Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
Phẩm 23: CA NGỢI
Bấy giờ, Đức Phật nói với các vị Tỳ-kheo:
-Lúc đó Thiên tử cõi trời Tịnh cư dùng thiên hương, thiên hoa vi diệu tung rải khắp Bồ-đề tòa, ca ngợi công đức chân thật của Phật, Thế Tôn qua bài kệ:
Phiền não che chúng sinh
Dùng trí tuệ diệt trừ
Như Lai hiện ở đời
Bậc sáng soi trần thế
Hàng phục quân ma oán
Công đức đều trọn đầy
Sẽ chuyển mưa pháp lớn
Nhuần thắm khắp quần sinh
Bậc Tối Thắng cõi đời
Trí lực không ai sánh
Tùy thuận không đắm nhiễm
Như hoa sen trong lành
Chúng sinh trong đêm tối
Phiền não luôn buộc ràng
Phật Bậc Đại Y Vương
Mọi bệnh đều trị dứt
Như Lai hiện cõi thế
Tám nạn đều sạch không
Tất cả chúng Thiên nhân
Gặp Phật mong an lạc
Nếu có người được thấy
Đại trượng phu giữa trần
Trải qua hàng trăm kiếp
Không đọa cõi ác nhân
Nếu có người gặp Phật
Nghe pháp diệu thậm thâm
Phiền não liền tiêu trừ
Gốc khổ cũng dứt sạch
Sẽ được quả thù thắng
Giải thoát vui Niết-bàn
Trong khắp cõi thế gian
Ngài là Bậc Ứng Cúng
Nếu có người khuyến cúng
Cũng đạt nhiều phước lành
Sẽ được quả thắng diệu
Thẳng tới bờ Chánh giác.
Đức Phật nói với các vị Tỳ-kheo:
-Vị Thiên tử cõi trời Tịnh cư ca ngợi Như Lai xong liền chắp tay cung kính đứng qua một bên. Lúc ấy Thiên tử Biến Quang lại dùng hương hoa vi diệu, hương xoa hương tán hương đốt, tung hoa cùng cờ phướn bảo cái cúng dường Như Lai, đi nhiễu quanh ba vòng rồi chắp tay hướng về Đức Phật đọc bài kệ:
Mâu-ni tuệ, ngữ đều viên mãn
Chứng được pháp Bồ-đề đại giác
Trong mọi âm thanh là đứng đầu
Do vậy chúng con nay kính lễ
Khởi tâm từ bi vì thế gian
Làm ngọn đèn sáng, nơi nương tựa
Nhổ sạch mọi nọc độc cho đời
Bậc Đại Y vương cho vạn thế
Thế Tôn xưa gặp Phật Nhiên Đăng
Phát đại Từ bi cứu chúng sinh
Như đóa sen tịnh giữa trần thế
Ở trong ba cõi, bùn không nhiễm
Tâm luôn kiên định không thoái chuyển
Cao rộng vững vàng như Tu-di
Như thể kim cương không thể hoại
Như trăng tròn sáng giữa trời thu.
Đức Phật nói với các vị Tỳ-kheo:
-Thiên tử Biến Quang ca ngợi Như Lai xong liền chắp tay cung kính đứng qua một bên. Bấy giờ Thiên tử Phạm Chúng dùng vô lượng ngọc báu Ma-ni, lưới báu trang nghiêm che phủ khắp Bồ-đề đạo tràng để cúng dường Thế Tôn, rồi đảnh lễ ngang chân Phật, đi nhiễu quanh theo phía phải ba vòng và đọc bài kệ:
Thế Tôn trí tuệ luôn ngời sáng
Cùng đủ ba mươi hai tướng hảo
Niệm tuệ công đức thấy tròn đầy
Xa lìa kết sử mọi tội ác
Thanh tịnh dứt nhiễm trừ ba độc
Do thế chúng con nay lễ kính
Chứng đắc ba minh danh vang khắp
Ba cửa giải thoát dìu chúng sinh
Điều phục tâm gạn mọi nhơ uế
Khởi đại Từ bi độ cõi thế
Ba nghiệp tịnh thanh hiện cõi trần
Dứt trừ hai nghi không tham đắm
Nêu gương cho đời tu khổ hạnh
Thuyết Tứ Thánh đế độ chúng sinh
Siêng tu hạnh lành, hạnh tối thắng
Tự độ viên mãn rồi độ tha
Ma vương kéo đám ma binh đến
Chỉ dùng từ bi mà hàng phục
Đã đạt Bồ-đề cam lộ pháp
Chúng con quy ngưỡng Đấng trọn lành.
Đức Phật nói với các vị Tỳ-kheo:
-Thiên tử Phạm Chúng hết lời ca ngợi Như Lai xong liền chắp tay cung kính đứng qua một bên. Lúc ấy con trai ma vương thuộc bộ Thanh bạch đến chỗ Thế Tôn dâng các bảo cái lớn và đẹp cúng dường Phât rồi đoc bài kệ:
Con đã thấy Như Lai
An tọa Bồ-đề tòa
Ma quân thật hùng hổ
An nhiên chẳng hãi kinh
Chỉ trong vòng một niệm
Hàng phục mọi ma quân
Đủ công đức như vậy
Con nay xin lễ kính
Tất cả đều viên mãn
Đại Mâu-ni vô thượng
Chúng ma đông vô số
Vẫn không hề lay động .
Từng vì đạo Bồ-đề
Vô lượng kiếp tu thí
Bố thí cả vợ con
Chân tay cùng thân mạng
Tất cả đều chẳng tiếc
Nên được mọi trang nghiêm
Thế Tôn phát nguyện lớn
Đạt được đạo vô thượng
Sẽ độ hết muôn loài
Định tuệ là giáp trụ
Pháp tịnh là thuyền bè
Ý lạc đều viên mãn
Hóa độ khắp chúng sinh
Con đem lòng hoan hỷ
Ca ngợi công đức Phật
Kính nguyện con đời sau
Được thành Vô thượng đạo
Lại đem công đức này
Hàng phục lũ quân ma
Mau chứng Nhất thiết trí.
Đức Phật nói với các vị Tỳ-kheo:
-Ma tử Thanh Bạch đọc bài kệ ca ngợi Như Lai xong liền chắp tay đảnh lễ cung kính đi nhiễu nhiều vòng và bước qua đứng một bên.
Lúc ấy Tha hóa tự tại Thiên vương cùng với vô số các vị Thiên tử đến nơi Bồ-đề tòa cung kính đi nhiễu quanh nhiều vòng, đem Diêm phù đàn kim hết sức quý giá cùng nhiều thiên hoa tung rải chỗ Như Lai ngồi và đọc bài kệ:
Pháp Như Lai thuyết đều chân thật
Công nhiên sáng tỏ, không tạp loạn
Xa lìa mê muội cùng tội nhiễm
Chứng đắc pháp cam lộ đại giác
Hào quang chiếu sáng khắp mười phương
Do vậy con nay xin đảnh lễ
Thế Tôn từ bi với tất cả
Thấu mọi căn cơ trừ tà đạo
Trí tuệ thù thắng không ai sánh
Muôn hạnh vi diệu soi muôn loài
Thần thông hiện hóa khắp hư không
Như đi trên đất không vướng mắc
Thấu rõ sinh tử ban tình thương
Tỏ khổ hư dối nên lìa bỏ
Đem lại an lạc cho người trời
Hóa độ cùng đưa đến giải thoát
Lợi ích mười phương như vầng dương
Như mắt sáng ngời của ba cõi
Là nơi nương tựa cho thế gian
Tâm Ngài chưa từng sinh đắm trước
Thần thông diệu dụng luôn tự tại
Là Bậc Tối Tôn trong cõi thế.
Đức Phật nói với các vị Tỳ-kheo.
-Tha hóa tự tại Thiên vương ca ngợi Như Lai xong cùng với Thiên chúng đảnh lễ đi nhiễu quanh nhiều vòng và đứng qua một bên. Lúc ấy Hóa lạc Thiên vương cùng với Thiên chúng đến chỗ Phật ngồi cung kính nhiễu quanh, dùng vô số vòng hoa, châu báu, gấm lụa đủ màu sắc cúng dường Như Lai và đọc bài kệ:
Như Lai ngời trí tuệ
Dứt sạch mọi cấu nhiễm
Phiền não đã diệt trừ
Thành tựu muôn điều tốt
Nhiều chúng sinh thế gian
Đắm theo tà, ngã mạn
Thế Tôn nay thâu nhiếp
Dần tới đạo diệu kỳ
Là Bậc Xuất thế gian
Trời, người đều cung kính
Trừ tận bệnh phiền não
Chính Bậc Đại Y vương
Nhật nguyệt, ngọc Ma-ni
Phạm vương cùng Đế Thích
Đem sánh với Thế Tôn
Mọi ánh sáng mờ hẳn
Được trí tuệ soi chiếu
An lành tỏa khắp trần
Mọi việc đều hy hữu
Nên con nay kính lễ
Thế Tôn tỏ mọi nghĩa
Hư vọng hay chân thật
Ở trong hai nẻo trên
Luôn dạy đúng chánh pháp
Ngôn từ thật thâm diệu
Tâm ý luôn hài hòa
Bậc Đạo Sư trời người
Nên con nay đảnh lễ
Thế Tôn Bậc Đại Trí
Thức tỉnh mọi chúng sinh
Ba minh, tám giải thoát
Năng trừ hết ba độc
Phân biệt theo căn cơ
Trao truyền pháp tương ứng
Đều tùy theo sở nguyện
Vì thế con kính lễ.
