Hương hoa thơm chỉ bay theo chiều gió, tiếng thơm người hiền lan tỏa khắp nơi nơi.
Kinh Pháp cú (Kệ số 54)
Người cầu đạo ví như kẻ mặc áo bằng cỏ khô, khi lửa đến gần phải lo tránh. Người học đạo thấy sự tham dục phải lo tránh xa.Kinh Bốn mươi hai chương
Người biết xấu hổ thì mới làm được điều lành. Kẻ không biết xấu hổ chẳng khác chi loài cầm thú.Kinh Lời dạy cuối cùng
Ai sống một trăm năm, lười nhác không tinh tấn, tốt hơn sống một ngày, tinh tấn tận sức mình.Kinh Pháp cú (Kệ số 112)
Vui thay, chúng ta sống, Không hận, giữa hận thù! Giữa những người thù hận, Ta sống, không hận thù!Kinh Pháp Cú (Kệ số 197)
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê.Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hèn.Kính Pháp Cú (Kệ số 29)
Người ngu nghĩ mình ngu, nhờ vậy thành có trí. Người ngu tưởng có trí, thật xứng gọi chí ngu.Kinh Pháp cú (Kệ số 63)
Người có trí luôn thận trọng trong cả ý nghĩ, lời nói cũng như việc làm. Kinh Pháp cú
Kẻ không biết đủ, tuy giàu mà nghèo. Người biết đủ, tuy nghèo mà giàu. Kinh Lời dạy cuối cùng
Cái hại của sự nóng giận là phá hoại các pháp lành, làm mất danh tiếng tốt, khiến cho đời này và đời sau chẳng ai muốn gặp gỡ mình.Kinh Lời dạy cuối cùng
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
Bấy giờ Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Thân trước của con có nhân duyên phước đức chẳng thể nghĩ bàn. Nay mong Đức Thế Tôn thọ ký cho con. Vì muốn khiến lợi ích cho tất cả chúng sinh nên khởi Tâm Đại Bi hay cắt đứt tất cả sự ràng buộc cột trói, hay diệt tất cả sự sợ hãi, tất cả chúng sinh nương theo uy thần này thảy đều xa lìa nhân Khổ được quả an vui.
Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện đối với con, trong năm trăm năm sau khi (Đức Phật) nhập diệt có thể ngày đêm y theo Pháp thọ trì Đà La Ni Thần chú Pháp Môn này thì tất cả nghiệp chướng thảy đều tiêu diệt, thảy đều thành tựu tất cả Pháp Đà La Ni
Nay con nhớ báo đáp ân đức của Thế Tôn, tùy ở mọi chỗ nào cho đến thôn xóm, thành thị, đất nước, xã ấp, tụ lạc, hoặc ở núi non, rừng rú. Con thường tùy theo ủng hộ người đó chẳng để cho tất cả Quỷ thần gây điều nhiễu hại”.
Khi ấy, Quán Thế Âm Bồ Tát lại bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Năm trăm năm sau , chúng sinh: uế nhiều, phước mỏng, chẳng thể chuyên niệm. Giả sử có kẻ thọ trì lại bị Quỷ thần xâm hại. Nay con dùng sức uy thần của Phật, rộng vì lợi ích cho tất cả chúng sinh, đem lại an vui cho hàng: Trời, người, A Tu La … mà nói Pháp Đà La Ni.
Trong vô lượng kiếp ở đời quá khứ, con đã từng gần gũi cúng dường Pháp Đà La Ni như vậy cho đến chư Phật Quá khứ, Vị lai, Hiện tại đều nhân vào Pháp Môn của Đà La Ni này mà được A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề (Anuttara Samyaksamïbuddha – Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác).
Nếu có nhóm trai lành, nữ thiện chuyên niệm thọ trì Pháp Môn của Đà La Ni này thì đời này người ấy nói năng lưu lốt không bị trở ngại, thông đạt Tuệ Biện. Đối với Trời, Người là bậc đệ nhất ở trong đại chúng, người nghe vui vẻ thảy đều cúi đầu. Tại nơi sinh ra thường được thấy Phật Pháp Tăng Nói ra điều gì, người đều tin nhận. Nên biết đây là sức uy thần của chư Phật chứ chẳng phải tự lực của Ta”.
Khi đó, Đức Thế Tôn khen ngợi Quán Thế Âm Bồ Tát rằng: “Lành thay! Lành thay! Ông hay làm lợi ích an vui như vậy cho hàng Trời, Người, A Tu La … với Tịnh Nghiệp Đạo. Nay Ta dùng Trí Ấn ấn chứng khiến cho ông vĩnh viễn chẳng bị thối chuyển”.
Bấy giờ, Quán Thế Âm Bồ Tát lại bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Con nhớ trong vô lượng kiếp ở đời quá khứ , trì Pháp Môn Đà Là Ni này ở trong núi Bố Đát La (Potala) liền gặp Ma Vương thống lãnh các Ma chúng gây não loạn Pháp của con khiến cho Chú cú (câu chữ của Thần chú) chẳng thành. Lúc ấy, con dùng Pháp của Đà La Ni này giáng phục làm cho Ma ấy thảy đều lui tan, nên biết sức của Đà La Ni này chẳng thể nghĩ bàn được”.
