Sự nguy hại của nóng giận còn hơn cả lửa dữ. Kinh Lời dạy cuối cùng
Lửa nào bằng lửa tham! Chấp nào bằng sân hận! Lưới nào bằng lưới si! Sông nào bằng sông ái!Kinh Pháp cú (Kệ số 251)
Người thực hành ít ham muốn thì lòng được thản nhiên, không phải lo sợ chi cả, cho dù gặp việc thế nào cũng tự thấy đầy đủ.Kinh Lời dạy cuối cùng
Không nên nhìn lỗi người, người làm hay không làm.Nên nhìn tự chính mình, có làm hay không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 50)
Con tôi, tài sản tôi; người ngu sinh ưu não. Tự ta ta không có, con đâu tài sản đâu?Kinh Pháp Cú (Kệ số 62)
Nên biết rằng tâm nóng giận còn hơn cả lửa dữ, phải thường phòng hộ không để cho nhập vào. Giặc cướp công đức không gì hơn tâm nóng giận.Kinh Lời dạy cuối cùng
Hương hoa thơm chỉ bay theo chiều gió, tiếng thơm người hiền lan tỏa khắp nơi nơi.
Kinh Pháp cú (Kệ số 54)
Lời nói được thận trọng, tâm tư khéo hộ phòng, thân chớ làm điều ác, hãy giữ ba nghiệp tịnh, chứng đạo thánh nhân dạyKinh Pháp Cú (Kệ số 281)
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê.Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hèn.Kính Pháp Cú (Kệ số 29)
Cỏ làm hại ruộng vườn, sân làm hại người đời. Bố thí người ly sân, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 357)
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
Một hôm có vị khách đến viếng tịnh cốc của tôi, trước lễ chào, sau dùng lời rất thanh nhã hỏi rằng : “ Từng nghe : đối với người tu tâm, đường tắt để thành đạo thì hạnh Thường Bất Khinh của Pháp Hoa Tam muội và Pháp Ban Châu của Niệm Phật tam muội đều là môn Vô Thượng Thâm Diệu Thiền. Xin được nghe về vấn đề này”.
Ðáp : “Tôi đã lâu mặc tu ở Cửu Phong. Không để tâm đến việc thế sự bên ngoài, sách vở cũng không đọc đến. Từ khi ở chùa Thảo Ðường núi Tử Cát, Linh Ðiển Thiên Phước Pháp Hoa Thắng Tràng đến nay đã 30 mươi năm, nhiều lần mừng được bậc hữu danh đến thăm hỏi, song chưa nghe ai hỏi như ông. Ông muốn bước đến bến rồng vô sanh, muốn tung cánh chim bằng vuợt bể nam, tôi tự thẹn mình chưa đuợc sáng suốt, xin thử luận bàn, nay lượt chia làm 20 điều để nói rõ yếu chỉ ấy”. I NIỆM VỊ LAI PHẬT CHÓNG THÀNH TAM MUỘI.
Luận về tâm nhị nguyên phân biệt nó hay khởi ra vọng niệm. Các vọng tuy hư giả huyễn hoặc mà lại hay ngăn ngại. Chỗ ngăn ngại này chưa được trừ bỏ thì thánh nhân còn phải lo toan.
Vốn đủ các âm vận mà không nói, pháp thân tuy rỗng rang mà có đủ mọi hình tướng. Chỉ vì các tướng không hiện bày nên nói là không có tướng vậy.
Ðối với yếu chỉ Nhất vị (nhất tâm) dứt bặt các đường nói năng làm sao biết được chỗ về của nó. Cái tông thú Tam muội quét sạch các tri kiến, hiển bày qua việc nói nín, đâu phải chỉ Duy Ma im lặng, Văn Thù khen ngợi mà thôi.
Vì sao? Bởi lưới Ðế Thích chưa căng đâu thấy được ngàn ngọc anh lạc. Một khi lưới được trương rồi thì muôn mắt đều mở ra thôi (chưa nhất tâm niệm Phật nên chưa thấy, khởi niệm Phật thì rõ tất cả là Phật). Tắm biển lớn tức đã dùng nước trăm sông, niệm danh hiệu Phật thì thành tựu tam muội. “Một lời có thể ngăn dứt tất cả” chính là ý này. Giống như bỏ ngọc ma ni vào nước đục, nuớc đục không gì không trong; Ý tưởng Phật đưa vào tâm loạn, tâm loạn chẳng gì chẳng Phật.
Khi tâm và Phật đã khế hợp rồi thì cả hai đều mất. Cả hai đều mất là định vậy. Cả hai đều sáng soi là tuệ vậy. Cảnh giới này gọi là định tuệ đồng đều, cũng là chỗ nói: “Tâm nào chẳng là Phaät, Phật nào chẳng là tâm”. Tâm và Phật đã như vậy thì mọi cảnh mọi duyên không đâu không là tam muội.
Song người đời phần nhiều chỉ niệm tướng mặt tròn như trăng của đức Thích Ca quá khứ, tưởng tượng tướng mắt trong như biển của Phật Di Ðà hiện tại giống như nhổ tên độc, như vào an lạc cung. Ðó là pháp rất hay, nhưng chưa nghe nói việc niện tưởng tướng sáng soi như mặt trời của Chư Phật vị lai. Ấy cũng tại chưa thấu rõ rằng Ðức Như Lai đối với thô tâm của chúng sinh mà nói ra những điều vi diệu của chư Phật, mới ngăn cách chúng sanh ra ngoài chư Phật. Do vậy mà chưa nghe nói về tướng Phật vị lai và không có ai niệm tưởng.
Trong Kinh Tịnh Danh (Duy ma) có nói việc: chỉ ngửi hoa Ðởm bặc, không ngửi mùi gì khác và hoa có dính thân cùng chẳng dính thân. Ðó là hạ tiểu thừa xuống, đưa đại thừa lên vậy. Hạ tiểu thừa xuống thì bày chỗ ôm bát mà dầm dề nước mắt. Ðưa Ðại thừa lên thì hiển việc đồng vui ở cảnh giới bất nhị. Còn trong Kinh Pháp Hoa là Kinh định rõ pháp thanh văn, là Kinh vua trong các Kinh thì tất cả mùi hương Ðởm bặc này (quả vị Phật) ai cũng có đủ nhưng không hiện rõ thôi
Do chưa phải là bậc liễu ngộ nên thấy chư Phật là bậc chí tôn, chúng sanh là kẻ chí tiện; tức là còn ý cao thấp sanh ra, còn tâm vọng niệm khởi phát. Có tâm niệm cung kính khinh ngạo khởi sanh thì tánh chơn như nhứt vị ẩn mất. Như thế tất coi vạn vật tầm thường như cây cỏ, xem thiên hạ nhỏ nhoi chẳng ra gì, khinh ngạo lễ nghi, ngông nghênh với người trưởng thượng, mặc tình buông thả tầm mắt theo cảnh vật, chẳng chịu nép mình. Ðó là trái với Duy Ma Kinh: “mọi cái nhìn, mọi cái cung kính đều là món cao quí nhất trong các món cúng dường”. Ðó cũng là không tin Kinh Lăng già nói: “Như Lai tạng tự tánh thanh tịnh, chuyển 32 tướng vào trong tâm tất cả chúng sanh như cột bảo châu raát quí giá vào trong áo bẩn”. Ðã vậy, làm sao thấy được kẻ cùng tử xin ăn trong thành và đức Như Lai cao quí bình đẳng không khác.
Nếu niệm đủ chư Phật 3 đời, quán khắp mười phương thánh chúng thì mới phù hợp với lý thú bát nhã. Thấy tất cả hữu tình đều là Như Lai tạng, tự thể của Phổ Hiền Bồ tát ẩn khắp trong các tướng, bần nữ có ngọc báu, gạo ngay trong thóc lúa như gương trong dễ nhìn thì đâu còn lo vướng phải tám điều kiêu mạn đáng trách kia.
Người đời không dám khinh Phật quá khứ hiện tại nhưng lại coi thường Phật ở vị lai (chúng sanh). Thật không biết đó là cội nguồn khởi nên tội lỗi. Bởi đặt mình trên Phật vị lai chẳng khác nào coi mình trên Phật hiện tại. Bỏ chúng sanh ra thì Phật vị lai làm sao có. Chúng ta phải biết: mẹ nhờ con mà quí, gạo nhờ cám mà bổ, nhờ Phật vị lai mà Phật hiện tại có giá trị.
Thế nên, tu kèm thêm tâm Thường bất Khinh của Pháp Hoa ấy thì niệm Phật tam muội chẳng sớm muộn chắc chắn thành tựu vậy.
- Hỏi: Pháp Hoa là pháp. Niệm Phật là Phật. Ðâu thể lấy Pháp làm Phật, lấy Phật làm pháp được. Ðó là lộn lạo lớn vậy!
- Ðáp: Chẳng lộn lạo gì cả. Cội gốc chỉ là một thì có gì là lộn lạo. Xét như loại thuốc Chi Truật là thuốc của các vị Tiên. Khi xưa còn ở trên trời; nó không có tên “Tiên”. Chỉ vì có người uống vào, mọc cánh bay trên mây, nó mới mang tên là “ Thuốc tiên”, và người đó được gọi là “người tiên”. Người và thuốc khác nhau nhưng gốc tiên là một vậy. Nếu không có Thánh nhân thì ai vui với đạo. Pháp không có Phật giác ngộ, há có thể tự ngộ được ư! Pháp không có Phật thì không thể ngộ, niệm Phật tam muội làm sao sanh được? Phật chẳng có Pháp thì chẳng sáng tỏ, Pháp Hoa tam muội há khởi được ư? Chỉ một loại tiên mà hai thứ đều được tên Tiên _ Niệm Phật và Pháp Hoa đồng gọi là Phật huệ. Ðã đồng là Phật huệ thì pháp môn Vô thượng thâm diệu thiền tức Thường bất Khinh và Ban Châu tam muội ngay đấy được ngộ. Chưa từng có dị biệt, có gì đâu mà lộn lạo? II- NGƯỜI NỮ, KẺ TRỘM ÐỀU KHÔNG NÊN KHINH.
Hỏi: Xin được nghe chỗ “tất cả chúng sanh đều là Phật vị lai”. Người nữ, kẻ trộm đều là thức rất xấu, làm sao người niệm Phật cung kính được?
Ðáp: Pháp môn Phật giảng thuyết có hai loại là “ Ðối đãi môn” và “ quyết liễu môn”.
Ở Ðối đãi môn coi đàn bà con gái là thứ hư ngụy và Như Lai là bậc Chí Chơn, nghĩa là Phật thì đáng tôn sùng còn đàn bà thì phải yểm ly (xa chán). Và để yểm ly người nữ, có 2 cách là “quở trách sự ham muốn” và “ khởi tâm quán sát”
Về việc quở trách sự ham muốn, trong kinh “Bồ tát ha sắc dục” nói: “Nữ sắc là gông xiềng của thế gian, phàm phu đắm luyến thì không thể tự dứt ra được. Nữ sắc là bệnh nặng của thế gian, phàm phu khổ sở vì nó đến chết vẫn chưa thôi. Nữ sắc là họa suy đồi của thế gian, phàm phu gặp phải thì không tai nạn nào chẳng đến”. Hành giả đã bỏ được lại còn nghĩ tưởng thì khác gì ra được tù ngục lại muốn trở vào, đã hết điên cuồng lại muốn điên nữa, đã khỏi được bệnh lại mong có bệnh. Người trí thấy vậy xót thương vì biết kẻ mắc bệnh cuồng si điên đảo ấy đến chết vẫn chưa thấy mặt trời (sáng suốt)”.
Kẻ phàm phu quí trọng người nữ, cam làm nô bộc, suốt đời bôn ba làm việc khổ cực; Ở trong búa sắt chông gai, gần gũi mũi dùi tên nhọn vẫn cam tâm nhẫn chịu không lấy làm lo. Bởi kẻ say cuồng thường thích hạng say cuồng không bao giờ cho là lỗi.
Hành giả nếu bỏ được rồi không để tâm nữa, ấy là phá gông, thoát xiềng, bỏ cuồng, chán bệnh. Lìa xa cái họa suy đồi (nữ sắc) thì đã an ổn lại tốt lành, là ra được tù ngục vĩnh viễn không còn tai nạn.
Luận về người nữ, lời nói họ như mật nhưng tâm họ lại là thuốc độc. Họ khác nào như dòng suối lặng trong mà có giao long ở, như núi vàng hang báu có sư tử nằm trong. Nên biết thứ nguy hại này là thứ không nên gần vậy. Gia đình bất hòa là bởi người nư õ; phá tông môn hư gia nghiệp cũng tại lỗi người nữ. Người nữ thật là giặc ngầm tiêu diệt trí tuệ sáng suốt của con người; giống như thợ săn giăng lưói bao bọc, thú không đường ra khỏi; như lưới bủa trên cao, chim sa xuống rồi không thể tung bay; như lưới thả ngang sông, cá đã đâm vào tất nằm trên thớt; lại như hầm tối, kẻ đui vào đó là bồ hong vào lửa đỏ.
Thế nên người trí biết rõ và lánh xa, không để bị hại; chán và gớm, không để bị mê hoặc. Kinh Ðại Bảo Tích chép Phật vì vua Ưu Ðà diên (Ưu Ðiền) nói kệ rằng:
“Là núi đao gai nhọn
tên độc và các khổ
Nữ nhơn là chỗ tụ
của nhiều thứ khổ đau
Nhờ có các huơng hoa
mà thân trang nghiêm đẹp
Kẻ ngu si theo đó
khởi vọng tâm tham cầu
Như chim đuối giữa biển
mê muội bờ bên kia
Khi chết tất phải đọa
vào địa ngục a-tỳ
Hiện đời thấy các khổ
đều theo thân đến mãi
Bị bạn lành xa lánh
mất hẳn nẻo về trời
Lại còn vào ngục sắt
chạy nhảy trên núi đao
Nằm ngủ trên lò lửa
Ðừng nên gần nữ sắc!”
“Như chim tìm thức ăn
không biết tránh xa lưới
Kẻ tham aí nữ nhân
bị hại cũng như vậy
Giống như cá trong nước
bơi vào trong lưới giăng
Liền bị người ta bắt
há chẳng tự hại ư!
Nữ nhơn như kẻ chài
lừa dối giống như lưới
Ðàn ông đồng như cá
bị lưới cũng như vậy”.
Về cách “Khởi tâm quán sát”, như Kinh Ðại Bảo Tích chép:[Văn Thù Sư Lợi bảo Thiện Trụ thiên tử rằng: “Nếu là người nhứt tâm chuyên ròng tu tập giữ gìn thì khi tâm tham dục phát sanh, liền nên nhận biết rồi dùng phương tiện phá trừ để tâm trở lại thanh tịnh. Phá trừ như thế nào? Bằng cách khởi nghĩ rằng: _ ‘Ðó là không, là bất tịnh. Tâm dục này sanh ra diệt đi, nó không từ đâu đến và cũng chẳng đi đâu. Trong tâm ấy nào có ai nhiễm, nào ai được nhiễm và đâu là pháp nhiễm’ _ Lúc quán sát như thế, không thấy có năng nhiễm, sở nhiễm và việc nhiễm. Không thấy thì không nắm giữ. Không nắm giữ thì không có xả. Không có xả thì không có ái. Không xả không ái gọi là ly dục tịch tịnh niết bàn vậy. Bấy giờ giả như buông tâm vào trong trần lao sanh tử cũng hkông lo hoạ hoạn tham sân si”]. Ðây gọi là “Khởi tâm quán sát”.
Trên đã nói xong Ðối Ðãi môn (tương đối)
Thứ hai nói về Quyết liễu môn (cứu cánh). Nếu xét trên phương diện rốt ráo xa lìa các vọng hoặc, không còn ô nhiễm như hư không thì đó là chư Phật quá khứ và hiện tại chớ chẳng phải là Phật vị lai. Còn trên phương diện đưa đến rốt ráo thì tất cả chúng sanh trần lao phiền não là Phật vị lai vậy
Người há chẳng nghe : “muốn được ngọc vô giá, phải lặn dưới biển sâu; muốn có trí tuệ báu, phải tìm trong phiền não. Tướng ngũ nghịch là tướng giải thoát, cõi ma như chính là cõi Phật như”. Nếu nghe tiếng Phật mà vui, nghe giọng ma lại giận thì không vào được “Pháp môn âm thinh”, chẳng trụ được trong “cảnh giới chơn thật âm thinh”, và chẳng giác ngộ đối với tất cả pháp. Ðò là kẻ quay ngược xe mà lại muốn tiến lên. Làm sao cùng họ luận đạo được?
Ðể nói cho ông rõ, kinh há chẳng chép: Xưa có vị tiên gọi là Lộc Ðề. Nhân vì trời mưa, đất trơn trợt, ông đi dường bị ngã. Giận tức, ông dùng chú tiên làm trời hạn hán. Trong nước ai cũng lo lắng, vua sai một cô gái được nhiều người ưa thích đến dụ dỗ ông. Khi dụ được, cô ta cởi trên cổ ông vào thành. Liền đó mây ùn ùn từ bốn phương kéo đến, mưa tuôn xối xả đầy ngập. Ông tiên ấy tuy có thần thông chế ngự gió, có phép lấn áp cả tự nhiên mà không thể bỏ được sắc là vì còn thấy đó là người nữ. Trong khi Ðức Thích Ca đối với người nữ là Da Du thì bảo “tương lai là Phật hiệu Cụ Túc Thiên Vạn Quang Tướng Như Lai”.
Người niệm Phật nếu chỉ thấy dung nhan cô gái yêu mà không nghĩ sắc vàng tốt của Phật Quang Tướng (chỉ nghĩ đó là người nữ mà không nghĩ đó là Phật vị lai) thì đánh mất yếu chỉ Thường Bất Khinh (không khinh), làm sao đạt được niệm Phật tam muội.
Lại như A na luật xưa đời quá khứ từng làm kẻ trộm. Một hôm vào tháp thờ Phật định trộm châu báu. Khi vào trong điện thờ thấy đèn bị lụn tim gần tắt. Ông bèn dùng que tre đẩy tim cao lên để đèn cháy sáng, không bị tắt. A na luật có nghĩa là “không tắt” có nguyên do từ đó. Tương lai, ông là Phật hiệu Phổ Minh Như Lai cũng từ nhân duyên ấy.
Người niệm Phật còn không khinh kẻ trộm huống lại khinh người không trộm. Thấy người nữ và kẻ trộm là hai vị Phật tương lai như mặt trời rực rỡ thì lo gì tam muội không thành. III-THẤY NGƯỜI TRÌ GIỚI PHÁ GIỚI CHỈ SANH Ý TƯỞNG PHẬT.
Hỏi:Trường hợp hai loại người trì giới và phá giới khoù hiểu. Kinh Phạm Võng nói: “Người nào thọ giới Phật thì vào hàng chư Phật”. Những vị xuất gia giữ tròn cấm giới như trăng rằm, như đeo ngọc anh lạc, được dự vào hàng Tam Bảo trong phạm vi Thất chúng là những bậc đáng kính. Còn vơí kẻ chẳng trì giới tinh nghiêm, hành động điên đảo sa đọa, ta há coi thường lỗi lầm của họ được ư, há mặc kệ tội ác của họ được ư? Mong ngài vì tôi phân giải.
Ðáp: Ðức Như Lai từng ở “Kinh Tam Muội Hải” nói với phụ vương rằng:
“Xưa có 4 tỳ kheo phạm luật vì hổ thẹn muốn buông xuôi không tu niệm, bỗng nghe trong hư không có tiếng nói: “Chỗ các ngươi vi phạm cho rằng không cứu được là điều sai lầm. Ðức Không Vương Như Lai tuy đã vào Niết bàn nhưng hình tượng vẫn còn. Các người hãy vào tháp nhứt tâm quán tưởng tướng bạch hào (lông trắng giữa hai chân mày) của thánh tượng! ”. Các Tỳ kheo liền rơi lệ khóc nói rằng “Tượng Phật còn có năng lực kỳ diệu như vậy huống hồ chân dung của ngài (hình dáng chân thật)”, rồi gieo mình xuống đất đảnh lễ như núi lớn ngã đổ. Các đấng chánh giác ở bốn phương hiện nay như A Súc Phật ở phương Ðông, Bửu Tướng Phật ở phương Nam, Vô Lượng Thọ Phật ở phương Tây và Vi Diệu Thinh Phật ở phương Bắc tức là bốn Tỳ kheo phá giới đó vậy”. Vì thế nên như Lai gọi pháp Quán Phật Tam Muội này là Ðại Bảo Vương Giới Phẩm Hải có thể dùng để tẩy trừ toiä nhơ phá giới, chứng đắc sự thanh tịnh trong cõi trần lụy. Bốn Tỳ kheo ấy chỉ nhất tâm quán tưởng bửu tượng mà tất cả đều thành Ðấng Thế Tôn. Người niệm Phật há có thể sanh tâm nghi hoặc khinh thường đối với thầy Tăng phá giới ư?.
Kinh Ðại Tập nói: “Nếu các vua quan đánh đập chửi mắng người xuất gia trì giới hoặc phá giới thì mắc tội giống như làm trăm ức thân Phật chảy máu. Khi thấy người đắp ca sa, không luận là trì giới hay phá giới chỉ nên khởi tưởngn “gười ấy là Phật”. Tưởng “người ấy là Phật” là niệm phật tam muội. Ðây là lời từ kim khẩu của Phật thuyết minh về tông chỉ Bất Khinh thâm diệu. Há dám đánh đập mắng chửi mà không sợ ư?
Kinh nói: “Thà để tâm bắt chước ta, chứ đừng bắt chước theo tâm”. Thấy người xan tham thì khởi tư tưởng bố thí. Thấy người phá giới thì khởi ý tưởng trì giới. Như vậy thì không bị cảnh giới lục tệ (tham sân...) trói buoäc, lại thành tự được pháp môn quán lục độ Ba La Mật. Nếu cứ trụ vào tâm phân biệt thì tự lãnh lấy hình phạt ở chốn minh ty (địa ngục), chẳng đáng buồn ư? Còn chuyển đổi tâm thấy biết ấy thì niệm Phật tam muội được thuaän lợi như dòng sông xuôi chảy, chẳng đáng mừng sao?. IV- HIỆN ÐANG ÐỌA Ở ÐỊA NGỤC CŨNG VẪN ÐƯỢC THỌ KÝ.
Hỏi: Ðối với kẻ phá giới quán Phật thành tựu Chánh Giác, không nên khinh thì có thể tin theo. Còn với kẻ đang đọa ở địa ngục hoặc vướng trong đường ma quỉ không thể phát bồ đề tâm, chưa có ngày đầu thai vào nẻo thiện, người niệm Phật há lại cung kính họ ư?
Ðáp: Người há chẳng nghe: Muốn lấy thuốc quí phải lấy nơi núi hiểm, chẳng phải vườn hoa sân cảnh có được. Muốn thu hoạch pháp dược cũng phải vào trong cõi hiểm, chẳng phải chốn vô vị tự sanh.
Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm có 4 loại thọ ký: Một là chưa phát tâm thọ ký, hai là mới phát tâm phát tâm thọ ký, ba là ngầm thọ ký, bốn là đối trước mặt thọ ký. Nay hiện còn đọa ở địa ngục tức là kẻ chưa phát tâm. Họ đều được Phật thọ ký tương lai sẽ phát đại trí, gặp chơn thiện hữu, hành Bồ Tát hạnh và cuối cùng thành Chánh giác; nên không thể khinh thường. Ðây là kẻ chưa phát tâm được thọ ký vậy.
Lúc Phật nói 4 loại thọ ký, Ngài Ca Diếp bạch Phật: “Chúng con từ nay đối với tất cả chúng sanh đều sanh tư tưởng ‘Ðây là Phật’, nếu còn khởi một tâm niệm khinh khi tức là tự làm tổn thương mình”. Phật nói: “Hay thay! Ông nói rất phải! Không ai lượng xét được chúng sanh, chỉ có Như Lai mới lượng biết được mà thôi. Vì nhân duyên như thế nên ta baûo các Thanh Văn và chư Bồ tát đối với chúng sanh nên khởi tưởng ‘đây là Phật’”. Trong Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Phổ Hiền Hạnh, phần Phá Bá Vạn Chướng môn cũng dùng tư tưởng này.
Như vậy thì kẻ hiện đang đọa trong đường ác được Phật thọ ký giống như nhà có báu vật, tuy cửa chưa mở, vẫn chẳng ngại gì đến ngọc báu bên trong; hay như trên trán có hột châu, dù có đánh nhau làm nó lún trong da, bên ngoài không còn thấy, nhưng hột châu vẫn chẳng mất.
Nếu chẳng nghĩ chúng sanh là Phật vị lai, tất coi lục trần là giặc cướp, thì khác nào muốn ngăn ma quân mà tự phá thành lũy mình (bỏ ý tưởng Phật) và giống như để nước địch sống chung cùng khiến gây mãi mối oan cừu không dứt (giữ ý tưởng lục trần để phải chịu luân hồi sanh tử). Giáp sắt chưa yên thì trống trận còn vang đâu thể nghỉ ngơi (trần còn động thì tâm không thành tam muội). Nếu khiến được kẻ chẳng hàng đến hàng, người không phục đều khuất phục thì có thể gom thiên hạ về một mối (nếu đem lục trần hoà hợp với tâm thì vào tam muội). Cờ đã được trương lên phất phới thì tất cả đều ồ ạt đi theo (khởi ý tưởng “ tất cả là Phật vị lai” thì mọi chướng đều tiêu). Bấy giờ từ giã yên ngựa về đồng quê vui cùng ruộng rẫy, mặt trời mọc thì làm, mặt trời lặn thì nghỉ (không còn gì bận bịu vướng mắc, sống một cách tự tại). Như thế, dù là Thánh như vua Nghiêu cũng chẳng hơn ta được. Thấy bá tánh haèng ngày mà chẳng biết một ai (chẳng phân biệt xác thể khác nhau, chỉ thấy đều là Phật), lúc ấy mới rõ chỗ giáo hóa của Phật rộng khắp. Nếu ngộ được mọi thứ sắc thinh hương... đều là Phật, nghĩ chúng sanh đều là Phật vị lai thì còn có cảnh tượng phàm tục nào đối ở trước tâm nữa. Cũng như tưởng tự thân là đấng Bổn Tôn thì nơi pháp “ Du Già Chơn Ngôn Diệu Quán Môn” chẳng cầu mà đạt được vậy.
Như vậy do nghĩ tưởng mà có, đâu phải rỗng không chẳng được gì. Từ đó mới có thể thấy rõ Ðại bàng và chim sâu như nhau, thái sơn với lông hồng là một; không còn tâm hạn hẹp về giống nòi giòng họ, hết cả lo toan về sắc trần huyễn cảnh.
Hỏi: với kẻ đọa trong địa ngục chưa Phát Bồ đề tâm, Ðức Như Lai tha thứ thọ ký cho họ thành tựu chánh giác với muôn ngàn hào quang tỏa chiếu, tròn đủ mười hiệu v.v. đúng như lời Phật nói thì ai dám không tin. Song họ vốn chưa tỉnh ngộ, vậy do đâu mà họ tỉnh ngộ.
Ðáp: nói vốn chưa tỉnh ngộ cũng có nghĩa như nói: nguồn của Trường giang nước chỉ đầy chừng một chén, kẻ vốn rất mê vẫn còn đủ hai kiến (thân kiến, tà kiến). Nếu bảo rằng: ‘ngoài niệm là vô niệm, ngoài sanh là vô sanh’, tức sanh tử khác với Niết bàn thì muôn lời của Phật đều không dạy ai được. Còn rõ biết niệm mà vô niệm, sanh mà vô sanh, tức phiền não là bồ đề thì ngay đấy ngộ được “nhứt tướng trang nghiêm”. Như bầy ong trên núi, trong tổ toàn là mật, dưới giếng sâu thăm thẳm lại có sẵn bảo châu. Ðó đều là vốn có, chẳng phải mới sanh vậy.
Ðã nghĩ tất cả là Phật vị lai thì tội từ đâu sanh được. Ðã trải tâm ở khắp mọi duyên, thấy tất cả đều là Phật thì mọi thứ tham sân si... đã từng sanh ra, ngay đó làm sao còn được. Trong Kinh Như Lai Tạng, Phật bảo Kim cương Tuệ Bồ tát rằng: “Thiện nam tử, ta dùng Phật nhãn quán thấy trong tất cả chúng sanh phiền não tham sân si... có đủ Như Lai trí, Như Lai nhãn, Như Lai thân, vững ngồi kiết già bất động... cho đến có đủ các đức tướng của Như Lai không khác”. Rồi ngài rộng nói: “Tất cả chúng sanh đều có Như lai tạng” và dùng 9 ví dụ để hiển rõ. Trong Bửu tánh Luận có giải thích ý nghĩa này và kết luận bằng lời kệ tụng rằng:
“Trong hoa héo ẩn tàng chư Phật,
Giữa phân nhơ cũng có Kim thân,
Như trong đất hàm tàng trân bảo,
Như hạt sen sẵn có mầm non,
Ngay cây mục vẫn đủ Ca Sa,
Trong ràng buộc vốn đầy Phật tượng
Ở con gái nghèo hèn xấu xí,
Sẵn có hình Thánh Chuyển Luân Vương,
Ngay trong chỗ than bùn đen cháy,
Ðều đủ đầy tượng báu Như Lai,
Trong chúng sanh còn tham sân si,
Ðầy vọng tưởng đảo điên phiền não,
Cùng mọi cảnh trần lao ô nhiễm,
Ðều sẵn đủ đầy Như Lai Tạng
Dưới chí đến a tỳ địa ngục,
Cũng đều có cả Như Lai Thân,
Các pháp chơn như thuần thanh tịnh,
Ðược gọi tên là Như Lai Thể”.
Kệ văn này đủ chứng minh việc thọ ký kẻ còn ở địa ngục sẽ bừng khởi giác ngộ, tự nhiên thấu suốt các môn tam muội.
Hỏi: người dụng tâm tu tập phải giữ tâm luôn bằng an thanh tịnh, dứt bặt sự phan duyên. Ở đây lại nói nên trải tâm duyên khắp tất caû và thấy mọi thứ đều là Như Lai. Chỗ nào dạy như thế?
Ðáp: Ðã có lời dạy rằng: Khởi tâm duyên khắp lục trần tam nghiệp đồng thời phát nguyện “được vào cảnh giới Phật” mỗi lúc duyên ra đều chẳng lìa Như Lai nên nói “Ðều thấy là Như Lai”. Ðây là cái thấy viên mãn, chẳng phải thấy bằng mắt. Nên kinh Niết Bàn nói: “Hàng Thanh Văn tuy có Thiên nhãn mà vẫn gọi là nhục nhãn, hàng Hữu học Ðại thừa thuy chỉ có nhục nhãn mà được gọi là Phật nhãn. Vì sao? Vì thấu rõ mình có Phật tánh vậy”.
Lại trong Kinh Thắng Thiên Vương, Phật bảo Thiên Vương rằng: “Bồ tát ma ha tát dùng sức phương tiện thực hành Bát nhã ba la mật đối với tấc cả pháp, tâm duyên tự tại. Duyên với sắc thì nguyện được sắc tướng vô sở đắc của Phật. Tâm duyên với thinh thì nguyện có được âm thinh vi diệu của Như Lai. Duyên với hương thì tâm nguyện đạt được giới hương thanh tịnh của Như Lai. Duyên với vị thì nguyện thành tựu được tướng đại trượng phu trong các vị của Như Lai. Duyên với xúc thì nguyện được bàn tay mềm dịu (không chấp trước) của Như Lai. Duyên với pháp thì nguyện chứng được tâm tịch tịnh của Như Lai. Duyên vào thân mình thì nguyện được thân của Phật. Duyên đến miệng mình thì nguyện được miệng của chư Phật. Duyên lại ý mình thì nguyện được ý bình đẳng của Phật”. “Thiên vương! Bồ tát ma ha tát thực hành bát nhã ba la mật không có một tâm một hạnh nào trải qua một cách trống rỗng chẳng hướng về trí tuệ, tâm duyên khắp các pháp mà chẳng dính mắc vào các pháp được quán thấy và không lúc nào chẳng hướng về đạo bồ đề. Bồ tát tu tập các hạnh đều do các duyên bên ngoài mà được thành tựu. Giống như đất bằng nằm trên một vùng nước rộng nếu đào ao giếng thì sẽ được nước, còn chẳng đào thì không do đâu mà thấy nước được. Cũng như vậy, cảnh giới Thánh trí có ở khắp cả pháp nếu chuyên cần tu bát nhã phương tiện thì chứng được, còn không tu thì chẳng làm sao mà đạt được”.
Như vậy, ý nghĩa tâm duyên vào các pháp há chẳng quan trọng ư? V- QUÁN KHÔNG, VÔ NGÃ CHỌN THIỆN MÀ THEO
Hỏi: Ðộng mà tịnh, tịnh là chủ của động. Phàm mà Thánh. Thánh ẩn ở trong phàm. Xin nghe theo ý chỉ sâu xa ấy. Còn vấn đề vô ngã cuûa tam giáo (nho, đạo, Phật,) lý đã không khác và việc chọn thiện để theo, cả hai có nghĩa như thế nào?
Ðáp: Về lý vô ngã, 3 giáo (nho, đạo và Phật) đều chưa từng khác cũng chưa từng giống. Song Khổng giáo thí lấy nghĩa khiêm hạ sáng suốt làm vô ngã, Ðạo giáo lấy chỗ trường tồn không đoạn kết là vô ngaõ, Phật giáo thì lấy quán “ngũ uẩn giai không” làm vô ngã.
Hai giáo trước (Nho và Ðạo) đều chẳng thấu rõ ngũ uẩn, chẳng biện biệt được Tứ đế, lục độ vạn hạnh. Về tầng bậc Thánh Hiền, trong hai giáo này bỏ qua không nói đến, chỉ có Phật giáo mới diển tả Thánh là bậc hòa quang đồng trần (hoà lẫn với thế gian nhưng sống sáng suốt), luôn giữ lấy vẻ mềm dịu yên lặng, đã từ hoà lại kiệm ước, không xông xáo trong vòng tranh đua thế sự. Ở mỗi bậc thánh trong Phật giáo này, xét theo phương diện động dụng thì có cạn sâu khác nhau. Ðó là nói về vô ngã của ba giáo.
Việc chọn thiện mà theo là nói về lý 3 tánh: thiện, ác và vô ký. Lý này không đâu không có (cả 3 giáo đều có) người tu tâm nên chọn thiện mà theo. Bởi vì đối với pháo chí chơn, điều bất thiện gây ra nhiều bất lợi; còn vô ký thì làm mất hết cả hai thiện và ác. Mọi sự trái loạn lý Phật chẳng gì chẳng do hai tánh (ác và vô ký) này nên Thánh nhân trừ bỏ chúng, không theo. Do đó Kinh Niết bàn nói:“Kẻ nhứt siển đề tâm chẳng duyên đến một pháp thiện nào, đến nỗi chẳng sanh một niệm thiện”. Thế thì biết: đối với niệm Phật tam muội, điều thiện là pháp tối thượng, là hạnh đứng đầu trong muôn hạnh, nên nói “Thiện là vua của tam muội” vậy. VI- KHÔNG CÓ THIỆN ÐỂ CHỌN KHÔNG CÓ ÁC ÐỂ BỎ.
Hỏi: Nếu chọn thiện mà theo thì đâu khác gì: chọn thiện chư Phật bỏ ác chúng sinh (chọn Phật bỏ chúng sanh), làm sao gọi là “niệm chư Phật vi lai (chúng sanh) đồng như niệm chư Phật quá khứ hiện tại” được?
Ðáp: Ngay câu hỏi đó đã tự trả lời cho tôi rồi. Vì sao? Vì chọn thiện mà theo thì bất đắc dĩ mà nói vậy. Có nghĩa, kẻ trí lực yếu lại mang nghiệp chướng nặng nề không thể thấy “ác mà thiện” được, không thấy “vọng mà chơn” được nên phải chọn lực cho minh bạch. Còn nếu người đã từng niệm Phật vị lai hợp cùng hạnh bất khinh, đã thấy được đất trời như một ngón tay không phân cách, vạn vật như con ngựa độc nhất không gì sai biệt, thấy chúng sanh đều là Phật và cõi này thường thanh tịnh hoàn toàn khác cái nhìn đất bùn sỏi đá của Thu Tử (Xá lợi Phất), đồng một cái thấy trân bảo trang nghiêm của Phạm Vương Thiên, như thế thì đã đến chỗ cùng tột của việc chọn thiện và không còn ác để xả vậy. Ðây chính là chỗ mà ngài Thiên Thai Trí gỉa dẫn chứng khi ngài giảng Kinh Pháp Hoa nói về diệu lý tuyệt đối:
“Chúng sanh thì thấy kiếp cùng tận
Như lúc bị đại hỏa đốt thiêu
Còn ta thấy cõi này an ổn
Thường xuyên có các bậc đại nhân
Vườn rừng với nhà cửa lâu đài
Có nhiều thứ báu rất trang nghiêm”.
Kinh Thắng Thiên Vương lại nói: “Chỗ của Phật an trụ vốn thật không phải cõi nhơ. Vì chúng sanh bị phiền não bức bách ràng buộc mà thấy là bất tịnh”. Cũng một ý ấy vậy
Tiếng Phạn là namo (nam mô), tàu dịch là Qui mạng (Kính nương về). Tiếng Phạn Amita (Adiđà), tàu dịch là Vô lượng Thọ tam thế chư Phật, Há chỉ riêng kính một Phật là Vô Lượng Thọ sao. Nay đồng niệm tam thế Di Ðà (Di đà quá hiện lai vi) nguyện đồng sanh mười phương Cực lạc có gì đâu chẳng được mà muốn bỏ lối nhanh theo đường chậm lụt (chỉ nghĩ một Phật, mà không nghĩ tất cả là Di Ðà). Chỉ như thế, mới bừng được ngọn lửa tam muội đốt cháy; không một mảy may ong muỗi tri kiến hư vọng nào còn sót lại; mới gióng được tiếng chuông thập niên ngân vang, không giây phút nghỉ ngưng xưng hiệu Phật, mới thấy rõ ràng chúng sanh là Phật. Niệm Di Ðà suốt 3 đời (tam thế Di Ðà) đã được như thế thì niệm Chư Phật Bồ Tát há chẳng được như vậy ư!
Hỏi: Niệm Phật vị lai không k hác gì niệm Phật quá khứ và hiện tại, ý nghĩa thế nào, xin được nghe biết?
Ðáp: Hoa Nghiêm Kinh nói: “Tất cả các Như Lai đồng chung một pháp thân, một tâm, một trí huệ, lực và vô úy cũng vậy”. Trong kinh Lảng già có kệ nói: “Ca Diếp, Câu Lưu Tôn, Câu na hàm cả ta có 4 thứ bình đẳng. Ta nói cho Phật tử, bốn thứ bình đẳng là: một chữ bình đẳng: có nghĩa đều được gọi là Phật; hai - lời bình đẳng tức đều đầy đủ tưóng Phạm âm thinh Ca- Lăng-tân-gìa; ba - pháp bình đẳng là đều chứng đắc rốt ráo các pháp bồ đề phần và trí vô chướng ngại; bốn - thân bình đẳng là tất cả đều có pháp thân và tướng sắc thinh tốt đẹp không sai biệt”.
Khởi Tín Luận nói: “Do đường đi nên thấy đổi chớ phương hướng thật không đổi”. Như vậy,khi nhận ra (ngộ) chỉ cần nhận ra một hướng thì tất cả Phật đều đúng, khi niệm chỉ cần niệm một Phật thì tất cả Phật đều hiện tiền.
Kinh nói: nước chảy thăng lên, trăng chẳng rớt xuống. Do nhân duyên ánh sáng của trăng và sự lặng lẽ của nước mà mặt trăng lồ lộ giữa hư không mới hiện ở trong nước. Cũng vậy; Phật chẳng đến đây, ta cũng chẳng đi. Chỉ do nhân duyên niệm Phật, mà mặt trăng Như Lai mới hiện trong nước tâm ta. Ðồng một ý này, tụng chép:
“ Bồ tát như trăng trong lành mát
Vận hành nơi cứu cánh hư không
Nước tâm chúng sanh khi tịch tịnh
Bóng Bồ đề sẽ hiện vào trong.”
(Bồ tát thanh lương nguyệt
Thường du tất cảnh không
Chúng sanh tâm thủy tịnh
Bồ đề ảnh hiện trung). VII-KHÔNG NÊN ĂN THỊT CHÚNG SINH.
- Hỏi: Thịt là thức ăn của con người. Sao người niệm Phật lại không ăn?
- Ðáp: Ngày xưa vua Thi Tỳ còn tự leo lên giá cân, cân thịt mình để cứu chim bồ câu, bởi vua nghĩ mình và chim tuy khác loài nhưng vẫn cùng một tánh bảo thủ mạng sống. Lẽ nào ta nay lại ăn thịt chúng để nuôi dưỡng thân hư hoại này mà vô tư không biết gì đến nỗi sợ hãi của chúng ư. Nếu đã hiểu được chúng đều là Phật vị lai thì ai còn làm các việc săn mồi bẩy thú để phải mang lấy cái chết đọa lạc như phù du vào lửa. Trong Kinh Lăng già, phẩm Phật Ngữ Tâm chép:
“Vì lợi mà giết chúng sanh
“Vì lợi mà giết chúng sanh
“Vì lợi mà giết chúng sanh
“Vì lợi mà giết chúng sanh
Theo đó mà biết, nếu chẳng đặt ra việc tiền tài thì các việc bắt và giết tự chấm dứt vậy.
Thế nên Ngài long Thọ không bao giờ coi thường cả con chim nhỏ, bậc Cao Tăng chẳng dẫm đạp kiến trùng. Có ai hỏi lý do thì các ngài đáp rằng: “Chúng và ta cùng ở trong sanh tử. Biết đâu chúng thành Chánh giác trước ta. Chẳng nên Kinh thường chúng vậy”. Khinh thờng còn không nên, há lại cướp lấy máu thịt của chúng để ăn ư?
Bửu Tánh luận chép: [Trong Kinh Như Lai Tạng, Phật bảo xá lợi Phất rằng: “Chúng sanh là đệ nhứt nghĩa đế, là Như Lai Tạng, là Pháp thân, là Bồ đề”]
Chúng ta khác nào như con chó chạy theo vật động trước mắt, chẳng biết nhắm ngay vào người nên vật ấy không bao giờ ngừng.(vì vật này do người ấy giựt dây); Chỉ biết niệm Phật quá khứ hiện tại chẳng chịu niệm Phật vị lai (chẳng kính trọng chúng sanh) nên tâm khinh mạn không đoạn dứt được. Nếu biết làm như Sư tử nhắm ngay vào người thì vật ấy tự ngưng, biết tưởng niệm chúng sanh là Phật vị lai thì tâm khinh mạn dứt vậy.
Song đã nghe lẽ Kính Khinh rồi, để cải đổi mà lại đổi kính ra khinh, coi cha mẹ ngang bằng kẻ bình thường thì thành kẻ đại nghịch; còn đổi khinh ra kính, coi người bình thường ngang bằng cha mẹ thì là người đại hiếu. Do đó Kinh Phạm Võng nói: “Sáu đường chúng đều là Cha mẹ ta, hiếu gọi là giới”. Ýù muốn nói về việc này vậy.
Ðối với việc xem chúng sanh là Phật vị lai, thì bảo rằng “Chúng sanh là cha mẹ”ø đó chỉ mới nói chỗ gần thôi. Nếu có thể như chú Sa di cứu kiến khiến thọ mạng ngắn trở nên dài, có thể đồng làm như Lưu Thủy trưởng giả cứu cá cảm hoa trời rơi xuống như mưa, bỏ cái thấy là chúng sanh từ vô thỉ kiếp”, chỉ nghĩ đó là thân của đức Phật tương lai, biết trong phân nhơ vốn có vàng ròng, tin giữa mây dày có vầng trăng sáng thì cái “sương mù” ăn thịt, cái”bụi khói” sanh tử sẽ bị “ngọn gió” trí tuệ trong “bầu trời” tam muội quét sạch Phạm võng Kinh nói: “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành. Thường có lòng tin như thế, thì giới phẩm được trọn vẹn”. Sao chẳng nghĩ suy?
Hỏi: Thịt không thể ăn thì tin được rồi. Còn ngũ tân thì thế nào?
Ðáp: Lời Phật dạy rõ ràng. Trong Kinh Ðại Phật đảnh chép [ Phật bảo Anan “năm thứ cay nồng này ăn chín thì phát dâm, còn ăn sống thì tăng nóng giận. Người ăn ngũ tân giả như đọc tụng 12 bộ Kinh thì mười phương Tiên thiên đều do ghét mùi hôi nhơ ấy mà tránh xa cả. Các ngạ quỉ vì thấy người ấy ăn ngũ tân nên đến liếp môi mép họ. Họ thường chung đụng với quỉ, mặt trời phước đức dần dần lặn mất làm tăng trưởng nhiều điều bất lợi. Người ăn ngũ tân này khi tu Tam ma địa(Samadi), các Bồ tát Thiên Tiên trong mười phương cũng không đến bảo hộ được, bọn ma vương có nhiều dịp để quấy phá”. Phật lại bảo Anan: “Người tu đạo bồ đề bỏ vĩnh viễn ngũ tân được gọi là người tu hành có trình tự tiến nhanh nhất”]. Ðây là lời từ Kim Khẩu của Phật, há chẳng thành thật ư?
Với rượu, cố nhiên chẳng cần nói cũng phải biết.
Trong Kinh Bách Dụ chép: Xưa có người nghèo đi đường gặp túi tiền vàng. Ôâng ta rất vui mừng liền đếm tới đếm lui. Ông đếm chưa xong, người chủ túi tiền bỗng lấy lại hết rồi đi. Ông ta mới hối hận “sao mình chẳng đi sớm?” rồi trong lòng buồn tức, dáng vẻ rất là khổ não. Người gặp Phật pháp cũng như thế. Tuy được gặp Tam Bảo mà chẳng chuyên cần tu hành, chỉ ham thích nghe nhiều. Lúc ấy chợt mạng chung sẽ đọa vào ba đường ác, khác nào kẻngu kia bị người chủ lấy hết tiền rồi bỏ đi vậy. Kệ viết:
“Hôm nay lo việc này
Ngày mai lo việc kia
Vui đắm chẳng thấy khổ
Bất ngờ giặc chết đến
Vội vàng lo các việc
Phàm nhân đến thế cả
So kẻ đếm tiền kia Việc này cũng như vậy”.
Bảy điều trên đều nói về niệm chư Phật vị lai để thấu suốt ý nghĩa tam thế chư Phật. Nếu thích niệm Phật Di Lặc thì được sanh lên cung trời Ðâu suất gặp ngài Từ Thị. Ðây là chỗ ngài Di Thiên Thích Ðạo An tán thán vậy.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.144.25.248 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.