Đức Phật nói với các vị Tỳ-kheo:
-Hóa lạc Thiên vương đọc kệ ca ngợi Như Lai xong cùng với Thiên chúng đảnh lễ ngang chân Phật và đứng qua một bên. Bấy giờ Đâu-suất Thiên vương cùng với Thiên chúng đến Bồ-đề tòa cung kính nhiễu quanh chỗ Phật ngồi, dâng các loại Thiên y quý giá, lưới ngọc, lọng báu phủ che trên Phật và đọc bài kệ:
Từng ngự cung Đâu-suất
Rộng nói pháp thanh tịnh
Lời dạy nay vẫn truyền
Chư Thiên đều kính nhớ
Biển lớn công đức ấy
Đèn chiếu sáng cho đời
Chiêm ngưỡng không hề chán
Nên con nay đảnh lễ
Thế Tôn từ hiện thân
Tám nạn đều trừ dứt
Nay tọa Bồ-đề tràng
Thế gian được an lạc
Phật vì thương muôn loài
Khởi tâm đại Chánh giác
Hàng phục chúng oán ma
Chứng đắc đạo Vô thượng
Xin mau chuyển xe pháp
Giáo hóa độ quần mê.
Đức Phật nói với các vị Tỳ-kheo:
-Đâu-suất Thiên vương đọc kệ ca ngợi xong, liền đảnh lễ ngang chân Phật và đứng qua một bên. Lúc ấy Dạ-ma Thiên vương cùng với Thiên chúng đến Bồ-đề tòa cung kính nhiễu quanh, dùng vô số hương hoa, các thứ hương xoa, hương tán, cờ phướn, bảo cái cúng dường Phật và đọc bài kệ:
Phật Bậc Vô Thượng Sĩ
Giới Định Tuệ giải thoát
Thế gian không ai bằng
Nên nay con đảnh lễ
Con xem khắp Thiên chúng
Nơi Bồ-đề tràng này
Với bao đài gác báu
Cúng dường Đức Thế Tôn
Trời, người không một ai
Đáng lãnh thọ như thế
Phật xuất hiện vì đời
Bao tháng năm khổ hạnh
Hàng phục các loài ma
Chứng đắc đạo Vô thượng
Diệt trừ hết vô minh
Chiếu sáng mười phương cõi
Pháp nhãn của thế gian
Muôn loài cùng lợi ích
Dù đến vô lượng kiếp
Ca ngợi Phật, Thế Tôn
Công Đức Phật hằng sa
Ngôn từ nào diễn hết
Mười phương cùng hướng về
Nên con nay đảnh lễ.
Đức Phật nói với các vị Tỳ-kheo:
-Dạ-ma Thiên vương ca ngợi Như Lai xong cùng với Thiên chúng nhiễu quanh rồi đảnh lễ ngang chân Phật và đứng qua một bên. Bấy giờ Thích Đề-hoàn Nhân cùng với chư Thiên ở cõi trời Ba mươi ba và các Thiên chúng khác đồng đến Bồ-đề tòa cung kính đi nhiễu quanh nhiều lần, dùng vô số cờ phướn, bảo cái, hương hoa, y phục cúng dường Phật và đọc bài kệ:
Như Lai công đức thật thanh tịnh
Thân tâm an định như Tu-di
Trí tuệ chiếu sáng mười phương cõi
Tất cả muôn loài cùng tôn quý
Thế Tôn xa xưa trải nhiều kiếp
Cúng dường vô lượng chư Như Lai
Nên nay phục ma thành Chánh giác
Được cả trời người cùng cúng dường
Thế Tôn đa văn cùng định tuệ
Mở bày pháp nhãn tuệ tối thượng
Con nay quy y theo chánh pháp
Bậc Đại Pháp chủ của thế gian
Thế Tôn nhiều kiếp cầu Bồ-đề
Vạn hạnh tu trì, muôn hạnh khổ
Phương tiện và Từ, Bỉ, Hỷ, Xả
Tinh tấn, trí tuệ phước tịnh thanh.
Nên đạt công đức vô lượng ấy
Nay lại gồm đủ quả Mười lực
Khi thấy Phật ngự tòa Bồ-đề
Ma vương ác tâm muốn hãm hại
Chư Thiên đã có vị sợ lo
Nhưng thân tâm Phật không hề động
Thế Tôn đưa tay chỉ xuống đất
Tất cả ma quỷ đều tan lui
Chư Phật xa xưa thành Chánh giác
Thế Tôn nay đắc đạo cũng vậy
Phước đức trí tuệ đều vô úy
Là Bậc trời người phải kính lễ.
Đức Phật nói với các vị Tỳ-kheo:
-Thích Đề-hoàn Nhân đọc kệ ca ngợi xong, rồi đảnh lễ ngang chân Phật và đứng qua một bên. Lúc ấy, Tứ đại Thiên vương cùng với chư Thiên thể nữ thảy đều mang nhiều hoa Chiêm-ba, Bà-lợi-sư và vô số hương hoa, hòa tấu Thiên nhạc đến Bồ-đề tòa cúng dường Phật, đọc bài kệ:
Diệu âm của Như Lai
Khiến người nghe vui mừng
Giới, định luôn tinh tấn
Tâm tịnh luôn hỷ lạc
Ban vui cho chúng sinh
Nên nay con đảnh lễ
Lời pháp vi diệu ấy
Dứt phiền não muôn loài
Được vô lượng an vui
Lòng lặng trong không lỗi
Đạt trí tuệ vô lậu
Thế gian không người hơn
Bình đẳng và bất động
Ví như núi Tu-di
Thị hiện trong cõi đời
Như hoa sen rời nước.
Đức Phật nói với các vị Tỳ-kheo:
-Tứ đại Thiên vương ca ngợi Như Lai xong rồi đảnh lễ đi nhiễu quanh nhiều lần và đứng qua một bên. Lúc đó chư Thiên ở Hư không giới hiện nửa thân hình, cũng dùng vô số hương hoa cờ phướn, bảo cái, chuông quý, lưới quý giăng mắc khắp khoảng không, lại đem ngọc Anh lạc và các loại ngọc báu cúng dường Phật, đọc bài kệ:
Con thường ở hư không
Thiện ác đều thấy rõ
Chỉ có thân Như Lai
Thanh tịnh không lầm lỗi
Lại thấy chúng Bồ-tát
Mang vô số bảo đài
Đầy khắp cõi hư không
Số lượng không kể xiết
Lại thấy chúng Bồ-tát
Cúng dường Đức Như Lai
Tung các hoa vi diệu
Chứa đầy đại thiên giới
Lại thấy chúng Bồ-tát
Dùng vô vàn vật dụng
Vòng hoa và chuỗi báu
Dù, lọng cùng vòng ngọc
Hương hoa thảy đầy tràn
Lớp lớp theo thứ tự
Như sông xuôi về biển
Vân tập khắp hư không
Như Lai nhận cúng dường
Tâm luôn luôn bình đẳng.
Đức Phật nói với các vị Tỳ-kheo:
-Thiên chúng ở Hư không giới cúng dường Phật xong liền đảnh lễ, nhiễu quanh và đứng qua một bên. Bấy giờ Địa thần vì để cúng dường Phật, nên quét dọn sạch sẽ, dùng nước thơm rưới khắp mặt đất, tung rải các thứ hoa quý khắp Bồ-đề tràng làm tăng thêm vẻ thanh tịnh, lại dùng các màn báu giăng đầy trên cao rồi đọc bài kệ ca ngợi Như Lai:
Như Lai an tọa cõi Đại thiên
Là tòa Kim cang thật chắc bền
Giả sử xác thân đến khô kiệt
Chưa chứng Bồ-đề quyết không rời
Như Lai chẳng dùng lực thần thông
Nếu không đất này sẽ tan nát
Chúng Bồ-tát các nơi vân hội
Chúng con đều thấy được an ổn
Đất này Thế Tôn từng kinh hành
Tam thiên thế giới nhờ ánh sáng
Nơi Phật phóng quang còn xây tháp
Huống chi nơi này, chốn đạo thành
Thổ thần, con nay xin thống lãnh
Vì Thế Tôn nguyện dốc hết lòng
Các bậc Thanh văn và Phật tử
Ở nơi thuyết pháp bao công đức
Nguyện làm cho tất cả chúng sinh
Đều đạt đạo Vô thượng giải thoát.
