tiến tức viên mãn tinh tiến Ba La Mật (Vìrya Pàramita ) thân tâm an vui, xa lìa các bệnh tật,
không có khổ não, đều được thành biện phước trí của Thế Gian và Xuất Thế Gian
Tiếp kết Thiền Ba La Mật Bồ Tát Aán : Liền ngồi kiết già, ngữa lòng bàn tay trái đặt trên già phu, ngữa lòng bàn tay phải đặt trên tay trái , để 2 độ Thiền Trí (2 ngón cái ) cùng chạm móng nhau – Liền tụng chân ngôn là
“ ÁN – Bà nga phộc để, tát phộc bá bã ha lị nê, ma ha nại để duệ– Hồøng, Hồng, Hồng, Hồng phát tra “
47
*) OM – BHAGAVATE – SARVA PÀPA HÀRINIYE MAHÀ DETYE – HÙM, HÙM, HÙM, HÙM – PHẠT
Do kết ấn này tụng chân ngôn 3 biến, liền diệt hạt giống nghiệp tán loạn trong vô lượng kiếp, được 3 loại tĩnh lự là : An trụ tĩnh lự, Dẫn phát Tĩnh lự, Biện sự Tĩnh lự tức viên mãn Thiền Ba La Mật ( Dhyàna Pàramita ) Thân tâm nhẹ nhàng lanh lợi, mau được thành tựu thần thông đã tu, các Ma chẳng dám xâm loạn, tất cả nghiệp chướng thảy đều tiêu diệt.
Tiếp kết Bát Nhã Ba La Mật Bồ Tát Aán : – Tay trái duỗi 5 ngón bằng phẳng, ngữa đặt dưới trái tim – Đem tay phải che ở trên tay trái – Liền tụng chân ngôn là :
“ ÁN địa, thất lị, Thâu lỗ đa, Vĩ nhạ duệ, Sa phộc hạ”
*) OM - DHÌH – ‘SRÌ ‘SRÙTA VIJAYE – SVÀHÀ
Do kết ấn này tụng chân ngôn 3 biến, liền diệt hạt giống nghiệp ngu si trong vô lượng kiếp, được 3 loại tuệ là : Nhân không vô phân biệt tuệ, pháp không vô phân biệt tuệ, câu không vô phân biệt tuệ tức viên mãn Bát Nhã Ba La Mật ( prajna pàramita ) đắc được thông kinh trí tuệ, ngộ giải pháp Thế gian và xuất thế gian, thông đạt rộng rãi nghĩa lý thâm sâu của 5 Minh
Tiếp kết phương tiện Ba La Mật Bồ Tát Ấn : - Tay trái tuệ ( ngón út ) phương ( ngón vô danh ) nắn trí độ (ngón cái ) tay phải : Đàn ( ngón út ) giới ( ngón vô danh )
48
nắm Thiền độ ( ngón cái ) – 2 tay cùng nắm nhau, nhẫn nguyện ( 2 ngón giữa ) chung lưng dựng thẳng như cây kim, duỗi bằng Tiến lực ( 2 ngón trỏ ) dính nhau – Liền tụng chân ngôn là :
“ ÁN Ma hạ mỗi đát la tức đế, sa phộc hạ “
*) OM – MAHÀ MAI TRA CITTE – SVÀ HÀ
Do kết ấn này tụng chân ngôn 3 biến, liền diệt hạt giống Nghiệp phương tiện không khéo léo trong vô lượng kiếp, đựơc 2 loại phương tiện khéo léo là : Hồi hướng phương tiện thiện xảo, bạt tế hữu tình phương tiện thiện xảo tức viên mãn phương tiện Ba La Mật (upaya pàramita) tu từ 6 độ Ba La Mật của Thế gian
Do ấn chân ngôn này tương ứng Du già ( Yoga ) chỉ thực hiện chút ít công nghiệp sẽ mau được thành tựu phước đức rộng nhiều, đều đủ tư lương của Bồ Đề Vô Thượng tối thắng cứu cánh
Tiếp kết nguyện Ba La Mật Bồ Tát Ấn : - Tay trái dựng thẳng 5 ngón, đưa lòng bàn tay hướng ra ngồi làm thế Thí vô úy. Liền tụng chân ngôn là :
“ ÁN – Ca lễ nê, hạ hạ hạ
*) OM – KARUNI HA HA HA
Do kết ấn này tụng chân ngôn 3 biến, liền diệt hạt giống nghiệp ác, nguyện trong vô lượng kiếp, được 2 loại Thắng nguyện là : Cầu Vô Thượng Bồ Đề nguyện, lợi lạc Hữu Tình nguyện, tức viên mãn nguyện Ba La Mật ( Prani dhàna pàramita ) từ xơ phát tâm đến lúc thành phật, ở trong khoản này, mọi mong cầu thế gian và xuất thế gian,
49
thượng nguyện thù thắng đều được viên mãn
Tiếp kết Lực Ba La Mật Bồ Tát Aán : - Dựa theo giới Ma La Mật Ấn lúc trước, đều dựng thiền trí ( 2 ngón cái ) tiến lực ( 2 ngón trỏ ) nhẫn nguyện ( 2 ngón giữa ) sao cho cùng hợp đầu ngón. Tụng chân ngôn là :
“ ÁN – Ná ma Nãnh, Mẫu hưu đế, hồng hạ hạ hạ, hồng, nhược “
*) OM – DAMANI MUDITE HÙM HA HA HA, HÙM JAH
Do kết ấn này tụng chân ngôn 3 biến, liền diệt hạt giống nghiệp “ ý kém cỏi “ của thế gian và xuất thế gian trong vô lượng kiếp, được 2 loại lực là : Tư trạch lực, tu tập lực. Tức viên mãn lực Ba La Mật ( Bàla Pàramita ) nơi các pháp đối trị, giáng phục các phiền não, cắt đứt các hoặc chướng. Lúc tu Đạo thì quyết định Thắng giải, tất cả Thiên Ma bạo ác chẳng dám dời đổi, được bất thối chuyển
Tiếp kết Trí Ba La Mật Bồ Tát Ấn : - Hai tay cài chéo nhau bên ngồi rồi nắm quyền, dựng thẳng đàn tuệ ( 2 ngón út ) trợ giao nhau chút ít, co đầu tiến lực (2 ngón trỏ ) trụ tròn trịa, dựng thẳng nhẫn nguyện ( 2 ngón giữa ) cho đầu ngón hợp nhau. Liền tụng chân ngôn là :
“ ÁN – Ma ma chỉ nhương nẵng ca lị hồng, sa phộc hạ “
*) OM – MAMA JNÀNA KÀRI HÙM SVÀHÀ.
Do kết ấn này tụng chân ngôn 3 biến, liền diệt hạt giống Câu sinh ngả chấp và hạt giống Câu sinh pháp chấp trong vô lượng kiếp, được 2 loại Thọ dụng trí là : Thọ dụng
50
pháp lạc trí, Thành tựu hữu tình trí; tức viên mãn Trí Ba La Mật ( Jnàna pàramita ) cắt đứt 2 loại chướng là phiền não chướng và sở tri chướng, chứng đựơc tất cả các pháp như huyển, như dợn nước dưới nắng ( dương diệm ) , như mộng, như ảnh tượng, như tiếng vang ( cốc hưởng ), như quang ảnh, như bóng trăng dưới nước ( thủy nguyệt ), như biến hóa, như nhân đà la võng ( lưới trời Đế Thích ) như hư không ; chẳng bao lâu mãn túc mười Địa, trụ Pháp Vân Địa làm Đại pháp sư.
Tiếp kết Bà La Đá Na Đồng Tử Ấn : - Hai tay cài chéo các ngón bên trong rồi nắm lại thành quyền, dựng tiến lực ( 2 ngón trỏ ) khiến cho 2 đầu ngón dính nhau thành hình tròn, kèm dựng thiền trí ( 2 ngón cái ). Chân ngôn là :
“ Nẵng Mạc Tam Mãn Đá Một Đà Nẫm – Đát nể dã tha, bột địa, bột địa, tố bột địa, nhân đạt lê bột địa, ma mê thâu ca lam, bà la mô giã đô, sa phộc hạ “
*) NAMAH SAMANTA BUDDHÀNÀM. TADYATHÀ : BUDDHI BUDDHI SUBUDDHI, INDRIBUDDHI MÀME SUGRAM BHARA MUKTO SVÀHÀ.
Do kết ấn này tụng chân ngôn 3 biến cho nên các Tỳ Na Dạ Ca ( Vinàyaka) chẳng được dịp thuận tiện ( hãm hại) . Nếu có người ác không có tội gây điều lưu nạn – những người ác ấy ở dưới chân hành giả, tụng chân ngôn 21 biến thì hết thảy lưu nạn đều được tiêu tan, khởi Tâm Từ hướng về nhau thì chẳng thể gây chướng ngại, lại hay tự cho lực của Bản Tôn
51
Tiếp kết Ba La Già Na Đồng Tử Ấn : - 2 tay cài chéo nhau bên trong, hợp dựng 2 độ tiến lực ( 2 ngón trỏ ) rồi hơi co lại, kèm dựng Thiền trí ( 2 ngón cái ) liền thành – Chân ngôn là :
“ Nẵng mạc Tam Mãn đá một đà nam – Đá điệt tha: Tát la, bát la Tát la, xã gia, tỳ xã gia – bạt chiết la cú la tam bà bá, sa bả na ca, sa nhật đô tử – sa phộc hạ”
*) NAMAH SAMANTA BUDDHÀ NÀM .
TADYATHÀ : SÀRA PRASÀRA JAYA VIJAJA – VAJRA KULA SAMHBAVA, SAMPANAKA ( đông đủ, tuyệt hảo) SAMUKSATI ( Tán rải đều tốt đẹp, làm hết lòng tận tâm ) SVÀHÀ
Do kết ấn này tung chân ngôn 3 biến hay giáng phục tịch trừ tất cả ác ma và tất cả giặc cướp, chẳng có thể hại hay trợ Bản Tôn
Tiếp kết Nhất Kế La Sát Đồng Tử Ấn : - Dựa theo Bà La già na Ấn lúc trước, để tiến lực ( 2 ngón trỏ ) cùng hợp đầu ngón như cây kim, liền thành chân ngôn là :
“ Đá điệt tha : Án – Thấp bế đa dạ, Thấp bế đa bồ bế dạ – e hế ê hế , bát la ma thâu đa, tát đỏa– ma ha ca lô nị ca, sa phộc hạ “
*) TADYATHÀ : OM – ‘SVETÀYA ‘SVETA PUSPEYA EHYEHI PRAMA ‘SUDDHA SATVA – MAHÀ KARUNIKA SVÀHÀ
Do kết ấn này tụng chân ngôn 3 biến, cho nên tịch trừ
52
hết tất cả nhóm Ma, Quỷ, Thần ở 4 phương , hay trợ cho Bản Tôn
Tiếp kết A Bà La Để Đồng Tử Ấn : – Dựa theo nhất kế La Sát Ấn lúc trước, hơi co tiến lực ( 2 ngón trỏ ) như cánh sen, liền thành – chân ngôn là :
“ ÁN – Lị Tất, để lị lô ca tỳ xã dạ – A mô già ba xã – Ma Ha cưu lê đà la xà lạ – lị đà dạ A Ba la để ha đá, hồng hồng, phát, phát – sa phộc hạ “
*) OM – RSÌ – TRILOKA VIJAYA – AMOGHA PÀ’SA-MAHÀ KRODHA RÀJAYA – ARDÀYA APRATIHATA HÙM, HÙM- PHẠT PHẠT – SVÀHÀ
Do kết ấn này tụng chân ngôn 3 biến, cho nên hay tịch trừ hết tất cả các ma ác, quỷ thần … Trong hư không ở trên trời, thành các sự nghiệp không có nạn gây trở ngại, hay trợ cho lực của Bản Tôn. Hành giả tùy tâm thành tựu tất cả Tất Địa.
Tiếp kết Nan Đà Long Vương Ấn : - Kèm cứng 2 ngón cái đều vịn hai đầu ngón út, hai tay kèm cứng cùng dính nhau, hai ngón trỏ vịn ngay trên hai ngón cái, hai ngón út, hai ngón vô danh cũng vậy, hai ngón giữa ở ngay trên sao cho đầu ngón hơi các nhau, phía dưới lòng bàn tay cùng dính nhau. Chân ngôn là :
“ ÁN – Ma ha thất lị duệ, sa phộc hạ “
*) OM – MAHÀ ‘SRÌYE SVÀHÀ
Tiếp kết Bà Tố Nan Long Vương Ấn : - Từ ngón trỏ trở xuống 4 ngón đều cài ngang nhau, hướng vào bên trong cùng vịn nhau co ngón cái vào khoản giữa của ngón trỏ,
53
duỗi thẳng ngón cái phải hướng vào trong đừng để bị cong, hai cổ tay cùng hợp nhau, đưa ngón cái phải qua lại – Chân ngôn là :
“ ÁN – Ma ha thuế đê, sa phộc hạ “
*) OM – MAHÀ ‘SUDDHE SVÀHÀ
Tiếp kết Đức Xoa Ca Long Vương Ấn : - Hợp cổ tay, hai ngón trỏ, hai ngón giữa, hai ngón vô danh đều co đầu ngón trụ nhau và lóng góc hợp bằng nhau, kèm cứng hai ngón cái dính nhau, vịn bên cạnh đầu ngón trỏ, hai ngón út thẳng đầu dính nhau, đưa ngón cái qua lại – chân ngôn là :
“ ÁN – Tứ, đát lê đát lêâ, vĩ xà duệ, sa phộc hạ “
*) OM – HE TURU TURU VIJAYE SVÀHÀ
Tiếp kết Yết Cố Tra Long Vương Ấn : - Hợp cổ tay hai ngón cái, hai ngón út dựng thẳng đầu ngón, dựng thẳng các ngón còn lại chẳng dính nhau - chân ngôn là :
“ ÁN – Bồ đề bồ đà bát để, thâu đà nể, sa phộc hạ
*) OM – BUDDHE BUDDHAPATI ‘SODHANE SVÀHÀ
Tiếp kết Bát Ma Long Vương Ấn : - Hai tay hướng ngón giữa, ngón vô danh, ngón út ra ngồi cùng cài chéo nhau rồi chắp lại, bên phải đè bên trái, đầu ngón bám lưng bàn tay, kèm hai ngón trỏ dính nhau, ngón cái cũng vậy đều nắm ngón trỏ, đưa ngón cái qua lại – chân ngôn là :
“ ÁN – ô đặc già để, tức phổ lỗ, sa phộc hạ”
*) OM – UDGATE SPHURU SVÀHÀ
Tiếp kết Ma Ha Bát Ma Long Vương Ấn : - Tay trái co ngón cái hướng vào lòng bàn tay, lại co ngón trỏ đầu
54
ngón cách đầu ngón cái bốn năm phân, tử ngón giữa trở xuống, ba ngón vịn móng cùng nắm nhau, đặt ấn nằm ngang, cạnh dính trên trái tim, đầu ngón tay hướng bên phải – chân ngôn là :
“ ÁN – Thấp đế đê xà nể, sa phộc hạ “
*) OM – ‘SVETE JANI SVÀHÀ
Tiếp kết Thương Khư Bà La Long Vương Ấn : - Hai ngón vô danh đều đặt riêng trên lưng ngón giữa, dựng hai ngón giữa sao cho đầu ngón hợp cứng nhau, kèm dính hai ngón út và hai ngón cái, co hai ngón trỏ dính đầu ngón đều đè đầu hai ngón cái, ngón trỏ đặt ngang bằng lóng thứ hai hợp bằng phẳng, đưa ngón trỏ qua lại – chân ngôn là :
“ ÁN – Tỳ lê câu đê phương, bà la đề già la ba, sa phộc hạ “
*) OM – BHRKUTIM PRATIGARBHA SVÀHÀ
Tiếp kết Cưu Lợi Ca Long Vương Ấn : - Co hai ngón vô danh đặt ở lòng bàn tay, bên phải đè bên trái, đều dựng hai ngón út và hai ngón giữa dính nhau, co hai ngón trỏ đầu phụ dưới lóng thứ nhất của ngón giữa, co hai ngón cái nắm cạnh lóng bên dưới của ngón trỏ- chân ngôn là :
“ ÁN – Bà già bà để biệu, tỳ lợi câu đề biệu bát la na nể biệu , bát la bà bá đề, sa phộc hạ “
*)OM–BHAGAVATEBHYAH HRKUTEBHYAH
PRADÀNEBHYAH PRABHÀVATI SVÀHÀ
Do kết ấn của 8 Đại Long Vương và đều tụng chân ngôn 3 biến cùng với vô lượng long chúng đầu vây quanh
55
trợ cho lực của Bản Tôn. Người tu Du Già thành các sự nghiệp uy đức tự tại.
Tiếp kết Tự Tại Thiên Ấn : - Tay phải nắm quyền đặt ở eo phải, tay trái dựng thẳng 5 ngón dính nhau, co lóng giữa hai ngón địa thủy ( ngón út, ngón vô danh ) 3 ngón quả phong không ( ngón giữa, ngón trỏ, ngón cái ) hơi cách nhau liền thành. Đem Ấn hướng ra ngồi dựng đứng – chân ngôn là :
“ Nẵng mạc tam mãn đa bột đà nẵm – Án - y xá nẵng duệ , sa phộc hạ “
*) NAMAH SAMANTA BUDDHÀNÀM - OM – I’SANÀYE SVÀHÀ
Tiếp kết Đế Thích Thiên Ấn – tay phải giống như trước, tay trái dựng thẳng 5 ngón dính nhau, co lóng giữa của 2 ngón địa thủy ( ngón út, ngón vô danh ), đặt ngón phong ( ngón trỏ ) dính lưng hỏa ( ngón giữa ) co lóng giữa của không ( ngón cái ) – Chân Ngôn là :
“ ÁN – Nhẫn Nại la dã, sa phộc hạ “
*) OM – INDRÀYA - SVÀHÀ
Tiếp kết Hỏa Thiên Ấn – Tay trái nắm quyền chặt ở eo – Tay phải dựng thẳng 5 ngón dính nhau, co không (ngón cái) vào lòng bàn tay, co lóng giữa của phong (ngón trỏ ) – chân ngôn là :
“ ÁN – A nga na duệ, sa phộc hạ “
*) OM – AGNÀYE – SVÀHÀ
Tiếp kết Diễm Ma Thiên Ấn – Trước tiên chắp 2 tay
56
lại, co lóng giữa 2 Địa (ngón út) sao co dính lửng nhau, 2 phong (ngón trỏ) cũng đều co dính hong, đem 2 ngón cái đều đè lóng giữa của phong (ngón trỏ) liền thành – Chân Ngôn là :
“ ÁN – Diễm Ma gia, sa phộc hạ”
* OM – YAM MÀYA – SVÀHÀ
Tiếp kết La Sát thiên Ấn – Tay phải nắm quyền đặt ở eo – Tay trái dựng thẳng 5 ngón dính nhau, co lóng giữa của Địa Thủy (ngón út, ngón vô danh), đem đầu không (ngón cái) đè móng Địa Thủy (ngón út, ngón vô danh) liền thành – Chân Ngôn là :
“ ÁN – Địa lị đề duệ, sa phộc hạ”
* OM – DRTYE – SVÀHÀ
(Bản khác ghi là : OM – NRTYE – SVÀHÀ)
Tiếp kết Thủy Thiên Ấn – Tay phải như lúc trước – Tay trái nắm quyền chẳng để không (ngón cái) vào trong lòng bàn tay, dựng thẳng phong (ngón trỏ) hơi co, liền thành, Chân Ngôn là :
“ÁN – phộc lỗ noa dã, sa phộc hạ”
* OM – VARUNÀYA – SVÀHÀ
Tiếp kết phong Thiên Ấn – Tay phải như trước – tay trái dựng thẳng 5 ngón dính nhau, co lóng giữa của Địa (ngón út) Thủy (ngón vô danh) liền thành – Chân Ngôn là:
“ ÁN – phộc gia phệ, sa phộc hạ”
* OM – VAYÀVE – SVÀHÀ
Tiếp kết Tỳ Sa Môn Thiên Ấn – Trước trên, chắp 2 tay lại, 10 ngón tay cài chéo nhau bên trong, dựng 2 Thủy
57
(ngón vô danh) sao cho đầu ngón trụ nhau, hơi co 2 phong (ngón trỏ) Tả Không (ngón cái trái) vào trong lòng bàn tay đè móng Tả Hỏa (ngón giữa trái), Hữu Không (ngón cái phải) vượt lưng Tả Không (ngón cái trái) vào trong chưởng trái đè Hữu Hỏa (ngón giữa phải) Chân Ngôn là :
* ÁN – phệ Thất la phộc noa dã, sa phộc hạ”
* OM – VAI’SRAVANÀYA – SVÀHÀ
Tiếp kết phạm Thiên Ấn – Tay phải nắm quyền đặt ở eo – Tay trái dựng thẳng 5 ngón dính nhau rồi hơi co lại – Đưa Ấn cao hơn lông mày liền thành Liên Hoa Chưởng – Chân Ngôn ấy là :
“ ÁN – Một la hàm ma ninh – sa phộc hạ”
* OM – BRAHMANI – SVÀHÀ
Tiếp kết Địa Thiên Ấn – Trước tiên chắp 2 tay lại, 4 ngón từ phong (ngón trỏ) trở xuống cùng đính đầu ngón rồi mở lớn về phương phía trước, 2 Không (ngón cái) đều dính bốn cạnh phong (ngón trỏ) Chân Ngôn là :
“ ÁN – Tất lị thể vi duệ, sa phộc hạ”
* OM – PRTHIVÌYE – SVÀHÀ
Tiếp kết Nhật Thiên Ấn. Chẳng khác với Địa Thiên Ấn lúc trước, chỉ đem đầu 2 không (ngón cái) đều trụ lóng dưới của Thủy (ngón vô danh) – Chân Ngôn là :
“ ÁN – A nễ đát dã, sa bã ha”
* OM – ÀDITYA – SVÀHÀ
Tiếp kết Nguyệt Thiên Ấn – Như phạm Thiên Ấn lúc trước, chỉ nắm quyền, chính giữa có tướng màu trắng tinh
của mặt trăng – Chân Ngôn là :
58
“ ÁN – chiến nại la dã, sa bà ha”
* OM – CANDRÀYA – SVÀHÀ
Do kết 12 Thiên Vương Ấn và tụng Chân Ngôn cho nên người tu Du Già làm các sự nghiệp có uy đức tự tại.
Lại nữa Thánh Giã Mã Đầu Tôn Uy Nộ Vương. Nói về đại hộ Thân, kết giới, Ấn và Chân Ngôn – hai tay; 3 ngón từ ngón giữa trở xuống hướng ra ngồi cài nhau đều nắm dính lưng bàn tay rồi chắp tay lại – Dựng thẳng 2 ngón trỏ cách nhau khoảng 5 phân, kèm 2 ngón cái dính nhau đều co lóng thứ nhất sao cho không chạm vào ngón trỏ rồi đưa đầu ngón qua lại – Chân Ngôn là :
“ ÁN – bát la tỳ ca tất đá, bạt chiết la bộ phiệt la la chi, sa phộc hạ”
* OM – PRAVIKASITA VAJRA BHÙRA ARCI – SVÀHÀ
Thánh Giã Mã Đầu Tôn đại uy nộ vương lại nói về Đại pháp Thân Ấn Chân Ngôn. Hai tay, 3 ngón từ ngón trỏ trở xuống hướng ra ngồi cài chéo nhau sao cho đầu ngón đều bám dính lưng bàn tay rồi chắp tay lại – Kèm dựng 2 ngón út họp nhau, kèm 2 ngón cái dính nhau rồi co lại, giận dữ đưa ngón cái qua lại – Chân Ngôn là :
“ Nẵng mạc Tam mãn đa một đà nam – ÁN – đỗ na, đỗ na – ma tha, ma tha – khả đà, khả đà – Ha dã hột lị phộc – Hồng, pháp tra – sa phộc hạ”
* NAMAH SAMATA BUDDHÀNÀM
OM – DHUNA DHUNA, MATHA MATHA,
59
KBADA KBADA – HÀYAGRIVA HÙM PHAT - SVÀHÀ
Thánh giả Mã Đầu Uy Nộ Vương lại nói về Đại pháp Tâm Ấn Chân Ngôn : Hai tay, 4 ngón từ ngón trỏ trở xuống hướng ra ngồi cài nhau sao cho đầu ngón đều bám dính lưng bàn tay rồi chắp tay lại, kèm 2 ngón cái dính nhau đều co 1 lóng đừng để dính ngón trỏ, đưa ngón cái qua lại – Chân Ngôn là :
“ Nẵng mạc tam mạn đa một đà nam – A mật lợi đô nạp bà phộc, Hồng phát tra, sa phộc hạ”
* NAMAH SAMANTA BUDDHÀNÀM – AMRTA UDBHAVA HÙM PHAT SVÀHÀ.
Thánh giả Mã Đầu Uy Nộ Vương lại nói về Đại pháp Đầu Ấn Chân Ngôn – Dựa theo Ấn Hộ Thân lúc trước, chỉ sửa 2 ngón trỏ sao cho đầu ngón trụ nhau, đều co 2 ngón út cái cho đầu ngón ló ra – Chân Ngôn là :
“ Nẵng mạc tam mạn đa một đà nam – dá điệt tha chước ca lội bố, chước ca la xoa lội bố, chước ca la bã đàm ma xoa lợi bố – A mô già tả thủy la chỉ vị – bả la xả võng già xa đô, sa phộc hạ”
Thánh Giả Mã Đầu Tôn đại uy nộ vương lại nói về Đại pháp Đỉnh Ấn Chân Ngôn – Dựa theo Đầu Ấn lúc trước chỉ sửa dựng 1 ngón trỏ dính đầu nhau, để riêng 2 ngón giữa ở trước ngón trỏ sao cho đầu ngón trụ nhau Chân Ngôn là :
“ Nẵng mạc tam mạc đa một đà nam – Thất lị la lị
hí, Hồng phát tra, sa phộc hạ”
60
* NAMAH SAMANTA BUDDHÀNÀM - ‘SARIRA ARCI HÙM PHAT – SVÀHÀ
Thánh giả Mã Đầu Uy Nộ Vương lại nói về Đại pháp Khẩu Ấn Chân Ngôn - 2 tay cài ngược các ngón trong lòng bàn tay, dựng thẳng 2 ngón giữa trụ đầu nhau, kèm dựng 2 ngón cái, đem ngón trỏ phải vịn đầu ngón cái phải, hơi cong cứng ngón trỏ trái đặt bên cạnh ngón giữa – Chân Ngôn là :
“ Nẵng mạcd tam mạn đa một đà nam – ÁN – thể lỗ lô, cưu lỗ đà na, ô hòng phán, sa phộc hạ”
* NAMAH SAMANTA BUDDHÀNÀM – OM VIRULA KRODHANA HÙM PHAT –SVÀHÀ
Thánh giả Mã Đầu Uy Nộ Vương lại nói về Đại pháp Nha Ấn Chân Ngôn – Dựa theo Ấn trước, chỉ sửa dựng thẳng 2 ngón giữa dính đầu nhau, kèm dựng 2 ngón cái bám ngón giữa – Trước tiên, đem ngón út trái nắm sau lưng ngón vô danh phải, đem ngón út phải nắm lưng ngón út trái – Chân Ngôn là :
“ Nẵng mộ la đa na đát la dạ gia – Nam mô A lợi gia, bà lô cát đế, nhiếp ba la gia, bồ đề tát đả bà gia, ma ha tát đỏa bà gia, ma hạ ca lô ni ca gia – Dá điệt tha : Dá la tra, dá la tra – mạt tra, mạt tra – san đà, san đà, tần đà, tần đà – Hồng Hồng – phát tra phát tra – sa phộc hạ”
* NAMO RATNA TRAYÀYA NAMAH ÀRYA AVALOKITE’SVARÀYA BODHISATRÀYA MAHÀ
61
SATRÀYA, MAHÀ KÀRUNIKÀYA
TADYATHÀ : TRÁT TRÁT – MAT MAT – CCBINDHA CCBINDHA – BHINDHA BHINDHA – HÙM HÙM – PHAT PHAT – SVÀHÀ
Thánh Giã Mã Đầu Tôn Đại Uy Nộ Vương lại nói về chư chướng Hán Thực Ấn Chân Ngôn – Tay trái đều dựng 5 ngón, để tay phải hướng xuống dưới sao cho các đầu ngón tay của ngón giữa, ngón vô danh, ngón cái đều trụ nhau – Chân Ngôn là :
“ Nẵng mạc tam mạo đa một đà nam – Hùm Hồng khư na dã, bạn nhạ, la cự tra dã, sa phộc hạ’
* NAMAH SAMANTA BUDDBÀNÀM – HÙM HÙM BHAMJA SPHATYA – SVÀHÀ
Thánh Giã Mã Đầu Tôn Đại Uy Nộ Vương lại nói về cấm đoạn chư chướng Nhuệ Dao Ấn Chân Ngôn – 2 tay Định Tuệ đều nắm Kim Cương Quyền, duỗi thẳng Hỏa phong (ngón giữa, ngón trỏ); Đem Không (ngón cái) giữ Địa Thủy (Ngón út, ngón vô danh) – Tay Tam Muội (tay trái) làm cái bao (vỏ) tay Bát Nhã (tay phải) làm cây đao Đao Tuệ vào, trụ, ra đều trú ở cái bao Tam Muội – Đây tức là uy nghi của Mã Đầu Tôn Cấm Đoạn Chư Chướng Mạt Ấn.
Định Tuệ (2 tay) đều trụ ở trái tim – Tay Tuệ (tay phải) chuyển vòng khắp cả, cần biết vật được chạm đến tức là Khử Cấu (trừ bỏ dơ bẩn) – Đem chuyển theo bên trái liền thành Tịch Trừ – Nếu kết phương Ngung Giới đều
62
khiến tùy chuyển theo bên phải – Mọi sự nghiệp khác như : Diệt ác, Tĩnh các chướng cũng nên làm như vậy, tùy loại mà tương ứng – Chân Ngôn là :
“ Nẵng mạc Tam mạn đa một đà nam – Đá điệt Tha: Ha lị, ha lị, vô ha lị, vật ha lị – Tát phộc đột sắt đảm, chiêm bà dạ nhĩ dạ bạt kiệt lan địa na văn đỗ nhĩ – sa bà hạ”
* NAMAH SAMANTA BUDDHÀNAM
TADYATHA, HARI, HARI, MOHARI, VIHARI (di chuyển qua) SARVA DUSTAM ( ) STAMBHAYA ME ( ) – YABA ( ) KRÀNTI DARVATA ( ) UMIØ – SVÀHÀ.
Thánh Giã Mã Đầu Tôn Đại Uy Nộ Vương lại nói về Tối Thắng Căn Bản Ấn – chắp 2 tay lại, co 2 ngón trỏ ngón vô danh vào trong lòng bàn tay sao cho móng ngón chung lưng, mở cứng 2 ngón cái liền thành.
Vừa kết Ấn này tụng Chân Ngôn – Từ Ấn này phóng ra ánh sáng, từ miệng tuôn ra vị Hóa phát – Hóa thảy các Thiên Ma, Ngoại Đạo, chướng nạn, lồi có tâm bất thiện....bên trên đến Hư Không Giới, bên dưới cho đến phong luân Tế – Hết thảy đẳng loại không hành, Địa Cư Hạ, Tỳ Na Dạ Ca.....kkhông dám xâm hại, đều khởi tâm từ, chẳng thể gây chướng ngại – Bồ Tát Tu Chân Ngôn Hạnh
xa lìa các chướng nạn, được uy đức tự tại. Do kết Ấn tụng Chân Ngôn cho nên người ấy ngang bằng với thân của Đại Uy Nộ Vương không có sai khác.
63
Thánh Giã Mã Đầu Tôn Đại Uy Nộ Vương lại nói về Đại Chân Ngôn là :
1. Nam mô la đát na đá la dạ gia
2. Na mô A lị gia bà lô chỉ đế nhiếp phạt la gia
3. Bồ đề tát đỏa bà gia
4. Ma ha tát đỏa bà gia
5. Ma ha ca lỗ ni ca gia
6. Ná ma tát bà tát đỏa tỳ gia sa ba na ca đế nễ
7. Ná mô tát phộc tát đỏa bà gia mục xoa ca la gia
8. Ná mô tỳ tri gia, A lậu ca đà mô đà duệ
9. Ma ha dụ ca du chỉ ni
10. Đá tất căn na ma tất yết lị đỏa
11. Ế đảm A lị gia phộc lô chỉ đế nhiếp phiệt la
12. Mô cô tri chỉ lị nam
13. Bạt chiết la cú la sa bà yếm
14. Ha dã hột lị phộc na ma
15. Bà la mạt đá yễm
16. Ma đá ma đá đế khâm nhĩ
17. A sa diễn tát phộc đô đá nan
18. Dược xoa nan đà tỳ na xà ca xà
19. A mô vu tát phộc ca lị dạ nan
20. Tỳ nại nan xà ni bá la nan
21. Tỳ nại nan xà tỳ na xả nan
22. Đá diệt tha
23. ÁN
24. Đà lỗ la, đà lỗ la
25. Tỳ lỗ la, tỳ lỗ la
64
26. Tát bà tỳ sa khư đá ca
27. Thời bá lý đà
28. Tỳ tất phổ lăng già đà hạ sa
29. Kê sa la trác bà
30. Bạt la phạt lị đà tỳ ca
31. Bạt chiết la khuất la
32. Nê ca đà nam
33. Xà lý đà bà tô đã đá la
34. Ni thi bá tử đà hạ tử đà
35. Ma lỗ đô sáp đà
36. Bà la tỳ đà bồ đà ca noa
37. Tăng sô bàn na ca la
38. Bà la tỳ tri gia bạc xoa na ca la
39. Bà la ma xa án trị ca la
40. Bộ tri gia, bộ tri gia
41. Bạc già phạm
42. Ha dã hột lị phộc
43. Khả đà, khả đà
44. Bà la mạn đà la Án
45. La xoa, la xoa
46. A tri ma mạn đà la Án
47. Tử điện mai đà lị xả gia
48. A tỉ xã, A tỉ xã
49. Cụ la tỳ xã xà
50. Tát phộc ca lị ê sáp há
51. A ba la đề hạ đồ bả phộc
52. Bá la bạt chiết la đăng sắt tra la
65
53. Hệ chỉ la dạ
54. Ế đàm đột sắt tra yết la hán
55. Đột sắt tra tỷ xả xà Án
56. Đột sắt tra lộ la
57. Đột sắt tra thời bá lam
58. Đột sắt tra tỷ sản
59. A độ gia, a độ gia
60. Tỳ độ gia, tỳ độ gia
61. Ma địa, ma địa
62. Ba la ma tha, ba la ma tha
63. Đá tha già đà
64. A chỉ nhương bá la gia
65. Bồ đà đạt ma tăng già nô tri nhạ đàn
66. Yết ma mê thí yết án
67. Cú lỗ, cú lỗ
68. Hạ dã hột lị phộc gia, phát tra
69. Bạt chiết la cố la gia, phát tra
70. Bạt chiết la đặng sắt tra la gia, phát tra
71. Bạt chiết la đặng sắt tra lỗ tri ca tra phả gia, bà di la ma dạ, phát tra
72. Ba la mạn đà la, na xả gia, phát tra
73. Tát bà yết hô sai đà na ca la na, phát tra
74. Tát bà yết hề sắt bà, A bả la đề ha đồ bà ma gia, phát tra
75. Ba la tỉ tri gia bà sử na, ca la gia, phát tra
76. Tát bà tỉ sa nê ca đà na gia, phát tra
77. Tát bà yết la ha, tỳ xả xà mê bá xa ma na gia, phát tra
66
78. Bá tra bá mục khư gia, phát tra
79. Dã phộc đồ, ma ma (tự xưng danh tự.......)
80. A ê đệ sử na Tất đả tát tấn
81. Bá tra bá mục khế
82. Vĩ yết lan tra gia
83. Phát tra, phát tra
84. Na mô la đát na đát la dạ gia
85. Na mô A lị gia bà lô chỉ đế nhiếp phiệt la gia
86. Bồ đề tát đỏa bà gia
87. Ma ha tát đỏa bà gia
88. Ma ha ca lỗ ni ca gia
89. A tỉ xả, A tỉ xả
90. Hạ dã hột lị phộc
91. Ô chỉ nha bà dạ đề
92. Sa phộc hạ
Diện Chân Ngôn Ba đế tra tất đà ha phán đề này – Tuy chẳng thọ từ Đàn cúng dường pháp nhưng tùy tụng vẫn thành nghiệm.