Khi đó, Quán Thế Âm Bồ Tát dùng Từ Bi vì lợi ích an vui cho Trời, Người liền nói Mẫu Đà La Ni Pháp Căn Bản Đại Thân Chú (Dùng Tổng Nhiếp Thân Aân sau)
1. Ná ma Tát la-bà nhược gia
2. Ná mô hát la đát-na đa la dạ dã
3. Ná mô A nhĩ đà bà gia, đát tha yết đa gia
4. A la ha đê, tam miểu tam bồ đà gia
5. Ná mô A lợi-gia bạt lộ chỉ đế
6. Thấp phộc la gia
7. Bồ đề tát đỏa gia
8. Ma ha tát đỏa gia
9. Ma ha ca lỗ ni ca gia
10. Ná mô ma ha Tát tha-ma ba-la bát-đa gia
11. Bồ đề tát đỏa gia
12. Ma ha tát đỏa gia
13. Ma ha ca lỗ ni ca gia
14. Ná mô tỳ bổ la tỳ ma na
15. Tố bát-lạt để sắt-xỉ đa
16. Tăng khí gia tố lợi-gia xá đa, sa ha tát-la A đê lợi ca
17. Bát-la bà, a phộc bà tất đa mộ lật-đát duệ
18. Ma ha mạt ni, ma củ tra, quân trà la, đà lật nê
19. Bạc già phạt để, bát đầu-ma ba noa
20. Duệ tát la-bà lộ ca, a bả gia
21. Xa ma na gia
22. Tỳ tỳ đà độc khư tam ma tỳ xá phệ sắt-tra
23. Tát bà tát đỏa, bả lý mộ giả na gia
24. Đát điệt tha
25. Án
26. Bộ bộ bà
27. Ma ha lộ ca yết la noản na
28. Na đá ma
29. Tất-để nhĩ la
30. Bát tra la
31. Tỳ na xá na, ca la gia
32. La già-trụy xa , ma ha mộ ha xà la
33. Xa ma ca
34. Xa bà ca
35. La cật xoa ca
36. Tát bà ba gia, đột lợi-yết để
37. Bát la xá ma ca na, yết la gia
38. Tát bà đát tha yết đá
39. Tam ma phộc đà
40. Na yết la, hề hề
41. Ma ha bồ đề tát đỏa, phộc la đà
42. Bát đầu-ma, lộ ca, tam bộ đà
43. Ma ha ca lô ni ca
44. Chiết tra ma củ tra, lăng cật lật-đá
45. Xá lợi lan ma ni yết na ca la xà đá, bạt chiết-la phệ trụ lị gia
46. Lăng cật đa, xá lợi la
47. A nhĩ đá, bà thị na
48. Ca ma la, lăng cật-lật đá
49. Bát-la bà la na la na la lý giả na
50. Ma ha xã na na la na lợi
51. Xá đá sa ha tát-la, a tỳ la sử đá ca gia
52. Ma ha bồ đề tát đỏa
53. Tỳ đà ma, Tỳ đà ma
54. Tỳ na xá gia, Tỳ na xá gia
55. Ma ha diễn đổ-lỗ cật-lệ xa ca bà tra bà bạn đá tăng sa la ca ba la
56. Ba la ca-la ma tha na
57. Bố lô sa, bát đầu-ma
58. Bố lô sa, na già
59. Bố lỗ sa, sa già la
60. Tỳ la, Tỳ la xà gia
61. Tố đản đa, tố đản đá
62. Bát lý phiệt-lý đa
63. Đà ma, đà ma
64. Ta ma, ta ma
65. Độ lô, độ lô
66. Bát-la xa tát gia
67. Bát-la xa tát gia
68. Kỳ ly, kỳ ly
69. Tỳ ly, Tỳ ly
70. Chỉ ly, Chỉ ly
71. Mẫu lô, mẫu lô
72. Mẫu dữu, mẫu dữu
73. Muộn già, muộn già
74. Độ na, độ na
75. Tỳ độ na, tỳ độ na
76. Độ lỗ, độ lỗ
77. Già gia, già gia
78. Già đà gia, già đà gia
79. Hát sa, hát sa
80. Bát-la ha sa, bát-la ha sa
81. Tỳ tỳ đà
82. Yết-lệ xa
83. Phộc tát na ma ma tả (Tôi tên là …)
84. Hà la, hà la
85. Tăng hà la, tăng hà la
86. Đổ lỗ trưng
87. Đổ lỗ trưng, ma ha mạn trà la
88. Ca la noa
89. Xá đá bát-la tế ca
90. Bá bà sa
91. Tỳ sa na, xá ma ca
92. Ma ha bồ đề tát đỏa
93. Bá la đà
94. Toa ha
Đà La Ni này tên là: “Bạc Già Phạm Liên Hoa Thủ Nghiêm Sức Bảo Trượng”.Đức Thế Tôn ở Điện Đại Kim Cương Hoan Hỷ nói, vì Tôn Thắng Bồ Tát với nơi khen ngợi của vô lượng Trời, Rồng, Khẩn Na la … đều tồi hoại núi nghiệp chướng rộng lớn.Nếu có người được nghe, hoặc đọc hoặc tụng Đà La Ni này thì hết thảy tất cả nghiệp chướng phiền não của người này đều được tiêu diệt.
Nếu có người vào buổi sáng, buổi chiều sinh tâm tôn trọng tụng Đà La Ni này, thường được Quán Thế Âm Bồ Tát luôn luôn tùy theo ủng hộ người đó, mọi việc suy nghĩ đều được thành tựu, nếu có điều cầu nguyện sẽ khiến được thành tựu. Nên ngồi riêng ở nơi yên lặng, tâm nhớ Quán Thế Âm Bồ Tát không duyên nơi khác, tụng Đà La Ni này 7 biến thì không có nguyện nào mà chẳng được quả. Lại được tất cả chúng sinh yêu thích, chẳng bị đọa vào tất cả các nẻo ác. Hoặc ngồi, hoặc đi, hoặc đứng thường niệm Phật như đối trước mắt thì hết thảy các tội nghiệp ác mà người ấy đã gom chứa trong vô lượng trăm ngàn câu chi đời đều được tiêu diệt. Người đó thường được đầy đủ phước của một ngàn vị Chuyển Luân Vương. Đời đời được ở cùng với Quán Thế Âm Bồ Tát, đồng thời được sinh ra ở nhà Quý Tính (Tôn quý).
Nếu đem một bụm đầy hương hoa rải tán ở trước Quán Thế Âm Bồ Tát, tụng Đà La Ni này 7 biến sẽ được Đại Thiên Công Đức Đại Bi Pháp Tính. Người ấy ở thế gian được thành tựu đại lực.
Nếu chí tâm nhìn vào mặt Quán Thế Âm, tụng Đà La Ni này liền được thấy tướng mỉm cười của Quán Thế Âm Bồ Tát. Nhìn thấy rồi liền được Địa Ly Cấu. Hay chiếu diệu thế gian. Tức ở đời này thường được thấy Phật. Lúc lâm chung như vào Thiền Định, đời đời sinh ra đều được Túc Mệnh Trí, hết thảy tội chướng đều được tiêu diệt.
Nếu muốn thọ trì Đà La Ni này, nên vào ngày 15 của kỳ Bạch Nguyệt (15 ngày đầu của tháng), thọ trì 8 Giới Trai , mặc áo trắng sạch, ở trước nơi có Tháp Xá Lợi với nơi có Xá Lợi, trước mặt chư Phật thì mới được làm. Dùng Bạch Đàn làm Đàn (Mài Bạch Đàn ở trên đá , lấy bụi nhỏ, dùng xoa tô mặt đất). Lấy mọi thứ hoa rải bên trong Đàn ấy, đốt hương thắp đèn trước tượng Phật. Ở chỗ của Phật, sinh tâm cung kính thì Quán Thế Âm Bồ Tát đi đến vào trong Đàn ấy, nên tụng Đà La Ni này 108 biến thì hết thảy tất cả tội chướng, tội nặng 5 nghịch của người ấy đều được tiêu diệt. Nghiệp Thân, Khẩu, Ý đều được thanh tĩnh. Được Phật Tam Muội Lực, Quán Đỉnh Lực, Ba La mật Địa Lực, Thù Thắng Trí Lực thảy đều thành tựu.
Nếu cầu mưa thời nên nhìn lên trời, tụng Đà La Ni này thì nước mưa ngọt ứng thời tuôn xuống.
Nếu ngó xuống đất, tụng Đà La Ni này hay khiến cho trăm giống lúa (Bách cốc) đều được thành thục.
Nếu ở bên cạnh ao, sông, suối khô cạn, tụng Đà La Ni này thì nơi ấy lại được tràn đầy nước.
Nếu bị tất cả bệnh hoạn , nên tụng Đà La Ni này, dùng tay xoa lên liền được trừ khỏi bệnh.
Ở bên cạnh người bị mất niệm, tụng Đà La Ni này thì được Chính Niệm trở lại.
Nếu ở bên cạnh người đói khát, nên nhìn vào mặt người đó, tụng Đà La Ni này thì hết thảy đói khát thảy đều trừ diệt.
Nếu muốn kết Giới, nên vào trong nước ao, viết Đà La Ni này, cột buộc trên cây phướng thì trong một trăm Do Tuần không có các sự suy kém tai họa. Tức thành kết Giới, ủng hộ thành tựu.
Thứ nhất: Tổng Nhiếp Thân Ấn
Trước hết, đứng thẳng, thân ngay ngắn, 2 bàn chân đứng ngang bằng nhau, hơi cong bàn chân phải một chút. Duỗi bàn tay trái xuống dưới, co ngón giữa và ngón vô danh dính nhau trong lòng bàn tay. Duỗi bung ngón út, ngón trỏ, ngón cái. Ngửa lòng bàn tay hướng lên trên. Tiếp theo tay phải cũng như thế, co khuỷu tay sao cho bắp tay ngang rốn, hướng lòng bàn tay về phía trước. Đây là Tổng Nhiếp Thân Ấn.
Nếu muốn giáng phục Ma Oán với các Ngoại Đạo, Tà Kiến, Trù Lâm … khiến vào Chính Đạo thì nên tác Aán này, tụng Đà La Ni 21 biến ắt như ước nguyện
Chú là:
Nam mô hạt-la đát-la dạ gia (1) Na mô A lợi-gia (2) bà lộ cát đế nhiếp-phạt la gia (3) Bồ đề tát đỏa bả gia (4) ma ha tát đỏa bả gia (5) ma ha ca lỗ ni ca gia (6) Đát điệt tha (7) A bạt đà, A bát đà (8) bạt lợi bạt đế (9) nhân hề di hề (10) toa ha (11)
NAMO RATNATRAYÀYA
NAMAHÏ ÀRYA AVALOKITE’SVARÀYA BODHISATVÀYA MAHÀSATVÀYA, MAHÀ KÀRUNÏIKÀYA
TADYATHÀ: ABÀDHA, ABÀDHA – PARIPATI EHYEHI – SVÀHÀ
Thứ hai: Tổng Trì Đà La Ni Ấn
Dựa theo Thân Ấn bên trên, chắp tay để ngang trái tim, đem 5 ngón tay cài chéo nhau, bên trái đè bên phải, dựng thẳng hai ngón trỏ dính đầu nhau, 2 ngón cái phụ đè trên vạch thứ nhất của ngón trỏ, hơi mở lòng bàn tay. Ấn này tên là Tổng Trì Đà La Ni Pháp.
Nếu có người tác Ấn này , tụng Chú 21 biến sẽ hay diệt trừ nghiệp chướng của vô lượng kiếp sinh tử . Ngày sau vãng sinh về Tĩnh Thổ ở 10 phương. Khi xưa Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai lúc sắp thành Đạo bị Ma Vương quấy nhiễu, Ngài tác Tổng Trì Đà La Ni Ấn này mà được Thiền Định
Chú là:
Đá điệt tha: Tát bà đà la ni (1) mạn trà la gia (2) nhân hề di hề (3) bát-la ma du đà (4) tát đá bả gia (5) toa ha
TADYATHÀ: SARVA DHÀRANÏÌ MANÏDÏALÀYA EHYEHI PARAMA‘SUDDHA SATVÀYA - SVÀHÀ
Thứ ba: Giải Thốt Thiền Định Ấn
Trước tiên, trật áo hở vai phải, quỳ gối phải sát đất, chắp tay để trên đỉnh đầu, co 2 ngón trỏ dính đầu ngón, 2 ngón cái phụ trên vạch thứ hai của ngón trỏ. Ấn Pháp này tên là: Giải Thốt Thiền Định Ấn.
Chư Phật Quá khứ đồng tu Pháp này mà được Thiền Định giải thốt, đồng với Chú trước.
Thứ Tư: Thiên Nhãn Aán Chú
Đứng thẳng, hai chân song song nhau. Trước tiên đem 2 ngón giữa, ngón vô danh, ngón út đều để lưng móng của ngón dính nhau. Dựng thẳng 2 ngón trỏ dính nhau, 2 ngón cái đặt nghiêng trên vạch thứ hai của ngón trỏ, mở cổ tay khoảng 5 thốn, đặt ở my gian (Tam Tinh). Đây gọi là Thiên Nhãn Ấn.
Tác Ấn Chú Pháp Môn này liền được quán thấy quốc thổ tĩnh diệu của chư cõi Phật trong trăm ngàn vạn ức thế giới. Mỗi một cõi Phật đều được trăm vạn bốn ngàn Bồ Tát cùng làm bạn lữ với Hành giả.
Nếu chưa trải qua 3 Mạn Trà La ắt chẳng được nhìn thấy Ấn Pháp Môn này .Thầy Thông tác Pháp ấn này, Thân nghiệm được Bồ Tát ban cho Trí Thông. Phàm có ước nguyện thảy đều mãn túc.
Chú là:
Aùn (1) Tát bà chước-sô già la gia (2) đà la ni (3) Nhân địa lợi gia (4) toa ha(5)
OMÏ - SARVA CAKSÏU GARJA DHÀRANÏI INDRÌYA – SVÀHÀ
Thứ năm: Thiên Tý Tổng Nhiếp Ấn
Đứng thẳng, hai chân song song nhau. Ngửa lòng bàn tay phải, 5 ngón đều phụ nhau. Sau đó ngửa lòng bàn tay trái đè trên lòng bàn tay phải rồi để chạm dính trái tim. Đây gọi là: Tổng Nhiếp Thiên Tý Ấn.
Ấn này hay giáng phục Ma ốn trong ba ngàn Đại Thiên Thế Giới.
Chú là:
Đát điệt tha (1) Bà lô chỉ đế (2) nhiếp phạt la gia (3) Tát bà đột sắt tra (4) ô ha, gia di (5) toa ha (6)
TADYATHÀ: AVLOKITE’SVARÀYA SARVA DUSÏTÏA UHA MIYA SVÀHÀ
Thứ sáu: Thông Đạt Tam Muội Ấn
Đứng thẳng, hai chân chạm nhau. Trước tiên dựng 5 ngón tay trái cùng nắm nhau, cong khuỷu tay hướng về phía trước nâng đỡ. Tiếp theo, tay phải cũng vậy. Co khuỷu tay hướng vào bên trong nâng đỡ . Đây gọi là Thông Đạt Tam Muội Ấn.
Ấn này hay khiến cho thông đạt tất cả Tam Muội Trí Ấn, trang nghiêm tám vạn bốn ngàn Pháp Môn đều nhân theo Pháp này mà được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề (Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác). Dùng Đại Thân Chú lúc trước.
Thứ bảy: Hô Triệu Thiên Long Bát Bộ Quỷ Thần Tập Hội Ấn
Đứng thẳng, 2 chân song song nhau. Trước tiên tay trái lấy ngón vô danh vịn trên móng ngón cái. Tiếp theo, tay phải cũng như vậy, dựng thẳng 2 ngón út và ngón giữa dính đầu nhau, hợp cổ tay, đưa ngón trỏ qua lại.
Chú là:
Aùn (1) Tát bà đề bà, na già (2) A na lợi (3) toa ha (4)
OMÏ - SARVA DEVA NÀGA ANALE - SVÀHÀ
Thứ tám: Hô Triệu Đại Phạm Thiên Vương cập (và) Kiều Thi Ca lai vấn (đến hỏi) Pháp Ấn
Dựa theo Ấn bên trên, mở cổ tay để cạnh tay dính nhau, ngửa lòng bàn tay, đưa ngón trỏ qua lại.
Chú là:
Aùn (1) Ma ha phạm ma gia (2) nhân hề di hề (3) toa ha (4)
OMÏ - MAHÀ BRÀHMÀYA EHYEHI – SVÀHÀ
Pháp Ấn chú này hay nhiếp vô lượng vô số Đà La Ni Ấn Pháp Môn thảy đều đến tập hội. Nếu vào lúc Nhật Nguyệt Thực, chú vào bơ 21 biến, dùng Ấn ấn lên bơ rồi ăn vào sẽ khiến cho người thông minh, một ngày tụng vạn bài kệ.
Ấn Pháp Môn này do Nhật Tạng Như Lai (Sùrya Garbha Tathàgata) truyền cho Quán Thế Âm Bồ Tát.
Thứ chín: Hoan Hỷ Ma Ni Tùy Ý Minh Châu Ấn
Đứng thẳng, chắp tay để ngang trái tim, co 2 ngón cái song song vào trong lòng bàn tay, duỗi thẳng 4 ngón còn lại, chắp tay để ngang trái tim. Tụng Đại Thân Chú lúc trước 21 biến ắt quyết định được vào cung điện của chư Thiên, dạo chơi các quốc thổ của Phật ở 10 phương, trăm ngàn trân bảo tùy theo tâm đều được cúng dường chư Phật, Bồ Tát, Kim Cương, tất cả Thánh chúng.
Nếu có người hay tác Pháp Môn này, vào lúc sáng sớm thức dậy, tắm gội sạch sẽ, tác Ấn Pháp này sẽ nhìn thấy chư Phật trong hằng hà sa quốc thổ ở mười phương, diệt trừ nghiệp ác tội nặng trong sinh tử thuộc vô lượng kiếp sau. Chính vì thế cho nên khen ngợi công đức như vậy.
Thứ mười: Khất Nguyện Tùy Tâm Ấn
Dựa theo Ấn trước, co 2 ngón trỏ đè trên móng 2 ngón cái sao cho lưng móng của ngón trỏ dính nhau. Dùng Thân Chú lúc trước.
Nếu có người tùy theo ước nguyện mong cầu đều được mãn túc, quyết định chẳng thối Đạo Bồ Đề.
Thứ mười một: Nhập Diệt Tận Định Tam Muội Ấn
Dựa theo Ấn trước, duỗi thẳng và bung ngón trỏ giữ ngón cái rồi mở lòng bàn tay.
Ấn này, lúc Ta (Quán Thế Âm Bồ Tát) ở tại Nhân Địa có hằng hà sa chư Phật trao cho Ta Pháp này khiến cho Ta chứng đạo Bồ Đề. Tụng Đại Thân Chú lúc trước
Thứ mười hai: Thỉnh Phật Tam Muội Ấn
Dựa theo Ấn trước, chắp tay để ngang trái tim, đưa ngón trỏ qua lại.
Chú là:
Aùn (1) Tát bà bột đà tam ma gia (2) nhân hề di hề (3) Bát-la ma du đà tát đỏa (4) toa ha (5)
OMÏ - SARVA BUDDHA SAMAYA – EHYEHI PARAMA‘SUDDHASATVA – SVÀHÀ
Thiên Nhãn Thiên Tý Quán Thế Âm Bồ Tát Thập trửu (10 khuỷu tay) Mạn Trà La Pháp Môn
Phàm lúc tác tất cả Mạn Trà La Pháp Môn thời cẩn thận khảo xét bản Phạn là:
“Quốc thổ này không có đất làm Mạn Trà La. Như nước Thiên Trúc kia đều lấy đất phước Đức Thắng Thượng dùng làm Đàn Trường. Riêng nước Bà La Môn có phương pháp chọn đất chẳng thể rộng nói”
Nếu luận theo đất Hán (Trung Quốc) Bậc nhất là nơi nhàn tỉnh ở núi non, nơi có hình thế trên đỉnh núi: Đào đất bỏ gạch đá với sành sứ, vật ác… xong rồi bắt đầu làm cho bằng phẳng (bình trị). Lấy Cù Ma Di hòa với hương xoa tô mặt đất rộng khoảng 1 trượng 6 thước, quá lắm là 20 ngón tay cho đến 16 ngón tay, 1 khuỷu tay làm thắng thượng. Thứ nhất lấy Hương Bạch Chiên Đàn mài trên đá rồi dùng bụi nhỏ xoa tô trên Mạn Trà La, dùng phấn Ngũ sắc vạch giới hạn.
Đàn ấy mở bốn cửa:
Cửa Đông đặt Đề Đầu Lại Tra Thiên Vương (Dhrïta Ràsïtïra Deva Ràja – Trì Quốc Thiên Vương)
Cửa Nam đặt Tỳ Lâu Lặc Xoa Thiên Vương (Virùdïhaka Deva ràja – Tăng Trưởng Thiên Vương)
Cửa Tây Đặt Tỳ Lâu Bác Xoa Thiên Vương (Virùpàksïa Deva Ràja – Quảng Mục Thiên Vương)
Cửa Bắc đặt Tỳ Sa Môn Thiên Vương (Vai’sravanïa Deva Ràja – Đa Văn Thiên Vương)
Tiếp theo đặt để Thiên Vương (Deva Ràja) ở bên phải, bên trái kèm với quyến thuộc đều ở Bản vị.
Chính giữa Mạn Trà La ấy đặt trượng Thiên Nhãn Thiên Tý Quán Thế Âm Bồ Tát (Sahasra Netre Sahasra Bhùja Avalokite‘svara Bodhisatva). Trước tượng để cái bàn (Án), trên bàn đặt Chú Pháp. Đốt mọi loại hương, đặt bày mọi thức ăn uống, rải mọi loại hoa dùng để chúng dường, chỉ trừ vật tạp, vật hôi tanh (Huân tân), rượu thịt
Từ ngày khác riêng làm hương, vật cúng mới, hoa, quả trái. Ở trước tượng để Tam bạch thức là sữa, lạc, Tô Mật. Đốt Đàn Hương, Trầm Hương, Tô Hợp hương, Long Não hương. Mỗi ngày ba thời tắm gội, thọ ba Luật Nghi. Chí tâm tụng chú cúng dường Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát (Sahasra Netre Avalokite’svara Bodhisatva). Sáng sớm, giờ Ngọ, buổi chiều cúng dường ngày ngày chẳng gián đoạn. Như vậy cho đến 21 ngày tận ý cúng dường
Chú Sư ấy hướng mặt về phương Đông tụng Chú. Kết Ấn từ ấn thứ nhất, ấn thứ hai cho đến ấn thứ mười hai “Thỉnh Phật Tam Muội Ấn” Tác Ấn lúc trước một lần, tụng Chú bảy biến cho đến Ấn thứ mười hai thì xong. Nên tự phát chẳng thối lui, bền chắc. Ý chỉ tác Pháp Hô Triệu thì tất cả đều đến, khiến phát Tâm Bồ Đề quyết định.
Ngồi ngay thẳng tưởng tất cả Chú Thần ở ngay trước mắt, một lần không có chướng nạn chẳng được cảnh khác Tụng Đại Thân Chú lúc trước mãn 1.080 biến.
Bấy giờ Quán Thế Âm Bồ Tát hóa hiện ra thân tướng diện mạo của A Nan (Ananda) đến hỏi Hành giả: “Tu theo Pháp nào? Cầu nguyện điều gì?”
Hành giả thưa rằng: “Vì cầu Pháp Đà La Ni của Bồ đề Vô Thượng”
Lại nguyện cho tất cả Pháp Đàn thảy đều thành tựu, tất cả Quỷ Thần thảy đều thuận phục. Được như nguyện rồi chỉ tự biết thôi chẳng được hướng về người mà truyền nói.
Lại có Pháp. Nếu muốn được cầu tất cả nguyện nên làm Pháp Thủy Mạn Trà La (Thủy Đàn – Đàn hình tròn) rộng 4 khuỷu tay, đốt Trầm Thủy Hương, tụng Thân Chú lúc trước 108 biến, tác Khất Nguyện Ấn thứ mười lúc trước, liền được tất cả như nguyện, đầy đủ xứng tâm
Lại có Pháp: nếu muốn được tất cả sự vui vẻ, kết Hoan Hỷ Ma Ni Tùy Ý Minh Châu Ấn thứ chín lúc trước, tụng Thân Chú, chú vào Ô Ma 21 biến rồi thiêu đốt trong lửa, liền được như ý, đắc được vui vẻ như ý xứng tâm
Lại có Pháp. Nếu muốn khiến cho Hạt-la xà (Ràja – Vua chúa) vui vẻ nên lấy cành cây trong vườn của Hạt-la xà chú vào 21 biến rồi ném đặt trong vườn, liền đựơc vui vẻ.
Lại có Pháp. Nếu muốn giáng phục người ác, oan gia. Nên chú vào cây Khổ Luyện 21 biến , một lần chú thì một lần thiêu đốt, liền được quy phục.
Lại có Pháp. Nếu có Thần Quỷ, kẻ khó điều phục. Lấy An Tất Hương với hạt cải trắng, chú vào 21 biến rồi ném vào trong lửa thiêu đốt thì tất cả Thần Quỷ, lồi gây bệnh tự nhiên hàng phục.
Nếu có bệnh dịch lưu hành, nên làm Thủy Mạn Trà La rộng bốn khuỷu tay. Lấy Ngưu Tô tốt, chú 108 biến rồi thiêu đốt trong lửa thì tất cả tai dịch thảy đều tiêu diệt. Lại lấy chút ít bơ (Tô) cho người bị bệnh dịch ăn thì lập tức khỏi bệnh.
Xưa kia, nước Kế tân có bệnh dịch lưu hành, người bị bệnh chẳng qua khỏi một, hai ngày đều chết. Có vị Bà La Môn Chân Đế khởi tâm Đại Bi, dùng Pháp này cứu chữa một nước tức thì bệnh dịch liền được tiêu diệt. Lúc đó Hành bệnh Quỷ Vương ra khỏi quốc cảnh , nên biết có hiệu nghiệm vậy.
Lại có Pháp. Nếu nước khác xâm nhiễu, giặc cướp nghịch loạn khởi dậy. Tác Ấn thứ nhất lúc trước “Tổng Nhiếp Thân Ấn”, chú 108 biến thì tất cả giặp cướp tự nhiên bị diệt hết
Lại có Pháp. Nếu tất cả chúng sinh bị nghiệp báo, mệnh căn đã hết. Tác “Diệt Tận Định Ấn” lúc trước, ngày ngày cúng dường, đốt Trầm Thủy Hương, tụng chú mãn 1.080 biến, liền chuyển được nghiệp chướng ấy.
Xưa kia, nước Ba La Nại có vị Trưởng giả chỉ có 1 đứa con mà tuổi thọ chỉ được 16 năm. Đến năm thứ 15, có 1 vị Bà La Môn đi đến cửa xin ăn nhìn thấy Trưởng Lão ấy buồn rầu chẳng vui, vợ chồng tiều tụy mặt không được sáng sủa. Vị Bà La Môn hỏi rằng:
“Trưởng Lão! Vì sao ông chẳng vui?”
Vị Trưởng lão nói rõ nhân duyên ,Bà La Môn đáp rằng:
“Trưởng Lão chẳng nên buồn rầu. Hãy để Bần Đạo xử phân cho đứa con được sống lâu dài”
Lúc ấy, vị Bà La Môn tác Pháp Môn này một ngày một đêm õ được vua Diêm La (Yama Ràya) báo cho biết “Tuổi thọ của con Trưởng Lão chỉ có 16 năm. Giờ đã là năm thứ 15, chỉ còn 1 năm nữa. Nay gặp duyên lành sẽ được thọ đến năm 80, nên đến báo cho biết”.
Khi ấy vợ chồng Trưởng Lão hớn hở vui vẻ, đem tiền của trong nhà, cấp thí cho Tăng chúng của Phật Pháp. Nên biết Pháp này có đầy đủ đại thần nghiệm chẳng thể luận bàn.
Người đã từng vào trong Đại Đô Hội Tam Mạn Trà La Kim Cương Đại Đạo Trường thì chẳng cần làm Mạn Trà La. Chỉ cần kết Ấn, tụng Chú ắt không có nguyện gì chẳng được quả và mau chóng thành Phật.
Lại có Pháp. Nếu có người nữ lúc sinh đẻ chịu khổ não lớn, chú vào bơ 21 biến rồi cho ăn ắt quyết định được an vui. Sinh ra trai gái có đủ đại tướng hảo, mọi thiện trang nghiêm. Do đời trước gieo trồng cội Đức khiến cho người kính yêu, thường ở trong cõi người thọ nhận khối lạc thù thắng.
Lại có Pháp. Nếu có chúng sinh bị đau mắt. Dùng Bồ Tát Thiên Nhãn Ấn, chú 21 biến, đem Ấn ấn lên mắt thì con mắt liền khỏi bệnh. Dùng đại nhân duyên này làm cho người ấy đắc được Thiên Nhãn (Devya Caksïu), ánh sáng chiếu suốt nhìn thấy chư Thiên của cõi Trên, thọ hưởng khối lạc thù thắng.
Lại có: Pháp vẽ tượng Thiên Nhãn Thiên Tý Quán Thế Aâm Bồ Tát
Xem xét bản Phạn cẩn thận. Tạo Tượng đều dùng vải trắng tốt, rộng 10 khuỷu tay , đây khoang một trượng sáu thước, dài 20 khuỷu tay , đây khoảng ba trượng hai thước. Thân Bồ Tát làm màu Đàn Kim, mặt có 3 con mắt, 1.000 cánh tay trong mỗi một bàn tay đều có một con mắt. Trong màu vẽ chẳng được dùng keo nấu bằng da thú. Dùng hương, sữa hòa với màu vẽ. Đầu Bồ Tát đội Thiên Quan bằng 7 báu, thân đeo Anh lạc.
Lại có 1 bản ghi rằng: Nếu nơi này không có vải trắng tốt rộng như vậy, có thể lấy một mảnh lụa trắng vẽ thân Bồ Tát dài 5 tấc, có 2 cánh tay.
Y theo Ấn thứ năm Thiên Tý Ấn Pháp cúng dường cũng được, không cần ngàn mắt ngàn tay. Đây cũng y theo bản Phạn, chỉ có trên trán Bồ Tát vẽ một con mắt liền được.
Nếu muốn cúng dường Pháp Môn này. Trước hết, nên vẽ tượng. Pháp vẽ tượng ấy nên làm một Mạn Trà La như Pháp. Khiến người thợ vẽ thọ 8 Giới trai, ra vào nhà cầu một lần thì tắm rửa một lần.
Khi làm xong tượng đó, người thợ vẽ với Chú Sư lo sợ chẳng được như Pháp thì đối trước tượng sám hối tội lỗi. Liền đem tượng để trong Đàn, nên tác Pháp bày biện cúng dường rộng lớn, đầy đủ 21 ngày. Tượng Thiên Nhãn Tý Thiên Tý Quán Thế Âm Bồ Tát iền phóng ra ánh sáng lớn vượt hơn mặt trời, mặt trăng. Vô lượng vô biên chiếu khắp ba ngàn Đại Thiên Thế Giới thảy đều rất sáng. Tất cả tội nặng cực lớn của chúng sinh được tiêu diệt trong một thời, đều được thanh tịnh. Người tác Pháp này chỉ trừ kẻ chẳng chí tâm.
Pháp Tượng Thiên Nhãn Thiên Tý Quán Thế Aâm Bồ Tát ấy vào đời quá khứ , Đức Tỳ Bà Thi Phật cũng hiện làm thân Hàng Ma, trong một ngàn con mắt mỗi mắt tuôn ra một vị Phật để làm một ngàn vị Phật đời Hiền Kiếp, một ngàn cánh tay mỗi cánh tay đều hóa ra một vị Chuyển Luân Vương (Cakrvarttin) làm một ngàn vị Đại Chuyển Luân Thánh Vương. Trong Thân Hàng Ma của Bồ Tát thì Thân này là tối thượng bậc nhất.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Quán Thế Âm Bồ Tát: “Ta dùng Thần lực của Phật, dù đến cùng kiếp rộng nói cũng chẳng thể hết được”.
Khi ấy Quán Thế Aâm Bồ Tát nghe Đức Phật nói xong thời vui vẻ, tin nhận, làm lễ rồi lui ra
Quán Đỉnh Aán:
Thoạt tiên co hai ngón cái vào trong lòng bàn tay vịn ngón vô danh sao cho lóng giữa của ngón vô danh cùng chung lưng, hai ngón út cùng dình đầu ngón, dựng thẳng hai ngón giữa cùng dính đầu ngón, đều co hai ngón trỏ vịn trên lưng ngón giữa.
Liền nói Chú là:
Aùn (1) Bộ, tam mạt la (2) tô ma diêm, toa ha
OMÏ BHÙHÏ SMARA SOMÀYAMÏ SVÀHÀ
Tụng Chú 21 biến, tự rưới rót đỉnh đầu , lại quay trở lại như cũ
Nếu muốn hiệu nghiệm liên tục, mỗi ngày vào buổi sáng, ở trên bồn kết Aán tụng Chú. Người trì Chú phạm dâm dục với ô uế của nhóm Ngũ Tân thì nên tụng Chú này để giải. THIÊN NHÃN THIÊN TÝ QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
ĐÀ LA NI THẦN CHÚ KINH
_QUYỂN THƯỢNG (Hết)-
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.148.115.51 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.