Đức Phật nói với các vị Tỳ-kheo:
-Địa thần đọc bài kệ ca ngợi Như Lai xong, đảnh lễ ngang chân Phật và đứng qua một bên. Phẩm 24: THƯƠNG NHÂN ĐƯỢC PHẬT THỌ KÝ
Đức Phật nói với các vị Tỳ-kheo:
-Thế Tôn lúc mới thành Bậc Chánh Giác, vô lượng chư Thiên khắp cõi đều đến ca ngợi công đức của Như Lai. Lúc bấy giờ Thế Tôn luôn quán tưởng cây Bồ-đề lớn nhất ấy, mắt không lúc nào rời, lấy niềm vui thiền định làm món ăn, không nghĩ tới chuyện ăn uống, suốt trong bảy ngày không rời khỏi chỗ ngồi. Vô lượng vị Thiên tử của các cõi trời Dục giới bưng mười ngàn bình quý đựng nước thơm đến chỗ Phật, lại có vô lượng các vị Thiên tử ở các cõi trời sắc giới cũng bưng mười ngàn chiếc bình quý đựng đầy nước thơm đến chỗ Phật, tất cả nước thơm ấy dùng để Như Lai tắm rửa cùng rưới trên cây Bồ-đề.
Khi Như Lai tắm rửa xong, có vô số Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già... tranh nhau lấy thứ nước tắm của Như Lai để tẩy rửa thân mình. Sau khi tắm xong, tất cả đều phát tâm Vô thượng Bồ-đề, còn chư Thiên sau khi làm nhiệm vụ xong đều trở về Thiên cung, hơi thơm của nước đem cúng dường Phật còn lưu mãi nơi thân khiến họ chỉ còn nghe mùi hương của Phật chứ không còn nghe mùi thơm nào khác, tất cả đều sinh tâm hoan hỷ cho là việc chưa từng có, đạt Bất thoái chuyển đối với đạo Vô thượng Bồ-đề.
Lúc đó có vị Thiên tử tên Phổ Hoa từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ ngang chân Phật và thưa:
-Bạch Thế Tôn, Ngài đã an trụ vào pháp Tam-muội gì mà trải qua bảy ngày ngồi kiết già nhập định thân tâm bất động?
Này các vị Tỳ-kheo, lúc ấy Ta đã đáp lời của Thiên tử Phổ Hoa:
-Như Lai đã dùng Hỷ duyệt tam-muội làm tư lương thực mà an trụ, do diệu lực của pháp định ấy mà trải qua bảy ngày ngồi kiết già nhập định như vậy.
Lúc ấy Thiên tử Phổ Hoa đứng phía trước Phật đọc bài kệ:
Thế Tôn chân có ngàn vòng tròn
Ví như hoa sen rất thanh tịnh
Thường được chư Thiên luôn tôn quý
Vì thếcon nay xin lễ kính.
Bấy giờ Thiên tử lễ Phật xong
Lại dùng Già-tha để tán dương.
Vì muốn trời người khỏi nghi ngờ
Hoan hỷ chắp tay đến thưa hỏi
Như Lai giáng sinh dòng vương Thích
Khiến cho Thích tộc đều mừng vui
Năng diệt ba độc cùng nghi hoặc
Xin giải chỗ ngờ của Thiên nhân
Do mười lực nào thành Chánh giác
Trải qua bảy ngày quán cây to
Mắt sen xanh Bậc Sư Tử chúa
Kiết già quán cây không chuyển dời
Tất cả chư Phật đều như vậy
Hay riêng Thế Tôn quán cây kia
Diên mạo đoan nghiêm không cất tiếng
Răng trắng đều đặn, miệng ngát hương
Xin vì lợi ích của trời người
Khiến sinh hoan hỷ rõ sự thật.
Bấy giờ Như Lai đáp Thiên tử
Ta nay lược nói điều ông hỏi
Cũng như phép nước lên ngôi vua
Phải qua bảy ngày lo dời đổi
Chư Phật là Bậc Đại Pháp Vương
Thuận thế bảy ngày không chuyển dịch
Lại như dũng tướng tự giữ mình
Sau mới nghĩ mưu để thắng nhân
Chư Phật hàng ma cũng như thê'
Bảy ngày kiết già không khởi thân
Ngã mạn, ba độc cùng phiền não
Là những thứ tổn hại muôn loài
Tất cả nhân hữu lậu phiền não
Với chúng, Ta đều đã trừ tận
Lửa trí vô lậu từ đó khởi
Đốt cháy sạch hết ba thứ độc
Ta ở nơi này dùng dao trí
Quyết phá Lưới sinh tử dày chắc
Hiểu đúng uẩn thân đều không thật
Đều do mê vọng từ vô thủy
Chấp ngã, ngã sở hai vô minh
Cùng với tà kiến đều đoạn tận
Bốn điên đảo như rừng chướng ngại
Căn lành, lửa trí thiêu đốt hết
Vọng chấp tham đắm từ tưởng sinh
Đạt đến giác ngộ đều trừ bỏ
Sáu mươi lăm thứ vô minh hiểm
Bốn mươi bất thiện, ba mươi cấu
Mười sáu buông lung, mười tám giới
Hai mươi lăm hữu đều diệt tận
Hai mươi trần cấu đều lìa xa
Hai mươi tám thứ đời luôn sợ
Ta ở nơi đây luôn tinh tấn
Tất cả Ta đều đã vượt qua
Chứng đắc năm trăm pháp âm Phật
Cùng đạt viên mãn trăm ngàn pháp
Chín mươi tám sử, các tùy miên
Là lá, là cành, là tội gốc
Ta dùng trí tuệ làm lửa hồng
Thiêu đốt cháy tan bao nhiêu thứ
Ái, nghi tích chứa như sống cuộn
Dòng nước kiến chấp thường đầy tràn
Ta ở đây dùng mặt trời trí
Ánh sáng nung chiếu đều cạn khô
Tà ngụy, ác hiểm bao tật xấu
Rừng phiền não lỗi lầm như vậy
Ta ở nơi đây dùng lửa trí
Thiêu sạch tất cả thành tan hoang
Phỉ báng Thánh hiền gây bao tội
Là gốc đưa đến đọa cõi ác
Ta dùng thuốc trí tuệ trị liệu
Khiến mọi độc ác nôn ra sạch.
Ta ngồi ở nơi này
Đạt định tuệ công đức
Mọi khổ não lo buồn
Trừ diệt không còn sót
Cũng chính ở nơi này
Ta đạt lý chân thật
Mọi tên độc ngã mạn
Nhổ sạch không hề sót
Cũng chính ở nơi này
Dùng đao bén trí tuệ
Cắt đứt ngã, ngã sở
Cội rễ của tử sinh
Cũng như trời Đế Thích
Đánh phá đám Tu-la
Cũng chính ở nơi này
Đạt trí nhãn thanh tịnh
Mà muôn loài chúng sinh
Bị mê mờ che lấp
Ta dùng thuốc trí tuệ
Rửa sạch mọi mê lầm
Cũng chính ở nơi này
Dùng nước trong giải thoát
Tưới rừng cây khắp nơi
Khói lửa tham đều tắt
Cũng chính ở nơi này
Dùng gió đại tinh tấn
Xua tan mây phiền não
Cùng sấm chớp phân biệt
Cũng chính ở nơi này
Đạt pháp Từ tam-muội
Mọi kho chứa công đức
Hàng phục đám ma quân
Cũng chính ở nơi này
Đạt được định vô nguyện
Kho chứa công đức lớn
Dứt sạch mọi phiền não
Cũng chính ở nơi này
Đạt được pháp định Không
Trừ hết mọi phân biệt
Đạt dược định Vô tướng
Kho tàng của công đức
Diệt trừ mọi hý luận
Cũng chính ở nơi này
Kho chứa mọi công đức
Cũng chính ở nơi này
Đạt được ba giải thoát
Sức thần thông trí tuệ
Phá tan lưới tử sinh
Ta cũng dứt sạch hết
Vô thường tưởng là thường
Đời khổ tưởng là vui
Vô ngã tưởng là ngã
Ta dùng lực tinh tấn
Đưa qua biển sinh tử
Phá trừ mọi lưới ái
Ví như cá Ma-kiệt
Ta ở đây giác ngộ
Rõ mọi tham, sân, sỉ
Ví như đám lửa lớn
Thiêu đốt đám phù du
Ta ở trong đêm dài
Vô lượng vô biên kiếp
Đường sinh tử nhọc nhằn
Xoay vòng không ngừng nghỉ
Nay đã được dừng dứt
Hết mọi nỗi lo sợ
Những điều ta giác ngộ
Ngoại đạo nào vươn tới
Từng câu, nghĩa cam lộ
Năng dứt bao ưu não
Ta vào thành vô úy
Trừ hết giới, xứ, uẩn
Mọi tham ái đã tận
Không còn thọ thân sau
Ta vì đạo giác ngộ .
Nơi vô lượng ức kiếp
Làm tất cả hạnh lành
Thí cả đến thân mình
Công đức đều viên mãn
Cho nên ở nơi này
Đạt pháp thắng cam lộ
Bồ-đề vô thượng giác
Phật Như Lai quá khứ
Chứng đắc pháp chân thật
Tùy căn cơ chúng sinh
Phân biệt truyền giảng pháp
Ta nay cũng như vậy
Đắc pháp diệu chẳng khác
Chỉ trong một sát-na
Biết rõ khắp thế gian
Nhân duyên hòa hợp sinh
Không tịch giả hợp có
Như thành Càn-thát-bà
Như ảo ảnh trên không
Pháp nhãn ta đạt được
Thấy suốt khắp mọi nơi
Như thể nhìn bàn tay
Cầm quả A-ma-lặc
Pháp Tam-muội ta đạt
Thông tỏ hết tất cả
Nhớ rõ vô lượng kiếp
Như từ mộng choàng tỉnh
Mọi người trời các cõi
Bị tưởng điên đảo thiêu
Ta chính ở nơi này
Thấu tỏ mọi sự thật
Ta từ vô lượng kiếp
Cầu vô thượng Bồ-đề
Tu tập hạnh đại Từ
Tâm Từ duyên các pháp
Hàng phục đám ma quân
Ta từ vô lượng kiếp
Tu tập hạnh đại Bi
Tâm Bi duyên các pháp
Trừ sạch mọi lo phiền
Ta từ vô lượng kiếp
Tu tập hạnh đại Hỷ
Tâm Hỷ duyên các pháp
Chứng đắc đạo vô thượng
Ta từ vô lượng kiếp
Cầu vô thượng Bồ-đề
Tu tập hạnh đại Xả
Tâm Xả duyên các pháp
Chứng đắc pháp cam lộ
Ta đối trước ma quân
Phát thệ nguyện như vầy
Nếu chẳng thành Phật quả
Quyết không rời tòa này
Ta dùng trí kim cang
Phá trừ vô minh ám
Đạt đủ mười loại lực
Nơi tòa này nay hiểu
Chưa đạt nay đều đạt
Các lậu vắng sạch hết
Quân ma cũng tận trừ
Nơi tòa này nay rõ
Cửa năm uẩn phá tan
Mầm ba ái đều diệt
Do vậy mà hiện nay
Mới ngồi kiết già vậy.
Bấy giờ Bậc Tối Thắng
Từ tòa kim cang dậy
Lại ngồi nơi bảo tòa
Các trời dâng nước tắm
Chư Thiên dùng bình báu
Trong chứa đầy nước thơm
Hiến Bậc Chúng Trung Tôn
Tắm rửa khắp thân thể
Lúc ấy chư Thiên chúng
Cũng với nhiều Thiên nữ
Tấu bao khúc nhạc trời
Dốc lòng để dâng cúng
Này các vị Thiên tử
Phải biết rõ như thế
Ta trải qua bảy ngày
Chẳng hề rời tòa ấy.
Đức Phật nói với các vị Tỳ-kheo:
-Vì sao lúc mới thành Bậc Chánh Giác suốt trong bảy ngày Như Lai không rời khỏi tòa ngồi? Vì Như Lai ngồi trên tòa ấy để đoạn trừ hoàn toàn vòng sinh, già, bệnh, chết nối tiếp nhau không đầu không cuối. Qua bảy ngày quán cây Bồ-đề không rời tòa, đến tuần thứ hai, Như Lai đã kinh hành trong khắp cõi Tam thiên đại thiên thế giới. Trong tuần thứ ba, Như Lai quan sát khắp Bồ-đề tràng, mắt không hề rời bỏ, cũng chính vì ở nơi đây Ta đã đoạn trừ sinh tử, chứng Tuệ giác Vô thượng. Trong tuần thứ tư, Như Lai kinh hành đến các vùng lân cận dọc theo bờ sông, lấy biển lớn làm giới hạn.
Bấy giờ ma vương Ba-tuần đến chỗ Thế Tôn thưa:
-Bạch Thế Tôn, Ngài đã trải qua vô lượng kiếp tinh cần tu khổ hạnh nay mới được thành Phật. Nay đã đúng lúc để Ngài nhập Niết-bàn. Cúi xin Như Lai mau nhập vào Niết-bàn. Cúi mong Bậc Thiện Thệ mau nhập Niết-bàn.
Đức Phật nói:
-Ba-tuần, Ta vốn phát đại nguyện muốn làm lợi ích cho tất cả chúng sinh nên cầu đạo Vô thượng Bồ-đề, trải qua vô lượng kiếp tinh cần gian khổ tích lũy bao công đức. Hiện tại tất cả chúng sinh đối với đạo pháp của Ta chưa đạt được lợi ích gì, sao ngươi lại xúi giục Ta nhập Niết-bàn? Hơn nữa trong thế gian này Tam bảo chưa có đủ, chúng sinh chưa được giáo hóa, thần thông cùng diệu pháp chưa được hiển bày truyền bá, vô lượng các vị Bồ-tát chưa có dịp để phát tâm Vô thượng Bồ-đề, sao ngươi lại hối thúc Ta sớm vào Niết-bàn?
Lúc ấy ma vương Ba-tuần nghe Phật nói như vậy liền thoái lui đứng qua một bên, dùng gậy vạch xuống đất mà suy nghĩ, than thở:
-Ở trong cõi Dục giới này, từ nay trở đi ta là người chịu nhiều sầu khổ hơn ai hết.
Lúc đó ba nàng con gái của ma vương thấy cha sầu khổ liền hỏi:
Đại vương do cớ gì
Mà tâm cực sầu khổ?
Nay khiến đại vương phiền
Xin hỏi rõ là ai?
Chúng con dùng dục kéo
Như dùng dây dắt voi
Khiến kẻ ấy tham đắm
Đem về cung Tự tại.
Ma vương đọc bài kệ trả lời các ma nữ:
Thế gian chẳng hề nhiễm
Cõi tham cũng không buộc
Bậc ấy vượt mọi dục
Vì thế ta buồn khổ.
Ba nàng ma nữ này lúc Như Lai còn là Bồ-tát ngồi nơi tòa Bồ-đề đã đến và dùng mọi vẻ đẹp quấy nhiễu Bồ-tát, tạo ra vô số những trò huyễn hoặc mà chẳng được việc gì, nhưng vốn là hạng nữ nhân nặng nề đắm nhiễm, phiền não sâu nặng, nên lúc đó ba nàng đều tự biến dạng, một nàng hóa làm thanh nữ, một nàng hóa làm thiếu phụ, một nàng hóa làm một phụ nữ trung niên, cả ba cùng nhau đến chỗ Phật.
Bấy giờ Đức Thế Tôn liền dùng diệu lực thần thông biến ba nàng ấy thành ba bà lão khiến chúng hổ thẹn vội lui về chỗ ma vương Ba-tuần nói kệ thưa:
Cha nói người lìa dục
Cõi tham không làm nhiễm
Chúng con đã biến hóa
Nhằm mê loạn Sa-môn
Lắm kẻ thấy chúng con
Lòng dục luôn dấy khởi
Nay hiện sắc mỹ miệu
Bậc ấy tâm chẳng động
Dùng đại thần thông biến
Chúng con thành bà lão
Xin vương dùng uy lực
Cho trở lại nguyên hình.
Khi ấy ma vương đáp lời con:
-Ta nhận thấy không có ai dù là trời hay người có thể chế ngự được Phật. Các con phải tự mình đến nơi đó xin sám hối mọi tội lỗi trước nay của mình, mong Phật thư lại thần lực thì mới có thể trở lại thân hình cũ được.
Ba nàng ma nữ vâng lời cha, đến chỗ Như Lai đọc bài kệ:
Chúng con không trí tuệ
Muốn mê hoặc Như Lai
Chưa tường việc tốt xấu
Chẳng rõ việc dữ lành
Chúng con cùng sám hối
Mong tội được tiêu trừ
Cúi xin lực từ bi
Cho hiện lại thân cũ.
Lúc đó Như Lai vì lòng từ bi nên thu lại thần thông khiến ba ma nữ được trở lại thân hình như trước.
Trong tuần lễ thứ năm, Như Lai trụ nơi chỗ ở của Mục-chân-lân^đà Long vương. Lúc ấy gió lạnh thổi dữ, mưa dầm suốt bảy ngày không ngớt, Long vương lo sợ gió mưa làm thương tổn Như Lai nên đã lìa khỏi cung của mình đến trước chỗ Phật, quấn thân mình thành bảy vòng quanh Phật để che chở, dùng đầu mình làm lọng che phủ phía trên đầu Phật, lại có vô lượng Long vương ở bốn phương cùng đến bảo vệ Phật. Thân của Long vương vòng cao rắn chắc như núi Tu-di. Khi đó các Long vương đều được uy lực và hào quang của Phật tác động nên thân tâm đều đạt được niềm an lạc chưa từng có.
Qua bảy ngày mưa tạnh gió dừng, các Long vương cùng đảnh lễ ngang chân Phật, đi nhiễu theo phía tay phải ba vòng rồi trở về cung điện của mình.
Vào tuần lễ thứ sáu, Thế Tôn đi dưới bóng cây Ni-câu-đà gần dòng sông Ni-liên là chốn có nhiều nhóm ngoại đạo. Các nhóm này đều đến làm quen, gần gũi thăm hỏi Thế Tôn trong bảy ngày mưa gió vừa qua có được an ổn, vui vẻ không.
Đức Thế Tôn đọc bài kệ đáp:
Tịch tĩnh mà biết đủ
Tư duy nên chứng pháp
Lợi ích cho chúng sinh
Từ bi thương tất cả
Lìa xa mọi tội nhiễm
Chẳng đắm việc thế gian
Tâm dứt hẳn ngã mạn
Đó là an lạc nhất.
Vào tuần lễ thứ bảy, Thế Tôn đi vào rừng Đa diễn ngồi kiết già dưới một cội cây quán tưởng về chúng sinh đang bị nỗi khổ sinh, lão, bệnh, tử bức bách, rồi cất tiếng xướng kệ:
Chúng sinh ở cõi thế
Mãi bị năm dục thiêu
Nên thường nhớ bỏ ái
Vì ái làm tăng khổ.
Đức Phật nói với các vị Tỳ-kheo:
-Lúc bấy giờ có hai anh em người miền Bắc nước Thiên trúc, đều là chủ đoàn thương nhân, một người tên Đế-lý-phú-bà, còn người kia tên Bà-lý. Cả hai đều là người có trí tuệ, rất giỏi về việc kinh doanh làm ăn, tính tình hiền lành hòa nhã, khéo giao tiếp nên công việc buôn bán khấm khá dần và trở nên giàu có.
Lúc đó hai anh em đang đưa năm trăm chiếc xe trâu kéo chở các hàng trân phẩm quý giá quay về quê cũ. Trong đoàn thương nhân có hai anh em lo việc điều khiển trâu kéo, một người tên Thiện Sinh, một người tên Danh Xứng. Hai anh em này rất thông thạo đường sá, biết rõ những chỗ an toàn hoặc hiểm trở, dùng cành hoa ưu-bát-la giơ lên cho trâu thấy mà đi, khỏi phải dùng roi gậy đánh đập. Đi đến Nhũ lâm, đường sá rất bằng phẳng nhưng chân một con trâu giẫm mạnh làm mặt đường bị lún khiến một càng xe bị gãy và cả đoàn xe năm trăm chiếc bị đùn lại bên đường, hai con trâu đi đầu cũng không chịu tiến tới, dùng roi gậy đánh mấy nó cũng chẳng chịu cất bước. Đoàn thương nhân đâm lo sợ, cùng nói với nhau:
-Hai con trâu chẳng dám đi tới nữa, chắc hẳn có điều gì làm chúng kinh sợ chăng?
Họ liền cử người cỡi ngựa cầm binh khí đi về phía trước thăm dò. Người này đi một lát rồi trở lại thưa với vị chủ đoàn:
-Tôi đã đi tới phía trước xem xét kỹ nhưng chẳng thấy có gì là hiểm trở khó khăn, không rõ vì sao mà hai con trâu lại không chịu đi tiếp?
Lúc đó vị thần giữ rừng hiện ra nói với đám thương nhân:
-Các vị thương nhân chớ nên sợ hãi! Các ông ở trong đêm dài tối tăm mãi trôi lăn theo nẻo sinh tử, hôm nay các ông sắp được phúc lợi lớn. Vì sao mà ta nói thế? Vì có Đức Phật đã xuất hiện ở cõi đời này, mới thành Chánh giác đang an trụ trong khu rừng kia, chẳng ăn uống gì đã hơn bốn mươi chín ngày. Các ông nên đem các món ăn, nước uống đến để cúng dường Ngài.
Hai vị điều khiển trâu liền cho xe tiến lên, hướng về phía có Đức Phật và cả đoàn xe cùng theo sau. Đi được một quảng đường, từ xa họ đã trông thấy; Như Lai với ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, hào quang từ thân chiếu sáng rực rỡ như mặt trời mới hiện. Đoàn thương nhân trông thấy Phật, đều tỏ ra cung kính cho là điều ít có, cùng bảo nhau:
-Đây là Phạm vương, Đế Thích, Tứ Thiên vương hay là trời Nhật Nguyệt hay là thần Núi, thần Sông?
Lúc ấy Đức Thế Tôn liền đưa cao tấm ca-sa lên cho đám thương nhân trông thấy khi đó họ mới biết Như Lai là người xuất gia tu hành, nên họ đều sinh tâm hoan hỷ nói với nhau:
-Theo pháp xuất gia thì ăn uống phải đúng lúc, vậy chúng ta nên sửa soạn các thứ ăn ngon quý như đề hồ, mật, sữa, cháo sữa... để kịp thời cúng dường.
Cả đoàn khách buôn bày biện cấc thứ trai phẩm ăn uống xong liền cùng đến trước Như Lai, nhiễu quanh theo phía phải ba vòng rồi đứng sang một bên thưa:
-Bạch Đức Thế Tôn, xin hãy thương xót chúng con mà nhận món cúng dường ít ỏi này.
Đức Phật nói với các vị Tỳ-kheo:
-Lúc sắp sửa thọ nhận trai phẩm cúng dường của đoàn thương nhân ấy, Như Lai liền suy nghĩ: “Chư Phật quá khứ đều dùng bình bát để thọ trai, còn ta nay dùng vật gì để nhận món ăn này”.
Lập tức Tứ Thiên vương mỗi vị đem một bình bát vàng dâng lên Như Lai và thưa:
-Cúi mong Thế Tôn nhận bát này của chúng con để đựng các món ăn cúng dường kia. Cúi xin Thế Tôn thương tưởng đến chúng con để cho trong cõi sinh tử này, chúng con gặp được nhiều an lạc.
Lúc ấy Thế Tôn nói với bốn vị Thiên vương:
-Pháp của hàng xuất gia không được cùng nhận các bình bát vàng quý giá như thế, kể cả trường hợp bát làm bằng bảy món báu cũng không được nhận.
Bấy giờ Tỳ-sa-môn Thiên vương ở phương Bắc nói với các vị Thiên vương kia:
-Tôi nhớ lại thời xa xưa có vị Thiên tử Thanh Thân đem đến bốn cái bát làm bằng đá cho chúng ta, lại có vị Thiên tử tên Biến Quang tới bảo:
-Không nên dùng cái bát ấy, cần phải tạo tháp thờ và cúng dường, bởi vì trong tương lai, khi có Đức Phật xuất hiện ở đời hiệu là Thích-ca Mâu-ni thì nên đem những bát này cúng dường vị Phật ấy. Vậy nay chính là lúc chúng ta đem những bát ấy cúng dường Phật.
Các vị Thiên tử mỗi vị vội trở về Thiên cung, cùng với quyến thuộc mang theo chiếc bình bát bằng đá, dùng hương thơm xoa lên, đựng đầy các thứ thiên hoa, hòa tấu Thiên nhạc, cùng đến nơi chỗ Phật. Mỗi vị đều dâng bình lên Như Lai và thưa:
-Bạch Thế Tôn, cúi xin Ngài thương xót nhận bình bát của chúng con để đựng các thức ăn của những thương nhân cúng dường. Cúi xin thương tưởng đến chúng con để chúng con thành bậc Pháp khí và được nhiều an lạc trong cõi sinh tử này.
Bấy giờ Thế Tôn liền suy nghĩ: “Bốn vị Thiên vương đã có tín tâm thanh tịnh cúng dường bình bát cho Ta nhưng Ta không thể nhận và giữ hết bốn chiếc bát. Tuy nhiên, nếu ta chỉ nhận bát của một vị thì những vị kia sẽ buồn lòng, vì vậy Ta nên nhận hết các bình bát ấy”. Đức Thế Tôn nhận bình bát của Bắc phương Tỳ-sa-môn Thiên vương và đọc bài kệ:
Ông dâng Ta bát này
Sẽ được pháp tối thượng
Nay Ta thọ ông cúng
Khiến ông đủ tuệ niệm.
Đức Thế Tôn nhận bình bát của Đề-đầu-lại-trá Thiên vương và đọc bài kệ:
Đem bát cúng Như Lai
Niệm tuệ được tăng trưởng
Nhiều đời được an vui
Mau chứng thành Giác ngộ.
Đức Thế Tôn nhận tiếp bình bát của Tỳ-lâu-bác-xoa Thiên vương và đọc bài kệ:
Ta đem tâm thanh tịnh
Nhận bát thanh tịnh này
Khiến tâm ông trong lành
Được trời người hiến cúng.
Đức Thế Tôn lại nhận tiếp bình bát của Tỳ-lâu-lặc-xoa Thiên vương và đọc bài kệ:
Như Lai giới thanh tịnh
Bát ông dâng trọn lành
Do tâm ông thuần khiết
Được quả cũng sạch trong.
Sau khi nhận bốn bình bát của các vị Thiên vương, Thế Tôn lần lượt đem đặt chồng lên nhau, rồi dùng tay phải ấn mạnh xuống hợp thành một bát, đường viền còn in rõ.
Bấy giờ Đức Như Lai nhớ nghĩ về việc quá khứ và đọc bài kệ:
Ta xưa từng đem hoa đầy bát
Cúng dường vô lượng chư Như Lai
Nên nay được bốn vị Thiên vương
Cúng ta bát thanh tịnh bền chắc.
Đức Phật bảo các vị Tỳ-kheo:
-Lúc ấy đoàn thương nhân cáo từ Phật rồi thúc đàn trâu kéo xe đi tiếp. Sáng sớm hôm sau, người lo việc chăn dắt trâu đi vắt sữa, sữa được vắt ra liền thành Đề hồ, người ấy cho là việc lạ, liền đem Đề hồ đó về thưa với vị thương chủ là sữa hôm nay mình vắt không hiểu sao đều biến thành Đề hồ cả, không rõ đây là việc lành hay dữ. Trong đoàn thương nhân có một người Bà-la-môn tính tình tham lam thưa với vị thương với chủ:
-Đó là điềm chẳng lành, thứ đề hồ kia nên đem cho hết đi.
Người thương chủ vốn có vị tổ xa xưa được sinh lên cõi trời Phạm thế, lúc đó hiện thân thành Bà-la-môn nói với đoàn thương nhân:
Các ngươi từ xưa phát nguyện lớn
Nếu Như Lai chứng đạo Bồ-đề
Sẽ xin đem thức ăn dâng Phật
Thọ thức ăn rồi chuyển pháp luân
Nay Như Lai thành Bậc Chánh Giác
Sở nguyện các ngươi cũng hoàn thành
Thế Tôn đã nhận món ăn đó
Sẽ chuyển bánh xe pháp vô thượng
Sữa vắt hôm nay thành Đề hồ
Chính do uy lực của Bậc Thánh
Sáng sớm đã hiện ra điềm lành
Do đó mọi việc đều tốt đẹp
Phạm thiên nói xong bài kệ rồi
Lại hiện nguyên hình về Phạm thế.
Đức Phật nói với các vị Tỳ-kheo:
-Lúc ấy những thương nhân nghe xong bài kệ rất vui mừng, lấy đề hồ đó rồi chọn thứ gạo tốt nhất nấu thành cháo nhuyễn, hòa thêm mật thơm, đựng đầy trong bát bằng Chiên-đàn trở lại rừng Đa diễn cúng dường Phật và thưa:
-Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn thương xót chúng con mà nhận món ăn này.
Bấy giờ Thế Tôn nhận món ăn của những thương nhân. Sau khi độ xong, Ngài cầm bát bằng Chiên-đàn vốn rất quý giá làm bằng trăm ngàn thứ châu báu, ném lên không trung. Khi ấy có vị Phạm thiên tên Thiện Phạm đón lấy chiếc bát Chiên-đàn đem về Thiên cung xây tháp cúng dường. Tháp đó đến nay luôn được chư Thiên dâng hương hoa cúng dường không bao giờ dứt.
Cùng lúc đó, Thế Tôn cũng chú nguyện cho đoàn thương nhân và nói bài kệ:
Các ông sẽ gặp nhiều an lành
Tài sản quý giá thêm sung mãn
Muôn việc làm sẽ được an lành
Cả đến thân mạng đều cũng vậy
Của báu mong cầu tự nhiên đến
Dùng vòng an lành đeo lên đầu
Chư Thiên, tinh tú và Nhật Nguyệt
Đế Thích Tứ vương theo hộ trì
Nơi chốn đi đến đều bình yên
Trở về cũng gặp nhiều may mắn
Nhờ công đức cúng thức ăn này
Về sau sẽ đắc quả Chánh giác
Hiện là Vị Độ Tam Phần Phật
Được thọ ký, thương nhân hoan hỷ.
Đức Phật nói với các vị Tỳ-kheo:
-Sau khi thành Chánh giác, đầu tiên Như Lai đã được hai vị thương chủ và những thương nhân cúng dường thức ăn và đã thọ ký cho họ như thế. Những thương nhân khi được Phật thọ ký đều nhận thấy đây là việc chưa từng có nên đều cung kính chắp tay thưa:
-Từ nay chúng con xin quy y Như Lai. Phẩm 25: ĐẠI PHẠM THIÊN VƯƠNG KHUYẾN THỈNH
Đức Phật nói với các vị Tỳ-kheo:
-Khi mới thành đạo Chánh giác, Như Lai đã tĩnh tọa một mình trong rừng Đa diễn, tâm an trụ vào cảnh thiền định sâu xa vi diệu, quan sát kháp thế gian rồi khởi lên suy niệm này: “Pháp mà Ta đã chứng được thậm thâm vi diệu, tịch tĩnh bậc nhất, rất khó lãnh hội thấu đạt, không thể lý giải theo con đường tư duy phân biệt, chỉ có chư Phật mới có thể thông tỏ. Pháp đó dạy con đường vượt qua năm uẩn để đi vào chân lý đệ nhất tức thể tánh thanh tịnh vô xứ, vô hành, bất thủ, bất xả; không thể hiểu hết bằng tri kiến bình thường, không thể chỉ bày rõ được vô vi, vô tác, lìa xa sáu cảnh; chẳng phải là pháp mà tâm có thể ước lượng được hay diễn đạt bằng ngôn từ được, không thể hiểu theo cảm quan nghe thấy và cũng không thể quán tưởng mà hiểu được vì nó dung thông vô ngại, lìa mọi con đường sẵn có để vươn tới chốn cứu cánh, là pháp Không, Vô sở đắc, Niết-bàn tịch tĩnh. Nếu truyền dạy pháp ấy cho con người thì chắc hẳn họ không thể thấu hiểu được, chỉ uổng công mà chẳng đem lại lợi ích gì. Vì vậy Ta cứ mặc nhiên an trụ”. Bấy giờ Thế Tôn đọc bài kệ:
Ta chứng pháp cam lộ vô vi
Thâm diệu tịch tĩnh lìa cấu nhiễm
Tất cả chúng sinh khó lãnh hội
Vì thế ta yên lặng tịch trú
Pháp ấy xa lìa mọi ngôn từ
Ví như hư không không ô nhiễm
Tâm y tư duy đều chẳng đạt
Nếu người thấu đạt thật ít có
Tánh của pháp ấy lìa văn tự
Ai thâm nhập được diệu lý ấy
Nhờ trải nhiều kiếp cúng dường Phật
Nên mới nghe qua sinh tin hiểu
Chẳng thể nói Hữu hoặc nói Vô
Không Hữu không Vô cũng chẳng được
Ta xưa vô lượng kiếp tu hành
Chưa đạt cứu cánh Vô sinh nhẫn
Nay đã đạt pháp cứu cánh ấy
Thường quán các pháp không sinh diệt
Tất cả các pháp bản tánh Không
Nhiên Đăng Như Lai thọ ký Ta
Ông ở đời sau thành Chánh giác
Thành Phật hiệu là Thích-ca Văn
Tuy vào lúc ấy chứng pháp tịnh
Nay Ta mới đạt đến cứu cánh
Thấy chúng sinh trong cõi sinh tử
Không phân chánh pháp và phi pháp
Chúng sinh thế gian có thể độ
Nên khởi đại Bi mà độ chúng
Phạm vương nếu đến khuyến thỉnh
Ta Ta sẽ chuyển bánh xe diệu pháp.
Đức Phật nói với các vị Tỳ-kheo:
-Như Lai nói xong bài kệ ấy liền từ chòm lông trắng giữa hai hàng lông mày phóng ra luồng hào quang lớn chiếu sáng khắp Tam thiên đại thiên thế giới. Bấy giờ vị Thiên chủ thế giới Ta-bà là Loa Kế Phạm vương, nhờ oai thần của Phật mà biết được Thánh ý trong sự im lặng của Như Lai, nên suy nghĩ: “Ta phải mau đến chỗ Phật khuyến thỉnh Ngài khởi chuyển bánh xe chánh pháp”. Ông liền gọi chúng Phạm thiên đến nói:
-Này các vị, chúng sinh trong thế gian đối với pháp lành có thể giảm sút, đối với pháp ác có thể tăng lên. Vì sao thế? Là vì Phật đã đắc quả vị Vô thượng Bồ-đề rồi nhưng chỉ im lặng an trụ chứ không chuyển bánh xe pháp. Chúng ta phải đến đấy để khuyến thỉnh Ngài chuyển bánh xe pháp giáo hóa chúng sinh.
Thế rồi Phạm vương cùng với sáu mươi tám câu-chi vị Phạm thiên đến chỗ Phật, đảnh lễ ngang chân Phật, cung kính đi nhiễu quanh theo phía phải ba vòng rồi đứng sang một bên thưa:
-Bạch Thế Tôn, hiện nay chúng sinh trong thế gian đối với pháp lành đang bị giảm sút. Vì sao thế? Như Lai đã vì chúng sinh mà xuất gia cầu đạo Bồ-đề. Nay thành Phật rồi lại im lặng an trụ không chuyển bánh xe chánh pháp, do vậy mà chúng sinh đối với pháp lành không được tăng trưởng. Lành thay Thế Tôn, lành thay Thiện Thệ! Xin Thế Tôn vì chúng sinh mà khởi tâm đại Bi chuyển bánh xe chánh pháp. Nhiều chúng sinh có năng lực lãnh hội được pháp thâm diệu. Chỉ mong Thế Tôn chuyển bánh xe pháp.
Bấy giờ Đại phạm Thiên vương đọc bài kệ tán thán Phật:
Thắng trí Như Lai
Viên mãn tối thượng
Phóng hào quang lớn
Chiếu khắp thế gian
Dùng mặt trời tuệ
Nở hoa cõi người
Vì sao lìa bỏ
An trụ vô thanh
Phật đem pháp báu
Ban cho muôn loài
Nơi trăm ngàn kiếp
Đã từng thu nhận
Gần gũi cõi đời
Nào bỏ chúng sinh
Cúi mong Thế Tôn
Thổi loa pháp vang
Gióng trống pháp lớn
Thắp đèn pháp ngời
Tuôn mưa pháp đượm
Dựng cao cờ pháp
Đưa hết chúng sinh
Qua biển sinh tử
Bệnh nặng phiền não
Đều được diệt trừ
Lửa phiền não dữ
Làm cho dừng tắt
Chỉ rõ Niết-bàn
Đường không ưu não
Nói pháp chân thật
Mở cửa giải thoát
Khiến bao kẻ mù
Đều được pháp nhãn
Dứt hết mọi lo
Sinh lão bệnh tử
Không phải trời người
Không phải Đế Thích
Mà đoạn trừ sạch
Sinh tử phiền não
Con cùng Thiên chúng
Kính thỉnh Như Lai
Chuyển bánh xe pháp
Nguyện đem công đức
Việc khuyến thỉnh này
Đồng mong Thế Tôn
Chuyển xe chánh pháp
Giáo hóa muôn loài.
Đức Phật nói với các vị Tỳ-kheo:
-Lúc bấy giờ Thế Tôn yên lặng an trụ, Đại phạm Thiên vương cùng với chư Thiên dùng bột hương chiên-đàn và trầm thủy cõi trời cúng dường Phật xong liền biến mất.
Đức Phật bảo các vị Tỳ-kheo:
-Lúc đó Như Lai vì muốn cho thế gian tôn trọng chánh pháp, vì muốn cho diệu pháp thậm thâm được khai mở, truyền bá khắp thế gian nên đã trụ vào thiền định quan sát khắp cõi và suy nghĩ: “Pháp mà Ta đã chứng được thậm thâm vi diệu, tịch tĩnh bậc nhất rất khó lãnh hội thấu đạt, không thể lý giải theo con đường tư duy phân biệt, chỉ có chư Phật mới có thể thông tỏ. Pháp đó dạy con đường vượt qua năm uẩn để đi vào chân lý đệ nhất tức thể tánh thanh tịnh vô xứ, vô hành, bất thủ, bất xả, không thể hiện bằng tri kiến bình thường, không thể chỉ bày rõ được vô vi, vô tác, lìa xa sáu cảnh, chẳng phải là pháp mà tâm có thể ước lượng được hay diễn đạt bằng ngôn từ được, không thể hiểu theo cảm quan nghe thấy và cũng không thể quán tưởng mà hiểu được vì nó dung thông vô ngại, lìa mọi con đường sẵn có để vươn tới chốn cứu cánh, là pháp Không, Vô sở đắc, Niết-bàn tịch tĩnh. Nếu truyền dạy pháp ấy cho con người thì chắc hẳn họ không thể thấu hiểu được, chỉ uổng công mà chẳng đem lại lợi ích gì. Vì vậy ta cứ mặc nhiên an trụ.
Bấy giờ Đại phạm Thiên vương nhờ uy thần của Phật, nên lại biết Như Lai vẫn còn giữ ý tưởng im lặng, bèn đến chỗ Thích Đề-hoàn Nhân nói:
-Kiều-thi-ca, ông nay nên biết chúng sinh nơi thế gian bị cuốn trong rừng rậm sinh tử, pháp lành hiện đang giảm sút còn pháp ác lại tăng lên. Vì sao thế? Vì Như Lai không chịu chuyển xe pháp. Kiều-thi-ca, chúng ta phải cùng nhau đến chỗ Phật khuyến thỉnh Ngài, vì chư Phật Như Lai khi đắc đạo thường phải được ân cần khuyến thỉnh thì mới chuyển xe pháp, nếu không thì các Ngài cứ yên lặng an trụ. Do vậy chúng ta phải đến khuyến thỉnh Như Lai chuyển pháp luân cũng là để cho thế gian biết tôn trọng chánh pháp.
Lúc ấy Đại phạm Thiên vương cùng Thích Đề-hoàn Nhân và chư Thiên ở các cõi, Tứ Thiên vương thiên, Tam thập tam thiên, Dạ-ma thiên, Đâu-suât-đà thiên, Lạc biến hóa thiên, Tha hóa tự tại thiên, Phạm chúng thiên, Phạm phụ thiên, Quang âm thiên, Quảng quả thiên, Biến tịnh thiên, Tịnh cư thiên cho đến A-ca-ni-trấ thiên, tất cả đều uy nghi rực rỡ vào khoảng nửa đêm cùng vân tập đến rừng Đa diễn lễ Phật rồi đi nhiễu quanh theo phía tay phải ba vòng và đứng sang một bên.
Bấy giờ Thích Đề-hoàn Nhân chắp tay hướng về chỗ Phật đọc bài kệ thỉnh Như Lai chuyển xe chánh pháp:
Thế Tôn hàng phục các ma oán
Tâm luôn thanh tịnh như trăng tròn
Nguyện vì chúng sinh ra khỏi định
Đem trí tuệ sáng chiếu thế gian.
Thích Đề-hoàn Nhân đọc bài kệ xong mà Phật vẫn cứ yên lặng. Loa Kê Phạm vương nói với Thích Đề-hoàn Nhân:
-Này Kiều-thi-ca, không thể khuyến thỉnh như vậy mà được đâu.
Thế rồi Đại phạm Thiên vương liền rời tòa ngồi, vén vạt áo để lộ vai bên phải, đầu gối phải quỳ chạm sát đất, chắp tay hướng về Đức Phật nói bài kệ khuyến thỉnh:
Như Lai nay đã hàng phục ma
Trí tuệ sáng ngời chiếu khắp chốn
Thế gian căn cơ đã thuần thục
Cúi mong Thế Tôn rời định cảnh.
Khi ấy Thế Tôn nói với Đại phạm Thiên vương:
-Pháp mà Ta đã chứng được thậm thâm vi diệu, tịch tĩnh bậc nhất, rất khó lãnh hội thấu đạt, không thể lý giải theo con đường tư duy phân biệt, chỉ có chư Phật mới có thể thông tỏ. Pháp đó dạy con đường vượt qua năm uẩn để đi vào chân lý đệ nhất tức thể tánh thanh tịnh vô xứ, vô hành, bất thủ, bất xả, không thể hiểu hết bằng tri kiến bình thường, không thể chỉ bày rõ được vô vi, vô tác, lìa xa sáu cảnh; chẳng phải là pháp mà tâm có thể ước lượng được hay diễn đạt bằng ngôn từ được, không thể hiểu theo cảm quan nghe thấy và cũng không thể quán tưởng mà hiểu được vì nó dung thông vô ngại, lìa mọi con đường sẵn có để vươn tới chốn cứu cánh, là pháp Không, Vô sở đắc, Niết-bàn tịch tĩnh. Nếu truyền rộng pháp ấy cho mọi người thì chắc hẳn họ sẽ không thể thấu hiểu được. Vì mà Ta thường suy niệm hai bài kệ sau:
Đạo Ta chứng ngược dòng
Thâm diệu khó nhận biết
Kẻ mù tối không hiểu
Nên im lặng vô ngôn
Chúng sinh nơi cõi thế
Đắm theo năm cảnh, trần
Thật khó tỏ pháp Ta
Nên Ta im lặng mãi.
Lúc đó Phạm vương, Đế Thích cùng hội chúng chư Thiên nghe Phật nói kệ như vậy lòng rất lo buồn, biến mất khỏi nơi ấy.
Đức Phật nói với chư vị Tỳ-kheo:
-Vào một hôm nọ, Đại phạm Thiên vương nhận thấy nhiều nhóm ngoại đạo tại nước Ma-già-đà đề xướng các thuyết về đất, nước, lửa, gió rồi tranh biện, giải thích theo tà kiến mà cho là chánh đạo. Chúng sinh ở đấy cần được hóa độ, mà Đức Phật vẫn còn yên lặng như trước, nên đã thân hành đến chỗ Phật, đảnh lễ ngang chân Phật, nhiễu quanh ba vòng, quỳ gối bên phải chạm sát đất, chắp tay cung kính đọc bài kệ khuyến thỉnh:
Nước Ma-già-đà
Nhiều đám ngoại đạo
Thảy đều rao truyền
Gieo rắc tà kiến
Cúi mong Mâu-ni
Mở pháp cam lộ
Thanh tịnh bậc nhất
Để chúng được nghe
Pháp của Phật chứng
Thanh tịnh dứt nhiễm
Đưa đến bờ giác
Chẳng tăng chẳng giảm
Ở trong ba cõi
Tôn quý hơn hết
Như núi Tu-di
Hiện rõ trên biển
Vì khắp muôn loài
Khởi lòng xót thương
Tế độ chúng sinh
Sao lại từ bỏ
Như Lai gồm đủ
Mọi thứ công đức
Dũng lực vô úy
Cúi xin trừ tận
Khổ não chúng sinh
Trời người thế gian
Bị phiền não bệnh
Bức bách muôn nẻo
Xin Phật từ bi
Xót thương tế độ
Chỉ có Như Lai
Là chốn quy ngưỡng
Trời người từ xưa
Được theo Như Lai
Nẻo thiện đã thuần
Đều cầu giải thoát
Nếu được nghe pháp
Đủ sức nhận lãnh
Cúi mong Như Lai
Nên mau truyền bá
Vì vậy con nay
Xin Bậc Tinh Tấn
Khai bày pháp diệu
Khiến thấy nẻo chánh
Ví như mây dày
Mưa tuôn khắp chốn
Mưa pháp Như Lai
Lại cũng như vậy
Thấm nhuần tất cả
Chúng sinh khát khao.
Còn bao nhiêu kẻ
Tà kiến bủa vây
Trong rừng sinh tử
Trôi lăn bao kiếp
Chưa được cứu độ
Mù không mắt tuệ
Nên sa hầm sâu
Duy nguyện Đạo Sư
Khai rõ đường chánh
Thí pháp cam lộ.
Phật đâu dễ gặp
Như hoa Ưu-đàm
Cúi mong độ thoát
Bao kẻ lạc loài.
Như Lai từ xưa
Phát nguyện rộng lớn
Tự độ hoàn tất
Sẽ độ chúng sinh
Xin đem pháp sáng
Trừ mọi tối tăm
Chỉ Phật đại Từ
Nào quên bản nguyện.
Như Sư tử rống
Như sấm rền vang
Xin vì chúng sinh
Chuyến bánh xe pháp.
Bấy giờ, Thế Tôn dùng Phật nhãn quan sát căn tính thượng, trung, hạ của tất cả chúng sinh, nhận thấy có thể gồm vào ba nhóm là chánh, tà và bất định. Cũng như mỗi người đến một ao nước trong trẻo thấy trong ao có nhiều cây cỏ, hoặc còn chìm dưới mặt nước, hoặc vừa nhú lên ngang mặt nước, hoặc vươn lên khỏi mặt nước, ba loại đó đều phân biệt rất rõ ràng. Như Lai quan sát căn tính bậc thượng, trung và bậc hạ của tất cả chúng sinh cũng giống như vậy. Khi ấy Như Lai suy nghĩ: “Nếu ta thuyết pháp hoặc không thuyết pháp thì đối với loại chúng sinh tà kiến họ cũng chẳng biết gì; còn đối với chúng sinh có chánh kiến nếu ta thuyết pháp hoặc không thuyết pháp thì họ cũng đều thông tỏ. Chỉ còn đối với loại chúng sinh bất định, nếu ta thuyết pháp thì họ thông tỏ, còn không thuyết pháp thì họ không biết đâu nương tựa. Này các Tỳ-kheo, khi đó Như Lai chú ý đến loại chúng sinh bất định ấy nên khởi tâm đại Bi, tuyên bố:
-Ta sẽ vì loại chúng sinh đông đảo này chuyển xe pháp khiến cho pháp bảo có mặt trong cõi đời và cũng vì Đại phạm Thiên vương đã hết lòng khuyên thỉnh.
Thế Tôn đọc bài kệ nói với Phạm vương:
Ta nay vì ông thỉnh
Sẽ mưa Pháp cam lộ
Xuống khắp cõi thê gian
Trời người cùng rồng thần
Những người tâm định tín
Nên lãnh hội chánh pháp.
Lúc đó Đại phạm Thiên vương nghe Phật nói bài kệ xong thì vui mừng tột độ cho là điều chưa từng có, liền đến trước đảnh lễ ngang chân Phật đi nhiễu quanh vô số vòng rồi biến mất.
Này các Tỳ-kheo, bấy giờ Địa thần gọi thần Hư không và nói lớn:
-Như Lai nay đã nhận lời khuyến thỉnh của Đại phạm Thiên vương sắp chuyển bánh xe pháp. Như Lai vì tâm đại Từ bi thương xót muốn hóa độ tất cả chúng sinh đem lại lợi ích cùng mọi an lạc cho họ, vì muốn làm tăng trưởng cõi trời người, giảm thiểu các cõi ác cũng như chỉ cho chúng sinh đạt đến giải thoát nên đã chịu chuyển bánh xe chánh pháp.
Địa thần nói xong thì chỉ trong một niệm thần Hư không đã nghe rõ và truyền đi khắp chôn đến tận cõi trời A-ca-ni-trá.
Này các Tỳ-kheo, khi ấy có bốn vị Thiên tử bảo vệ cây Bồ-đề tên là Ái Pháp, Quang Minh, Lạc Pháp và Pháp Hành cùng đến trước chỗ Phật, đảnh lễ ngang chân Phật và thưa:
-Bạch Thế Tôn, Ngài sẽ chọn nơi nào để chuyển pháp luân?
Như Lai đáp:
-Ta sẽ ở vườn Lộc dã tức chốn Tiên nhân đọa xứ thuộc nước Ba-la-nại để chuyển bánh xe chánh pháp.
Các vị Thiên tử lại hỏi:
-Bạch Thế Tôn, cảnh trí trong vườn Lộc dã thuộc nước Ba-la-nại ấy kém phần tươi đẹp, cây rừng khe suối cũng không nổi tiếng lắm, chỉ có đất đai phì nhiêu, dân cư đông đúc, thành ấp cũng nhiều, ao hồ trong sạch mát mẻ, vậy vì lý do gì mà Như Lai chọn nơi ấy để chuyển pháp luân?
Khi ấy Đức Phật nói với các vị Thiên tử:
-Các ông không nên nói như thế. Vì sao vậy? Ta nhớ lại từ kiếp xa xưa, đã từng lần lượt cúng dường đến sáu mươi ngàn ức na-do-tha chư Phật, Như Lai tại thành Ba-la-nại và có tới chín vạn một ngàn câu-chi Đức Phật đã chọn nơi đó để chuyển bánh xe chánh pháp. Tất cả pháp vi diệu thậm thâm được chư Phật giảng tại đó. Do vậy đất này luôn được Trời, Rồng, Dạ-xoa, La-sát, Càn-thát-bà hộ trì. Đó là lý do khiến Như Lai chọn vườn Lộc dã làm nơi chuyển bánh xe chánh pháp vậy.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 18.117.12.181 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.