Tiếp gia trì Niệm Chân Chân Ngôn là :
“ ÁN – vĩ lô tả nẵng ma la, sa phộc hạ”
* OM – VAIROCANA MÀLA – SVÀHÀ
Tiếp Thiên chuyển Chân Ngôn là :
“ ÁN – phộc nhật la ngục tứ dã, nhạ bả, tam ma duệ, Hồng”
* OM – VAJRA GÙHYA JAPA SAMAY’E HÙM
Tiếp Liên Hoa Bộ Bách Tự Chân Ngôn là :
67
1. ÁN – Bả ná ma tát đả phộc
2. Tam ma dã,tam nỗ bá bá dã
3. Bả ná ma tát đát phộc
4. Đát phệ nỗ bả đề sắt tra
5. Niết lị trạc mính bã phộc
6. Tố đố số dụ mính bã phộc
7. A nỗ la khát đố mính bà phộc
8. Tô báo số mính bà phộc
9. Tất phộc tất để địa viện mính bát la duệ sai
10. Tát phộc yết ma tố tả mính
11. Tức đá thất lị dược củ lỗ
12. Hồng, Ha Ha Ha Ha hốc,bà nga noan
13. Tát phộc đát tha nghiệt đa
14. Bá ná ma ma mính môn tả
15. Bả ná nhĩ bà phộc
16. Ma hạ tam ma dã tát đát phộc, ác
17. Hột lị
* OM – PADMASATRA SAMAYAM ANUPALÀYA PADMASATRA TRENA UPATISTA DRDHO ME’BHAVA – SUTOSYO ME BHAVA – ANURAKTO ME HBAVA – SUPOSYO ME BHAVA
SARVA SIDDBINI ME PRAYACCHA – SARVA KARMASU CA ME CITTAM ‘SRÌYAM KURU HÙM – HA HA HA HA HOH – BHAGAVAM SARVA TATHÀGATA PADMA MÀ ME MUNCA – PADMI BHARA – MAHÀ SAMAYATRA – ÀH – HÙH
68
Do tụng Bách tự Chân Ngôn gia trì hco nên hay khiến cho trụ bền chắc nơi Tam Ma Địa của Bản Tôn – Giả sử trung thân đã từng phạm 5 tội vô giáo, phỉ báng kinh Đại Thừa phương Quãng, tất cả tội cấu thảy đều tiêu diệt, đời này đều được viên mãn ước nguyện về Tất Địa thù thắng
Tiếp kết phát Khiển Ấn – Như Kim Cương phộc lúc trước, dựng thẳng Nhẫn Nguyện (2 ngón giữa) cùng trụ dính nhau như cánh sen – Liền đem 1 cành Tố la vi bố sắt ba cắm vào đầu Ấn vịn, tụng phát khei63n chân ngôn, đánh trên tượng 7 lần thì các Thánh chúng và Bản Tôn liền quay về.
Thánh Giả Mã Đầu Tôn lại nói về pháp Môn Vô Tỉ bất Tư Nghị Lực Thánh Giã Mã Đầu Tôn diện Tâm năng thành nhất thiết chư sự nghiệp.
Aên rau tác niệm tụng đủ 10 vạn biến, nhịn ăn 1 ngày 1 đêm rồi bày biện đại cúng dường, tác sự nghiệp Hộ Ma – Dùng gỗ cây khổ luyện, 2 đầu rồi thiêu đốt 8000 c1i thì thành căn bản – thoạt đầu, hành mãn thì mọi sự mang cầu trong tâm thảy đều được thành tựu.
Lại có pháp – dùng quả mật la phộc để Hộ Ma, đủ 30 vạn biến sẽ đạt được vương vị (ma vị của Ma Chúa) nếu muốn được linh nghiệm lớn, nên ở trước tượng Mã Đầu làm 1 cái Đàn rộng 4 khủyu tay, trong Đàn để vật khí bằng đồng trắng chứa đầy nước thơm – Từ ngày mồng một cho đến ngày 15 của tháng, đốt hương rải hoa, chí thành lễ kính, tác niệm tụng, ngày đêm chẳng gián đoạn, chẳng được nằm nghỉ, luôn tinh tiến bền chắc, cứ ngồi yên chẳng
69
đi đứng – khaỏng 15 ngày không có đứt đoạn mà mãn 5 lạc xoa biến, thì Đại Uy Nộ Vương hiện thân mầu nhiệm gia trì, Hành Giả sẽ được Đại Thần Thông, tức thông đạt việc của 3 đời, lại có thể đều thọ trì kinh sách của Thế gian đó, lại hay thông đạt tất cả pháp thau65t, vi đà, điển tịch của ngoại đạo.
Lại muốn được thành đại nghiệm – bên trong 3 ngàn Đại Thiên Thế Giới có núi, sông, đá, từng, của 4 món biển lớn hay khiến cho soi sục phun lên – Núiù tô di lô với núi Thiết Vi hay khiến cho nghiêng động, lại vỡ vụn như bụi nhỏ – trong đó hết thảy tất cả Hữu tình được uy quang của Đại Uy Nộ Vương chiếu chạm đến đều xa lìa các khổ não được đại an lạc.
Lại có pháp – nếu muốn được. “Mê cổ” đi đến – lấy hoa Tô Ma Na, ở trước tượng Đại Uy Nộ Vương, gia trì 21 biến rồi rãi dưới chân tượng – xong, tay phải lượm hoa ở chỗ đã rơi đến, tùy nhận “Mê Cổ” – từ đây về sau, gia trì Hoa 7 biến rồi rãi tán tức Mê Cổ sẽ đến.
Lại nữa, người có tâm “Bỉ thử” lấy quả tử gia trì 21 biến rồi sai người đưa cho ăn thời tâm liền mê loạn, rất yêu nhớ mình nên không có ý khác.
Lại có pháp – nếu muốn : luận nghị, lấy Ngưu Hồng,
hương, long não hương, tam muội, hòa mài rồi gia trì 108 biến, điểm chám trên đỉnh đầy với trên 2 bắp tay, trái tim, cổ họng, tam tinh, chân tóc, trên trán, sau ót – rồi lấy hạt cải trắng gia trì 21 biến – dùng tay phải nắm lấy, đi đến luận nghị rồi rải tám bên cánh cửa – còn tay trái giữ lại
70
chút ít – lúc chính thức nghị luận, dùng tay phải nắm hạt cải, tay trái chướng về người luận nghị, hòa mật rải tán, liền búng ngón tay tức đều được thắng kẻ khác – chẳng bị Thiên Nạm, Địa nạn và Tật nạn, sẽ được thành tựu lớn
Lại có pháp – nếu tất cả người bị đau đầu (đầu thống) lấy danh tự (tên tuổi) của người ấy, liền tụng chân ngôn gia trì vào nước – tác âm thanh chữ Hồng (HÙM) liền dùng nước này, đánh Ấn trên đàu người đó ngay chỗ bị đau, thì bệnh đau nhức đó sẽ khỏi- bệnh giớ, bệnh nóng sốt, bệnh về đầu, bệnh về chân, 404 bệnh, vạn não thảy đều tiêu trừ, cắt đứt hết sạch – cho đến thế gian có 8 vạn 4 ngàn loại Qủy bệnh thảy đều trị được, không gì không khỏi bệnh, đều được thành tựu.
Lại có pháp – nếu phá diệt các pháp, muốn cho chú pháp do người khác làm chẳng được thành biện – nên làm cái đàn phấn 3 màu rộng 4 khủy tay – 3 mặt Nam, Bắc, Tây để tòa hoa sen – ở trên tòa ấy để bình có răng nanh sáng tỏ – trên tòa sen ở mặt Đông, để Ấn bạt chiết la – đốt 12 cây đèn, thức ăn khác nhau có 100 mùi vị, đặt trong 8 cái chén – thức ăn đó, mỗi ngày đều thay đổi cho mới – mỗi mỗi cúng dường đủ 7 ngày – từng ngày nên gia trì hạt cải trắng 108 biến, 1 lần chú 1 lần ném vào trong lửa thiêu
đốt thì tất cả các người tác pháp đều bị phá, chẳng thể thành hiện được – nếu Thập Địa Bồ Tát nghe Đại Uy Nộ Vương chú mà chẳng tùy thuận gián pháp cài có thể khóa tan, giống như Bậc Đẳng chính gaíc chẳng thuận Giáo Lệnh Luân đều có thể khóa tan, huống chi các hàng trời
71
rồng 8 bộ, lồi gây chướng nạn khác – tụng Diệu chân ngôn đủ 1 vạn biến đốt hay được mọi loại pháp điều phục mãnh lợi – Do uy thế của Đại Uy Nộ Vương, nên trong khoảng 500 do tuần chẳng được tất địa của các tôn, tức người tu hành nương theo Đại Uy Nộ Vương gia trì sẽ được uy đức tự tại.
Lại có pháp – đối trước tượng Mã Đầu Tôn – trước hết, lấy cây Lăng, chặt khúc dài 8 ngón tay rồi bỏ vào lửa đốt – lấy từ lửa ra, dùng An Tát Hương làm 108 viên, 1 viên 1 lần đọc chú 1 lần ném vào trong lửa đốt – cho đến khi Hương hết – thì hàng Tỳ Na Dạ Ca liền tự bị cột trói –
Lại có pháp – nếu có người ác, oan gia đối với người lành khởi ý ác muốn hãm hại – cần phải lấy Thiếc làm bức tượng Kim Cương Uy Nộ Vương, lớn nhỏ tùy ý – Hình tượng đó có 4 mặt 8 tay, trên dưới mỗi cái miệng đều ló ra 4 răng nanh – 8 tay cầm khí trượng Kim Cương, trên đỉnh đầu của mặt chính hiện 1 đầu ngựa màu xanh biếc, đầu tóc như lửa xoắn ốc, hình rất bạo ác, cởi con trâu xanh – Lưng con trâu có hình hoa sen, trên hình hoa sen có Bản Tôn ngồi xổm, tồn thân rực lửa nóng bức sáng chói như kiếp Tai Diễm (kiếp bị tai nạn về lửa) – Điệu hình (thân hình mầu nhiệm ) giáng phục Thiết Đỗ Lô (‘strù – oan gia) trong 3 cõi của Đại Uy Nộ Vương là như vậy.
Nên đối trước tượng này, làm cái Đàn Tam Giác, đáy đàn vẽ hình người ác ấy, hoặc viết tên họ – mặt tượng hướng về phương Bắc hoặc hướng về phương mà người ác cư ngụ – Người trì tụng, thân mặc áo đen, mặt hướng về
72
tượng rồi ngồi, khởi tâm đại ác, giận dữ gằn giọng tụng 3 ngày 3 đêm, niệm tụng 3 thời – khi xong 3 ngày thì người ác kia sẽ bị chết, quyến thuộc không còn sót ai – nếu muốn cho họ sống lại thì khởi tâm Bi Mẫn sâu xa – lấy rễ hoa sen quết giã thành cám, dùng Đại Bi Tam Muội Gia Chân Ngôn, 1 ngày 1 đêm chẳng được ăn uống – đủ 108 biến tức người ác kia và quyến thuộc đều sống lại – nơi phật pháp, khởi quy kính, chắp 2 tay lại, co Tiến Lực (2 ngón trỏ) – làm cái miệng hang, phát tâm khởi Đại Từ Bi – Chân Ngôn là :
“ Nẵng mạc tam mạn đa một đà nam – Già vĩ ba la đốt lê, ô Hồng, sa phộc hạ”
* NAMAH SAMANTA BUDDHÀNÀM – KÀ’SI (đuốc sáng) PRASURU HÙM SVÀHÀ.
Lại có pháp – nếu muốn đánh ah2ng Tây Nhạ (Teja – hàng có uy đức) trước tượng Mã Đầu Tôn làm cái đàn Tam Giác, niệm tụng 1 vạn, 10 vạn biến, 3 ngày 3 đêm không ăn, xoa hương trên đầu, dùng mọi thứ hương hoa, thức ăn uống trong sạch, sữa, cháo, quả trái.....mọi thứ cúng dường – quết giã sa xà la xa hương, hòa với Bạch Mật làm 8000 viên – 1 viên hương 1 biến ném vào trong lửa thiêu đốt – Như vậy cho đến lúc hết hương – chúng Tây Nhạ ấy tìm kiếm, người ban đầu thấy biến làm Mã Đầu, trải qua một lúc là cái đầu của Hạ dã hột lị phộc (Hàyagriva – mã đầu) – người trì tụng hướng về chúng ấy thì tất cả Tây Nhạ thảy đều bị diệt tan.
Lại có pháp – nếu bị khởi mọi loại tai nạn làm cho đất
73
nước bị rối loạn, ốn địch ở nước khác đi đến xâm lấn, khiến bách tính chẳng yên, Đại Thần mưu phản, bệnh tật lan tràn, nguồn nước hẳng điều hòa, mặt trời mặt trăng lệch mất độ – Như vậy, lúc tại nạn khởi dậy thì vị ma của đất nước phải cải sữa thân tâm, tinh tiến thỉnh cầu người Trì Minh ở trước tượng Đại Uy Nộ Vươngtác niệm tụng, dùng cỏ đốt Lỗ thấm Tô, sữa, mật rồi tác Hộ Ma chỉ 10 vạn biến thì ốn địch của nước ngồi liền tự bị giáng phục, đều quay trở về sữa trị đất nước, thông suốt tâm từ cùng hướng về Vương Tử – trămquan đều trung thành, phi hậu, con gái đẹp, người già đều hướng về đức vua tỏ lòng tôn kính – các hàng rồng, qủy, thần đều ủng hộ nước ấy, mưa tuôn thuận thời, quả trái thức ăn sung túc, nhân dân hoan lạc –
Lại có pháp – trong nhà gặp bệnh tật hiểm ác, trăm quái khởi nhiều, qủy thần tà ma quấy phá – Nhà đó bị người ác ngang ngược tạo khẩu thiệt, mưu mô hãm hại – Nhà thất đó lớn nhỏ, trong ngồi chẳng hòa. Chỉ hướng trước tượng Mã Đầu, tác niệm tụng, số đủ 1 vạn biến thì các việc ác thảy đều tiêu diệt.
Lại có pháp – nếu bị ma Quan tịch thu sổ sách, thân bị giam trong nhà tù, bị cấm đốn chịu gông cùm xiềng xích – là có ý nhớ đến Đại Uy Nộ Vương thì vị quan tự ban ân tha cho trở về – trên từ vua quan, dưới cho đến nơi tù ngục – người chẳng hành pháp này chuyên chú thì không bao giờ có chuyện này.
Lại có pháp – trước tiên dùng Đại Mạch và Ngưu khiết – lấy lúa trong phân, tẩy cho khô, lau. quết giã, ướp làm
74
cháo sữa – từ ngày 01 của tháng bạch nguyệt ăn cháo sữa này cho đến ngày 15 – mỗi lần ăn gia trì, còn dưu thì để ở nơi sạch sẽ phụng biến sứ giả của Mã Đầu Tôn – liền ngưng chẳng ăn, trước tụng Đại Thánh dùng đầu thơm xoa đấp, rãi mọi loại hoa, đốt các danh hương, mọi thức ăn uống – cúng dường xong rồi – lấy Ca Tỉ Xà Hương quết giã làm cám nhỏ hòa với nước làm viên, số dư 8000 viên – lấy cây Ca Đà La làm củi để nhóm lửa – lấy 1 viên hương 1 lần chú 1 lần ném vào trong lửa thiêu đốt như vậy cho đến khi hết 8000 viên. Thì tro ấy biến thành vàng Tô bã na, nặng khoảng trăm ngàn lượng
Lại có pháp – Nếu muốn nhận chịu chú khác – lấy chút máu của thân mình hòa với hạt cải trắng làm 8000 viên – Ngày 14 của tháng Hắc Nguyệt, nhịn ăn 1 ngày lấy cây Khư Đà La nhóm lửa trong lò, lấy hạt cải trắng lúc trước, 1 lần chú thì ném 1 viên vào trong lửa thiêu đốt – Như vậy đến khi hết viên hạt cải, thì tất cả chú thảy đều nhận hết.
Lại có pháp – chỉ tụng chân ngôn, hành ở nơi đồng trống với các đụn cát, nếu cần thức ăn uống ắt tự nhiên tuôn ra
Lại có pháp – nếu có ngươì, vào ban đêm lúc đầu bị bất tịnh – lấy sợi chỉ màu trắng, trước tiên dùng chú trên gia trì 108 biến, sau đó làm sợi dây thần chú (chú sách) 1 lần chú 1 lần gút, làm đủ 21 gút – liền dùng cột eo lưng, tức chẳng bị rò rỉ (lậu) như lúc trước.
Lại có pháp – vào lúc nhật thực – nguyệt thực – lấy 1
75
lạng Ngưu Tô trong sạch đựng trong cái bình bát mới , liền cầm cái bát này ngữa nhìn mặt trời, mặt trăng chú vào Tô trong cái bát cho đến khi Bơ nóng ấm hoặc có khói lửa bốc ra...Ngay lúc ấy, liền uống bơ này – uống bơ này xong thì tùy muốn đến nơi nào, chỉ cần khởi ý thì đến đó ngay – nếu có người thường tụng chú này, dù gặp tất cả sự đáng sợ cũng không hề sợ hãi, hốt thảy chướng nạn đều được giải thốt –
Lại có pháp – nến bị ung nhọt Lộ Đà với các nơi bị trùng độc cắn, hoặc bị ung nhọt Kiến Tỳ Tra Diêu bị các ung nhọt của nhóm này thì chú vào đất màu vàng đủ 1000 lần rồi xoa trên ung nhọt liền được khởi bệnh – Tất cả tâm sự hãi, chỉ niệm liền trừ diệt được.
Lại có pháp – Nếu có người chợt gặp tất cả nạn về nước (Thủy nạn) chỉ cần Tâm niệm thì chẳng bị cuốn chìm, pháp như của nhóm như vậy chẳng có thể nói rộng – Tùy ý liền thành tựu – nếu tạo Đại Mạn Trà La thì chẳng được Hành Dục.
Tiếp lại nói về pháp của tượng Hạ dã hột lị phộc – liền có pháp vẽ tượng : Lấy Bạch Trập tinh sạch chẳng được tái chế – Thỉnh 1 vị Hoạ sư tài giỏi, đừng mặc cả trả giá – dùng nước thau tắm gội, mặc áo sạch mới, và thọ 8 giới – Ngày ngày như vậy – ở nơi thanh tịnh làm 1 cái THỦY ĐÀN – rộng khoảng 4 khuỷu thay – Người trì tụng hộ thân kết giới xong rồi cùng hộ thân cho Họa sư ấy – ở trong Đàn, đốt mọi thứ hương, rãi mọi loại hoa cúng dường rồi cầu xin – bên trong đàn vẽ làm bức tượng Đại Uy Nộ
76
Vương, gồm có 4 mặt đều phẫn nộ – 4 cái miệng, trên dưới một cái miệng đều hiện ra nanh chó – Tóc trên đầu cực nhỏ bền như đám lửa mạnh – trên đỉnh đầu của 4 mặt đều đội mão Trời và tai đều đeo vàng – Trên mãoTrời có vị hoa phật ngồi Kiết Già – trên đỉnh đàu của mặt chính giữa làm 1 đầu ngựa màu xanh biếc – trên cổ đeo các chuỗi Anh Lạc qúy báu – sắc thân hách dịch như mặt trời, tồn thân lửa mạnh mẽ như kiếp Hỏa Tai – Có 8 tay, 2 tay trái phải kết căn bản Mã khẩu Mật Ấn, 1 tay bên phải cầm cây kiếm bén, 1 tay bên trái cầm cây bổng Kim Cương, 1 tay bên phải cầm cây búa Kim Cương, 1 tay bên trái cầm bánh xe báu Kim Cương, 1 tay bên phải làm thế Thí Vô Uùy, 1 tay bên trái cầm Tràng hạt – Ngồi yên bàn đá báu trên đài hoa sen xanh – Bàn đá ấy có màu đỏ xanh vàng – Trên mỗi cổ tay của 8 tay đều đeo vàng xuyến – Thân phần trang nghiêm như nơi khác đã nói.
Làm tượng này, bắt đầu ra công từ ngày 14 của tháng bạch Nguyệt – Ăn đại mạch, sữa, cháu nhừ – Sau đó ngày 13, ngày 14, ngày 15 – 3 ngày 3 đêm không được ăn, cắt đứt nói năng niệm tụng – Lấy sa ca Tỳ già hương, càn đà na cú lợi hoa, chú vào 2 thứ này – 1 chú 1 ném ngay trên khuôn mặt trán, đến 8000 biến, thì giữa miệng của mặt ấy phóng ra ánh sáng – Ánh sáng ấy văng chung quanh Hành Giã rồi quay trở lại đi vào miệng tượng. Ở trong cái miệng ấy tuôn ra viên ngọc Như Ý, liền nên lấy – Lấy viên ngọc này xong, liền được sống thọ 14000 tuổi, tìm được 7 báu chuyển Luân Thánh Vương, sau khi chết được sinh về nước
77
An Lạc, từ bên dưới chân của Mã Đầu mà sinh ra.
Lại có pháp – nên đi khất thực, đại mạch, sữa, cháo nhừ Anh Khiết – Tác niệm tụng mãn 7 lạc xoa biến –
- 1 lạc xoa biến thời Tỳ Na Dạ Ca liền bị cột trói
- 2 lạc xoa biến thì thành tựu chú pháp
- 3 lạc xoa biến trước được thành tựu pháp thuốc : An Thiện Na, ma na xí la.
3 ngày 3 đêm chẳng ăn, tác pháp – tay thuốc ấy, chính chú vào thuốc thì trong thuốc hiện ra 3 loại tướng : liền biết pháp thành tựu – 3 tướng là : nóng ấm, bốc khói, bốc lửa, liền được thành tựu An Đà La Đà Na, bay lên Hư không rồi rơi.
- 4 lạc xoa biến thì rời mặt đất 4 ngón tay mà đi tự tại
- 5 lạc xoa biến liền được tùy ý bay trên hư không mà đi
- 6 lạc xoa biến liền được sống 1000 tuổi, ắt giữ được thân đời này đi đến quốc thổ của chư phật ở 10 phương : Người Tdrì Minh thành tựu Chú tiên – Tùy theo nơi làm, nhậm vận đều thành tựu, tất cả ai kêu gọi thì đều đến ngày.
- 7 lạc xoa biến thì hành giả liền được đầu tóc xoắn ốc – thành tựu tùy theo sở tu, ứng niệm liền đến, gần gũi thừa sự Đại Uy Nộ Vương – Liền biết sự sống chết của tất cả chúng sinh trong 3 đời – Ngay đời này, người ấy liền được thành tựu.
Nếu Sa Môn hoặc Bà La Môn, các nhóm Trai lành, gái thiện, có ý muốn thọ từ pháp của Đại Uy Nộ Vương thì dựa
78
theo điều trước, nếu làm cái đàn rộng 4 khủyu tay, nên tìm kiếm Thắng địa, nơi thanh tĩnh, quét dọn rưới vảy cho sạch sẽ – Lại dùng nước thơm, phân bò, bùn đất làm nền – treo mọi loại tạp sắc, phau, lọng, chuông báu, phong linh, với các thứ vàng, bạc – mọi thứ xen kẽ nhau để tô điểm đạo Tràng.
Trong Đạo Tràng lập cái Đàn Ngũ sắc rộng khoảng 4 khuỷu tay – Trước hết nên là màu trắng, tiếp màu vàng, màu đỏ, màu xanh, màu đen rồi làm 4 cửa, chính giữa Đàn ấy làm 1 tồ hoa sen đặt bày tượng Mã Đầu Tôn – ngay chính cửa Đông làm 2 tồ hoa sen đặt 2 đồng tử Ba la đa ma, Ba la già na – ngay chính cửa Bắc làm 2 tồ hoa sen đặt 2 đồng tử : Nhất kế la sát, A ba đề.
Bên ngồi phương Nam của Đàn, đặt mọi thứ cúng dường, còn lại, không có tồ hoa, làm 8 Đại Long Vương – 8 Đại Long Vương này chỉ dùng Thuế mễ, sữa, cháo nhừ cúng dường – dùng cho mọi loại cúng dường còn lại cũng được. Đốt 45 ngọn đèn, kêu gọi 8 vị Long Vương.
Gần sát cửa Tây của Đàn như cửa Nam đặt 1 cái lò lửa – dùng mè, lúa gạo, hoa....bơ, mật hòa với nhau xong tụng Đại Uy Nộ Vương Tâm Chân Ngôn gia trì vật đã hòa cùng lúc trước 1 biến – chú xong ném vào trong lửa thiêu đốt – mỗi mỗi như vậy cho đến lúc đủ 1008 biến – 1 ngày 1 đêm chẳng ăn. Nếu chẳng nhịn đói, chỉ được ăn bơ – Dùng nước nóng thơm tắm gội, mặc áo mới sạch – Vào trong Đạo Trường rồi tác cúng dường, hoặc 7 ngày hoặc 14 ngày hoặc 21 ngày hoặc 35 ngày hoặc 49 ngày hoặc 90 ngày – hoặc 6
79
thời, hoặc 3 thời, hoặc 2 thời, hoặc 1 thời – Như trên Hộ Ma, tác niệm tụng đừng giới hạn biến số – ắt có thể thi công, đắc được 5 loại việc thành tựu – là Tức Tai, Tăng Ích, Giáng Phục, Kính ái, Câu Triệu – hết thảy sự hy vọng về quả báu thế gian và suốt thế gian thảy đều thành tựu – Trong Bản Giáo chẳng nói pháp thành tựu – Dùng pháp trong Liên Hoa Bộ đối trước tượng này mà làm, ắt được thành tựu – ta với tất cả các tôn trong pháp đều có đại nghiệm, thường ghi nhớ Đại Uy Nộ Vương, diệt vọ lượng tội, được vô lượng phước, sau khi chết được sinh về nước An Lạc. Từ hông bên phải của Mã Đầu Tôn mà sinh ra
Lại có pháp – nếu muốn Luận Nghị, nên làm cái đàn rộng 4 khủyu tay như trước rồi cúng dường, sẽ được Thắng Thượng – chẳng bị nạn khác và nạn bệnh tật.
Làm Đàn xong, không có bệnh tật nào không khỏi.
Nếu bị thuốc độc, hay bị lồi Trùng, cọp cắn, nên tụng Căn Bản Chân Ngôn gia trì làm chỗ bị cắn thì không có gì không khỏi.
Dùng hạt của Tô Mộc Khư quết giã thành cám cực nhỏ, dùng nước cốt của Lạc Hòa như pháp, tụng Đại Uy Nộ Vương Tân Chân Ngôn 21 biến gia trì rồi cho người bệnh đó uống vào lúc bụng trướng rỗng, thì hết thảy tất cả trùng độc đều nôn ra hết, người vì tất cả bệnh não nên ta làm Y Vương để chữa trị. Nếu chẳng khỏi bệnh, ắt không có chuyện này. Bản Nguyện xa xưa đó là Đại Nguyện sâu nặng của ta, “Đại Từ Đại Bi Mã Khẩu”, hóa độ tất cả chúng sinh, chuyển thắng các Tôn.
80
Do Đại Bi cho nên chẳng dính sinh tử – Do Đại Bi cho nên chẳng trụ Niết Bàn – Thường trụ trong các cảnh giới vô minh cắt đứt hết mọi loại nẻo ác, diệt hết khổ “sinh, già, bệnh, chết” của 4 sinh trong 6 nẻo – Lại hay chọn lấy việc gần nhất để ăn, nuốt diệt sạch hết – ví như con ngựa đang đói chỉ biết ăn cỏ chứ không nhớ đến việc khác – vì lực của bản nguyện này cho nên ở 10 phương Sát Thể không có nơi nào mà không hiện thân.
Bậc Du Già khởi sâu Tâm Bồ Đề, mỗi ngày tụng 8 biến thì Đại Uy Nộ Vương sẽ hiện thân phụng sự bậc Du Già ấy – ví như Nữ Tỳ cung kính, giống như Bà Nga Noan (Đức Thế Tôn – 2 đời chẳng thành Bồ Đề sao?
Nhớ nghĩ Đại Uy Nộ Vương thì chẳng bị đọa vào 3 đường ác, quyết định vãng sinh về các Phật Quốc – Lúc được Uy Nộ Tôn này gia trì, giả sử có các người ác, ma ác, cầm thú ác, cho đến yểm mỵ, cổ thuật, Ly mỵ, võng lượng, qủy thần ác.... khởi tâm ác muốn não hại người hành, mau chóng đến gần nơi hành nhân cư ngụ thì trên đường đi sẽ bị giết hại – Thần nghiệm này, chu vi ngồi 40 dặm khiến cho không có các chướng ngại, lại thường gia trì các người trì Minh khiến cho Tâm Bồ Đề chẳng bị thối chuyển.
Lại nói về pháp “tượng của 4 đại đồng tử’” – 4 đại đồng tử này, từng cặp một đồng thể không sai khác – Hình đó rất bạo ác, có sức lực mạnh mẽ, thân sắc màu xanh đỏ, túc tơ chia rũ 2 bên phải trái, mỗi một thân đều khốc áo cà sa màu đỏ, phủ phía trước, phía sau, eo, lưng – lấy da cọp quấn quanh háng dùng làm Đao, trên 2 cổ tay đều có
81
vòng xuyến báu, chỉ có ba la đa ma 2 tay cầm cây mâu nhọn bén – Ba la già na 2 tay cầm cây búa – nhất kế La sát tay phải cầm cây bổng Kim Cương, tay trái cầm sợi dây – A ba la đề tay phải cầm cây kiếm báu, tay trái cầm Bạt chiết la – 4 đại sứ giả đều có uy đức tự tại của vị vua, đều thủ hộ Uy Nộ Vương, đều đứng trên tảng đá sắt khánh, tồn thân đều rực lửa lớn mạnh rực rở chiếu soi như ánh sáng mặt trời chiếu sáng – Hình đại bạo ác hay giáng phục các Ngoại Đạo với Thiên Ma, các Dạ xoa ác, qủy thần ác....Muốn cho thảy đều quy y phật pháp – Nhớ nghỉ đến Đại Uy Nộ Vương cho nên 4 đại Đồng Tử thường tùy Thủ Hội, chẳng xa lìa, ở sát cạnh như Thân, cảnh chẳng lìa nhau, như giữ gìn tròng mắt của mình, như hộ giữ thân mệnh của mình – vì Thủ Hộ sứ giả cho nên liền hay thông đạt suốt của 3 đời – nếu có người chưa tụng Chân Ngôn, vừa mới nhớ nghĩ đến Đại Uy Nộ Vương, 2 sứ giả Thủ Hộ, người trì tụng chân ngôn, thì 4 đại đồng tử ngày đêm thủ hộ chẳng lìa, được ở sát bên cạnh.
Lại nói về pháp “tượng của 8 Đại Long Vương” – 8 đại Long Vương này đồng thể không sai khác – Đầu rồng, thân rắn, tồn thân đều rực lửa – Nếu loi điện tích lịch giáng, hay tuôn mưa đá lớn, mưa lớn, nên kêu gọi danh hiệu của 8 đại Long Vương – Hay chế chỉ, (chặn đứng) các roi điều liền được tiêu tan.
Nếu lại đại địa chấn động, sụt lỡ, phá nát núi sông đá tường, gió bạo ác thổi đến, các cây lớn bẻ gãy, lúc các nạn ác như vậy khởi dậy, các chúng sinh sợ hãi chẵng yên, thì
82
nên kêu gọi danh hiệu của 8 đại Long Vương- ắt hay chận đứng các nạn được đốt và giớ ác – ngủ cốc sung túc dư thừa, vạn tích an vui, từng thuận muôn giớ thời tiết, đất núi an vui, không có tai nạn – huống chi trên thanh hành giả lại bị các tai nạn, thì không bao giờ có chuyện này – các Ma chẳng có dịp thuận tiện hãm hại, mau chóng được đại Bồ Đề, chẳng bao lâu sẽ thành Phật.
Thành quả mở đầu Tôn Đại Uy Nộ Vương sứ giả pháp môn, đã nói xong
Thỉnh Hạ dã hột lị phộc đại Uy Nộ Vương cúng dường niệm tụng nghi qủy,
( Quyển hạ - hết - )
Tiếp kết Đàn Ba La Mật Bì Trí ấn : Ngữa lòng bàn tay phải co độ nhẫn ( Ngón giữa phải ) cùng vịn Thiền độ ( Ngón cái phải ) các ngón khác đều duỗi thẳng - liền tụng chân ngôn là :
“ ÁN – Bà Nga phộc để na nẵng địa bã đế, vĩ sa lật nhạ, bố la dãõ đã ná, sa phộc hạ “
*) OM. BHAGAVATE DÀNA ADHIPATI VISRJA PURAYA ĐANAM – SVÀHÀ
Do kết ấn tụng chân ngôn 3 biến liền diệt hạt giống
45
nghiệp keo kiệt trong vô lượng kiếp, đắc được phước của 3 loại thí là : Tư sinh thí, vô úy thí, pháp thí tức viên mãn Đàn Ba la mật ( Dàna pàramita ). Đời này được giàu có , đầy đủ tư duyên, tâm được tự tại, mau tăng thọ mệnh
Tiếp kết giới Ba La Mật Aán : 2 tay cài chéo nhau bên trong, dựng thẳng Thiền Trí ( 2 ngón cái ) tụng chân ngôn là:
“ÁN – Thi la đà lị nê, bà nga phộc đế, hồng hách”
*) OM – ‘ STLA DHÀRINI BHAGAVATE HÙM HAH
Do kết ấn này tụng chân ngôn 3 hiến liền diệt hạt giống nghiệp phá giới trong vô lượng kiếp, được công đức của 3 loại giới là : Nhiếp Luật Nghi giới , Nhiếp Thiện Pháp giới, Nhiêu ích Hữu Tình giới tức viên mãn Giới Ba La Mật ( ‘Sìla pàramita ) thường dùng giới phẩm trang nghiêm nghiệp thân khẩu ý – Hết thảy việc vi phạm 4 trọng cấm, Bật Sô Ni phạm Tha Thắng tội thảy đều thanh tĩnh, ngày sau được tùy nguyện vãng sinh
Tiếp kết Nhẫn Nhục Ba La Mật Bồ Tát Aán – Dựa theo giới Ba La Mật ấn, đem tiến lực ( 2 ngón trỏ ) hợp nhau như cây kim, kèm đứng Thiền Trí ( 2 ngón cái ) liền tụng chân ngôn là :
“ ÁN – Bà nga phộc để khất sản để đà lị nê, Hồng, phát tra “
*) OM- BHAGAVATE KSÀNTI DHÀRINI HÙM PHAT
Do kết ấn này tụng chân ngôn, ắt diệt hạt giống nghiệp
46
giận ghét trong vô lượng kiếp, được công đức của 3 loại nhẫn là : Hại ốn nại nhẫn, An thọ khổ nhẫn, đế sát pháp nhẫn tức viên mãn nhẫn nhục Ba La Mật (Ksànti pàramita) – Nghi dung đoan nghiêm khiến người ưa nhìn, chẳng khởi ganh ghét, thảy đều gần gũi phụ giúp, thắng giải thâm sâu, tùy niệm biến hóa
- Tiếp kết tinh tiến Ba La Mật Aán : Dựa theo Nhẫn Ba La Mật Aán , mở bạt tiến lực ( 2 ngón trỏ ) liền thành – chân ngôn là :
“ ÁN – Vĩ lị dã ca lị Hồng – Vĩ lị nãnh, vĩ lị nãnh, sa phộc hạ “
*) OM – VÌRYA KÀRI HÙM – VÌRYE VÌRYE – SVÀHÀ
Do kết ấn này tụng chân ngôn 3 biến liền diệt hạt giống nghiệp giải đãi, lười biếng, được 3 loại tinh tiến là bị giáp tinh tiến , Nhiếp Thiện pháp tinh tiến, lợi lạc hữu tình tinh tiến tức viên mãn tinh tiến Ba La Mật (Vìrya Pàramita ) thân tâm an vui, xa lìa các bệnh tật,
không có khổ não, đều được thành biện phước trí của Thế Gian và Xuất Thế Gian
Tiếp kết Thiền Ba La Mật Bồ Tát Aán : Liền ngồi kiết già, ngữa lòng bàn tay trái đặt trên già phu, ngữa lòng bàn tay phải đặt trên tay trái , để 2 độ Thiền Trí (2 ngón cái ) cùng chạm móng nhau – Liền tụng chân ngôn là
“ ÁN – Bà nga phộc để, tát phộc bá bã ha lị nê, ma ha nại để duệ– Hồøng, Hồng, Hồng, Hồng phát tra “
47
*) OM – BHAGAVATE – SARVA PÀPA HÀRINIYE MAHÀ DETYE – HÙM, HÙM, HÙM, HÙM – PHẠT
Do kết ấn này tụng chân ngôn 3 biến, liền diệt hạt giống nghiệp tán loạn trong vô lượng kiếp, được 3 loại tĩnh lự là : An trụ tĩnh lự, Dẫn phát Tĩnh lự, Biện sự Tĩnh lự tức viên mãn Thiền Ba La Mật ( Dhyàna Pàramita ) Thân tâm nhẹ nhàng lanh lợi, mau được thành tựu thần thông đã tu, các Ma chẳng dám xâm loạn, tất cả nghiệp chướng thảy đều tiêu diệt.
Tiếp kết Bát Nhã Ba La Mật Bồ Tát Aán : – Tay trái duỗi 5 ngón bằng phẳng, ngữa đặt dưới trái tim – Đem tay phải che ở trên tay trái – Liền tụng chân ngôn là :
“ ÁN địa, thất lị, Thâu lỗ đa, Vĩ nhạ duệ, Sa phộc hạ”
*) OM - DHÌH – ‘SRÌ ‘SRÙTA VIJAYE – SVÀHÀ
Do kết ấn này tụng chân ngôn 3 biến, liền diệt hạt giống nghiệp ngu si trong vô lượng kiếp, được 3 loại tuệ là : Nhân không vô phân biệt tuệ, pháp không vô phân biệt tuệ, câu không vô phân biệt tuệ tức viên mãn Bát Nhã Ba La Mật ( prajna pàramita ) đắc được thông kinh trí tuệ, ngộ giải pháp Thế gian và xuất thế gian, thông đạt rộng rãi nghĩa lý thâm sâu của 5 Minh
Tiếp kết phương tiện Ba La Mật Bồ Tát Ấn : - Tay trái tuệ ( ngón út ) phương ( ngón vô danh ) nắn trí độ (ngón cái ) tay phải : Đàn ( ngón út ) giới ( ngón vô danh )
48
nắm Thiền độ ( ngón cái ) – 2 tay cùng nắm nhau, nhẫn nguyện ( 2 ngón giữa ) chung lưng dựng thẳng như cây kim, duỗi bằng Tiến lực ( 2 ngón trỏ ) dính nhau – Liền tụng chân ngôn là :
“ ÁN Ma hạ mỗi đát la tức đế, sa phộc hạ “
*) OM – MAHÀ MAI TRA CITTE – SVÀ HÀ
Do kết ấn này tụng chân ngôn 3 biến, liền diệt hạt giống Nghiệp phương tiện không khéo léo trong vô lượng kiếp, đựơc 2 loại phương tiện khéo léo là : Hồi hướng phương tiện thiện xảo, bạt tế hữu tình phương tiện thiện xảo tức viên mãn phương tiện Ba La Mật (upaya pàramita) tu từ 6 độ Ba La Mật của Thế gian
Do ấn chân ngôn này tương ứng Du già ( Yoga ) chỉ thực hiện chút ít công nghiệp sẽ mau được thành tựu phước đức rộng nhiều, đều đủ tư lương của Bồ Đề Vô Thượng tối thắng cứu cánh
Tiếp kết nguyện Ba La Mật Bồ Tát Ấn : - Tay trái dựng thẳng 5 ngón, đưa lòng bàn tay hướng ra ngồi làm thế Thí vô úy. Liền tụng chân ngôn là :
“ ÁN – Ca lễ nê, hạ hạ hạ
*) OM – KARUNI HA HA HA
Do kết ấn này tụng chân ngôn 3 biến, liền diệt hạt giống nghiệp ác, nguyện trong vô lượng kiếp, được 2 loại Thắng nguyện là : Cầu Vô Thượng Bồ Đề nguyện, lợi lạc Hữu Tình nguyện, tức viên mãn nguyện Ba La Mật ( Prani dhàna pàramita ) từ xơ phát tâm đến lúc thành phật, ở trong khoản này, mọi mong cầu thế gian và xuất thế gian,
49
thượng nguyện thù thắng đều được viên mãn
Tiếp kết Lực Ba La Mật Bồ Tát Aán : - Dựa theo giới Ma La Mật Ấn lúc trước, đều dựng thiền trí ( 2 ngón cái ) tiến lực ( 2 ngón trỏ ) nhẫn nguyện ( 2 ngón giữa ) sao cho cùng hợp đầu ngón. Tụng chân ngôn là :
“ ÁN – Ná ma Nãnh, Mẫu hưu đế, hồng hạ hạ hạ, hồng, nhược “
*) OM – DAMANI MUDITE HÙM HA HA HA, HÙM JAH
Do kết ấn này tụng chân ngôn 3 biến, liền diệt hạt giống nghiệp “ ý kém cỏi “ của thế gian và xuất thế gian trong vô lượng kiếp, được 2 loại lực là : Tư trạch lực, tu tập lực. Tức viên mãn lực Ba La Mật ( Bàla Pàramita ) nơi các pháp đối trị, giáng phục các phiền não, cắt đứt các hoặc chướng. Lúc tu Đạo thì quyết định Thắng giải, tất cả Thiên Ma bạo ác chẳng dám dời đổi, được bất thối chuyển
Tiếp kết Trí Ba La Mật Bồ Tát Ấn : - Hai tay cài chéo nhau bên ngồi rồi nắm quyền, dựng thẳng đàn tuệ ( 2 ngón út ) trợ giao nhau chút ít, co đầu tiến lực (2 ngón trỏ ) trụ tròn trịa, dựng thẳng nhẫn nguyện ( 2 ngón giữa ) cho đầu ngón hợp nhau. Liền tụng chân ngôn là :
“ ÁN – Ma ma chỉ nhương nẵng ca lị hồng, sa phộc hạ “
*) OM – MAMA JNÀNA KÀRI HÙM SVÀHÀ.
Do kết ấn này tụng chân ngôn 3 biến, liền diệt hạt giống Câu sinh ngả chấp và hạt giống Câu sinh pháp chấp trong vô lượng kiếp, được 2 loại Thọ dụng trí là : Thọ dụng
50
pháp lạc trí, Thành tựu hữu tình trí; tức viên mãn Trí Ba La Mật ( Jnàna pàramita ) cắt đứt 2 loại chướng là phiền não chướng và sở tri chướng, chứng đựơc tất cả các pháp như huyển, như dợn nước dưới nắng ( dương diệm ) , như mộng, như ảnh tượng, như tiếng vang ( cốc hưởng ), như quang ảnh, như bóng trăng dưới nước ( thủy nguyệt ), như biến hóa, như nhân đà la võng ( lưới trời Đế Thích ) như hư không ; chẳng bao lâu mãn túc mười Địa, trụ Pháp Vân Địa làm Đại pháp sư.
Tiếp kết Bà La Đá Na Đồng Tử Ấn : - Hai tay cài chéo các ngón bên trong rồi nắm lại thành quyền, dựng tiến lực ( 2 ngón trỏ ) khiến cho 2 đầu ngón dính nhau thành hình tròn, kèm dựng thiền trí ( 2 ngón cái ). Chân ngôn là :
“ Nẵng Mạc Tam Mãn Đá Một Đà Nẫm – Đát nể dã tha, bột địa, bột địa, tố bột địa, nhân đạt lê bột địa, ma mê thâu ca lam, bà la mô giã đô, sa phộc hạ “
*) NAMAH SAMANTA BUDDHÀNÀM. TADYATHÀ : BUDDHI BUDDHI SUBUDDHI, INDRIBUDDHI MÀME SUGRAM BHARA MUKTO SVÀHÀ.
Do kết ấn này tụng chân ngôn 3 biến cho nên các Tỳ Na Dạ Ca ( Vinàyaka) chẳng được dịp thuận tiện ( hãm hại) . Nếu có người ác không có tội gây điều lưu nạn – những người ác ấy ở dưới chân hành giả, tụng chân ngôn 21 biến thì hết thảy lưu nạn đều được tiêu tan, khởi Tâm Từ hướng về nhau thì chẳng thể gây chướng ngại, lại hay tự cho lực của Bản Tôn
51
Tiếp kết Ba La Già Na Đồng Tử Ấn : - 2 tay cài chéo nhau bên trong, hợp dựng 2 độ tiến lực ( 2 ngón trỏ ) rồi hơi co lại, kèm dựng Thiền trí ( 2 ngón cái ) liền thành – Chân ngôn là :
“ Nẵng mạc Tam Mãn đá một đà nam – Đá điệt tha: Tát la, bát la Tát la, xã gia, tỳ xã gia – bạt chiết la cú la tam bà bá, sa bả na ca, sa nhật đô tử – sa phộc hạ”
*) NAMAH SAMANTA BUDDHÀ NÀM .
TADYATHÀ : SÀRA PRASÀRA JAYA VIJAJA – VAJRA KULA SAMHBAVA, SAMPANAKA ( đông đủ, tuyệt hảo) SAMUKSATI ( Tán rải đều tốt đẹp, làm hết lòng tận tâm ) SVÀHÀ
Do kết ấn này tung chân ngôn 3 biến hay giáng phục tịch trừ tất cả ác ma và tất cả giặc cướp, chẳng có thể hại hay trợ Bản Tôn
Tiếp kết Nhất Kế La Sát Đồng Tử Ấn : - Dựa theo Bà La già na Ấn lúc trước, để tiến lực ( 2 ngón trỏ ) cùng hợp đầu ngón như cây kim, liền thành chân ngôn là :
“ Đá điệt tha : Án – Thấp bế đa dạ, Thấp bế đa bồ bế dạ – e hế ê hế , bát la ma thâu đa, tát đỏa– ma ha ca lô nị ca, sa phộc hạ “
*) TADYATHÀ : OM – ‘SVETÀYA ‘SVETA PUSPEYA EHYEHI PRAMA ‘SUDDHA SATVA – MAHÀ KARUNIKA SVÀHÀ
Do kết ấn này tụng chân ngôn 3 biến, cho nên tịch trừ
52
hết tất cả nhóm Ma, Quỷ, Thần ở 4 phương , hay trợ cho Bản Tôn
Tiếp kết A Bà La Để Đồng Tử Ấn : – Dựa theo nhất kế La Sát Ấn lúc trước, hơi co tiến lực ( 2 ngón trỏ ) như cánh sen, liền thành – chân ngôn là :
“ ÁN – Lị Tất, để lị lô ca tỳ xã dạ – A mô già ba xã – Ma Ha cưu lê đà la xà lạ – lị đà dạ A Ba la để ha đá, hồng hồng, phát, phát – sa phộc hạ “
*) OM – RSÌ – TRILOKA VIJAYA – AMOGHA PÀ’SA-MAHÀ KRODHA RÀJAYA – ARDÀYA APRATIHATA HÙM, HÙM- PHẠT PHẠT – SVÀHÀ
Do kết ấn này tụng chân ngôn 3 biến, cho nên hay tịch trừ hết tất cả các ma ác, quỷ thần … Trong hư không ở trên trời, thành các sự nghiệp không có nạn gây trở ngại, hay trợ cho lực của Bản Tôn. Hành giả tùy tâm thành tựu tất cả Tất Địa.
Tiếp kết Nan Đà Long Vương Ấn : - Kèm cứng 2 ngón cái đều vịn hai đầu ngón út, hai tay kèm cứng cùng dính nhau, hai ngón trỏ vịn ngay trên hai ngón cái, hai ngón út, hai ngón vô danh cũng vậy, hai ngón giữa ở ngay trên sao cho đầu ngón hơi các nhau, phía dưới lòng bàn tay cùng dính nhau. Chân ngôn là :
“ ÁN – Ma ha thất lị duệ, sa phộc hạ “
*) OM – MAHÀ ‘SRÌYE SVÀHÀ
Tiếp kết Bà Tố Nan Long Vương Ấn : - Từ ngón trỏ trở xuống 4 ngón đều cài ngang nhau, hướng vào bên trong cùng vịn nhau co ngón cái vào khoản giữa của ngón trỏ,
53
duỗi thẳng ngón cái phải hướng vào trong đừng để bị cong, hai cổ tay cùng hợp nhau, đưa ngón cái phải qua lại – Chân ngôn là :
“ ÁN – Ma ha thuế đê, sa phộc hạ “
*) OM – MAHÀ ‘SUDDHE SVÀHÀ
Tiếp kết Đức Xoa Ca Long Vương Ấn : - Hợp cổ tay, hai ngón trỏ, hai ngón giữa, hai ngón vô danh đều co đầu ngón trụ nhau và lóng góc hợp bằng nhau, kèm cứng hai ngón cái dính nhau, vịn bên cạnh đầu ngón trỏ, hai ngón út thẳng đầu dính nhau, đưa ngón cái qua lại – chân ngôn là :
“ ÁN – Tứ, đát lê đát lêâ, vĩ xà duệ, sa phộc hạ “
*) OM – HE TURU TURU VIJAYE SVÀHÀ
Tiếp kết Yết Cố Tra Long Vương Ấn : - Hợp cổ tay hai ngón cái, hai ngón út dựng thẳng đầu ngón, dựng thẳng các ngón còn lại chẳng dính nhau - chân ngôn là :
“ ÁN – Bồ đề bồ đà bát để, thâu đà nể, sa phộc hạ
*) OM – BUDDHE BUDDHAPATI ‘SODHANE SVÀHÀ
Tiếp kết Bát Ma Long Vương Ấn : - Hai tay hướng ngón giữa, ngón vô danh, ngón út ra ngồi cùng cài chéo nhau rồi chắp lại, bên phải đè bên trái, đầu ngón bám lưng bàn tay, kèm hai ngón trỏ dính nhau, ngón cái cũng vậy đều nắm ngón trỏ, đưa ngón cái qua lại – chân ngôn là :
“ ÁN – ô đặc già để, tức phổ lỗ, sa phộc hạ”
*) OM – UDGATE SPHURU SVÀHÀ
Tiếp kết Ma Ha Bát Ma Long Vương Ấn : - Tay trái co ngón cái hướng vào lòng bàn tay, lại co ngón trỏ đầu
54
ngón cách đầu ngón cái bốn năm phân, tử ngón giữa trở xuống, ba ngón vịn móng cùng nắm nhau, đặt ấn nằm ngang, cạnh dính trên trái tim, đầu ngón tay hướng bên phải – chân ngôn là :
“ ÁN – Thấp đế đê xà nể, sa phộc hạ “
*) OM – ‘SVETE JANI SVÀHÀ
Tiếp kết Thương Khư Bà La Long Vương Ấn : - Hai ngón vô danh đều đặt riêng trên lưng ngón giữa, dựng hai ngón giữa sao cho đầu ngón hợp cứng nhau, kèm dính hai ngón út và hai ngón cái, co hai ngón trỏ dính đầu ngón đều đè đầu hai ngón cái, ngón trỏ đặt ngang bằng lóng thứ hai hợp bằng phẳng, đưa ngón trỏ qua lại – chân ngôn là :
“ ÁN – Tỳ lê câu đê phương, bà la đề già la ba, sa phộc hạ “
*) OM – BHRKUTIM PRATIGARBHA SVÀHÀ
Tiếp kết Cưu Lợi Ca Long Vương Ấn : - Co hai ngón vô danh đặt ở lòng bàn tay, bên phải đè bên trái, đều dựng hai ngón út và hai ngón giữa dính nhau, co hai ngón trỏ đầu phụ dưới lóng thứ nhất của ngón giữa, co hai ngón cái nắm cạnh lóng bên dưới của ngón trỏ- chân ngôn là :
“ ÁN – Bà già bà để biệu, tỳ lợi câu đề biệu bát la na nể biệu , bát la bà bá đề, sa phộc hạ “
*)OM–BHAGAVATEBHYAH HRKUTEBHYAH
PRADÀNEBHYAH PRABHÀVATI SVÀHÀ
Do kết ấn của 8 Đại Long Vương và đều tụng chân ngôn 3 biến cùng với vô lượng long chúng đầu vây quanh
55
trợ cho lực của Bản Tôn. Người tu Du Già thành các sự nghiệp uy đức tự tại.
Tiếp kết Tự Tại Thiên Ấn : - Tay phải nắm quyền đặt ở eo phải, tay trái dựng thẳng 5 ngón dính nhau, co lóng giữa hai ngón địa thủy ( ngón út, ngón vô danh ) 3 ngón quả phong không ( ngón giữa, ngón trỏ, ngón cái ) hơi cách nhau liền thành. Đem Ấn hướng ra ngồi dựng đứng – chân ngôn là :
“ Nẵng mạc tam mãn đa bột đà nẵm – Án - y xá nẵng duệ , sa phộc hạ “
*) NAMAH SAMANTA BUDDHÀNÀM - OM – I’SANÀYE SVÀHÀ
Tiếp kết Đế Thích Thiên Ấn – tay phải giống như trước, tay trái dựng thẳng 5 ngón dính nhau, co lóng giữa của 2 ngón địa thủy ( ngón út, ngón vô danh ), đặt ngón phong ( ngón trỏ ) dính lưng hỏa ( ngón giữa ) co lóng giữa của không ( ngón cái ) – Chân Ngôn là :
“ ÁN – Nhẫn Nại la dã, sa phộc hạ “
*) OM – INDRÀYA - SVÀHÀ
Tiếp kết Hỏa Thiên Ấn – Tay trái nắm quyền chặt ở eo – Tay phải dựng thẳng 5 ngón dính nhau, co không (ngón cái) vào lòng bàn tay, co lóng giữa của phong (ngón trỏ ) – chân ngôn là :
“ ÁN – A nga na duệ, sa phộc hạ “
*) OM – AGNÀYE – SVÀHÀ
Tiếp kết Diễm Ma Thiên Ấn – Trước tiên chắp 2 tay
56
lại, co lóng giữa 2 Địa (ngón út) sao co dính lửng nhau, 2 phong (ngón trỏ) cũng đều co dính hong, đem 2 ngón cái đều đè lóng giữa của phong (ngón trỏ) liền thành – Chân Ngôn là :
“ ÁN – Diễm Ma gia, sa phộc hạ”
* OM – YAM MÀYA – SVÀHÀ
Tiếp kết La Sát thiên Ấn – Tay phải nắm quyền đặt ở eo – Tay trái dựng thẳng 5 ngón dính nhau, co lóng giữa của Địa Thủy (ngón út, ngón vô danh), đem đầu không (ngón cái) đè móng Địa Thủy (ngón út, ngón vô danh) liền thành – Chân Ngôn là :
“ ÁN – Địa lị đề duệ, sa phộc hạ”
* OM – DRTYE – SVÀHÀ
(Bản khác ghi là : OM – NRTYE – SVÀHÀ)
Tiếp kết Thủy Thiên Ấn – Tay phải như lúc trước – Tay trái nắm quyền chẳng để không (ngón cái) vào trong lòng bàn tay, dựng thẳng phong (ngón trỏ) hơi co, liền thành, Chân Ngôn là :
“ÁN – phộc lỗ noa dã, sa phộc hạ”
* OM – VARUNÀYA – SVÀHÀ
Tiếp kết phong Thiên Ấn – Tay phải như trước – tay trái dựng thẳng 5 ngón dính nhau, co lóng giữa của Địa (ngón út) Thủy (ngón vô danh) liền thành – Chân Ngôn là:
“ ÁN – phộc gia phệ, sa phộc hạ”
* OM – VAYÀVE – SVÀHÀ
Tiếp kết Tỳ Sa Môn Thiên Ấn – Trước trên, chắp 2 tay lại, 10 ngón tay cài chéo nhau bên trong, dựng 2 Thủy
57
(ngón vô danh) sao cho đầu ngón trụ nhau, hơi co 2 phong (ngón trỏ) Tả Không (ngón cái trái) vào trong lòng bàn tay đè móng Tả Hỏa (ngón giữa trái), Hữu Không (ngón cái phải) vượt lưng Tả Không (ngón cái trái) vào trong chưởng trái đè Hữu Hỏa (ngón giữa phải) Chân Ngôn là :
* ÁN – phệ Thất la phộc noa dã, sa phộc hạ”
* OM – VAI’SRAVANÀYA – SVÀHÀ
Tiếp kết phạm Thiên Ấn – Tay phải nắm quyền đặt ở eo – Tay trái dựng thẳng 5 ngón dính nhau rồi hơi co lại – Đưa Ấn cao hơn lông mày liền thành Liên Hoa Chưởng – Chân Ngôn ấy là :
“ ÁN – Một la hàm ma ninh – sa phộc hạ”
* OM – BRAHMANI – SVÀHÀ
Tiếp kết Địa Thiên Ấn – Trước tiên chắp 2 tay lại, 4 ngón từ phong (ngón trỏ) trở xuống cùng đính đầu ngón rồi mở lớn về phương phía trước, 2 Không (ngón cái) đều dính bốn cạnh phong (ngón trỏ) Chân Ngôn là :
“ ÁN – Tất lị thể vi duệ, sa phộc hạ”
* OM – PRTHIVÌYE – SVÀHÀ
Tiếp kết Nhật Thiên Ấn. Chẳng khác với Địa Thiên Ấn lúc trước, chỉ đem đầu 2 không (ngón cái) đều trụ lóng dưới của Thủy (ngón vô danh) – Chân Ngôn là :
“ ÁN – A nễ đát dã, sa bã ha”
* OM – ÀDITYA – SVÀHÀ
Tiếp kết Nguyệt Thiên Ấn – Như phạm Thiên Ấn lúc trước, chỉ nắm quyền, chính giữa có tướng màu trắng tinh
của mặt trăng – Chân Ngôn là :
58
“ ÁN – chiến nại la dã, sa bà ha”
* OM – CANDRÀYA – SVÀHÀ
Do kết 12 Thiên Vương Ấn và tụng Chân Ngôn cho nên người tu Du Già làm các sự nghiệp có uy đức tự tại.
Lại nữa Thánh Giã Mã Đầu Tôn Uy Nộ Vương. Nói về đại hộ Thân, kết giới, Ấn và Chân Ngôn – hai tay; 3 ngón từ ngón giữa trở xuống hướng ra ngồi cài nhau đều nắm dính lưng bàn tay rồi chắp tay lại – Dựng thẳng 2 ngón trỏ cách nhau khoảng 5 phân, kèm 2 ngón cái dính nhau đều co lóng thứ nhất sao cho không chạm vào ngón trỏ rồi đưa đầu ngón qua lại – Chân Ngôn là :
“ ÁN – bát la tỳ ca tất đá, bạt chiết la bộ phiệt la la chi, sa phộc hạ”
* OM – PRAVIKASITA VAJRA BHÙRA ARCI – SVÀHÀ
Thánh Giã Mã Đầu Tôn đại uy nộ vương lại nói về Đại pháp Thân Ấn Chân Ngôn. Hai tay, 3 ngón từ ngón trỏ trở xuống hướng ra ngồi cài chéo nhau sao cho đầu ngón đều bám dính lưng bàn tay rồi chắp tay lại – Kèm dựng 2 ngón út họp nhau, kèm 2 ngón cái dính nhau rồi co lại, giận dữ đưa ngón cái qua lại – Chân Ngôn là :
“ Nẵng mạc Tam mãn đa một đà nam – ÁN – đỗ na, đỗ na – ma tha, ma tha – khả đà, khả đà – Ha dã hột lị phộc – Hồng, pháp tra – sa phộc hạ”
* NAMAH SAMATA BUDDHÀNÀM
OM – DHUNA DHUNA, MATHA MATHA,
59
KBADA KBADA – HÀYAGRIVA HÙM PHAT - SVÀHÀ
Thánh giả Mã Đầu Uy Nộ Vương lại nói về Đại pháp Tâm Ấn Chân Ngôn : Hai tay, 4 ngón từ ngón trỏ trở xuống hướng ra ngồi cài nhau sao cho đầu ngón đều bám dính lưng bàn tay rồi chắp tay lại, kèm 2 ngón cái dính nhau đều co 1 lóng đừng để dính ngón trỏ, đưa ngón cái qua lại – Chân Ngôn là :
“ Nẵng mạc tam mạn đa một đà nam – A mật lợi đô nạp bà phộc, Hồng phát tra, sa phộc hạ”
* NAMAH SAMANTA BUDDHÀNÀM – AMRTA UDBHAVA HÙM PHAT SVÀHÀ.
Thánh giả Mã Đầu Uy Nộ Vương lại nói về Đại pháp Đầu Ấn Chân Ngôn – Dựa theo Ấn Hộ Thân lúc trước, chỉ sửa 2 ngón trỏ sao cho đầu ngón trụ nhau, đều co 2 ngón út cái cho đầu ngón ló ra – Chân Ngôn là :
“ Nẵng mạc tam mạn đa một đà nam – dá điệt tha chước ca lội bố, chước ca la xoa lội bố, chước ca la bã đàm ma xoa lợi bố – A mô già tả thủy la chỉ vị – bả la xả võng già xa đô, sa phộc hạ”
Thánh Giả Mã Đầu Tôn đại uy nộ vương lại nói về Đại pháp Đỉnh Ấn Chân Ngôn – Dựa theo Đầu Ấn lúc trước chỉ sửa dựng 1 ngón trỏ dính đầu nhau, để riêng 2 ngón giữa ở trước ngón trỏ sao cho đầu ngón trụ nhau Chân Ngôn là :
“ Nẵng mạc tam mạc đa một đà nam – Thất lị la lị
hí, Hồng phát tra, sa phộc hạ”
60
* NAMAH SAMANTA BUDDHÀNÀM - ‘SARIRA ARCI HÙM PHAT – SVÀHÀ
Thánh giả Mã Đầu Uy Nộ Vương lại nói về Đại pháp Khẩu Ấn Chân Ngôn - 2 tay cài ngược các ngón trong lòng bàn tay, dựng thẳng 2 ngón giữa trụ đầu nhau, kèm dựng 2 ngón cái, đem ngón trỏ phải vịn đầu ngón cái phải, hơi cong cứng ngón trỏ trái đặt bên cạnh ngón giữa – Chân Ngôn là :
“ Nẵng mạcd tam mạn đa một đà nam – ÁN – thể lỗ lô, cưu lỗ đà na, ô hòng phán, sa phộc hạ”
* NAMAH SAMANTA BUDDHÀNÀM – OM VIRULA KRODHANA HÙM PHAT –SVÀHÀ
Thánh giả Mã Đầu Uy Nộ Vương lại nói về Đại pháp Nha Ấn Chân Ngôn – Dựa theo Ấn trước, chỉ sửa dựng thẳng 2 ngón giữa dính đầu nhau, kèm dựng 2 ngón cái bám ngón giữa – Trước tiên, đem ngón út trái nắm sau lưng ngón vô danh phải, đem ngón út phải nắm lưng ngón út trái – Chân Ngôn là :
“ Nẵng mộ la đa na đát la dạ gia – Nam mô A lợi gia, bà lô cát đế, nhiếp ba la gia, bồ đề tát đả bà gia, ma ha tát đỏa bà gia, ma hạ ca lô ni ca gia – Dá điệt tha : Dá la tra, dá la tra – mạt tra, mạt tra – san đà, san đà, tần đà, tần đà – Hồng Hồng – phát tra phát tra – sa phộc hạ”
* NAMO RATNA TRAYÀYA NAMAH ÀRYA AVALOKITE’SVARÀYA BODHISATRÀYA MAHÀ
61
SATRÀYA, MAHÀ KÀRUNIKÀYA
TADYATHÀ : TRÁT TRÁT – MAT MAT – CCBINDHA CCBINDHA – BHINDHA BHINDHA – HÙM HÙM – PHAT PHAT – SVÀHÀ
Thánh Giã Mã Đầu Tôn Đại Uy Nộ Vương lại nói về chư chướng Hán Thực Ấn Chân Ngôn – Tay trái đều dựng 5 ngón, để tay phải hướng xuống dưới sao cho các đầu ngón tay của ngón giữa, ngón vô danh, ngón cái đều trụ nhau – Chân Ngôn là :
“ Nẵng mạc tam mạo đa một đà nam – Hùm Hồng khư na dã, bạn nhạ, la cự tra dã, sa phộc hạ’
* NAMAH SAMANTA BUDDBÀNÀM – HÙM HÙM BHAMJA SPHATYA – SVÀHÀ
Thánh Giã Mã Đầu Tôn Đại Uy Nộ Vương lại nói về cấm đoạn chư chướng Nhuệ Dao Ấn Chân Ngôn – 2 tay Định Tuệ đều nắm Kim Cương Quyền, duỗi thẳng Hỏa phong (ngón giữa, ngón trỏ); Đem Không (ngón cái) giữ Địa Thủy (Ngón út, ngón vô danh) – Tay Tam Muội (tay trái) làm cái bao (vỏ) tay Bát Nhã (tay phải) làm cây đao Đao Tuệ vào, trụ, ra đều trú ở cái bao Tam Muội – Đây tức là uy nghi của Mã Đầu Tôn Cấm Đoạn Chư Chướng Mạt Ấn.
Định Tuệ (2 tay) đều trụ ở trái tim – Tay Tuệ (tay phải) chuyển vòng khắp cả, cần biết vật được chạm đến tức là Khử Cấu (trừ bỏ dơ bẩn) – Đem chuyển theo bên trái liền thành Tịch Trừ – Nếu kết phương Ngung Giới đều
62
khiến tùy chuyển theo bên phải – Mọi sự nghiệp khác như : Diệt ác, Tĩnh các chướng cũng nên làm như vậy, tùy loại mà tương ứng – Chân Ngôn là :
“ Nẵng mạc Tam mạn đa một đà nam – Đá điệt Tha: Ha lị, ha lị, vô ha lị, vật ha lị – Tát phộc đột sắt đảm, chiêm bà dạ nhĩ dạ bạt kiệt lan địa na văn đỗ nhĩ – sa bà hạ”
* NAMAH SAMANTA BUDDHÀNAM
TADYATHA, HARI, HARI, MOHARI, VIHARI (di chuyển qua) SARVA DUSTAM ( ) STAMBHAYA ME ( ) – YABA ( ) KRÀNTI DARVATA ( ) UMIØ – SVÀHÀ.
Thánh Giã Mã Đầu Tôn Đại Uy Nộ Vương lại nói về Tối Thắng Căn Bản Ấn – chắp 2 tay lại, co 2 ngón trỏ ngón vô danh vào trong lòng bàn tay sao cho móng ngón chung lưng, mở cứng 2 ngón cái liền thành.
Vừa kết Ấn này tụng Chân Ngôn – Từ Ấn này phóng ra ánh sáng, từ miệng tuôn ra vị Hóa phát – Hóa thảy các Thiên Ma, Ngoại Đạo, chướng nạn, lồi có tâm bất thiện....bên trên đến Hư Không Giới, bên dưới cho đến phong luân Tế – Hết thảy đẳng loại không hành, Địa Cư Hạ, Tỳ Na Dạ Ca.....kkhông dám xâm hại, đều khởi tâm từ, chẳng thể gây chướng ngại – Bồ Tát Tu Chân Ngôn Hạnh
xa lìa các chướng nạn, được uy đức tự tại. Do kết Ấn tụng Chân Ngôn cho nên người ấy ngang bằng với thân của Đại Uy Nộ Vương không có sai khác.
63
Thánh Giã Mã Đầu Tôn Đại Uy Nộ Vương lại nói về Đại Chân Ngôn là :
1. Nam mô la đát na đá la dạ gia
2. Na mô A lị gia bà lô chỉ đế nhiếp phạt la gia
3. Bồ đề tát đỏa bà gia
4. Ma ha tát đỏa bà gia
5. Ma ha ca lỗ ni ca gia
6. Ná ma tát bà tát đỏa tỳ gia sa ba na ca đế nễ
7. Ná mô tát phộc tát đỏa bà gia mục xoa ca la gia
8. Ná mô tỳ tri gia, A lậu ca đà mô đà duệ
9. Ma ha dụ ca du chỉ ni
10. Đá tất căn na ma tất yết lị đỏa
11. Ế đảm A lị gia phộc lô chỉ đế nhiếp phiệt la
12. Mô cô tri chỉ lị nam
13. Bạt chiết la cú la sa bà yếm
14. Ha dã hột lị phộc na ma
15. Bà la mạt đá yễm
16. Ma đá ma đá đế khâm nhĩ
17. A sa diễn tát phộc đô đá nan
18. Dược xoa nan đà tỳ na xà ca xà
19. A mô vu tát phộc ca lị dạ nan
20. Tỳ nại nan xà ni bá la nan
21. Tỳ nại nan xà tỳ na xả nan
22. Đá diệt tha
23. ÁN
24. Đà lỗ la, đà lỗ la
25. Tỳ lỗ la, tỳ lỗ la
64
26. Tát bà tỳ sa khư đá ca
27. Thời bá lý đà
28. Tỳ tất phổ lăng già đà hạ sa
29. Kê sa la trác bà
30. Bạt la phạt lị đà tỳ ca
31. Bạt chiết la khuất la
32. Nê ca đà nam
33. Xà lý đà bà tô đã đá la
34. Ni thi bá tử đà hạ tử đà
35. Ma lỗ đô sáp đà
36. Bà la tỳ đà bồ đà ca noa
37. Tăng sô bàn na ca la
38. Bà la tỳ tri gia bạc xoa na ca la
39. Bà la ma xa án trị ca la
40. Bộ tri gia, bộ tri gia
41. Bạc già phạm
42. Ha dã hột lị phộc
43. Khả đà, khả đà
44. Bà la mạn đà la Án
45. La xoa, la xoa
46. A tri ma mạn đà la Án
47. Tử điện mai đà lị xả gia
48. A tỉ xã, A tỉ xã
49. Cụ la tỳ xã xà
50. Tát phộc ca lị ê sáp há
51. A ba la đề hạ đồ bả phộc
52. Bá la bạt chiết la đăng sắt tra la
65
53. Hệ chỉ la dạ
54. Ế đàm đột sắt tra yết la hán
55. Đột sắt tra tỷ xả xà Án
56. Đột sắt tra lộ la
57. Đột sắt tra thời bá lam
58. Đột sắt tra tỷ sản
59. A độ gia, a độ gia
60. Tỳ độ gia, tỳ độ gia
61. Ma địa, ma địa
62. Ba la ma tha, ba la ma tha
63. Đá tha già đà
64. A chỉ nhương bá la gia
65. Bồ đà đạt ma tăng già nô tri nhạ đàn
66. Yết ma mê thí yết án
67. Cú lỗ, cú lỗ
68. Hạ dã hột lị phộc gia, phát tra
69. Bạt chiết la cố la gia, phát tra
70. Bạt chiết la đặng sắt tra la gia, phát tra
71. Bạt chiết la đặng sắt tra lỗ tri ca tra phả gia, bà di la ma dạ, phát tra
72. Ba la mạn đà la, na xả gia, phát tra
73. Tát bà yết hô sai đà na ca la na, phát tra
74. Tát bà yết hề sắt bà, A bả la đề ha đồ bà ma gia, phát tra
75. Ba la tỉ tri gia bà sử na, ca la gia, phát tra
76. Tát bà tỉ sa nê ca đà na gia, phát tra
77. Tát bà yết la ha, tỳ xả xà mê bá xa ma na gia, phát tra
66
78. Bá tra bá mục khư gia, phát tra
79. Dã phộc đồ, ma ma (tự xưng danh tự.......)
80. A ê đệ sử na Tất đả tát tấn
81. Bá tra bá mục khế
82. Vĩ yết lan tra gia
83. Phát tra, phát tra
84. Na mô la đát na đát la dạ gia
85. Na mô A lị gia bà lô chỉ đế nhiếp phiệt la gia
86. Bồ đề tát đỏa bà gia
87. Ma ha tát đỏa bà gia
88. Ma ha ca lỗ ni ca gia
89. A tỉ xả, A tỉ xả
90. Hạ dã hột lị phộc
91. Ô chỉ nha bà dạ đề
92. Sa phộc hạ
Diện Chân Ngôn Ba đế tra tất đà ha phán đề này – Tuy chẳng thọ từ Đàn cúng dường pháp nhưng tùy tụng vẫn thành nghiệm.
Tiếp gia trì Niệm Chân Chân Ngôn là :
“ ÁN – vĩ lô tả nẵng ma la, sa phộc hạ”
* OM – VAIROCANA MÀLA – SVÀHÀ
Tiếp Thiên chuyển Chân Ngôn là :
“ ÁN – phộc nhật la ngục tứ dã, nhạ bả, tam ma duệ, Hồng”
* OM – VAJRA GÙHYA JAPA SAMAY’E HÙM
Tiếp Liên Hoa Bộ Bách Tự Chân Ngôn là :
67
1. ÁN – Bả ná ma tát đả phộc
2. Tam ma dã,tam nỗ bá bá dã
3. Bả ná ma tát đát phộc
4. Đát phệ nỗ bả đề sắt tra
5. Niết lị trạc mính bã phộc
6. Tố đố số dụ mính bã phộc
7. A nỗ la khát đố mính bà phộc
8. Tô báo số mính bà phộc
9. Tất phộc tất để địa viện mính bát la duệ sai
10. Tát phộc yết ma tố tả mính
11. Tức đá thất lị dược củ lỗ
12. Hồng, Ha Ha Ha Ha hốc,bà nga noan
13. Tát phộc đát tha nghiệt đa
14. Bá ná ma ma mính môn tả
15. Bả ná nhĩ bà phộc
16. Ma hạ tam ma dã tát đát phộc, ác
17. Hột lị
* OM – PADMASATRA SAMAYAM ANUPALÀYA PADMASATRA TRENA UPATISTA DRDHO ME’BHAVA – SUTOSYO ME BHAVA – ANURAKTO ME HBAVA – SUPOSYO ME BHAVA
SARVA SIDDBINI ME PRAYACCHA – SARVA KARMASU CA ME CITTAM ‘SRÌYAM KURU HÙM – HA HA HA HA HOH – BHAGAVAM SARVA TATHÀGATA PADMA MÀ ME MUNCA – PADMI BHARA – MAHÀ SAMAYATRA – ÀH – HÙH
68
Do tụng Bách tự Chân Ngôn gia trì hco nên hay khiến cho trụ bền chắc nơi Tam Ma Địa của Bản Tôn – Giả sử trung thân đã từng phạm 5 tội vô giáo, phỉ báng kinh Đại Thừa phương Quãng, tất cả tội cấu thảy đều tiêu diệt, đời này đều được viên mãn ước nguyện về Tất Địa thù thắng
Tiếp kết phát Khiển Ấn – Như Kim Cương phộc lúc trước, dựng thẳng Nhẫn Nguyện (2 ngón giữa) cùng trụ dính nhau như cánh sen – Liền đem 1 cành Tố la vi bố sắt ba cắm vào đầu Ấn vịn, tụng phát khei63n chân ngôn, đánh trên tượng 7 lần thì các Thánh chúng và Bản Tôn liền quay về.
Thánh Giả Mã Đầu Tôn lại nói về pháp Môn Vô Tỉ bất Tư Nghị Lực Thánh Giã Mã Đầu Tôn diện Tâm năng thành nhất thiết chư sự nghiệp.
Aên rau tác niệm tụng đủ 10 vạn biến, nhịn ăn 1 ngày 1 đêm rồi bày biện đại cúng dường, tác sự nghiệp Hộ Ma – Dùng gỗ cây khổ luyện, 2 đầu rồi thiêu đốt 8000 c1i thì thành căn bản – thoạt đầu, hành mãn thì mọi sự mang cầu trong tâm thảy đều được thành tựu.
Lại có pháp – dùng quả mật la phộc để Hộ Ma, đủ 30 vạn biến sẽ đạt được vương vị (ma vị của Ma Chúa) nếu muốn được linh nghiệm lớn, nên ở trước tượng Mã Đầu làm 1 cái Đàn rộng 4 khủyu tay, trong Đàn để vật khí bằng đồng trắng chứa đầy nước thơm – Từ ngày mồng một cho đến ngày 15 của tháng, đốt hương rải hoa, chí thành lễ kính, tác niệm tụng, ngày đêm chẳng gián đoạn, chẳng được nằm nghỉ, luôn tinh tiến bền chắc, cứ ngồi yên chẳng
69
đi đứng – khaỏng 15 ngày không có đứt đoạn mà mãn 5 lạc xoa biến, thì Đại Uy Nộ Vương hiện thân mầu nhiệm gia trì, Hành Giả sẽ được Đại Thần Thông, tức thông đạt việc của 3 đời, lại có thể đều thọ trì kinh sách của Thế gian đó, lại hay thông đạt tất cả pháp thau65t, vi đà, điển tịch của ngoại đạo.
Lại muốn được thành đại nghiệm – bên trong 3 ngàn Đại Thiên Thế Giới có núi, sông, đá, từng, của 4 món biển lớn hay khiến cho soi sục phun lên – Núiù tô di lô với núi Thiết Vi hay khiến cho nghiêng động, lại vỡ vụn như bụi nhỏ – trong đó hết thảy tất cả Hữu tình được uy quang của Đại Uy Nộ Vương chiếu chạm đến đều xa lìa các khổ não được đại an lạc.
Lại có pháp – nếu muốn được. “Mê cổ” đi đến – lấy hoa Tô Ma Na, ở trước tượng Đại Uy Nộ Vương, gia trì 21 biến rồi rãi dưới chân tượng – xong, tay phải lượm hoa ở chỗ đã rơi đến, tùy nhận “Mê Cổ” – từ đây về sau, gia trì Hoa 7 biến rồi rãi tán tức Mê Cổ sẽ đến.
Lại nữa, người có tâm “Bỉ thử” lấy quả tử gia trì 21 biến rồi sai người đưa cho ăn thời tâm liền mê loạn, rất yêu nhớ mình nên không có ý khác.
Lại có pháp – nếu muốn : luận nghị, lấy Ngưu Hồng,
hương, long não hương, tam muội, hòa mài rồi gia trì 108 biến, điểm chám trên đỉnh đầy với trên 2 bắp tay, trái tim, cổ họng, tam tinh, chân tóc, trên trán, sau ót – rồi lấy hạt cải trắng gia trì 21 biến – dùng tay phải nắm lấy, đi đến luận nghị rồi rải tám bên cánh cửa – còn tay trái giữ lại
70
chút ít – lúc chính thức nghị luận, dùng tay phải nắm hạt cải, tay trái chướng về người luận nghị, hòa mật rải tán, liền búng ngón tay tức đều được thắng kẻ khác – chẳng bị Thiên Nạm, Địa nạn và Tật nạn, sẽ được thành tựu lớn
Lại có pháp – nếu tất cả người bị đau đầu (đầu thống) lấy danh tự (tên tuổi) của người ấy, liền tụng chân ngôn gia trì vào nước – tác âm thanh chữ Hồng (HÙM) liền dùng nước này, đánh Ấn trên đàu người đó ngay chỗ bị đau, thì bệnh đau nhức đó sẽ khỏi- bệnh giớ, bệnh nóng sốt, bệnh về đầu, bệnh về chân, 404 bệnh, vạn não thảy đều tiêu trừ, cắt đứt hết sạch – cho đến thế gian có 8 vạn 4 ngàn loại Qủy bệnh thảy đều trị được, không gì không khỏi bệnh, đều được thành tựu.
Lại có pháp – nếu phá diệt các pháp, muốn cho chú pháp do người khác làm chẳng được thành biện – nên làm cái đàn phấn 3 màu rộng 4 khủy tay – 3 mặt Nam, Bắc, Tây để tòa hoa sen – ở trên tòa ấy để bình có răng nanh sáng tỏ – trên tòa sen ở mặt Đông, để Ấn bạt chiết la – đốt 12 cây đèn, thức ăn khác nhau có 100 mùi vị, đặt trong 8 cái chén – thức ăn đó, mỗi ngày đều thay đổi cho mới – mỗi mỗi cúng dường đủ 7 ngày – từng ngày nên gia trì hạt cải trắng 108 biến, 1 lần chú 1 lần ném vào trong lửa thiêu
đốt thì tất cả các người tác pháp đều bị phá, chẳng thể thành hiện được – nếu Thập Địa Bồ Tát nghe Đại Uy Nộ Vương chú mà chẳng tùy thuận gián pháp cài có thể khóa tan, giống như Bậc Đẳng chính gaíc chẳng thuận Giáo Lệnh Luân đều có thể khóa tan, huống chi các hàng trời
71
rồng 8 bộ, lồi gây chướng nạn khác – tụng Diệu chân ngôn đủ 1 vạn biến đốt hay được mọi loại pháp điều phục mãnh lợi – Do uy thế của Đại Uy Nộ Vương, nên trong khoảng 500 do tuần chẳng được tất địa của các tôn, tức người tu hành nương theo Đại Uy Nộ Vương gia trì sẽ được uy đức tự tại.
Lại có pháp – đối trước tượng Mã Đầu Tôn – trước hết, lấy cây Lăng, chặt khúc dài 8 ngón tay rồi bỏ vào lửa đốt – lấy từ lửa ra, dùng An Tát Hương làm 108 viên, 1 viên 1 lần đọc chú 1 lần ném vào trong lửa đốt – cho đến khi Hương hết – thì hàng Tỳ Na Dạ Ca liền tự bị cột trói –
Lại có pháp – nếu có người ác, oan gia đối với người lành khởi ý ác muốn hãm hại – cần phải lấy Thiếc làm bức tượng Kim Cương Uy Nộ Vương, lớn nhỏ tùy ý – Hình tượng đó có 4 mặt 8 tay, trên dưới mỗi cái miệng đều ló ra 4 răng nanh – 8 tay cầm khí trượng Kim Cương, trên đỉnh đầu của mặt chính hiện 1 đầu ngựa màu xanh biếc, đầu tóc như lửa xoắn ốc, hình rất bạo ác, cởi con trâu xanh – Lưng con trâu có hình hoa sen, trên hình hoa sen có Bản Tôn ngồi xổm, tồn thân rực lửa nóng bức sáng chói như kiếp Tai Diễm (kiếp bị tai nạn về lửa) – Điệu hình (thân hình mầu nhiệm ) giáng phục Thiết Đỗ Lô (‘strù – oan gia) trong 3 cõi của Đại Uy Nộ Vương là như vậy.
Nên đối trước tượng này, làm cái Đàn Tam Giác, đáy đàn vẽ hình người ác ấy, hoặc viết tên họ – mặt tượng hướng về phương Bắc hoặc hướng về phương mà người ác cư ngụ – Người trì tụng, thân mặc áo đen, mặt hướng về
72
tượng rồi ngồi, khởi tâm đại ác, giận dữ gằn giọng tụng 3 ngày 3 đêm, niệm tụng 3 thời – khi xong 3 ngày thì người ác kia sẽ bị chết, quyến thuộc không còn sót ai – nếu muốn cho họ sống lại thì khởi tâm Bi Mẫn sâu xa – lấy rễ hoa sen quết giã thành cám, dùng Đại Bi Tam Muội Gia Chân Ngôn, 1 ngày 1 đêm chẳng được ăn uống – đủ 108 biến tức người ác kia và quyến thuộc đều sống lại – nơi phật pháp, khởi quy kính, chắp 2 tay lại, co Tiến Lực (2 ngón trỏ) – làm cái miệng hang, phát tâm khởi Đại Từ Bi – Chân Ngôn là :
“ Nẵng mạc tam mạn đa một đà nam – Già vĩ ba la đốt lê, ô Hồng, sa phộc hạ”
* NAMAH SAMANTA BUDDHÀNÀM – KÀ’SI (đuốc sáng) PRASURU HÙM SVÀHÀ.
Lại có pháp – nếu muốn đánh ah2ng Tây Nhạ (Teja – hàng có uy đức) trước tượng Mã Đầu Tôn làm cái đàn Tam Giác, niệm tụng 1 vạn, 10 vạn biến, 3 ngày 3 đêm không ăn, xoa hương trên đầu, dùng mọi thứ hương hoa, thức ăn uống trong sạch, sữa, cháo, quả trái.....mọi thứ cúng dường – quết giã sa xà la xa hương, hòa với Bạch Mật làm 8000 viên – 1 viên hương 1 biến ném vào trong lửa thiêu đốt – Như vậy cho đến lúc hết hương – chúng Tây Nhạ ấy tìm kiếm, người ban đầu thấy biến làm Mã Đầu, trải qua một lúc là cái đầu của Hạ dã hột lị phộc (Hàyagriva – mã đầu) – người trì tụng hướng về chúng ấy thì tất cả Tây Nhạ thảy đều bị diệt tan.
Lại có pháp – nếu bị khởi mọi loại tai nạn làm cho đất
73
nước bị rối loạn, ốn địch ở nước khác đi đến xâm lấn, khiến bách tính chẳng yên, Đại Thần mưu phản, bệnh tật lan tràn, nguồn nước hẳng điều hòa, mặt trời mặt trăng lệch mất độ – Như vậy, lúc tại nạn khởi dậy thì vị ma của đất nước phải cải sữa thân tâm, tinh tiến thỉnh cầu người Trì Minh ở trước tượng Đại Uy Nộ Vươngtác niệm tụng, dùng cỏ đốt Lỗ thấm Tô, sữa, mật rồi tác Hộ Ma chỉ 10 vạn biến thì ốn địch của nước ngồi liền tự bị giáng phục, đều quay trở về sữa trị đất nước, thông suốt tâm từ cùng hướng về Vương Tử – trămquan đều trung thành, phi hậu, con gái đẹp, người già đều hướng về đức vua tỏ lòng tôn kính – các hàng rồng, qủy, thần đều ủng hộ nước ấy, mưa tuôn thuận thời, quả trái thức ăn sung túc, nhân dân hoan lạc –
Lại có pháp – trong nhà gặp bệnh tật hiểm ác, trăm quái khởi nhiều, qủy thần tà ma quấy phá – Nhà đó bị người ác ngang ngược tạo khẩu thiệt, mưu mô hãm hại – Nhà thất đó lớn nhỏ, trong ngồi chẳng hòa. Chỉ hướng trước tượng Mã Đầu, tác niệm tụng, số đủ 1 vạn biến thì các việc ác thảy đều tiêu diệt.
Lại có pháp – nếu bị ma Quan tịch thu sổ sách, thân bị giam trong nhà tù, bị cấm đốn chịu gông cùm xiềng xích – là có ý nhớ đến Đại Uy Nộ Vương thì vị quan tự ban ân tha cho trở về – trên từ vua quan, dưới cho đến nơi tù ngục – người chẳng hành pháp này chuyên chú thì không bao giờ có chuyện này.
Lại có pháp – trước tiên dùng Đại Mạch và Ngưu khiết – lấy lúa trong phân, tẩy cho khô, lau. quết giã, ướp làm
74
cháo sữa – từ ngày 01 của tháng bạch nguyệt ăn cháo sữa này cho đến ngày 15 – mỗi lần ăn gia trì, còn dưu thì để ở nơi sạch sẽ phụng biến sứ giả của Mã Đầu Tôn – liền ngưng chẳng ăn, trước tụng Đại Thánh dùng đầu thơm xoa đấp, rãi mọi loại hoa, đốt các danh hương, mọi thức ăn uống – cúng dường xong rồi – lấy Ca Tỉ Xà Hương quết giã làm cám nhỏ hòa với nước làm viên, số dư 8000 viên – lấy cây Ca Đà La làm củi để nhóm lửa – lấy 1 viên hương 1 lần chú 1 lần ném vào trong lửa thiêu đốt như vậy cho đến khi hết 8000 viên. Thì tro ấy biến thành vàng Tô bã na, nặng khoảng trăm ngàn lượng
Lại có pháp – Nếu muốn nhận chịu chú khác – lấy chút máu của thân mình hòa với hạt cải trắng làm 8000 viên – Ngày 14 của tháng Hắc Nguyệt, nhịn ăn 1 ngày lấy cây Khư Đà La nhóm lửa trong lò, lấy hạt cải trắng lúc trước, 1 lần chú thì ném 1 viên vào trong lửa thiêu đốt – Như vậy đến khi hết viên hạt cải, thì tất cả chú thảy đều nhận hết.
Lại có pháp – chỉ tụng chân ngôn, hành ở nơi đồng trống với các đụn cát, nếu cần thức ăn uống ắt tự nhiên tuôn ra
Lại có pháp – nếu có ngươì, vào ban đêm lúc đầu bị bất tịnh – lấy sợi chỉ màu trắng, trước tiên dùng chú trên gia trì 108 biến, sau đó làm sợi dây thần chú (chú sách) 1 lần chú 1 lần gút, làm đủ 21 gút – liền dùng cột eo lưng, tức chẳng bị rò rỉ (lậu) như lúc trước.
Lại có pháp – vào lúc nhật thực – nguyệt thực – lấy 1
75
lạng Ngưu Tô trong sạch đựng trong cái bình bát mới , liền cầm cái bát này ngữa nhìn mặt trời, mặt trăng chú vào Tô trong cái bát cho đến khi Bơ nóng ấm hoặc có khói lửa bốc ra...Ngay lúc ấy, liền uống bơ này – uống bơ này xong thì tùy muốn đến nơi nào, chỉ cần khởi ý thì đến đó ngay – nếu có người thường tụng chú này, dù gặp tất cả sự đáng sợ cũng không hề sợ hãi, hốt thảy chướng nạn đều được giải thốt –
Lại có pháp – nến bị ung nhọt Lộ Đà với các nơi bị trùng độc cắn, hoặc bị ung nhọt Kiến Tỳ Tra Diêu bị các ung nhọt của nhóm này thì chú vào đất màu vàng đủ 1000 lần rồi xoa trên ung nhọt liền được khởi bệnh – Tất cả tâm sự hãi, chỉ niệm liền trừ diệt được.
Lại có pháp – Nếu có người chợt gặp tất cả nạn về nước (Thủy nạn) chỉ cần Tâm niệm thì chẳng bị cuốn chìm, pháp như của nhóm như vậy chẳng có thể nói rộng – Tùy ý liền thành tựu – nếu tạo Đại Mạn Trà La thì chẳng được Hành Dục.
Tiếp lại nói về pháp của tượng Hạ dã hột lị phộc – liền có pháp vẽ tượng : Lấy Bạch Trập tinh sạch chẳng được tái chế – Thỉnh 1 vị Hoạ sư tài giỏi, đừng mặc cả trả giá – dùng nước thau tắm gội, mặc áo sạch mới, và thọ 8 giới – Ngày ngày như vậy – ở nơi thanh tịnh làm 1 cái THỦY ĐÀN – rộng khoảng 4 khuỷu thay – Người trì tụng hộ thân kết giới xong rồi cùng hộ thân cho Họa sư ấy – ở trong Đàn, đốt mọi thứ hương, rãi mọi loại hoa cúng dường rồi cầu xin – bên trong đàn vẽ làm bức tượng Đại Uy Nộ
76
Vương, gồm có 4 mặt đều phẫn nộ – 4 cái miệng, trên dưới một cái miệng đều hiện ra nanh chó – Tóc trên đầu cực nhỏ bền như đám lửa mạnh – trên đỉnh đầu của 4 mặt đều đội mão Trời và tai đều đeo vàng – Trên mãoTrời có vị hoa phật ngồi Kiết Già – trên đỉnh đàu của mặt chính giữa làm 1 đầu ngựa màu xanh biếc – trên cổ đeo các chuỗi Anh Lạc qúy báu – sắc thân hách dịch như mặt trời, tồn thân lửa mạnh mẽ như kiếp Hỏa Tai – Có 8 tay, 2 tay trái phải kết căn bản Mã khẩu Mật Ấn, 1 tay bên phải cầm cây kiếm bén, 1 tay bên trái cầm cây bổng Kim Cương, 1 tay bên phải cầm cây búa Kim Cương, 1 tay bên trái cầm bánh xe báu Kim Cương, 1 tay bên phải làm thế Thí Vô Uùy, 1 tay bên trái cầm Tràng hạt – Ngồi yên bàn đá báu trên đài hoa sen xanh – Bàn đá ấy có màu đỏ xanh vàng – Trên mỗi cổ tay của 8 tay đều đeo vàng xuyến – Thân phần trang nghiêm như nơi khác đã nói.
Làm tượng này, bắt đầu ra công từ ngày 14 của tháng bạch Nguyệt – Ăn đại mạch, sữa, cháu nhừ – Sau đó ngày 13, ngày 14, ngày 15 – 3 ngày 3 đêm không được ăn, cắt đứt nói năng niệm tụng – Lấy sa ca Tỳ già hương, càn đà na cú lợi hoa, chú vào 2 thứ này – 1 chú 1 ném ngay trên khuôn mặt trán, đến 8000 biến, thì giữa miệng của mặt ấy phóng ra ánh sáng – Ánh sáng ấy văng chung quanh Hành Giã rồi quay trở lại đi vào miệng tượng. Ở trong cái miệng ấy tuôn ra viên ngọc Như Ý, liền nên lấy – Lấy viên ngọc này xong, liền được sống thọ 14000 tuổi, tìm được 7 báu chuyển Luân Thánh Vương, sau khi chết được sinh về nước
77
An Lạc, từ bên dưới chân của Mã Đầu mà sinh ra.
Lại có pháp – nên đi khất thực, đại mạch, sữa, cháo nhừ Anh Khiết – Tác niệm tụng mãn 7 lạc xoa biến –
- 1 lạc xoa biến thời Tỳ Na Dạ Ca liền bị cột trói
- 2 lạc xoa biến thì thành tựu chú pháp
- 3 lạc xoa biến trước được thành tựu pháp thuốc : An Thiện Na, ma na xí la.
3 ngày 3 đêm chẳng ăn, tác pháp – tay thuốc ấy, chính chú vào thuốc thì trong thuốc hiện ra 3 loại tướng : liền biết pháp thành tựu – 3 tướng là : nóng ấm, bốc khói, bốc lửa, liền được thành tựu An Đà La Đà Na, bay lên Hư không rồi rơi.
- 4 lạc xoa biến thì rời mặt đất 4 ngón tay mà đi tự tại
- 5 lạc xoa biến liền được tùy ý bay trên hư không mà đi
- 6 lạc xoa biến liền được sống 1000 tuổi, ắt giữ được thân đời này đi đến quốc thổ của chư phật ở 10 phương : Người Tdrì Minh thành tựu Chú tiên – Tùy theo nơi làm, nhậm vận đều thành tựu, tất cả ai kêu gọi thì đều đến ngày.
- 7 lạc xoa biến thì hành giả liền được đầu tóc xoắn ốc – thành tựu tùy theo sở tu, ứng niệm liền đến, gần gũi thừa sự Đại Uy Nộ Vương – Liền biết sự sống chết của tất cả chúng sinh trong 3 đời – Ngay đời này, người ấy liền được thành tựu.
Nếu Sa Môn hoặc Bà La Môn, các nhóm Trai lành, gái thiện, có ý muốn thọ từ pháp của Đại Uy Nộ Vương thì dựa
78
theo điều trước, nếu làm cái đàn rộng 4 khủyu tay, nên tìm kiếm Thắng địa, nơi thanh tĩnh, quét dọn rưới vảy cho sạch sẽ – Lại dùng nước thơm, phân bò, bùn đất làm nền – treo mọi loại tạp sắc, phau, lọng, chuông báu, phong linh, với các thứ vàng, bạc – mọi thứ xen kẽ nhau để tô điểm đạo Tràng.
Trong Đạo Tràng lập cái Đàn Ngũ sắc rộng khoảng 4 khuỷu tay – Trước hết nên là màu trắng, tiếp màu vàng, màu đỏ, màu xanh, màu đen rồi làm 4 cửa, chính giữa Đàn ấy làm 1 tồ hoa sen đặt bày tượng Mã Đầu Tôn – ngay chính cửa Đông làm 2 tồ hoa sen đặt 2 đồng tử Ba la đa ma, Ba la già na – ngay chính cửa Bắc làm 2 tồ hoa sen đặt 2 đồng tử : Nhất kế la sát, A ba đề.
Bên ngồi phương Nam của Đàn, đặt mọi thứ cúng dường, còn lại, không có tồ hoa, làm 8 Đại Long Vương – 8 Đại Long Vương này chỉ dùng Thuế mễ, sữa, cháo nhừ cúng dường – dùng cho mọi loại cúng dường còn lại cũng được. Đốt 45 ngọn đèn, kêu gọi 8 vị Long Vương.
Gần sát cửa Tây của Đàn như cửa Nam đặt 1 cái lò lửa – dùng mè, lúa gạo, hoa....bơ, mật hòa với nhau xong tụng Đại Uy Nộ Vương Tâm Chân Ngôn gia trì vật đã hòa cùng lúc trước 1 biến – chú xong ném vào trong lửa thiêu đốt – mỗi mỗi như vậy cho đến lúc đủ 1008 biến – 1 ngày 1 đêm chẳng ăn. Nếu chẳng nhịn đói, chỉ được ăn bơ – Dùng nước nóng thơm tắm gội, mặc áo mới sạch – Vào trong Đạo Trường rồi tác cúng dường, hoặc 7 ngày hoặc 14 ngày hoặc 21 ngày hoặc 35 ngày hoặc 49 ngày hoặc 90 ngày – hoặc 6
79
thời, hoặc 3 thời, hoặc 2 thời, hoặc 1 thời – Như trên Hộ Ma, tác niệm tụng đừng giới hạn biến số – ắt có thể thi công, đắc được 5 loại việc thành tựu – là Tức Tai, Tăng Ích, Giáng Phục, Kính ái, Câu Triệu – hết thảy sự hy vọng về quả báu thế gian và suốt thế gian thảy đều thành tựu – Trong Bản Giáo chẳng nói pháp thành tựu – Dùng pháp trong Liên Hoa Bộ đối trước tượng này mà làm, ắt được thành tựu – ta với tất cả các tôn trong pháp đều có đại nghiệm, thường ghi nhớ Đại Uy Nộ Vương, diệt vọ lượng tội, được vô lượng phước, sau khi chết được sinh về nước An Lạc. Từ hông bên phải của Mã Đầu Tôn mà sinh ra
Lại có pháp – nếu muốn Luận Nghị, nên làm cái đàn rộng 4 khủyu tay như trước rồi cúng dường, sẽ được Thắng Thượng – chẳng bị nạn khác và nạn bệnh tật.
Làm Đàn xong, không có bệnh tật nào không khỏi.
Nếu bị thuốc độc, hay bị lồi Trùng, cọp cắn, nên tụng Căn Bản Chân Ngôn gia trì làm chỗ bị cắn thì không có gì không khỏi.
Dùng hạt của Tô Mộc Khư quết giã thành cám cực nhỏ, dùng nước cốt của Lạc Hòa như pháp, tụng Đại Uy Nộ Vương Tân Chân Ngôn 21 biến gia trì rồi cho người bệnh đó uống vào lúc bụng trướng rỗng, thì hết thảy tất cả trùng độc đều nôn ra hết, người vì tất cả bệnh não nên ta làm Y Vương để chữa trị. Nếu chẳng khỏi bệnh, ắt không có chuyện này. Bản Nguyện xa xưa đó là Đại Nguyện sâu nặng của ta, “Đại Từ Đại Bi Mã Khẩu”, hóa độ tất cả chúng sinh, chuyển thắng các Tôn.
80
Do Đại Bi cho nên chẳng dính sinh tử – Do Đại Bi cho nên chẳng trụ Niết Bàn – Thường trụ trong các cảnh giới vô minh cắt đứt hết mọi loại nẻo ác, diệt hết khổ “sinh, già, bệnh, chết” của 4 sinh trong 6 nẻo – Lại hay chọn lấy việc gần nhất để ăn, nuốt diệt sạch hết – ví như con ngựa đang đói chỉ biết ăn cỏ chứ không nhớ đến việc khác – vì lực của bản nguyện này cho nên ở 10 phương Sát Thể không có nơi nào mà không hiện thân.
Bậc Du Già khởi sâu Tâm Bồ Đề, mỗi ngày tụng 8 biến thì Đại Uy Nộ Vương sẽ hiện thân phụng sự bậc Du Già ấy – ví như Nữ Tỳ cung kính, giống như Bà Nga Noan (Đức Thế Tôn – 2 đời chẳng thành Bồ Đề sao?
Nhớ nghĩ Đại Uy Nộ Vương thì chẳng bị đọa vào 3 đường ác, quyết định vãng sinh về các Phật Quốc – Lúc được Uy Nộ Tôn này gia trì, giả sử có các người ác, ma ác, cầm thú ác, cho đến yểm mỵ, cổ thuật, Ly mỵ, võng lượng, qủy thần ác.... khởi tâm ác muốn não hại người hành, mau chóng đến gần nơi hành nhân cư ngụ thì trên đường đi sẽ bị giết hại – Thần nghiệm này, chu vi ngồi 40 dặm khiến cho không có các chướng ngại, lại thường gia trì các người trì Minh khiến cho Tâm Bồ Đề chẳng bị thối chuyển.
Lại nói về pháp “tượng của 4 đại đồng tử’” – 4 đại đồng tử này, từng cặp một đồng thể không sai khác – Hình đó rất bạo ác, có sức lực mạnh mẽ, thân sắc màu xanh đỏ, túc tơ chia rũ 2 bên phải trái, mỗi một thân đều khốc áo cà sa màu đỏ, phủ phía trước, phía sau, eo, lưng – lấy da cọp quấn quanh háng dùng làm Đao, trên 2 cổ tay đều có
81
vòng xuyến báu, chỉ có ba la đa ma 2 tay cầm cây mâu nhọn bén – Ba la già na 2 tay cầm cây búa – nhất kế La sát tay phải cầm cây bổng Kim Cương, tay trái cầm sợi dây – A ba la đề tay phải cầm cây kiếm báu, tay trái cầm Bạt chiết la – 4 đại sứ giả đều có uy đức tự tại của vị vua, đều thủ hộ Uy Nộ Vương, đều đứng trên tảng đá sắt khánh, tồn thân đều rực lửa lớn mạnh rực rở chiếu soi như ánh sáng mặt trời chiếu sáng – Hình đại bạo ác hay giáng phục các Ngoại Đạo với Thiên Ma, các Dạ xoa ác, qủy thần ác....Muốn cho thảy đều quy y phật pháp – Nhớ nghỉ đến Đại Uy Nộ Vương cho nên 4 đại Đồng Tử thường tùy Thủ Hội, chẳng xa lìa, ở sát cạnh như Thân, cảnh chẳng lìa nhau, như giữ gìn tròng mắt của mình, như hộ giữ thân mệnh của mình – vì Thủ Hộ sứ giả cho nên liền hay thông đạt suốt của 3 đời – nếu có người chưa tụng Chân Ngôn, vừa mới nhớ nghĩ đến Đại Uy Nộ Vương, 2 sứ giả Thủ Hộ, người trì tụng chân ngôn, thì 4 đại đồng tử ngày đêm thủ hộ chẳng lìa, được ở sát bên cạnh.
Lại nói về pháp “tượng của 8 Đại Long Vương” – 8 đại Long Vương này đồng thể không sai khác – Đầu rồng, thân rắn, tồn thân đều rực lửa – Nếu loi điện tích lịch giáng, hay tuôn mưa đá lớn, mưa lớn, nên kêu gọi danh hiệu của 8 đại Long Vương – Hay chế chỉ, (chặn đứng) các roi điều liền được tiêu tan.
Nếu lại đại địa chấn động, sụt lỡ, phá nát núi sông đá tường, gió bạo ác thổi đến, các cây lớn bẻ gãy, lúc các nạn ác như vậy khởi dậy, các chúng sinh sợ hãi chẵng yên, thì
82
nên kêu gọi danh hiệu của 8 đại Long Vương- ắt hay chận đứng các nạn được đốt và giớ ác – ngủ cốc sung túc dư thừa, vạn tích an vui, từng thuận muôn giớ thời tiết, đất núi an vui, không có tai nạn – huống chi trên thanh hành giả lại bị các tai nạn, thì không bao giờ có chuyện này – các Ma chẳng có dịp thuận tiện hãm hại, mau chóng được đại Bồ Đề, chẳng bao lâu sẽ thành Phật.
Thành quả mở đầu Tôn Đại Uy Nộ Vương sứ giả pháp môn, đã nói xong
Thỉnh Hạ dã hột lị phộc đại Uy Nộ Vương cúng dường niệm tụng nghi quỹ
( Quyển hạ - hết - )

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 2 quyển »

Tải về dạng file RTF

_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 18.223.213.37 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập