Người nhiều lòng tham giống như cầm đuốc đi ngược gió, thế nào cũng bị lửa táp vào tay. Kinh Bốn mươi hai chương
Như đá tảng kiên cố, không gió nào lay động, cũng vậy, giữa khen chê, người trí không dao động.Kinh Pháp cú (Kệ số 81)
Nhẫn nhục có nhiều sức mạnh vì chẳng mang lòng hung dữ, lại thêm được an lành, khỏe mạnh.Kinh Bốn mươi hai chương
Nay vui, đời sau vui, làm phước, hai đời vui.Kinh Pháp Cú (Kệ số 16)
Kẻ hung dữ hại người cũng như ngửa mặt lên trời mà phun nước bọt. Nước bọt ấy chẳng lên đến trời, lại rơi xuống chính mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Người ta thuận theo sự mong ước tầm thường, cầu lấy danh tiếng. Khi được danh tiếng thì thân không còn nữa.Kinh Bốn mươi hai chương
Lấy sự nghe biết nhiều, luyến mến nơi đạo, ắt khó mà hiểu đạo. Bền chí phụng sự theo đạo thì mới hiểu thấu đạo rất sâu rộng.Kinh Bốn mươi hai chương
Rời bỏ uế trược, khéo nghiêm trì giới luật, sống khắc kỷ và chân thật, người như thế mới xứng đáng mặc áo cà-sa.Kinh Pháp cú (Kệ số 10)
Lửa nào sánh lửa tham? Ác nào bằng sân hận? Khổ nào sánh khổ uẩn? Lạc nào bằng tịnh lạc?Kinh Pháp Cú (Kệ số 202)
Cỏ làm hại ruộng vườn, si làm hại người đời. Bố thí người ly si, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 358)

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Nhập Đại Thừa Luận [入大乘論] »» Bản Việt dịch quyển số 2 »»

Nhập Đại Thừa Luận [入大乘論] »» Bản Việt dịch quyển số 2

Donate


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.69 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.87 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Luận Nhập Đại Thừa

Kinh này có 2 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | Quyển cuối
Việt dịch: Thích Như Điển

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Phẩm thứ hai: Hỏi và Luận về chỗ Không
Hỏi rằng:
- Ông đã nói phía trước là điều thuận để ra khỏi sự khổ lớn thì chứng được quả vi diệu, đến được cảnh giới của Bồ Tát, thật khó hiểu hết?
Đáp rằng:
- Nơi hành xứ của Bồ Tát vi diệu khó biết nơi ba A Tăng Kỳ Kiếp mới có thể thành tựu cho đến vô lượng trăm ngàn vạn ức na do tha kiếp, ở nơi phàm phu chẳng có pháp xuất thế, Như Tôn Giả Đề Bà đã nói kệ rằng:
Trong vô lượng kiếp ấy
Thường ở nơi phàm phu
Ngươi nay phải biết rằng
Tương lai cũng như thế.
Cho nên phải biết rằng chỗ hành xứ của Bồ Tát nhiều vô lượng, lại cũng khó mà chứng đắc được. Nơi chúng sanh tán loạn, được nghe thật là khó, nói được cũng là khó, huống nữa là việc tu hành. Như Tôn Giả Đề Bà đã nói kệ như sau:
Sanh gặp được pháp khó
Nghe nói lại cũng khó
Sanh tử tuy vô cùng
Nghe Pháp có giới hạn
Hỏi rằng:
- Tôn giả trước nói về Thập Địa, nguyện nay vì tôi mà phân biệt diễn nói. Thế nào là Bồ Tát Thập Địa?
Đáp rằng:
- Thứ nhất là Hoan Hỷ địa; Thứ hai là Ly Cấu địa; Thứ ba là Minh địa; Thứ tư là Diễm địa; Thứ năm là Nan Thắng địa; Thứ sáu là Hiện Tiền địa; Thứ bảy là Thâm Viễn địa; Thứ tám là Bất động địa; Thứ chín là Thiện Huệ địa; Thứ mười là Pháp Vân địa.
Hỏi rằng:
- Thế nào là Hoan Hỷ địa?
- Ra khỏi phàm phu, được bất khả tư nghì, ra khỏi con đường của thế gian, tâm sanh Hoan Hỷ, cho nên có tên là Hoan Hỷ địa.
- Thế nào là Ly Cấu địa?
- Lìa khỏi sự phá giới cấu, nên có tên là Ly Cấu địa.
- Thế nào là Minh địa?
- Nương vào 12 môn Thiền, chứng được trí tuệ sáng suốt, nên có tên là Minh địa.
- Thế nào gọi là Diệm địa?
- Được tăng thượng giác ý, phân biệt đạo phẩm, thiêu đốt cỏ phiền não, công đức sáng rõ, cho nên gọi là Diễm địa.
- Thế nào gọi là Nan Thắng địa?
- Tu tập 10 trí, tuy điều phục phiền não nhưng chưa toàn thắng, nên có tên là Nan Thắng địa.
- Thế nào là Hiện Tiền địa?
- Hay quán thuận nghịch 12 nhân duyên, được pháp Hiện tiền, nên có tên là Hiện tiền địa.
- Thế nào là Thâm Viễn địa
- Nghĩa là thích công đức trí huệ của Phật lần lượt chẳng gián đoạn và tâm ấy thâm nhập vào Pháp tướng. Nên có tên là thâm viễn địa.
- Thế nào là Bất Động địa?
- Lìa sắc tướng kiên cố khó lay động, nên có tên là Bất Động địa.
- Thế nào là Thiện Huệ địa?
- Vào trí tuệ biện tài, giải bày tất cả âm thanh, tùy vào sự hỏi mà trong một khoảng sát na, tất cả đều có thể đáp được, cho nên có tên là Thiện Huệ địa.
- Thế nào là Pháp Vân địa?
- Hay thọ trì tất cả Phật Pháp, giống như đám mây lớn có thể dùng pháp như mưa, cho nên gọi là Pháp Vân địa.
- Đó được gọi là Bồ Tát đầy đủ 10 địa. Từ 10 địa đó Bồ Tát an trụ nơi hành xứ. Lại có thể đầy đủ tất cả trí huệ như trong Thập Địa kinh có nói rộng, cho nên có thể biết rằng Bồ Tát là những vị như vậy ở nơi Thập Địa. Cho nên có tên là Thiện Trí an trụ nơi hành xứ. Lại có tên là Thiện Trí Bồ Tát rộng khắp công đức xứ. Lại cũng có thể là Thiện Trí Như Lai vô lượng công đức rộng khắp các nơi. Nếu không phải là kẻ trí huệ như thế thì ta nay quyết định lập thệ nguyện, phải biết rằng người nầy nơi Bồ Tát Pháp và Như Lai Pháp, tất cả đều không liễu giải được.
Bồ Tát Ma Ha Tát từ chỗ bắt đầu phát tâm cho đến 10 địa thường tu bốn hạnh như trong kinh Thập Đảnh nói. Phải biết vô minh hành các hạnh Ba La Mật. Phân biệt đạo phẩm hành, thành thục chúng sanh hạnh. Đó là bốn hạnh vào nơi hai luân. Nghĩa là phước luân và trí luân. Bồ Tát ở các địa phải đủ hai loại trí quả và phước quả.
Hỏi rằng:
- Làm thế nào để thành tựu hai quả ấy?
Đáp rằng:
- Sơ địa phước quả là làm Vua nơi cõi Diêm Phù Đề. Đệ nhị địa phước quả làm Chuyển Luân Thánh Vương chủ của bốn châu thiên hạ. Đệ tam địa phước quả làm Thiên Đế Thích. Đệ tứ địa phước quả làm Diệm Ma Thiên Vương. Đệ ngũ địa phước quả làm Đẩu Suất Đa Thiên Vương. Đệ lục địa phước quả làm Hóa Lạc Thiên Vương. Đệ thất địa phước quả làm Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương. Đệ bát địa làm Phạm Vương cuả một ngàn thế giới. Đệ cửu địa phước quả làm Phạm Vương của hai ngàn thế giới. Đệ thập địa phước quả làm Tịnh Cư Thiên Vương của ba ngàn thế giới như trong Hoa Nghiêm kinh có nói rộng. Như Lai ra đời với những kết quả và nhiếp thọ thế giới, cho nên có tên là Bồ Tát Phước Luân.
- Thế nào là Bồ Tát Trí Luân?
- Ở hàng Sơ Địa Bồ Tát chỉ trong khoảng một sát na được 300 Tam Muội, thấy được hằng trăm chư Phật biến hóa thần thông, có thể qua được trăm cõi Phật, có thể lay động cả trăm vị Phật trong thế giới. Ánh sáng chiếu khắp cả thế giới của hằng trăm vị Phật. Có thể thành tựu được hằng trăm chúng sanh. Hay biết được quá khứ 100 kiếp và vị lai 100 kiếp. Có thể biến nhập vào 100 pháp môn. Có thể hiện ra 100 thân rồi lại làm một thân. Cùng hàng trăm Bồ Tát trang nghiêm quyến thuộc. Nếu vì nguyện lực lại có thể qua khỏi điều nầy đến trăm ngàn vạn ức, vô lượng vô biên, lại chẳng tính đếm thí dụ để biết được. Với sức mạnh của thân, của ánh sáng, của thần thông, của mắt, của sự nghe, của việc làm, của sự trang nghiêm, của sự nắm giữ, của giải thoát, tạo nên nghiệp lành cho chúng sanh. Đó có tên là sơ trụ, Bồ Tát chỉ trong khoảng khắc sát na có thể thành tựu vô lượng công đức như thế.
Trụ thứ hai của Bồ Tát là được một ngàn lần Tam Muội, như thế mà nói rộng ra. Trụ thứ ba của Bồ Tát thì được mười vạn Tam Muội giống như sơ Tam Muội nói rộng ra. Trụ thứ tư của Bồ Tát là được một ức Tam Muội cũng giống như sơ trụ nói rộng ra. Trụ thứ năm Bồ Tát là được ngàn ức Tam Muội cũng giống như sơ trụ Bồ Tát nói rộng ra. Trụ thứ sáu của Bồ Tát là được vạn ức Tam Muội giống như sơ trụ nói rộng ra. Trụ thứ bảy của Bồ Tát là được ức trăm ngàn Na Do Tha Tam Muội lại như sơ trụ nói rộng ra. Trụ thứ tám của Bồ Tát là được 13 ngàn Đại Thiên Thế Giới vi trần số Tam Muội lại như sơ trụ nói rộng ra. Trụ thứ chín của Bồ Tát là được 10 thế giới Phật với trăm ngàn A Tăng Kỳ vi trần số Tam Muội cùng các công đức như sơ trụ nói rộng ra. Trụ thứ 10 của Bồ Tát được 10 thế giới Phật bất khả thuyết bất khả thuyết ức trăm ngàn Na Do Tha vi trần số Tam Muội các công đức như sơ trụ nói rộng ra. Chỉ trong khoảng sát na cho đến thấy được 10 thế giới của Phật bất khả thuyết bất khả thuyết ức trăm ngàn Na Do Tha vi trần số chư Phật như sơ trụ Bồ Tát ở nơi khoảng một sát na, thấy trăm thế giới của Phật. Cho đến thành tựu hàng trăm chúng sanh mười trụ Bồ Tát cũng lại như thế.

Hỏi rằng:
- Như Phật đã nói trong một thế giới không có hai vị Phật xuất hiện cùng lúc vì sao mà Bồ Tát có thể thấy được 10 thế giới Phật bất khả thuyết, bất khả thuyết ức trăm ngàn Na Do Tha vi trần số chư Phật?
Đáp rằng:
- Chư Phật nói rằng ở trong một thế giới không có hai vị Phật cùng lúc vì đối với những chúng sanh độn căn, tâm hẹp chứ chẳng phải vì kẻ lợi căn có tâm rộng lớn mà nói. Như trong kinh nói: Một thế giới thì không có hai vị Chuyển Luân Thánh Vương, hai vị Phật xuất thế. Tuy nhiên ở tứ thiên hạ thì thật có rất nhiều Chuyển Luân Thánh Vương. Chư Phật ra đời cũng lại như thế.

Hỏi rằng:
- Thích Ca Mâu Ni Phật cũng có thể biến ra tất cả nước Phật, hà tất phải còn Phật khác?
Đáp rằng:
- Nếu theo lời của ngươi nói thì một vị Phật có thể biến tất cả thế giới thì chẳng cần trong quá khứ ngoài đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn 7 vị Phật xuất thế đã thành Chánh Giác nữa, cho nên theo ta nói có nhiều Phật cũng không quá đáng.
Giả sử đức Phật Thích Ca Mâu Ni dùng thần lực có thể biến tất cả thế giới làm cho vô lượng các Bồ Tát rộng tu vạn hạnh, công đức đầy đủ, tất cả sẽ thành Phật thì chẳng có một người nào riêng lẻ, thành Chánh Giác mà bị chướng ngại bởi các Bồ Tát không cho thành Phật. Chẳng có nơi nào như thế. Như cây khô của Pháp Luân A Hàm và các kinh khác. Khi nói kinh ấy có 60 Tỳ Kheo lậu hết ý sáng đều chứng quả A La Hán. Bồ Tát cũng như thế, công hạnh đầy đủ đồng thời sẽ thành Phật. Phải biết trong mười phương có vô lượng chư Phật cùng với Kim Sa A Hàm hai bộ kinh đã nói có Phật bắt đầu thành. Có vị Phật trong hiện tại, có vị Phật đang diệt độ và nói kệ như sau:
Quá khứ vô lượng Phật
Vị Lai cũng như thế
Và bây giờ thành Phật
Đều diệt các sầu lo
Tất cả tôn trọng Pháp
Nhớ gốc đều tu hành
Vị lại cũng như vậy
Chánh Giác Pháp là thế
Ngài Đam Vô Cúc Đa (Dharmagupta)
Đảnh lễ tất cả Phật
Lậu tận chẳng còn nữa
Vô lượng thân chư Phật
Chánh Giác tối thắng tôn
Sanh ra nơi Chánh Giác
Liền được chứng Bồ Đề
Hay chuyển bánh xe Pháp
Vào vô lậu Niết Bàn
Nếu đi hay kinh hành
Như Lai nơi chỗ ngồi
Nằm như Vua Sư Tử
Ta nay đều kính lễ
Trên dưới các Thế Tôn
Ðầu mặt và bốn bên
Pháp thân cùng xá lợi
Kính lễ tháp chư Phật
Đông phương và Bắc phương
Tại thế Lưỡng Túc Tôn
Quyết tên là Nan Thắng
Phật kia nói kệ rằng
Nếu đem kệ nầy tụng
Thường tán thán Thế Tôn
Sanh Tử trong trăm kiếp
Chung chẳng đọa ác đạo.
Như Phật vì Tôn Giả Mục Liên mà nói chẳng phải ông thua thần túc với Xá Lợi Phất khi dùng thần thông lực để mang y đến cho ta, còn khó được chỗ ngồi. Giống như thế ấy chư Phật đã vì ngươi mà nói trong kinh nầy, tự làm lời nói nầy, huống là Đại Thừa, biện minh cho chư Phật vô lượng vô biên sánh với Pháp giới, giống như hư không. Trong thế giới của chư Phật tất có chư Phật. So Địa Bồ Tát thân và việc làm thanh tịnh, duy chỉ còn có kết sử nhưng chỉ lo buồn cho đến thất trụ Bồ Tát cũng chẳng gọi là đoạn hết kiết sử, lại cũng chẳng có tên là còn kết sử. Tại sao chẳng gọi là còn kết sử, chẳng đoạn kết sử chẳng làm cho kết sử tạo sự ưu não? Tên là vô kết, thích công đức của Phật, nên có tên là hữu kết. Khi đến A Tăng Kỳ Kiếp thứ hai đầy đủ rồi thì được vào bát địa. Tất cả các việc làm đầy đủ không còn phải làm gì nữa. Tất cả các kết sử đều chẳng còn và được chứng quả Bồ Đề, vào Không Tịnh Trụ xứ được Diệt Tận Định như các vị A La Hán. Như thế được chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn. Nếu không có chư Phật khuyến thỉnh thì nơi Định ấy sẽ nhập Vô Dư Niết Bàn.
Như trong kinh nói: Đắc vô sanh Pháp Nhẫn tức là lìa phiền não chứng như A La Hán. Đức Tịch Diệt Vô Dư là lìa sanh tử, chứng được 10 tự tại.
Thế nào là mười?
Đó là thọ mệnh tự tại
- Tâm được tự tại
- Mọi việc đầy đủ tự tại
- Sanh nơi tự tại
- Giải thoát tự tại
- Thần thông tự tại
- Nguyện tự tại
- Pháp tự tại
- Trí tự tại
Được tất cả tự tại như thế, lãnh tu như ý túc, hàng phục tứ ma.
Thế nào là bốn?
- Ấm Ma
- Phiền não Ma
- Tử Ma
- Thiên Ma
Vì chúng sanh mà tất cả đều một vị được Vô Duyên Từ, giống như cây thuốc Như Ý, tùy theo sở nguyện của chúng sanh mà làm cho được thành tựu.

Hỏi rằng:
- Thế nào là Bồ Tát tự thân làm việc mà có thể làm cho chúng sanh tùy theo nguyện ấy mà có thể chứng đắc?
Đáp rằng:
- Bồ Tát dùng tâm từ làm thể, dụ như thấy độc mà có thể giết người, chúng sanh thấy Bồ Tát làm liền được lợi ích.
Hỏi rằng:
- Bát trụ Bồ Tát đã hết các kết sử. Vì sao mà tối hậu thân Bồ Tát còn sanh La Hầu La?
Đáp rằng:
- Phải nói như vầy. Nếu thân sau cùng của Bồ Tát mà thật sự vì lòng ham muốn thì cho đến Phật cũng không thể được, huống nữa là La Hầu La.

Hỏi rằng:
- Vì sao lại không Phật?
Đáp rằng:
- Nếu đầy đủ giới nhưng không Ba La Mật, mà nếu không Ba La Mật tức chẳng có Ba La Mật. Như Phật đã nói: Nếu không có giới tức không có Thí; Không có Thí tức không có Nhẫn; Không có Nhẫn tức chẳng có Tinh Tấn; Không có Tinh Tấn tức không có Thiền Định; Không có Thiền Định thì không có Trí Tuệ. Không có Trí Tuệ không có tất cả công đức. Chẳng có tất cả công đức thì không có Phật. Không có Phật thì không có La Hầu La. Nhà ngươi tại sao nghi ngờ khi sanh La Hầu La thì còn kết hay không kết sử nơi Bát Trụ của Bồ Tát không còn phiền não nữa? Đã bỏ bốn Thiên Hạ với cương vị là một Chuyển Luân Thánh Vương làm cho chúng sanh có tâm xa lìa. Dụ như Tỳ Kheo Bà Lưu Chi nói kệ Phật Bổn Hạnh như sau:
Một thân là nhiều thân
Làm rồi thật vi thắng
Chẳng thật lại chẳng hư
Các các làm vui vẻ
Phóng túng sanh ý muốn
Mạnh thêm sự cuồng loạn
Hiện cùng làm việc dục
Dẫn đến nơi bờ kia
Thần Trí hay Thiêu mất
Dục giới các kiết sử
Dục kết nhiều cuồng si
Hay thị hiện tâm nầy.
Bồ Tát xem dục và biết như huyễn mộng, cho nên có thể làm cho ý thay đổi. Với lòng Đại Bi Bồ Tát làm các huyễn thuật mà biến hóa tâm nầy.
Hỏi rằng:
- Vì sao phải tạo ra những huyễn thuật nầy để mê hoặc chúng sanh?
Đáp rằng:
- Bồ Tát thường dùng Tứ Nhiếp Pháp làm phương tiện để giáo hóa tất cả chúng sanh cùng đồng sự lợi ích để phá tan những kết sử như Sí Nhiên Bồ Tát trong Bổn Sự Nhân Duyên vì muốn tâm điên loạn đảm nhận thay thế cho tử thi rồi chạy đi kêu ca múa hát. Bồ Tát vì phương tiện nên cũng giống như vậy. Vì trừ người nữ kia đốt cháy sự ham muốn lo sầu hoạn nạn mà hiện ra đồng sự. Chẳng có nghĩa là nói dối. Cùng với tất cả các Bồ Tát dùng phương tiện đồng sự. Tất cả đều không phải là vọng ngữ mà làm huyễn thuật cho thế gian có được ít lợi ích. Bồ Tát chứng được vô lượng giải thoát cũng giống như cửa huyễn Tam Muội. Tất cả cũng đều vì có thể làm lợi ích lớn sự thành tựu của chúng sanh không thể khác được.
Hỏi rằng:
- La Hầu La là sự ứng hóa. Điều đó đúng hay không?
Đáp rằng:
- Hai đều chẳng qua. Đó là thân của Bồ Tát là thân của chư Thiên như trong kinh Bổn Khởi nói: Phật bảo A Nan rằng Như Lai vì chúng sanh mà đã xuất hiện nơi đời. Chẳng thể dùng thân của Trời mà chuyển Pháp Luân được. Vì sao vậy? Vì muốn làm cho chúng sanh đừng giải đãi vậy. Phật mà dùng thân chư Thiên để thành Chánh Giác thì chẳng có Ta, Phàm phu mà có thể thành được, nên từ nơi cõi chư Thiên đã vì lân mẫn chúng sanh mà thị hiện nơi thế gian nầy, có cha mẹ vợ con quyến thuộc. Cho nên vì sự huyễn hóa mà có La Hầu La cũng lại như thế. Nếu là người thật thì lại chẳng thể vượt qua mà Bồ Tát dùng phương tiện để được bất tư nghì giải thoát. Trụ nơi đại địa để thành tựu chúng sanh. Hỗ tương nhau để làm cha mẹ, huynh đệ, vợ con.
Hỏi rằng:
- La Hầu La có phải là Bồ Tát không?
Đáp rằng:
- Chẳng phải La Hầu La riêng là Bồ Tát, ở nơi thành Ca Tỳ La Vệ là một đồng tử của dòng họ Thích. A Nan, Nan Đà, Đề Bà Đạt Đa, A Nậu Lâu Đa v.v... tất cả đều là những người có lực lớn chẳng thoái chuyển Bồ Tát. Như Bà La Số Chí nơi kinh Bổn Hạnh có nói kệ rằng:
Hoặc là Đại Trượng Phu
Hoặc là Phật Hóa Sanh
Đề Bà Đạt Đa ấy
Cùng Tiên là đồng bạn
Hoặc lại làm cha con
Thường ở nơi quyến thuộc
Bồ Tát có lực lớn
Quyền biến hay vì nầy
Cùng Phật và người khác
Bồ Tát với Đại Tiên
A Nan, Nan Đà thảy
Na Luật, Thích Ma Nam
Bột Đà cùng Ác Sa
Ưu Ba Ác Ly thảy
Làm cha con quyến thuộc
Hoặc đều vây chung quanh
Hỏi rằng:
- Đề Bà Đạt Đa trong 500 thân thường cùng Bồ Tát làm những sự oán hận. Nhưng ở đây tại sao lại gọi là Bồ Tát?
Đáp rằng
- Đề Bà Đạt Đa chẳng oán Phật. Vì sao vậy? Nếu Đề Ba Đạt Đa oán Phật thì Bồ Tát tu hạnh lành mà Đề Bà Đạt Đa thường tạo các việc ác. Như vậy vì sao đời đời được cùng với Bồ Tát cùng nâng đỡ cho nhau là nghĩa nầy vậy. Đề Bà Đạt Đa không oán Bồ Tát. Giống như hai người cùng ra đi. Một người đi về hướng đông, một người đi về hướng tây đi càng ngày càng xa, rồi xa rời nhau. Vì sao mà làm bạn có thể giúp nhau được. Nếu Đề Bà Đạt Đa có tâm oán giận Bồ Tát thì Như Lai Thế Tôn có thể vượt qua được điều nầy.

Hỏi rằng:
- Qua khỏi điều gì vậy?
Đáp rằng:
- Không có kẻ đó thì Phật không phải là người nhứt thiết trí lại cũng chẳng có thần lực tức là ngu si, tức chẳng có thể được ủng hộ chúng sanh, chẳng phải là thân Kim Cang mà Như Lai liền ứng ra Hữu Dư Nghiệp chẳng thể đoạn kết.
Vì sao biết Phật là kẻ chẳng phải Nhứt Thiết Trí khi Như Lai ở núi Kỳ Xà Quật mà Đề Bà Đạt Đa lăn đá để hại mà chẳng thể biết. Cho nên phải biết, Như Lai chẳng phải là bậc Nhứt Thiết Trí. Như thế thì sao gọi là chẳng có thần lực mà để cho Đề Bà Đạt Đa mang cái chày vồ để đánh hại mà chẳng thể chống chế lại. Cho nên ở đây phải biết rằng chẳng có thần lực.
- Sao gọi là ngu si?
Thấy bị hại nhưng mà chẳng biết chạy, cho nên biết rằng ngu si vậy?
- Vì sao mà chẳng thể ủng hộ chúng sanh?
Đề Bà Đạt Đa làm tội ngũ nghịch, biết mà chẳng cứu độ, cho nên phải biết chẳng thể ủng hộ chúng sanh.
- Sao gọi là chẳng phải thân Kim Cang?
- Chuyển Luân Thánh Vương vì ít phước báo mà chẳng oán hại. Hà huống là Như Lai. Chuyển Luân Thánh Vương đã giữ đá lại làm cho máu nơi thân không chảy. Cho nên phải biết Như Lai không phải là thân Kim Cang.
- Vì sao gọi là có Dư Tác Nghiệp chẳng thể diệt hết?
- Vì đánh người khác, cho nên phải biết Như Lai Dư Nghiệp chưa hết, cho nên muốn làm cho Phật không thể vượt qua được. Như Lai liền muốn tận diệt oán thù nên đã dùng thiện xảo phương tiện muốn làm cho chúng sanh khởi lên tâm xa rời việc ác nên hiện ra việc ngược lại, rồi bị đọa vào địa ngục là muốn hiển thị cho thấy Nghiệp Báo không thể hoại được. Lại cũng muốn vì sự đọa địa ngục ấy mà trở về với Như Lai và thỉnh cầu Như Lai cứu hộ. Lại nữa vì người đời sau giàu có khi vào nơi Phật Pháp nếu muốn dùng thế lực dùng cây gậy đánh đập người thì làm cho chúng sanh ấy phải nhớ nghĩ rằng ngay cả thân của Như Lai mà còn bị hại thì huống hồ gì ta là kẻ phàm phu phước đức mỏng. Lời có người là nghịch tội, nhưng mà Bồ Tát vì thiện quyền phương tiện mà tội nghịch như thế tuy có tên là năm tội, nhưng thật ra chỉ có hai. Đó là phá tăng và hại Phật. Đó là những nghiệp lực mà thế gian chẳng có.
Đề Bà Đạt Đa thật ra là một Đại Tâm Già La Bồ Tát vì chúng sanh mà khởi lên tội nghịch, hiện làm hai nghiệp đọa vào địa ngục, Bồ Tát Ma Ha Tát tùy theo công việc mà làm như thế. Vì hóa độ chúng sanh, cho đến việc hiện ra giống như nghiệp của Ma làm ra Ma Ba Tuần Tam Ngọc Nữ hiển hiện. Như Lai tướng vô dục lại mưa bằng đao kiếm. Tất cả những giả tướng đó hiển hiện Như Lai chẳng có tướng sân si lại cũng chẳng tham ái cùng tướng ngu si.
Hỏi rằng:
- Thân Ma đến có ý muốn phá hoại Như Lai là bậc có tâm chánh giác. Vậy thì nói rằng muốn hiển thị Như Lai chẳng tham sân là sao?
Đáp rằng:
- Nếu Như Lai ra khỏi Ma giới cũng giống như Ma mà Đại Phạm Thiên Vương cũng ra khỏi Ma giới. Tại sao chẳng phải Bồ Tát? Đó là con đường Diệu Quả, không thể cướp đoạt được. Lại cũng chẳng cùng kẻ kia, cho nên không thể hoại, nói lời của Ma lo loạn. Ở đây có hai nghĩa. Thế nào là hai?
- Một là thật có ác nghiệp. Vì Ma mà lo lắng. Hai là vì tiến đến sự mới mẻ, làm cho tâm được kiên cố, làm cho Ma phải bị bức bách thì mới thật là Bồ Tát, là Chơn Thiện tri thức nên mới hiện ra ma mà đến để làm tăng thêm công đức. Giống như con đường nơi đó sợ hãi, tức qua khỏi hiểm nạn. Giống như bò tót chỉ cần dây mũi nhỏ cũng có thể điều phục được.
Hỏi rằng:
- Thân Ma cũng có Bồ Tát sao?
Đáp rằng:
- Chẳng phải chỉ thế giới nầy có Thiên Ma Bồ Tát mà 10 phương thế giới đều có Ma Vương, đa phần là Bồ Tát, như trong kinh Duy Ma Cật có nói: Mười phương thế giới làm Ma Vương, đa phần trụ ở nơi bất khả tư nghì giải thoát của Bồ Tát, hay xin tay chân đầu mắt tủy não. Nói như thế là tất cả các trụ ở bất khả tư nghì Giải Thoát Bồ Tát. Vì sao vậy? Nếu không phải là Bồ Tát thì chưa chịu được việc nầy. Giống như Hương Tượng lê bước đạp lên không phải nơi con lừa, chỉ có các Bồ Tát mới có thể làm như thế. Như kia nói rộng ra cái ý nghĩa như thế phải nên biết. Bồ Tát hay biết tất cả chúng sanh có nhiều việc làm khác nhau, mà chỉ muốn hiển bày công đức trí huệ phương tiện lực mà thôi. Hoặc hiện là mọi thứ, xin đủ thứ như thế.
Hỏi rằng:
- Nếu La Hầu La quả thật là Bồ Tát. Vậy tại sao bảo là Thanh Văn A La Hán?
Đáp rằng:
- Bồ Tát cũng có tên là Thanh Văn lại cũng có tên là A La Hán. Vì sao vậy? Vì làm cho chúng sanh nghe được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề nên gọi là Thanh Văn. Ngay cả Trời, Người, A Tu La cũng như thế nữa, Bồ Tát Ma Ha Tát vì muốn giáo hóa chúng sanh nên hiện làm Thanh Văn, A La Hán.
Hỏi rằng:
- Ngoài Thanh Văn ra, tất cả là Bồ Tát?
Đáp rằng:
- Ngoài Thanh Văn ra, tất cả là Bồ Tát như trong kinh Pháp Hoa nói về Ngài Xá Lợi Phất và 500 vị đệ tử tất cả là Bồ Tát, họ hay thường làm Phật. Tất cả các Thanh Văn đều là những vị A Bệ Bạt Trí Bồ Tát, như trong kinh Bất Thối Chuyển Pháp Luân có nói rộng như thế phải nên biết. Bồ Tát đều hiện thân Thanh Văn.
Hỏi rằng:
- Tất cả Thanh Văn có thể thành Phật chăng?
Đáp rằng:
- Thanh Văn thành Phật cũng không ra khỏi điều nầy.
Hỏi rằng:
- Sao gọi là chẳng ra khỏi?
Đáp rằng:
- Đầu tiên phải đoạn trừ kết sử nghiệp chướng, làm cho các địa được thanh tịnh, hướng về tất cả trí, cho nên gọi là không ra khỏi là thế.
Hỏi rằng:
- Thiêu diệt kết sử như đốt cháy mầm mống của lúa thóc thì sao chứng được Phật?
Đáp rằng:
- Như ta đã nói với ông, đoạn diệt kiết sử, chẳng thể thành Phật. Ông cùng tất cả chúng sanh đều có những phiền não mà muốn làm Phật thì ông phải biết rằng người nhiều phiền não như thế không thể là Phật được, mà phải lìa phiền não mới có thể làm Phật được. Thiêu trừ phiền não kiết sử như thiêu trừ mầm mống của lúa thóc cũng chẳng thành Phật lại cũng chẳng có nơi chốn. Ta không muốn làm cho đầy đủ những loại phiền não sanh ra nơi mầm mống của Phật Pháp. Ông si mê chẳng có Trí Tuệ, điên đảo hiểu như vậy. Nghĩa là lấy phiền não làm hạt giống của Phật Pháp. A La Hán sơ đoạn phiền não sau đó mới trừ đi tri chướng, tu Bồ Tát Đạo, được thành Chánh Giác. Ở nơi A La Hán có ít nguời đoạn tri chướng. Nếu có người chẳng đoạn, cũng có người chứng được Vô Tránh Tam Muội. Lại có kẻ chẳng chứng được Vô Tránh Tam Muội, cũng có kẻ chứng được năm loại thần thông. Lại có kẻ chẳng được năm loại thần thông, cũng có kẻ chứng tứ biện tài. Lại chẳng được tứ biện tài, được thiền ra vào tự tại, cũng chỉ được thiền ra vào tự tại.
Hỏi rằng:
- Thế nào gọi là tri chướng?
Đáp rằng:
- Ra khỏi vô minh của thế gian, tên là tri chướng. Giống như trong Sa La Lưu Chi Bổn Hạnh có nói kệ rằng:
Vô Minh có hai loại
Thế gian, Xuất thế gian
Thế gian, Vô Minh hành
Hiền Thánh đã xa lìa
Ngu si chẳng giải rõ
Chẳng thể như Thất trí
Dừng nơi tâm thức nầy
Pháp giới các nơi hiểm
Chưa thể cùng gốc gác
Thế nào quyết định ra
Pháp thân chứng Niết Bàn
Chỉ Phật mới rõ biết
Phật Bà Già Bà lại có thể biết thể tánh trí huệ và dùng đại bi để đoạn trừ kết sử. Cho nên có tên là Thanh Văn hay đoạn tri chướng. Thanh Văn có hai loại. Một là khuyên tu thiền định cho những kẻ độn căn. Hai là hồi hướng Bồ Đề hay đoạn trừ sở tri chướng cho những kẻ lợi căn, vui nơi Thiền Định. Như thế trong kinh thường nói: Giống như thủy tinh chẳng thể thành Ma Ni bảo châu được. Thanh Văn tu thiền cũng lại như thế, chẳng thể chứng quả Bồ Đề được. Đây là cảnh giới của chư Phật, ta chẳng biết được. Một thừa hay nhiều thừa. Nay chỉ lược nói nghĩa nầy để làm sáng tỏ lời Phật dạy, chẳng thể sai khác, ta chưa rõ hết. Cũng như Trưởng Giả ra đi thật xa rồi hiện hóa thành, như trong kinh nầy nói chỉ có một thừa, thật chẳng có ba. Phật cũng tự nói chỉ có một Phật thừa, chẳng phải hai ba.
Hỏi rằng:
- Như Lai đã làm như thế nào để đoạn kết sử?
Đáp rằng:
- Trong kinh nói: Phật bảo A Nan nên siêng tu Tứ Như Ý Túc. Nếu ở đời một kiếp hoặc ở đời nhiều kiếp cho đến cuối cùng của sanh tử mà tất cả các kinh đều nói giống nhau. Nếu lời nói của ngươi không còn phiền não nữa ta cũng lại như thế. Nếu có kẻ thân ái tin tưởng quy y nơi ta, nay phải vì ngươi mà nói.
Hỏi rằng:
- Thế nào là Trụ Thọ?
Đáp rằng:
- A La Hán chẳng phiền não lại ở nơi Bát địa giống như Bồ Tát hay tu Như Ý Túc, hay tùy ý mà ở đời cho đến cuối cùng của Sanh Tử. La Hầu La, Tân Đầu Lô v.v... kết trụ ở đời. Vì thân nầy trụ ở đời làm cho thân trụ hữu dư. Nếu mà có thân thật để trụ ở đời, tức không phải nghĩa nầy. Nếu là biến hóa thân trụ thọ ở nhiều kiếp, tức có nơi chốn, như trong Tăng Kỳ nói về mắt xanh của Như Lai v.v... vì muốn giáo hóa Bồ Tát mà tại trời Quang Âm cùng với các chúng Thanh Văn vô lượng trăm ngàn ức Na Do Tha kiếp trụ. Giống như nơi cõi trời kia Thanh Văn trụ thọ nhiều kiếp. Phải nên biết thế giới nầy cũng có Thanh Văn như thế mà ở. Thanh Văn không còn kết sử lại hay ở như thế. Phải biết rằng nơi Bát Địa Bồ Tát cũng lại như thế. Ở nơi cuối cùng của sanh tử.
Hỏi rằng:
- Phật bảo Di Lặc Bồ Tát Nhất Sanh Bổ Xứ. Với nhân duyên nầy phải biết Bồ Tát còn sanh ư? Sao còn gọi là Vô Sanh?
Đáp rằng:
- Nói là có sanh đó là pháp hí luận. Bồ Tát Ma Ha Tát vì lực phương tiện mà thị hiện thọ sanh. Đó không phải là điều thật. Như Duy Ma Cật nói rằng Di Lặc Bồ Tát vô sanh khả đắc. Vì sao mà Như Lai thọ ký cho một lần sanh rồi chứng được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề? Vì quá khứ sanh, hiện tại sanh, vị lai sanh. Nếu mà do quá khứ sanh, thì quá khứ sanh rồi lại diệt. Vị lai sanh thì vị lai chưa đến. Hiện tại sanh lại chẳng có nơi trụ, cứ như thế mà quán quá khứ, vị lai, hiện tại sanh tất cả đều chẳng thể được. Cho nên ta nói Bát Địa Bồ Tát trong hai A Tăng Kỳ Kiếp hết tất cả các việc làm, ở nơi chẳng làm giống như A La Hán đoạn hết kiết sử, mà nói kệ rằng:
Từ mới phát ý đến
Phương tiện làm các địa
Chẳng đến địa thứ tám
Tự Tại hết các Kết.
Phẩm thứ ba: Thuận tu các hành
Hỏi rằng:
- Như đã nói Bát Địa Bồ Tát hay đoạn tất cả phiền não và kiết sử thì thành Phật như thế nào? và được nhứt thiết trí?
Đáp rằng:
- Bồ Tát Ma Ha Tát trừ tất cả các ái nơi thân, tịch diệt kiết sử, lìa sanh tử du hí tự tại, Kim Cang lực sĩ thường theo hỗ trợ, giúp đỡ làm cho được thân Kim Cang thanh tịnh, như trong kinh Như Lai tạng có nói rộng, được 4 trí tuệ biện tài, được vào đệ cửu địa thanh tịnh. Ở nơi hai ngàn Phạm Vương mà được lực tự tại, liền hay thuyết pháp, làm Đại Pháp Sư hay vào nơi tạng bí mật của Như Lai để đến thập địa thanh tịnh, được vô lượng vô biên mà chú phương thuật, hay làm cho tất cả tự tại vô ngại, làm cho Ma Ê Thủ La Thiên Tử, lại cũng làm nơi nương tựa cho tất cả thế gian.
Hỏi rằng:
- Nói rằng Ma Ê Thủ La có giống như Ma Ê Thủ La của thế gian hay khác?
Đáp rằng:
- Đó là Tịnh Cư Tự Tại, chẳng phải thế gian tự tại, Ngươi nói Ma Ê Thủ La tên ấy tuy giống nhưng mà người thì không giống. Nơi Tịnh Cư Ma Ê Thủ La có Tỳ Xá Xà Ma Ê Thủ La là vị Tịnh Cư cũng như Bồ Tát gần gũi Phật Địa, giống như La Sát chứng ở nơi một sát na mười phương thế giới vi trần pháp số tất đều có thể biết rõ, có thể dùng miệng để thổi 10 phương thế giới đều bị chấn động. Lại nữa một thân có thể biến ra tất cả nước Phật. Cũng giống như Hoàng Thái Tử lúc mới nhận chức là do Nghiệp lực vậy. Hoa sen lớn quý tự nhiên hóa sanh, thọ địa vị của tất cả chủng trí, ngồi trên hoa sen quý như Vua ngồi, có vô lượng Bồ Tát cũng ngồi trên hoa sen như thế vây chung quanh. Sau khi ngồi trên hoa sen báu rồi thì mười phương thế giới chư Phật phóng ánh sáng lớn chiếu khắp. Bồ Tát nầy thọ địa vị quán đảnh như Trưởng Tử của Chuyển Luân Thánh Vương lúc thọ tức từ nơi chỗ ngồi kia đoạn trừ tri cảnh vi tế chướng được Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội. Tùng Lăng Nghiêm Tam Muội, Pháp Hoa Tam Muội, được tất cả Thật Pháp Quyết Định Tam Muội, Bất Khả Tư Nghì Giải Thoát Tam Muội, Thậm Thâm Vô Úy Hải Thủy Tam Muội. Vi Diệu Thanh Tịnh Ly Cấu Tam Muội. Các pháp bình đẳng chẳng nói Tam Muội, cho đến Kim Cang Tam Muội. Khi được tất cả Tam Muội rồi tức vô chướng ngại. Tất cả các hạnh đều đầy đủ, biết tất cả các tri chướng, thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Khi thành Chánh Giác rồi, được 10 lực của Như Lai, được bốn phép trí tuệ biện tài và 19 pháp bất cộng, hay biến hóa đến tất cả các nước Phật, được tất cả các pháp thân không hoại của chư Phật, đầy đủ tất cả các pháp giới. Tất cả thân khẩu ý nghiệp tướng, tất cả đều tiêu diệt, chứng được vô vi tịch diệt xứ, chứng Như Lai địa.
Lại có hai nhân duyên. Một là vì tất cả thế gian mà hiển hiện sắc thân, tức do bổn nguyện chứ không phải do nghiệp lực làm.
Hai là vì chúng sanh phân biệt tưởng tượng mà có sai khác. Vì thế cho nên mới tạo ra nhiều hình tướng khác nhau để đáp ứng, cho nên có tên là Như Lai Vô Ngại sắc thân.
Hỏi rằng:
- Như trong kinh nói: Từ khi mới xuất gia hay ở nơi Phật Pháp, nên gọi là Pháp Thân?
Đáp rằng:
- Việc nầy không phải như vậy. Ngươi nếu nói là Pháp Thân thì tuy có pháp mà không có Phật, tức chẳng có ba nơi quay về. Nếu muốn làm cho đầy đủ ba nơi nương tựa thì đâu phải là sơ địa và cuối là thập địa, tại Tịnh Cư Thiên thành Chánh Giác, tự tại ứng hóa nên có tên là Pháp Thân đầy đủ ba bảo.
Hỏi rằng:
- Như thế tên gọi là Pháp thân thì hư cuống chẳng thật. Vì sao vậy? Như Lai đầy đủ công đức bỏ nơi trời Đẩu Suất giáng xuống Diêm Phù Đề, sanh nơi Vương Cung là thân sau cùng, chứng thành Bồ Đề. Như vậy tại sao nói là nơi cõi trời Tịnh Cư mới thành Phật đạo và có tên là Pháp Thân?
Đáp rằng:
- Không phải nơi Diêm Phù Đề thì không thành Phật. Công đức nơi Thập Địa chẳng phải muốn nơi Pháp giới, hà huống là Diêm Phù Đề được thành Chánh Giác. Ta trước chẳng nói là Bát Địa Bồ Tát tận diệt tất cả các lậu, thì có thể làm Phạm Vương một ngàn thế giới. Cửu Trụ Bồ Tát thì làm Phạm Vương của hai ngàn thế giới. Thập Trụ Bồ Tát thì làm Phạm Vương của ba ngàn Đại Thiên thế giới. Đây là do thệ nguyện lực vậy, mà sanh nơi cõi trời Tịnh Cư ở nơi chốn ấy. Còn nơi Diêm Phù Đề có thân thật để thành Phật tức chẳng phải nghĩa nầy là ý nghĩa đó. Phải biết Tịnh Cư Thiên thành Phật không phải là nơi Diêm Phù Đề.
Hỏi rằng:
- Giả sử như sanh nơi Diêm Phù Đề mà được thành Phật, lại có thể nơi tam thiên đại thiên thế giới được Tự Tại chăng?
Đáp rằng:
- Việc nầy chẳng thể. Vì sao vậy? Vì do phước đức quả báo mà quyết định nơi chốn vậy. Ngươi không biết sao mà còn nói rằng: Nếu Thích Ca Mâu Ni Phật sanh nơi Diêm Phù Đề thì được Tự Tại nơi ba ngàn đại thiên thế giới. Ở tất cả mười phương thế giới lại được Tự Tại.
Hỏi rằng:
- Từ đây làm cho mười phương tất cả đều được Tự Tại. Có được như thế không?
Đáp rằng:
- Như đó chỉ là một thế giới Phật, còn 10 phương chư Phật tức chẳng có nơi để nương tựa. Lại nữa như trong kinh nói: Tất cả nghĩa là Thích Ca Như Lai ở nơi ba ngàn đại thiên thế giới còn không nói huống nữa tới 10 phương thế giới. Nếu nói như ngươi, tức chẳng nói có nhân quả. Như trong kinh nói: Chư Phật xuất thế quốc độ chúng sanh đều là do y báo, tất cả đều có giới hạn. Cho nên phải biết tại Tịnh Cư Thiên thành ư Chánh Giác, lãnh thổ là ba ngàn đại thiên thế giới, chẳng phải là nơi Diêm Phù Đề vậy.

Hỏi rằng:
- Nếu Phật chẳng phải nơi Diêm Phù Đề mà thành chánh giác thì tứ tháp của Như Lai chẳng có lợi ích gì chăng?
Đáp rằng:
- Ta trước đây chẳng nói sao! Nếu mà do nhân duyên kết sử thọ thân thì tức chẳng thành đạo vì không có Thi La Ba La Mật (Giới). Nếu không có Thi La (Giới) Ba La Mật tức chẳng có những Ba La Mật khác. Nếu không có Phật thì không có bốn tháp.
Hỏi rằng:
- Như Ngài đã nói tất cả đều chẳng có ý nghĩa gì? Vì sao vậy? Trong khi đó tất cả Luận sư của các bộ đều nói là tất cả chư Phật đều từ Diêm Phù Đề nầy mà xuất hiện, như Đức Thích Ca sanh nơi vườn Lâm Tỳ Ni, tại thành Già Gia ngồi nơi đạo tràng rồi thành Chánh Giác. Nơi Ba La Nại sơ chuyển pháp luân. Nơi Câu Thi La thành nhập Bát Niết Bàn. Như thế mà ngài nói chẳng có gì chăng?
Đáp rằng:
- Việc ấy chẳng phải vậy.
Ý ta chẳng phải muốn nói là các đức Như Lai từ nơi Thủ Đà Hội (Đẩu Suất) thiên mà thành Chánh Giác. Nếu từ nơi trời Đẩu Suất mà thành chánh giác tức chẳng nơi vương cung, lại cũng chẳng đi xuất gia, lại chẳng thành đạo. Vì sao thế? Nếu như Như Lai chẳng có thân tộc, lại chẳng có nơi sanh, lại chẳng có nơi diệt, như trong kinh Pháp Hoa và kinh Trí Chiếu và Như Lai chẳng sanh chẳng diệt. Ca Diếp đã tự nói rằng: Ta nương nơi Nhứt Thiết Chủng Trí để xuất gia; phải hiểu nghĩa nầy như thế. Tức là thị hiện. Như Lai chẳng sanh nên nơi Kim Quan đã đưa hai chân ra và ngài Ca Diếp đến đảnh lễ, tức chứng minh cho biết rằng Như Lai chẳng diệt. Cho nên phải biết rằng Pháp thân của Như Lai bất sanh bất diệt.
Hỏi rằng:
- Vậy thì Như Lai chẳng có một chút sanh diệt gì sao?
Đáp rằng:
Ta nay y vào chánh lý để nói thì Như Lai thật chẳng sanh diệt, chẳng phải là điều vọng ngữ. Vì Như Lai chỉ thị hiện phương tiện sanh diệt mà thôi. Đó là bất khả tư nghì để giáo hóa chúng sanh, như Phật đã nói nơi kinh Tư Lại: Ta từ nơi Ta Bà thế giới nếu hiện ra thân thật thì chẳng có một người nào chịu nhận sự giáo hóa của ta. Cho nên ở nơi nầy đầy đủ ý nghĩa thâm mật, nên phải hiển thị, đều vì những chúng sanh hạ căn, trí tuệ cạn cợt, chẳng thể hiểu được các pháp sâu xa. Cho nên phải phương tiện mà hiện ra như thế và có bài kệ tụng rằng:
Đại thừa thật sâu rộng
Hiển hiện dễ nói đuợc
Đến trí tâm thấp kém
Nghe được lại sanh nghi
Chơn chánh là Phật Tử
Phải biết đây sâu dày
Làm cho nói chân thật
Chỉ vì cầu Phật vậy
Thành tựu nơi Nhị Thừa
Nhơn Thiên các lợi căn
Thọ Phước từ thừa nầy
Có tên là Đại Thừa
Đại Thừa hay sanh ra
Đường Thanh Văn Duyên Giác
Nếu mà kẻ Đại Thừa
Thế nào được các Quả
Giống như các chữ gốc
Lìa gốc chẳng có chữ
Nếu mà lìa Đại Thừa
Lại chẳng còn thừa nào
Kẻ độn căn thiếu trí
Chẳng tin nơi Đại Thừa
Lại cũng chẳng thể tin
Tức tất cả các thừa
Tự lợi mà gồm cả
Có tên Vô Thượng Thừa
Cho nên phải thân cận
Cho đến thành Phật đạo.
Ý nghĩa nầy sâu xa khó thể hiển thị, chẳng phải nơi nơi mà vì người nói được.
Hỏi rằng:
- Tuy chẳng phải tất cả nơi có thể nói nhưng có thể nói rằng: Nếu phát tâm lớn tăng trưởng trí huệ, thì phải biết người nầy đầy đủ phân biệt như trước đã nói?
Đáp rằng:
- Có bốn loại bất tư nghì
Đó là Phật bất tư nghì; Thiền định bất tư nghì; Long thần bất tư nghì và Nghiệp báo bất tư nghì. Phật bất tư nghì là muốn hiển hiện pháp. Tuy có lợi căn chúng sanh từ Lô Giá Na Phật đến để nói các Pháp tất cả đều kham thọ.

Hỏi rằng:
- Thế nào là được từ vị Phật kia mà làm theo thứ lớp cho đến bây giờ?
Đáp rằng:
- Như Lai pháp thân giáo hóa chúng sanh có bốn phương tiện. Thế nào là bốn?
Một là Đan na Ba La Mật (Bố Thí) ở nơi đất nầy. Hai là Bố Thí nhiều so với nơi kia. Ba là A Đan Đa Ba La nầy kia và bốn là A Đan Đa La nầy kia (ghi chú trong Đại Tạng 4 bốn thâm diệu nầy không thể dịch từ nguyên bản chữ Phạn được).

Hỏi rằng:
- Nếu mà Pháp thân của Như Lai là thường thì khi thị tịch (diệt) vô tướng vô vi. Tại sao lại còn có tướng tùy thuận?
Đáp rằng:
- Là do nguyện lực vậy. Ví dụ như nhập diệt tận định Tỳ Kheo, tuy vô tâm tưởng, nhưng còn tâm cần yếu, nên khi đánh kiền chùy nghe tiếng dội vào tai. Tùy theo âm thanh phát ra đó mà từ định dậy. Bồ Tát lại cũng như thế. Phát Bồ Đề Tâm, bổn thệ nguyện lực như bảo ta được diệt tận Pháp thân thì lúc ấy tâm thức tuy vô tướng vô tác nhưng vì giáo hóa chúng sanh, cho nên Như Lai vô tướng pháp thân liền có thể ứng biến tùy thuận có hữu tướng, như ba ngàn đại thiên thế giới trăm ức cõi trời Đẩu Suất, trăm ức cõi trời Diệm Ma. Tất cả cùng lúc thị hiện sắc thân. Khi hiện sắc thân rồi hoặc lại xả bỏ thọ mạng, hoặc hiện lại bào thai; Hoặc hiện ra so sánh, hoặc làm Thích, Phạm, Ma, Tứ Thiên Vương v.v... tiếp cận tả hữu. Hoặc hiện ra đi bảy bước, hoặc hiện ra trống rỗng của Sư Tử. Hoặc lại tự nói trên trời, giữa loài người là tối tôn tối thượng. Đây là thân sau cùng đoạn lìa sanh, lão, bệnh, tử. Hoặc hiện đồng tử, hoặc hiện vào cung Vua. Hoặc hiện làm thân xuất gia, hoặc hiện thân tu khổ hạnh. Hoặc hiện thân ngồi nơi đạo tràng. Hoặc hiện thân hàng Ma, hoặc hiện sơ thành Phật. Hoặc hiện giác ngộ chúng sanh, hoặc hiện chưa thành Phật, Hoặc hiện Thích Phạm thỉnh chuyển Pháp Luân. Hoặc hiện ra chúng sanh thành thục, hay chúng sanh chẳng thành thục. Hoặc hiện độ thoát kẻ thành thục rồi; Hoặc hiện đang nhập Niết Bàn; Hoặc hiện đã nhập Niết Bàn rồi; Hoặc hiện nơi Diêm Phù Đề toàn thân xá lợi rồi phân thân xá lợi. Hoặc hiện đến từ cõi trời Đâu Suất cho đến hiện độ thoát thành thục chúng sanh. Tùy theo đó mà thấy tất cả để hiện hình; Hoặc lại có nhiều sự thị hiện khác nhau; Hoặc lại tạm thời thị hiện; như thế mới gọi là những ý nghĩa chơn thật. Cuối cùng chưa đến ba A Tăng Kỳ Kiếp tu hành các Ba La Mật mà thành. Bốn mươi, năm mươi năm quả ấy liền diệt tận phải không?
Nói như thế nào mà giống như Tu Di chỉ có La Sơn mà quả như rau cải vi trần ra nhỏ như thế. Nếu nói như thế thì thật là điên đảo. Như trong giáo pháp của ta lại có thể làm cho nhỏ như hạt cải mà quả lại như Tu Di Trử La Đại Sơn. Ý nghĩa nầy hợp lại cho nên gọi là nhơn của Ba A Tăng Kỳ mà được tất cả sanh tử quả báo. Ứng hóa chúng sanh, pháp thân thường tồn tại. Như Pháp Hoa Thọ Lượng đã nói rõ. Lại như Văn Thù Sư Lợi nơi phẩm Thọ Ký có nói kẻ kia vì sao tên là Đa Bảo Đa La Ni Tử Trí? Như Phật đã nói: Khi ta làm Phật sự rồi, dùng lời nói với các Tỳ Kheo là đã đến lúc ta vào Niết Bàn. Như thế mười phương chư Phật cũng lại như vậy. Vì sự giáo hóa chúng sanh mà nói lời như thế, kỳ thật ra thì chẳng diệt độ, mà tất cả các nước đều do thần thông biến hóa cũng giống như pháp giới hư không vậy. Cho nên phải biết Pháp thân thì thường trụ, sắc thân thì ứng hóa vô thường. Nếu dùng sắc thân để quán Phật thì chẳng thấy được Như Lai, như Phật đã nói kệ:
Nếu dùng sắc thấy Phật
Âm thanh để cầu Phật
Kẻ ấy hành tà đạo
Không thể thấy được Phật
Nghĩa là như vậy. Nếu dùng Pháp thân để quán Phật thì mới có thể thấy Như Lai. Như Liên Hoa Tỳ Kheo Ni muốn thấy Phật bằng sắc thân, nên liền nghĩ rằng tôi là kẻ thấy Phật đầu tiên, nhưng Phật bảo Ngươi không phải là kẻ thấy ta đầu tiên, chỉ có Tu Bồ Đề biết được pháp thân, nên ông ta đã gặp ta trước rồi. Cho nên phải biết ở nơi Thập Trụ gọi là thấy Pháp Thân. Nếu lễ Pháp Thân tức là lễ tất cả sắc thân như Phật đã nói nơi kinh Pháp Hoa. Nếu có người xưng danh cúng dường Quan Thế Âm Bồ Tát Pháp Thân thì có thể cúng dường 62 ức chư Phật sắc thân. Vì sao vậy?
Vì ở nơi Thập Địa, đã chứng được Pháp Thân nên có tên là Bồ Tát. Lại có tên là Phật cho nên phải biết Pháp Thân là căn bản, vô lượng sắc thân đều nương nơi Pháp Thân mà hiện ra thân để giáo hóa, cho nên Phật liền giải nói 62 ức hằng hà sa sắc thân là vậy, chẳng bằng cúng dường một Pháp Thân.
Như Phật đã nói trong kinh Bảo Tích rằng: Như thế Ca Diếp, như người ở thế gian khi trăng mới vừa lên cung kính lễ bái cho đến trăng tròn rồi thì không còn cung kính nữa. Vì sao vậy? Từ đầu đến cuối như thế Ca Diếp. Nếu có thiện nam tử nào muốn cung kính ta trước phải nên kính lễ Bồ Tát. Vì sao vậy? Vì Phật đều từ Bồ Tát địa mà đầy đủ vậy. Cho đến trải qua sanh tử biến hóa sắc tướng chỉ vì lợi ích chúng sanh. Đây là nghĩa chính vậy. Ở kia đã được Phật quả rồi, như Phật thường nói, chẳng phải là Điều Ngự vậy.
Hỏi rằng:
- Nếu chưa vào Bồ Tát địa mà thọ cụ túc giới Tỳ Kheo thì có được lễ không?
Đáp rằng:
- Được lễ. Vì sơ phát tâm Bồ Tát hơn tất cả những Thanh Văn, Bích Chi Phật vậy. Như Tôn Giả La Hầu La nói kệ rằng:
Nếu phát tâm sau
Tất sanh Giác Ngộ
Cho nên tất cả
Đều phải cung kính
Hỏi rằng:
- Thế nào là thọ Cụ Túc giới Tỳ Kheo mà được lễ, còn chưa đủ Cụ Túc giới thì chưa vào chánh vị Bồ Tát sao?
Đáp rằng:
- Nên lễ Bồ Tát. Vì sao vậy? Vì Thanh Văn giới cần phải thọ đủ rồi mới bỏ thọ mạng. Còn Bồ Tát phát tâm thành tựu Tự Tánh Đệ Nhất Nghĩa Giới, Giải Thoát Giới, cho nên Thanh Văn tuy thọ Cụ Túc giới cũng nên lễ so với vị chưa nhập Chánh Vị Bồ Tát. Vì thể tánh của Bồ Tát nầy là chẳng giết hại, xa rời dao, trượng, cho đến trùng kiến thảy đều chẳng có tâm sát hại, có tâm xấu hổ. Như thế nói rộng ra - Thể tánh chẳng ăn trộm cho đến Thể tánh chẳng tà kiến như giới Ba La Đề Mộc Xoa. Khi mạng chung thì bỏ, hết đường thì bỏ. Bồ Tát Đại Sĩ tánh giới thành tựu cho đến đạo tràng, chẳng hết thì không bỏ. Là ở nghĩa nầy vậy. Tuy thọ đầy đủ giới; nên phải tác lễ.
Hỏi rằng:
- Kẻ thành tựu Thể Tánh của giới cho đến việc có thể cúng dường mà chẳng lễ bái có được chăng?
Đáp rằng:
- Không được. Vì có công đức của giới vậy, lại nên lễ bái, há chỉ việc cúng dường. Ngươi nói chẳng thọ giới Bồ Tát chẳng nên hướng lễ. Ta nay lại phải vì ngươi mà nói rộng ra. Cho đến việc chẳng cần bạch tứ Yết Ma mà thọ Cụ Túc giới. Như Tỳ Ni Tỳ Bà Sa nói có mười loại thọ giới cụ túc, còn Bồ Tát giới thì có nhiều loại thọ giới khác nhau. Thế nào là mười?
1. Như Phật bảo: Thiện Lai Tỳ Kheo, tự nhiên đã được thọ Cụ Túc Giới, như ngài Ma Ha Ca Diếp.
2. Tự Thệ Nhân Duyên Thọ Giới Cụ Túc.
3. Như Kiều Trần Như nghe Tứ Diệu Đế đã thọ đầy đủ giới Cụ Túc.
4. Như Ba Xà Ba Đề Tỳ Kheo Ni thọ Bát Kỉnh Pháp đã đầy đủ Cụ Túc giới.
5. Như Đạt Ma Đề Na Tỳ Kheo Ni khiến được thọ Cụ Túc giới.
6. Như Tu Đà Ni Da Sa Di luận Nghĩa thọ đầy đủ Cụ Túc giới.
7. Như Gia Xá Tỳ Kheo v.v... Thiện Lai thọ đầy đủ Cụ Túc Giới.
8. Như Bạt Đà La Ba Lăng Già Tam Quy Y thọ đủ Cụ Túc.
9. Nơi biên địa chỉ có năm vị kể cả Tôn Chứng cũng đầy đủ giới Cụ Túc.
10. Ở trung tâm một quốc gia, có bạch tứ Yết Ma, (đủ tam sư thất chứng) thọ đầy đủ Cụ Túc Giới.
Như thế các Bồ Tát thường thọ đầy đủ Cụ Túc Giới chưa hề lìa bỏ.
Hỏi rằng:
- Nếu mặc Pháp Phục Bồ Tát có thể lễ Bạch Y Bồ Tát không?
Đáp rằng:
- Bồ Tát phương tiện đầy đủ ngũ thông, tùy thuận chúng sanh tất cả hình tướng mà làm giống y phục lại tùy theo tất cả chúng sanh mà vào các nơi giống như những loại ấy thì các đại Bồ Tát tùy theo nghiệp báo của chúng sanh mà biến hóa thọ thân như Tôn Giả Câu Ma La Đa nói kệ như sau:
Các nơi đều biến hóa
Chỉ trừ Tịnh Cư Thiên
Tùy Nghiệp chuyển đủ loại
Chẳng nơi không thọ sanh
Cho nên phải biết các Bồ Tát thường vì lợi ích mà tùy theo đó để thọ sanh hóa đạo. Vì phương tiện mà hóa làm chúng sanh, chẳng phải tùy theo phiền não nghiệp báo sai khiến. Như Tôn Giả Đề Bà nói kệ như sau:
Hoặc hiện làm Sư truởng
Hoặc lại làm đệ tử
Có rất nhiều phương tiện
Vì giáo hóa Phàm Ngu
Tự tại nơi các cõi
Thường vì chúng cung kính
Nếu kẻ không cung kính
Tức Nghiệp Kiêu Mạn lớn
Những Bồ Tát tuy hình phục thế gian nhưng nên kính lễ, cũng giống như Như Lai vì giáo hóa chúng sanh mà làm những việc cang cường, lại như hóa thành Vua Phất Ca La, làm hình lão Tỳ Kheo, làm ông thầy lở lói, lại hiện ra nhiều hình ảnh của người tại gia. Tuy có nhiều loại hình tướng khác nhau nhu thế; nhưng tất cả đều nên cung kính lễ bái. Tuy đồng y phục thế gian nhưng hãy nên kính lễ như Phật nói kệ rằng:
Nghiêm sức các hành mà tịch diệt
Điều phục quyết định tu vạn hạnh
Vì các chúng sanh bỏ dao gậy
Có tên Sa Môn, Bà La Môn
Cho nên giữa nơi các Bồ Tát không nên chấp vào hình trạng tướng mạo mà sanh tâm phân biệt. Bồ Tát vì tam giới chúng sanh làm việc lớn lao xa lìa nhà cửa, hoặc hóa làm Phật, hoặc hóa làm trời người, cho đến hóa làm các loài súc sanh, tất cả đều nên lễ bái những Bồ Tát ấy, công đức thật vi diệu. Chẳng nên có tâm lễ chỉ ở nơi tướng mạo như người thế gian kia. Chỉ lễ hình tượng mà xa rời lễ bái Pháp Thân. Như hình bằng vàng, đá, bùn đất, gỗ, mà tôn trọng. Cho nên Bồ Tát vì những phương tiện tạo nên nội ngoại hình khác nhau. Chỉ vì lợi ích chúng sanh. Nên lễ bái chẳng hạn. Cho nên Như Lai chẳng vào Niết Bàn, chẳng phải chẳng Niết Bàn, như La Hầu La nói kệ rằng:

Sanh Tử khổ lâu dài
Phải nên vào Niết Bàn
Vì lực từ bi lớn
Ở lâu mà chẳng lìa

Cho nên phải biết tùy theo sanh tử lâu dài mà Pháp Thân thường trụ, sắc thân ứng hiện, giống như đèn tắt là Pháp Thân của Bồ Tát hơn là Sắc Thân của Phật. Những Sắc Thân của Phật ở nơi dục giới mà thành Chánh Giác. Còn Pháp Thân Bồ Tát ở nơi yên ổn. Bồ Tát Pháp Thân ở nơi Nhứt Thiết Chủng Trí của Chư Phật. Sắc Thân chư Phật vì giáo hóa chúng sanh làm cho Thích, Phạm, Tứ Thiên Vương v.v... đều cung kính cho nên Phật nói cúng duờng 62 ức hằng hà sa Sắc Thân chư Phật chẳng bằng cúng dường một Pháp Thân Bồ Tát là ý nghĩa nầy vậy. Như trong Nhứt Thiết Phước Đức Tam Muội Kinh có nói: Vui thay Chánh Pháp, cuối cùng chẳng nói Phật nhập Niết Bàn như trong kinh Pháp Hoa có nói bài kệ rằng:
Thường tại núi Linh Thứu
Cùng với các trụ xứ
Phàm Ngu người Vô Trí
Tuy có nhưng chẳng thấy
Như trong kinh ào (?) nhứt thiết thế giới đại trang nghiêm tam muội nói: Bảo các Thiện Nam Tử rằng các ngươi có thấy Pháp Thân của Như Lai chăng?
- Bạch đức Thế Tôn đã thấy. Nơi lỗ chân lông thấy ức trăm ngàn na do tha chư Phật thế giới. Thân Khẩu Nghiệp đều biến đầy tất cả thế giới chư Phật. Lại như trong tạng Mật, Như Lai đã nói: Trì Viễn Cận Bồ Tát xem trên đảnh của Như Lai có đến vô lượng thế giới chư Phật như thế mà chẳng thể thấy, giống như Mục Liên tìm âm thanh thuyết pháp của Như Lai cho đến thế giới của Dã Ma cũng không thể hết được âm thanh của Phật. Như trong kinh Thủ Lăng Nghiêm có nói:
Khi Như Lai ở nơi cung Vua hiện vô lượng thế giới của sơ sanh, chuyển pháp luân, nhập Niết Bàn, như trong kinh Mật tạng nói: Pháp Thân của Như Lai trụ ở thân của tất cả chúng sanh, hiện ra trong ngoài cũng giống như mặt ngoài của Ma Ni Châu chẳng bị hư hoại cũng lại như thế. Cho nên phải biết Pháp Thân của Như Lai biến khắp tất cả nơi chúng sanh như Phật đã nói cho đến cây khô đốt lửa lại phải chẳng vào nơi sanh hại, huống nữa là các loại cho nên chẳng thể xưng lượng chúng sanh trừ các đức Như Lai, không thể biết được như Duy Ma Cật đã nói: Tất cả Phật độ đều là nghiêm tịnh. Ta Bà thế giới nầy cũng là như thế. Nơi tâm lớn của chúng sanh có Như Lai tàng chứa nơi đó. Đức Thích Ca Như Lai vì phương tiện tốt làm cho tất cả các đệ tử Thanh Văn, hiện nơi ngũ trược ác thế với các ngoại đạo. Tuy là khác một cho đến người đó tất cả nơi thân cũng là Pháp Thân. Tức từ Bồ Tát sanh ra phương tiện tốt. Tất cả đều hiển phát con đường Đại Thừa. Cho nên phải viết Bồ Tát nơi ba ngàn đại thiên thế giới vì giáo hóa chúng sanh nên có nhiều loại không giống nhau. Nếu là chúng sanh lợi căn thì tán thán Đại Thừa mà chẳng quở trách ngờ vực làm cho Tâm dễ được giải thoát. Nếu là chúng sanh độn căn thì mắc vào rừng tà kiến và võng lưới ngu si, khi được thấy chư Phật và Bồ Tát rồi liền mất các tà kiến ấy, cho đến vào Đại Thừa. Cho nên Đại Thừa là nơi ở của các Thừa, là thừa tối vi căn bản. Nếu có chúng sanh thọ trì tin hiểu Đại Thừa nầy, phải biết người nầy Nghiệp Báo Phiền Não tất cả được tiêu trừ, như Thế Tôn đã vì A Xà Thế mà giải rõ các nghi hối, như trong kinh nói tướng quang minh ấy. Hãy đừng nói lời ấy. Vì sao vậy? Ngươi ở nơi thế giới của Phật, mười kiếp tu các thiền định chẳng như ở nơi Ta Bà thế giới nầy có thể chỉ trong một bữa ăn tu hành tâm từ bi. Vì sao vậy? Vì ở thế giới ấy đoạn trừ phiền não chẳng thể được như ở thế giới Ta Bà này. Trong một bữa ăn tu tập thiện nghiệp như cùng Ngài Văn Thù Sư Lợi thọ ký đã nói nơi các kinh khác, tất cả đều có phân biệt.
Nếu có chúng sanh nào hủy báng Chánh Pháp, như trong kinh Bát Nhã và kinh Pháp Hoa nói rộng thì kẻ phỉ báng kia bị tội nghịch. Nếu ai thọ trì tin hiểu Đại Thừa cho đến tội ngũ vô gián v.v... cũng đều diệt hết, như Phật nói kệ rằng:
Đã làm những ác nghiệp
Hay sâu tự hối quá
Kính tin Pháp Đại Thừa
Dứt trừ các gốc tội
Phật nói như thế đó là chân thật Pháp tướng, Tín tâm lần lượt tiếp tục tăng trưởng đều thành Không Tịch. Kẻ trước đây tạo ác liền được tiêu diệt, như Thế Tôn đã nói trong kinh Giải Trừ Nguy Hối vậy.
Đại Vương hãy quan sát nơi tâm của Ngài, đâu là tâm giết cha, đó là tâm quá khứ, tâm vị lai hay là tâm hiện tại? Nếu là tâm quá khứ thì quá khứ tâm chẳng còn. Nếu mà tâm ấy đã mất đi rồi tức chẳng có nơi nào nữa, lại cũng chẳng có nơi để tồn tại. Nếu tâm vị lai thì tâm vị lai chưa đến. Còn tâm hiện tại thì hiện tại tâm chẳng trụ giống như huyễn hóa, chẳng xanh, vàng, đỏ, trắng, tím, pha lê. Thể tánh của nó thuần tịnh, chẳng có tướng và chẳng có thể thấy được. Như vậy đó nói rộng ra tức được lợi lạc, cho nên phải biết Đại Thừa tức là Thừa căn bản, như trong kinh Di Lặc trang nghiêm đã nói. Việc phát tâm Bồ Đề, giải nói tâm Bồ Đề, trụ nơi tâm Bồ Đề, được lợi ích lớn, chẳng đọa vào đường ác. Giải thoát tâm Bồ Đề, Tịnh Bồ Đề Tâm. Từ đất nầy đến đất khác dần dần tăng trưởng ích lợi mà được Pháp Thân hay hiện thần thông như Lô Xá Na Phật liền biến hóa mà nói kệ rằng:
Nếu được thân chẳng dơ
Màu sắc có rất nhiều
Hoặc ở nơi Diêm Phù
Hoặc ở trời Đẩu Suất
Từ nơi đỉnh Phật sáng
Cho đến cuối sanh tử
Biết lúc hoặc chẳng biết
Phải biết định ấy hóa
Chẳng có hình và sắc
Lại cũng chẳng vô tướng
Tích do nơi làm gốc
Giống như trăng trong nước
Thân khẩu ý đều kín
Tức thị chẳng giống Pháp
Tất cả các thế giới
Sắc thân hiện giải thoát
Giữ đời cùng trời nguời
Muốn xem thấy đỉnh Phật
Vô biên bất tư nghì
Qua khỏi ức thế giới
Mục Liên cùng đệ tử
Chí tâm tìm tiếng Phật
Trải qua trăm ngàn cõi
Tiếng ấy chẳng giới hạn
Pháp Thân công đức ấy
Tất cả không thể biết
Chẳng thể loại khác nhau
Ngôn từ giả nói thế
Nghe thấy các Phật lực
Chẳng ta là cảnh giới
Niệm Báo đến Phật Ân
Nơi đảnh tin phụng hành
Nay ta đang nói Pháp
Hồi thí các chúng sanh
Tất diệt, Phiền não hết
Đuợc chứng đạo Vô Thuợng.
Nhập Đại Thừa Luận
(hết quyển hạ)

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 2 quyển »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Hạnh phúc là điều có thật


Chuyện Vãng Sanh - Tập 3


Nguồn chân lẽ thật


Tự lực và tha lực trong Phật giáo

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 3.147.49.183 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập