Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@pgvn.org
 Phẩm 13: ÂM NHẠC PHÁT KHỞI GIÁC NGỘ
    Lúc bấy giờ, Đức Phật nói với các vị Tỳ-kheo:
    -Bồ-tát sống nơi vương cung, ý muốn xuất gia. Tám chúng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, cùng với Phạm thích Tứ Thiên vương thường đem đủ các thứ cần dùng cúng dường Bồ-tát, hoan hỷ ca ngợi. Một hôm chư Thiên, Rồng, thần Càn-thát-bà... mỗi vị đều tự suy nghĩ: “Bồ-tát xuất hiện cõi đời là nhằm hoàn thành việc cứu độ chúng sinh, dùng Tứ nhiếp pháp để nhiếp hóa tất cả. Nay căn cơ chúng sinh đã thuần phục, sao Bồ-tát cứ ở mãi nơi thâm cung mà chẳng xuất gia thành đạo để độ họ, nếu chẳng kịp thời, e rằng tâm thiện của chúng sinh sẽ thay đổi, khó giữ, sau này thành Bậc Chánh Giác không thể độ được”. Suy nghĩ như vậy rồi, tất cả đồng đến trước mặt Thái tử đảnh lễ với lòng hy vọng thưa:
    -Làm thế nào chúng tôi mới được thấy Thái tử xuất gia học đạo, ngồi nơi tòa Bồ-đề hàng phục chúng ma, thành Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác, có đủ Mười lực, Bốn vô sở úy, Mười tám pháp bất cộng của chư Phật, ba phen mười hai lần chuyển Pháp luân vô thượng, hiện đủ thần thông thâm diệu để chúng sinh nhờ đó mà đạt được an lạc trọn vẹn?
    Đức Phật bảo các vị Tỳ-kheo:
    -Bồ-tát trải qua nhiều kiếp trong cõi sinh tử đều không do người khác giác ngộ mà luôn tự mình dạy lấy mình, thông tỏ phương pháp tu tập của tất cả pháp hạnh lành ở thế gian và xuất thế gian, luôn biết vận dụng thần thông diệu dụng đúng thời, chưa từng khiến cho chúng sinh thoái chuyển hay làm mất căn lành của họ, giống như thủy triều ở biển cả chẳng khi nào lẫn lộn, dùng trí tuệ thần thông hiểu thấu mọi căn cơ của chúng sinh, lúc nào có thể thâu nhiếp làm chuyển hóa đưa đến các lợi ích, lúc nào thì nên hàng phục chế ngự, lúc nào sẽ độ thoát, lúc nào thì nên lìa bỏ, lúc nào nên thuyết pháp, lúc nào cần im lặng, lúc nào cần tu tập trí tuệ, lúc nào phải tụng niệm, lúc nào cần tư duy, lúc nào phải ở riêng một chỗ tu tập, lúc nào thì đến chúng hội Sát-đế-lợi, Bà-la-môn hoặc đến với chúng hội Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, cùng với Phạm vương, Đế Thích, Hộ thế, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo- ni, Ưu-bà-tắc, ưu-bà-di...
    Đức Phật nói với các vị Tỳ-kheo:
    -Tất cả các vị Bồ-tát mang thân mạng sau cùng đều xuất gia, luôn được thần lực của mười phương vô biên a-tăng-kỳ thế giới chư Phật, Như Lai hộ niệm, vì thế nơi vương cung luôn có tiếng đàn ca trống nhạc phát ra âm thanh vi diệu khuyến thỉnh Bồ-tát, cất lên bài kệ:
    Trong cung thể nữ luôn đàn ca
    Muốn cho Bồ-tát mãi đắm chìm
    Mười phương chư Phật đầy thần lực
    Biến âm thanh kia thành pháp ngôn
    Ngài từng thấy chúng sinh đau khổ
    Phát nguyện làm bậc chúng tựa nương
    Lành thay xưa từng tu vạn hạnh
    Nay chính là lúc nên xuất gia
    Nhớ xưa Ngài đã vì muôn loài
    Thân mạng tay chân chẳng hề tiếc
    Trì giới, nhẫn nhục với tinh cần
    Thiền định trí tuệ đều tu tập
    Mong đạt Bồ-đề, quả thắng phước
    Toàn thể thế gian ai sánh kịp
    Chúng sinh đầy những tham, sân, si
    Dùng đạo từ bi để nhiếp phục
    Ngài ở nơi tà kiến, ngu si
    Phát tâm đại Bi vô cùng tận
    Tích chứa vô biên phước đức trí
    Thiền định thanh tịnh khởi thần thông
    Thân quang chiếu khắp mười phương cõi  
    Như trăng sạch mây luôn ngời sáng
    Vô lượng khúc thanh âm kỳ diệu
    Khuyến thỉnh Bồ-tát mau xuất gia.
    Đức Phật nói với các vị Tỳ-kheo:
    -Bấy giờ Bồ-tát ngự nơi cung điện vô cùng cao sang, tất cả mọi vật cần dùng luôn đầy đủ, điện đường lầu gác trang hoàng bằng nhiều thứ bảo vật; cờ phướn, dù lọng bày biện khắp nơi; các thứ lưới báu, chuông quý cũng như vô số rèm gấm thêu đính bằng ngọc Anh lạc treo giăng mọi chốn; mọi cầu lớn nhỏ bắc qua các lối đi đều dùng ván quý làm thành; nơi nơi chốn chốn đều có lò hương quý xông các loại danh hương; trên cao là những loại ngọc quý kết chùm, màn che giăng kín; nước trong các ao hồ luôn trong mát; trong hồ có đủ loại chim quý, nào Vịt trời, Nhạn, Uyên ương, Khổng tước, Phỉ thúy, Ca-lăng-tần-già, Cộng mạng... luôn cất tiếng phát ra âm thanh dịu dàng; nền đất đều dùng ngọc lưu ly làm thành, tỏa ánh sáng trong dịu ví như gương soi, xinh đẹp trang nghiêm không thể diễn tả hết được, trời người trông thây đều hoan hỷ. Vào một hôm, các thể nữ đang khảy đàn ca hát, nhưng do thần lực của mười phương chư Phật nên âm thanh ấy trở thành bài tụng:
    Xưa kia Thế Tôn phát nguyện lớn
    Thương xót chúng sinh không nơi nương
    Nếu chứng Đẳng giác dùng cam lộ
    Cứu độ muôn loài lìa khổ não
    Như xưa chư Phật tu các hạnh
    An trụ chốn núi rừng yên tĩnh
    Chứng đắc Như Lai Nhất thiết trí    
    Thấy người nghèo đói thí tài bảo
    Thế Tôn xưa kia từng đại thí
    Tiền bạc, vật báu đều bỏ lìa
    Vì cứu muôn loài mưa pháp vũ
    Nay đã đúng thời nên xuất gia.
    Đã trì tịnh giới không sai phạm
    Tự thân nhiều kiếp thường tu tập
    Giải thoát muôn loài khỏi não phiền
    Nay đúng là lúc nên xuất gia.
    Trăm ngàn kiếp luôn tu nhẫn nhục
    Thế gian lời ác đều nhận lãnh
    Thường dùng nhẫn nhục để chế ngự
    Nay đã đúng thời nên xuất gia.
    Tinh tấn đã từng luôn kiên định
    Tu tập bao đời trừ chúng ma
    Dứt sạch hết thảy ba đường ác
    Nay đúng là lúc nên xuất gia.
    Từng tu thiền định trừ cấu nhiễm
    Tưới mưa cam lộ khắp quần sinh
    Thế gian đói khát được sung mãn
    Nay đã đúng thời nên xuất gia.
    Là Bậc Đại trí tuệ vô biên
    Diệt hết mê lầm cùng tà kiến
    Xưa từng tư duy phát đại nguyện
    Nay đúng là lúc nên xuất gia.
    Bao nhiêu kiếp xưa từng tu tập
    Từ, Bi, Hỷ, Xả, vô lượng tâm
    Đã đem tất cả thắng hạnh ấy
    Ban cho muôn loài khắp thế gian
    Thể nữ đàn ca thật dịu êm
    Hy vọng Bồ-tát mãi đắm chìm
    Chư Phật mười phương đầy thần lực
    Nên khiến dục âm thành pháp âm
    Thế Tôn xưa từng là quốc vương
    Giữa đường từng gặp người hành khất
    Xin cả đất nước cùng ngôi vua
    Vui lòng xả bỏ không hối hận
    Thế Tôn từng làm Bà-la-môn
    Tên là Du-ca rất tinh tấn
    Từ hiếu phụng dưỡng cha mẹ hiền
    Dẫn dắt Bà-la-môn vô số
    Cùng bao chúng sinh về nẻo thiện
    Lìa thân mạng ấy sinh cõi trời
    Thế Tôn xưa từng là Tiên nhân
    Dấy tâm đại Bi không oán hận
    Tất cả vết thương đều lành lặn
    Xưa từng là vị Tiên Xa-ma
    Cùng cha mẹ khổ hạnh núi cao
    Vua bắn tên độc trúng vào người.
    Từ bi không hận vui vẻ chết
    Thế Tôn từng làm hươu sắc vàng
    Thấy người qua sông bị chìm đắm
    Tâm từ phát khởi nên cứu giúp
    Sau bị phản bội không giận dữ
    Thế Tôn xưa từng là vị Tiên
    Châu báu nhầm rơi xuống biển cả
    Dấy tâm tinh tấn vượt hiểm nguy
    Long vương kinh hoảng hoàn châu ngọc
    Nhớ xưa từng là một Tiên nhân
    Tâm Từ thương chim nên che chở
    Có kẻ theo đòi lại chim ấy
    Tự cắt thịt mình mà đổi lấy
    Cùng chim nặng nhẹ thảy tương đồng
    Vì chim nên cuối cùng vong mạng
    Lại nhớ xưa là tiên Xa-ma
    Có người đến hỏi cây bao lá
    Khéo biết ít nhiều đều đáp rõ
    Người ấy chẳng tin, trời chứng mình
    Nhớ xưa từng là chim Anh vũ
    Đế Thích hóa người đến hỏi vặn
    Chỗ cây trú ngụ đã héo khổ
    Chẳng lìa, còn chỗ đâu mà ở?
    Đáp rằng nhờ đó mới lớn khôn
    Đế Thích nghĩ rằng việc hy hữu
    Liền khiến cây khô thành tốt tươi
    Là bậc thọ trì bao đức lành
    Chúng sinh thế gian được yên ổn
    Nương biển công đức Phật vô biên
    Như thế thần lực mười phương Phật
    Ngợi ca công đức của Bồ-tát
    Biến các khúc thể nữ đàn ca
    Khuyến thỉnh Bồ-tát mau xuất gia.
    Nhiều kiếp Thế Tôn phát nguyện lớn
    Dứt sạch sinh tử khổ chúng sinh
    Xin nhớ hạnh tu từ bao kiếp
    Nay đúng là lúc nên xuất gia.
    Thế Tôn từng trải vô biên kiếp
    Đem bao châu báu cùng vàng bạc
    Thân mạng, ngôi vua cùng vợ con
    Hoan hỷ bố thí người cầu khẩn
    Từng là thủ lĩnh Tràng Nha vương
    Có trăng, đèn, tóc báu, từ bi
    Mắt dịu dũng mãnh hơn các vua
    Đều do thần lực hành bố thí
    Đã từng nhiều kiếp siêng gìn giữ
    Giới luôn thanh tịnh tợ minh châu
    Kiên tâm gìn giữ không tì vết
    Cũng như Mao ngưu quý đuôi mình
    Thế Tôn từng là đại Tượng vương
    Thợ săn bắn tên trúng thân
    Ngài vẫn dấy tâm Từ không thù oán
    Cho hết sáu ngà giữ giới tịnh
    Thế Tôn cũng từng bao nhiêu kiếp
    Quyết tu nhẫn nhục chịu khổ đau
    Thế Tôn xưa từng làm thân gấu
    Thấy người đói lạnh nên dưỡng nuôi
    Kẻ ấy ra đường gặp thợ săn
    Cùng trở lại giết, tâm chẳng hận
    Ngài đã tinh tấn không thoái chuyển
    Vì đạt giác ngộ tu vạn hạnh
    Ma vương, ma quân đều hàng phục
    Nay đã đúng thời nên xuất trần.
    Thế Tôn xưa từng là ngựa quý
    Ruổi dong khắp nẻo lợi ích ban
    Cõi nơi nước Dạ-xoa cứu chúng sinh
    An trụ muôn loài nơi vô úy
    Vô biên kiếp tinh tấn như vậy
    Trí lực thần thông trừ phiền não
    Tâm luôn nhu hòa trụ thiền định
    Đem lợi ích đến cho chúng sinh
    Nhớ xưa từng là vị quốc vương
    Khiến mọi chúng sinh hành Thập thiện
    Do nhân chúng sinh tu hạnh lành
    Sau khi quá vãng sinh Phạm thế
    Bồ-tát biết rõ thiện, bất thiện
    Thông tỏ căn tánh mọi chúng sinh
    Trí tuệ thấu đạt mọi nghĩa lý
    Nay đã đúng thời nên xuất gia.
    Xin Ngài thương chúng sinh tà kiến
    Chìm trong sinh, lão, bệnh, tử khổ
    Dứt sạch nẻo tử sinh, hiểm ác
    Chỉ đường đến chân thật Niết-bàn
    Như thế tất cả mười phương Phật
    Ca ngợi công đức của Bồ-tát
    Biến mọi khúc thể nữ đàn ca
    Khuyến thỉnh Bồ-tát mau xuất gia.
    Xưa từng là vua tên Thắng Phước
    Thi-lợi-ni-di-ngật-sắc-trá
    Cùng Kê-tát-lê-khiên-da-nhã
    Trí đạo bừng sáng tâm kiên cố
    Giới như trăng tỏ, đức càng cao
    Vì trì ân bỏ uy đức lớn
    Làm tiên hình nguyệt thật oai hùng
    Giác tâm thêm lớn cầu diệu pháp
    Hạnh thù thắng Nguyệt Quang Thiện Trụ
    Rộng thí cho người khắp địa trần
    Thí tóc báng bỏ thân thanh tịnh
    Vô lượng kiếp vua luôn làm thế
    Điều khó xả Ngài đều xả được
    Được chư Như Lai tưới mưa pháp
    Xưa từng được gặp hằng sa Phật
    Ngài đều dốc tu không lầm lỗi
    Mong đạt giác ngộ độ muôn loài
    Nay đã đúng thời mau xuất gia.
      Việc xưa chưa tường tận
      Gặp Phật Kiên Cố Hoa
      Chỉ một niệm thanh tịnh
      Thấy Tỳ-lô-xá-na
      Lại gặp Phật Chiên-đàn
      Dâng cúng dường cỏ, đuốc
      Khi Phật đi vào thành
      Dùng vàng mịn rải đất
      Gặp Phật Pháp Tự Tại
      Thuyết pháp khen lành thay
      Gặp Phổ Quang Như Lai
      Liền niệm Nam-mô Phật
      Thấy Phật Đại Tự Quang
      Dùng hoa vàng cúng dường
      Gặp Quang Tràng Như Lai
      Dùng thức ăn hiến cúng
      Lại thấy Phật Trí Tràng,
      Vô ưu hoa Như Lai
      Đem cháo để cúng dường
      Phát đủ thệ nguyện lớn
      Lại gặp Phật Bảo Phát
      Dùng đèn sáng cúng dường
      Thấy Hoa Quang Như Lai
      Dùng thuốc quý dâng cúng
      Lại gặp Phật Vô Úy
      Chuỗi Anh lạc hiến dâng
      Bà-chi-gia-la Phật
      Cúng Ba-đầu-ma báu
      Thấy Phật Ta-la Vương
      Dừng sữa tươi cúng dường
      Thí Danh Xứng Như Lai
      Phụng cúng tòa Sư tử
      Lại gặp Phật Chân Thật
      Và Cao Trí Như Lai
      Thường đảnh lễ đi nhiễu
      Lại gặp Phật Long Thí
      Dùng y phục cúng dường
      Thấy Phật Tăng Thượng Hạnh
      Liền cúng chiên-đàn hương
      Lại thấy Phật Trí Sa
      Cúng dường y bát quỷ
      Lại thấy Phật Đại Nghiêm
      Dâng hoa Ưu-bát-la
      Lại gặp Phật Quang Vương
      Cúng dường bao vật báu
      Lại thấy Phật Thích-ca
      Dâng hoa sen bằng vàng
      Lại thấy Phật Túc Vương
      Ngợi khen đức hạnh Phật
      Lại thấy Phật Nhật Diện
      Dâng cúng hoa Trang nhĩ
      Lại gặp Phật Diệu Ý
      Rải cúng hoa Chân đầu
      Lại gặp Phật Giáng Long
      Dâng cúng Ma-ni bảo
      Lại gặp Phật Tăng ích
      Dâng cúng nhiều lọng quý
      Lại gặp Phật Dược Sư
      Dâng cúng tòa thắng diệu
      Gặp Phật Sư Tử Tràng
      Phụng cúng các lưới báu
      Lại gặp Phật Trì Đức
      Dùng âm nhạc cúng dường
      Lại gặp Phật Ca-diếp
      Dâng cúng mọi bảo hương
      Lại thấy Phật Phóng Quang
      Dùng hoa thơm dâng cúng
      Lại gặp Phật A Bỉ
      Dâng cúng đài thắng diệu
      Lại thấy Phật Thế Cúng
      Dâng hiến nhiều vòng hoa
      Lại gặp Phật Đa-già
      Ngôi Thiên vương cũng bỏ
      Lại gặp Phật Kê Giáng
      Dâng cúng nhiều diệu hương
      Lại gặp Phật Đại Quang
      Xả thân để cúng dường
      Lại gặp Phật Thượng Hoa
      Hiến cúng nhiều bảo vật
      Lại gặp Phật Pháp Tràng
      Tung diệu hoa hiến cúng
      Lại gặp Phật Tác Quang
      Cúi dâng hoa Ưu-bát
      Hết lòng để cúng dường.
    Như thế đối với vô lượng Phật
    Mỗi mỗi đều dâng để cúng dường
    Cúng dường tất cả không thiếu sót
    Mong Ngài nhớ lại trong quá khứ
    Đã từng cúng dường chư Như Lai
    Chúng sinh khổ não không chỗ nương
    Xin mau nhớ nghĩ xuất gia gấp.
    Nhớ xưa Ngài gặp Phật Nhiên Đăng
    Chứng thanh tịnh vô sinh nhẫn pháp
    Cùng năm thần thông không thoái chuyển
    Từ đó gắn bó chốn già-lam
    Hết lòng phụng hiến vô số Phật
    Các pháp hữu vi đều vô thường
    Ngôi vua, năm dục không còn mãi
    Chúng sinh đang bị khổ bức bách
    Nguyện mau xuất gia cứu thế nhân.
    Bao thanh âm thể nữ đàn ca
    Để lòng Bồ-tát thêm mê hoặc
    Thần lực chư Phật khắp mười phương
    Làm cho phát ra muôn diệu pháp.
      Phiền não ba cõi
      Tợ như lửa nung
      Mê hoặc chẳng lìa
      Thường bị thiêu đốt
      Ví như mây nổi
      Phút chốc chẳng còn
      Hợp rồi lại tan
      Như nơi du hý
      Niệm niệm qua đi
      Như làn điện chớp
      Biến mất rất mau
      Như nước chảy nhanh
      Do ái, vô minh
      Chuyển luân năm nẻo
      Xoay vòng không dứt
      Như bánh xe nung
      Đắm trong năm dục
      Như chim mắc lưới
      Dục như oán tặc
      Thật đáng sợ thay
      Kẻ ham năm dục
      Như giẫm trên dao
      Người đắm năm dục
      Như ôm cây độc
      Bậc Trí bỏ dục
      Như bỏ chốn nhơ
      Năm dục tối tăm
      Khiến cho mất niệm
      Thường là đáng sợ
      Nhân của khổ sầu
      Luôn mãi tử sinh
      Tạo muôn trói buộc
      Do đó nổi trôi
      Theo dòng sinh tử
      Bậc Thánh xả nó
      Như bỏ đờm dơ
      Như gặp chó dữ
      Mau chân để tránh
      Như dao bôi mật
      Như đầu độc xà
      Như giáo kích nhọn
      Như bình đầy phân
      Nếu chẳng rời bỏ
      Ví như chó đói
      Cạp mãi xương khô
      Năm dục không thật
      Do vọng kiến sinh
      Như trăng trong nước
      Như tiếng trong hang
      Đều là ảo ảnh
      Như bọt nước trào
      Theo phân biệt sinh
      Nào phải pháp thật
      Tuổi còn trai trẻ
      Ngu si đắm ái
      Cho là có mãi
      Nên chẳng chán rời
      Già bệnh chết tới
      Thanh tráng cũng tan
      Gặp bao điều ác
      Kẻ có tiền của
      Chẳng biết lìa xa
      Khi năm nhà mất
      Liền sinh khổ sầu
      Ví như cây lớn
      Hoa trái đầy cành
      Người người hái phá
      Cành lá tan tành
      Nếu chẳng đoái hoài
      Bệnh nghèo già yếu
      Cũng đều như vậy
      Ví như chim dữ
      Thế gian đều ghét
      Như lửa sấm sét
      Đốt cháy cây to
      Như nhà mục nát
      Đổ nhào nay mai
      Có pháp xa lìa
      Sinh lão bệnh tử
       Mong Ngài xuất gia
      Vì cả muôn loài
      Nói rõ pháp ấy
      Sinh lão bệnh tử
      Trói buộc chúng sinh
      Như Ma-lâu-ca
      Quấn cội Ni-câu
      Khiến cây không lớn
      Gốc bị hư hoại
      Ví như sương buốt
      Làm rừng cây xác
      Tuổi trẻ sắc đẹp
      Rồi sẽ hoại suy
      Ví như lửa núi
      Tràn khắp bốn phương
      Muôn thú trong ấy
      Khổ sở kinh hoàng
      Trong cõi tử sinh
      Cũng lại như vậy
      Nguyện mau xuất gia
      Cứu thoát muôn loài.
      Từng quán bệnh khổ
      Sầu hại chúng sinh
      Ví như rừng hoa
      Vì sương gầy héo
      Từng quán chết khổ
      Ân ái đoạn lìa
      Quyến thuộc phân chia
      Không còn gặp lại
      Ví như sông chảy
      Hoa rụng trôi theo
      Sức lực hao mòn
      Đâu còn tự tại
      Riêng mình một bước
      Theo nghiệp mà đi
      Thọ mạng dẫu lâu
      Tránh sao khỏi chết
      Như Kim sí điểu
      Xơi thịt loài Rồng
      Cũng như Tượng vương
      Bị Sư tử hại
      Như cá Ma-kiệt
      Bụng nuốt bao loài
      Cũng như lửa dữ    
      Đốt cháy rừng cây
      Mong Ngài nhớ lại
      Phát nguyện rộng lớn
      Nay đã đúng thời
      Nên mau xuất gia.
      Thể nữ nhạc ca
      Mê hoặc Bồ-tát
      Thần lực chư Phật
      Biến thành pháp âm  
      Các pháp hữu vi
      Đều sẽ hoại diệt
      Như điện trên không
      Hiện ra rồi tắt
      Cũng như ngói bể
      Như vật tạm dùng
      Như tường cỏ mục
      Cũng như bờ sỏi
      Nương theo nhân duyên
      Đều không chắc thật
      Như đèn trước gió
      Như bọt nước tụ
      Như bọt nước tung
      Giống như cây chuối
      Thân chẳng vững bền
      Như tuồng ảo hóa
      Như thuật Không quyền
      Luôn luôn thay đổi
      Kẻ ngu chẳng tỏ
      Vọng sinh đắm tham
      Ví như sức người
      Cùng lấy Ma-tỷ
      Hòa hợp quấn gỗ
      Mới làm thành dây
      Lìa ra một mối
      Dây kia chẳng thành
      Mười hai nhân duyên
      Phân ra từng phần
      Quá hiện vị lai
      Không có thể tánh
      Muốn mà chẳng được
      Cũng lại như trên
      Ví như hạt giống
      Nảy lên thành mầm
      Mầm và hạt giống
      Chẳng một chẳng hai
      Do từ vô minh
      Liền sinh các hành
      Vô minh và Hành
      Cũng lại như thế
      Bất tức bất ly
      Thể tánh không tịch
      Hiểu rõ nhân duyên
      Cầu không thể được
      Ví như ấn bùn
      Bùn không mang dấu
      Trong bùn không dấu
      Cần dùng bùn nặn
      Thành tượng được thấy
      Căn cảnh nương nhau
      Sinh ra nhãn thức
      Căn, cảnh, thức hợp
      Gọi là năng kiến
      Cảnh không ở thức
      Thức chẳng ở cảnh
      Trong cảnh, thức, căn
      Vốn không chỗ thấy
      Phân biệt vọng chấp
      Cảnh giới cùng sinh
      Bậc Trí quan sát
      Tướng trạng tuyệt không
      Đều như mộng ảo
      Ví như kéo lửa
      Sức người, nhùi, cây
      Ba món hòa hợp
      Lửa liền khởi sinh
      Trong ba pháp ấy
      Vốn không có lửa
      Hòa hợp tạm có
      Gọi là chúng sinh
      Với đệ nhất nghĩa
      Đều chẳng thể thành
      Ví như yết hầu
      Cùng với lưỡi, môi
      Tác hợp thành tiếng
      Mỗi thứ phân ra
      Tiếng không thể có
      Các duyên hòa hợp
      Mới tạo âm thanh
      Bậc Trí quán thanh
      Niệm niệm nối tiếp
      Nào phải pháp thật
      Như tiếng hang vang
      Thật không thực có
      Như đàn không hầu
      Dây, vật cùng ta
      Hòa hợp phát tiếng
      Vốn không đến đi
      Ở trong các duyên
      Cầu tiếng chẳng được
      Lìa duyên cầu tiếng
      Chẳng thể được đâu
      Các uẩn trong ngoài
      Thảy đều vắng lặng
      Không Ngã không Nhân
      Cũng không Thọ mạng
      Nhớ từ xa xưa
      Gặp Phật Nhiên Đăng
      Chứng đắc tối thắng
      Pháp diệu chân thật
      Nay mong Bồ-tát
      Nên vì muôn loài
      Rưới pháp cam lộ
      Làm cho sung mãn.
      Đức Phật nói với các vị Tỳ-kheo:
    -Bồ-tát nghe rõ bài kệ ấy rồi, chuyên tâm chánh niệm hướng về Bồ-đề chẳng lúc nào lơ là. Vì sao vậy? Vì Bồ-tát trải qua nhiều kiếp sinh tử luôn tôn trọng cung kính cúng dường chánh pháp cùng các bậc thầy diễn thuyết chánh pháp; phát sinh đức tin thanh tịnh, vững chắc đối với chánh pháp; ham thích và an trụ trong chánh pháp; lắng nghe chánh pháp, tâm không hề chán nản, cho là đủ. Từ đó khai ngộ chúng sinh, đem chánh pháp ban bố cho họ khiến họ sinh lòng tôn quý sâu xa; vì họ mà diễn thuyết không mong báo đáp; không thuyết pháp vì cầu tiền tài, vật báu; vì họ mà thuyết pháp, chưa từng có tâm sẻn pháp, luôn tinh tấn dũng mãnh, một lòng tinh cần cầu pháp. Pháp là nơi nương tựa, bảo vệ giữ gìn pháp, trụ nơi nhẫn nhục tu các hạnh Bát-nhã, thấu đạt các phương tiện.
    Đức Phật bảo các vị Tỳ-kheo:
    -Bồ-tát trải qua nhiều kiếp luôn xa lìa những tai hại của năm dục ở thế gian, chỉ vì muốn thành tựu sự nghiệp độ sinh nên thị hiện ở cảnh giới tham dục này; tích chứa làm tăng trưởng năng lực của tất cả căn lành, phước đức thù thắng; thị hiện sống hưởng thụ trong cảnh năm dục sung túc, đầy đủ, đẹp đẽ nhưng tâm luôn tự tại. Bồ-tát bấy giờ nhớ lại những thệ nguyện từ xa xưa, do những thệ nguyện ấy mà luôn tư duy về Phật pháp. Tất cả các sự việc quá khứ như hiện ra trước mắt, vì vậy Bồ-tát khởi tâm đại Bi quán sát thế gian, nhận thấy giàu sang tột cùng cũng sẽ trở thành hoại diệt; lại quan sát cảnh sinh tử nhiều phiền não xấu ác nguy hiểm, kinh sợ muốn mau trừ diệt chúng để nhập Đại Niết-bàn.
    Đức Phật nói với các vị Tỳ-kheo:
    -Từ lâu, Bồ-tát đã rõ mọi khổ lụy sinh tử nên chẳng hề tham đấm, chỉ vui thích mong cầu công đức chân thật của các Bậc Như Lai, nương nơi cảnh A-lan-nhã tịch tĩnh, tâm thường an lạc, tự làm lợi ích cho mình và đem lại lợi ích cho người. Đối với đạo Vô thượng, Bồ-tát luôn dũng mãnh tinh tấn vì muốn cho tất cả chúng sinh đều được an lạc, được lợi ích, được tịch tĩnh, đạt đến giải thoát. Bồ-tát thường khởi tâm đại Từ bi, dùng Bốn nhiếp pháp để nhiếp phục chúng sinh không hề mệt mỏi, xem chúng sinh như thể con mình, đối trước mọi cảnh tâm không tham đắm, bày hội đại thí làm tăng trưởng các phước đức, lìa xa tham lam bỏn sẻn, bố thí không mong cầu đáp lại, ở nơi cõi sinh tử mà luôn dũng mãnh tinh tấn, khéo hàng phục mọi tham sân, kiêu mạn, ganh ghét cùng các thứ phiền não khác. Luôn tu tập phát huy trí tuệ, vận áo giáp đại thí, phủ kín giáp đồng tinh tấn, dùng tâm đại Bi cứu độ muôn loài, trí lực kiên cường thường không thoái chuyển, đối với chúng sinh tâm luôn bình đẳng tùy theo ý thích của họ mà đều ban cho đầy đủ. Bồ-tát luôn thấu đạt lẽ khế hợp, thông tỏ mọi pháp và phi pháp, luôn hướng tâm về đạo giác ngộ, ba việc trong tuệ thí đều thanh tịnh, dùng trí tuệ kim cang diệt sạch bốn ma, thành tựu mọi giới hạnh, làm chủ ba nghiệp thân, khẩu, ý cho đến một lỗi lầm nhỏ cũng không thể xảy ra; tâm luôn thanh tịnh, đối với các việc xấu như bị nói lời ác, bị hủy nhục, phỉ báng, khinh rẻ, hay bị đánh đập, trói buộc, tâm không hề não loạn; luôn giữ hạnh nhẫn nhục, tâm tánh hòa thuận dịu dàng, vững vàng kiên định trong sự nghiệp tu tập; đối với mọi điều thiện, tâm không thoái chuyển, trí lực nhớ nghĩ luôn đầy đủ, thường tu chánh định nên đạt được trí tuệ sáng suốt có năng lực diệt trừ tăm tối; tâm thường quán tưởng về các pháp Khổ, Không, Vô thường, Bất tịnh. Bồ-tát đã tu tập vững vàng Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất Bồ-đề phần, Bát thánh đạo; tâm thường an trụ trong pháp Xa-ma-tha, Tỳ-bát-xá-na, tuệ quán sâu xa lý duyên khởi, giác ngộ chân lý; thường tự mình thông tỏ, chẳng ỷ lại vào kẻ khác giúp sức, chứng đắc ba cửa giải thoát, với tuệ giải thoát biết rõ mọi pháp như mộng ảo, như bóng hình, như trăng trong nước, như ảnh. trong gương, như ánh lửa bùng lên, như tiếng gọi vang xa rồi mấtễ
    Đức Phật nói với các vị Tỳ-kheo:
    -Bồ-tát trải qua nhiều kiếp đối với bốn oai nghi, luôn an trú trí tuệ đó, sức tinh tấn đó, công đức đó, lợi ích đó trong chân như, được mười phương chư Phật hộ niệm khiến cho tiếng đàn ca xướng của thể nữ trong cung trở âm thanh vi diệu, khuyến phát Bồ-tát xuất gia. Bồ-tát cũng muốn giáo hóa các thể nữ trong cung ngay lúc đó chứng được bốn loại pháp môn. Thế nào là bốn loại pháp môn?
    -Một là dùng các phương tiện Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự mà nhiếp phục tất cả.
    -Hai là nối tiếp và phát huy sự tồn tại của Tam bảo khiến cho mãi gắn bó với đời, tất cả trí tánh và nguyện lực đều không thoái chuyển.
    -Ba là trí lực kiên cố, tâm đại Từ đại Bi với chúng sinh không hề bỏ.
    -Bốn vì để đạt được năng lực trí tuệ thù thắng, phân biệt rõ tất cả phần pháp Bồ-đề, và để đạt được các pháp môn đại trang nghiêm ngay tức khắc.
    Đó là bốn thứ pháp môn dùng để giáo hóa các thể nữ trong vương cung, tức là thị hiện đại thần thông khiến các thể nữ hiểu rõ các pháp môn trong trăm ngàn ngôn từ phát ra từ âm nhạc. Nó nói về tâm rộng lớn thương xót chúng sinh, tâm cầu Bồ-đề, làm phát khởi Thâm tâm tức là phát khởi lòng tịnh tín đốìivới Phật pháp, lìa bỏ kiêu mạn, tôn quý chánh pháp, biết rõ điều thiện và bất thiện, luôn nhớ nghĩ đến các pháp của chư Phật như Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ; sáu pháp Thần thông; bốn Nhiếp pháp, bốn Vô lượng tâm, bốn Niệm xứ, bốn Chánh cần, bốn Như ý túc, năm Căn, năm Lực, bảy phần Bồ-đề, tám Thánh đạo; phân biệt rõ ràng các pháp Xa-ma- tha, Tỳ-bát-xá-na, vô thường, khổ, không, vô ngã, bất tịnh, vô tham tịch diệt, vô sinh tận trí cho đến Niết-bàn.
    Bồ-tát thị hiện thần thông khiến cho âm nhạc của thể nữ hòa tấu phát ra các thứ âm thanh như thế. Các thể nữ nghe những âm thanh ấy đều sinh tâm hy hữu, vui mừng tột bậc đạt được điều chưa từng có.
    Đức Phật nói với các vị Tỳ-kheo:
    Thời gian Bồ-tát sống nơi vương cung đã độ cho tám vạn bốn ngàn thể nữ phát tâm Vô thượng Bồ-đề, lại có vô lượng trăm ngàn chư Thiên nghe các pháp ấy đạt được tâm Bất thoái chuyển đối với đạo Vô thượng Bồ-đề nên đọc các bài kệ khuyến thỉnh Bồ-tát mau chóng xuất gia.
Phẩm 14: CẢM MỘNG
    Lúc bấy giờ Đức Phật bảo vị Tỳ-kheo:
 -Sau khi chư Thiên khuyên phát Bồ-tát xuất gia, lúc ấy Bồ-tát ứng mộng nơi vua cha. Trong mộng vua Du-đầu-đàn trông thấy Bồ-tát râu tóc cạo nhẵn, đi ra khỏi hoàng cung có vô lượng chư Thiên vây quanh đi cùng. Vua thức giấc liền hỏi người hầu:
 -Thái tử hiện đang ở trong cung nào hay đang ra ngoài du ngoạn? Người hầu thưa:
 -Thái tử đang ở trong cung, không đi dạo chơi bên ngoài. Lòng vua vẫn còn nghi ngại Bồ-tát đã đi nên đâm ra buồn bã sầu não, lo lắng bồn chồn tợ như bị tên ghim trong lòng. Vua thầm nghĩ: “Nếu đúng như những điều ta thấy trong mộng thì chắc chắn Thái tử sẽ xuất gia. Vua lại nghĩ tiếp: “Từ nay trở đi ta sẽ không cho phép Thái tử đi dạo bên ngoài nữa và sai các thể nữ dốc sức chiều chuộng để Thái tử đắm say trong năm dục”.
 Khi đó vua Du-đầu-đàn vì Thái tử nên cho xây dựng ba tòa cung điện thích hợp với ba mùa, tòa cung điện thứ nhất rất ấm áp dùng để ở vào mùa đông giá; tòa cung điện thứ hai mát mẻ dùng để ở vào mùa nóng bức; tòa cung điện thứ ba thì trung bình không lạnh không nóng. Vua lại cho xây nhiều lớp cửa, đóng hoặc mở rất khó khăn; lúc mở, đóng phải cần đến năm trăm người và tiếng động vang xa đến bốn mươi dặm. Vua còn cho mời các vị thầy giỏi thiên văn, thông thạo tướng pháp, cùng các vị Tiên đã chứng được ngũ thông để hỏi kỹ những sự việc liên quan đến Thái tử, tất cả mọi người đều thưa:
 -Thái tử sẽ từ nơi cửa chính của hoàng cung vượt thành ra đi.
 Vua cha nghe như thế càng thêm lo buồn.
 Này các Tỳ-kheo, sau đó một thời gian Bồ-tát lại muốn đi dạo xem bên ngoài nên sai xa phu chuẩn bị xe ngựa. Người xa phu liền trình tâu lên nhà vua về ý định của Thái tử. Vua Du-đầu-đàn nghe xong lập tức ra lệnh cho người sửa sang, quét dọn các nơi rừng vườn, và truyền lệnh cho các sở ty tu bổ đường sá, dùng nước thơm rưới khắp mặt đất, tung rải các thứ danh hoa; treo nhiều cờ phướn, lọng dù màu sắc đủ loại trên các cây quý; dùng các thứ châu báu, chuỗi ngọc, vàng bạc, chuông quý giăng mắc khắp nơi mỗi khi gió nhẹ lay phát ra vô vàng âm thanh vi diệu. Từ trong thành cho đến các khu lâm viên, mọi nơi đều được trang hoàng, sửa soạn rất tươi đẹp thanh tịnh chẳng khác gì chốn Thiên cung. Nhà vua còn ban lệnh hai bên đường không được bày ra những hiện tượng xấu xa như người già yếu, bệnh tật, xác chết, kẻ bị đui mù câm điếc, sáu căn chẳng đủ... Tất cả các điều gì không tốt lành vua đều ra lệnh phải lánh xa đường Thái tử đi qua.
 Bấy giờ Bồ-tát cùng đoàn tùy tùng thứ lớp chỉnh tề ra khỏi cửa thành phía Đông. Lúc ấy vị Thiên tử ở cõi trời Tịnh cư bèn hóa làm một cụ già tóc bạc thân gầy, da dẻ nhăn nheo, người chỉ còn da bọc xương, còng lưng lê chiếc gậy nặng nhọc bước đi, ho hen từng cơn, răng đều rụng, nước dãi chảy ra, mặt lem luốc, lúc bước lúc nghỉ từng bước xiêu vẹo chậm chạp. Bồ-tát trông thây liền hỏi người xa phu:
 -Đó là người gì mà hình tướng như thế?
 Lúc đó vị trời Tịnh cư dùng thần thông khiến người xa phu trả lời Bồ-tát:
 -Thưa Thái tử, đó là người già.
 Bồ-tát lại hỏi:
 -Sao gọi là già?
 Người xa phu đáp:
 -Người già là những người đã từng trải qua tuổi trai trẻ, khí lực sung mãn rồi dần dần đến lúc suy yếu, khí lực giảm sút các căn suy nhược, ăn uống chẳng tiêu, thân thể gầy gò, đi đứng khó khăn chịu bao nỗi thông khổ, bị nhiều kẻ coi thường, thọ mạng chẳng còn được bao lâu nữa. Do tất cả những điều ấy nên gọi là già.
 Thái tử hỏi:
 -Chỉ một mình người ấy chịu cảnh già yếu hay ai cũng phải chịu?
 Đáp:
 -Tất cả mọi người trên thế gian đều phải chịu cảnh già yếu như thế.
 Bồ-tát lại hỏi:
 -Như thân của ta đây rồi có như thế không?
 Ngự xa đáp:
 -Đã là người sinh ra dù sang hay hèn cũng đều phải chịu cảnh già yếu khổ sở như vậy.
 Bấy giờ, Bồ-tát ưu sầu, không còn vui vẻ nữa, liền bảo xa phu:
 -Ta hiện giờ làm sao còn vui thú nhàn hạ dạo chơi thưởng ngoạn cảnh vật vườn rừng đây đó nữa, phải suy nghĩ để tìm phương cách lìa khỏi nỗi khổ kia.
 Bồ-tát liền truyền quay xa giá trở về hoàng cung. Lúc ấy, vua Du-đầu-đàn truyền gọi người xa phu đến hỏi:
 -Hôm nay Thái tử đi du ngoạn các chốn rừng vườn có vui không?
 Người xa phu tâu:
 -Tâu Đại vương, Thái tử vừa ra khỏi cửa thành, đi đến giữa đường bỗng dưng gặp một ông lão già yếu, thân thể gầy còm tiều tụy. Thái tử vì vậy mà lòng chẳng vui nên cho xa giá lui về cung.
 Vua cha nghe tâu như vậy liền suy nghĩ: “Đây có thể là hiện tượng báo hiệu con ta có thể đi xuất gia chăng? Lời tiên A-tư-đà nói ngày trước có lẽ đúng”. Nghĩ ngợi như vậy nhà vua liền cho tăng thêm các thú vui năm dục trong cung để mong ràng buộc, làm mê đắm Bồ-tát.
 Này các Tỳ-kheo, lúc ấy chư Thiên ở cõi trời Tịnh cư thấy Bồ-tát lại sống trong cảnh ngũ dục liền suy nghĩ cho rằng cần phải thị hiện một số sự kiện khiến Bồ-tát giác ngộ mà mau chóng xuất gia.
 Bấy giờ Bồ-tát lại cho gọi kẻ hầu đến bảo là mình muốn đi du ngoạn các chốn, nên tâu với vua đồng thời chuẩn bị xa giá. Vua cha nghe tâu liền cho mời các quan đại thần đến bảo:
 -Lần trước Thái tử đi ra cửa thành phía Đông, trên đường gặp một ông lão già yếu khiến Thái tử trở về cung ưu sầu chẳng vui. Nay Thái tử lại muốn đến vườn rừng ngoạn cảnh, các khanh phải cho người dọn dẹp từ trong thành cho đến ngoài thành thật sạch sẽ, treo cờ phướn, dù lọng, đốt hương rải hoa, chớ để bày ra mọi thứ dơ uế hoặc những kẻ già yếu bệnh chết, những hiện tượng chẳng lành... trên đường chính, phải truyền lệnh cho các sở ty gấp rút thực hiện trang nghiêm hơn lần trước.
 Lúc đó, Bồ-tát cùng đoàn tùy tùng thứ lớp chỉnh tề đi ra cửa thành phía Nam. Vị thiên chủ cõi trời Tịnh cư liền hóa thành một người bệnh nặng, sắc da vàng vọt, hơi thở thoi thóp, thân hình gầy yếu như bộ xương khô, nằm trên đống phân dơ dáy gớm ghiếc, chịu khổ não vô cùng. Có hai người trông coi cạnh đường đi. Bồ-tát hỏi người đánh xe:
 -Đây là người gì?
 Xa phu thưa.
 -Đó là người bệnh.
 Bồ-tát lại hỏi:
 -Bệnh là thế nào?
 Thưa:
 -Những người bị đau ốm do ăn uống không có chừng mực, ham muốn quá độ nên tứ đại không điều hòa làm sinh ra trăm thứ bệnh khiến cho nằm ngồi chẳng an, cử động khó nhọc, hơi thở suy kiệt, mạng sống thật mong manh. Do tất cả điều đó nên gọi là bệnh.
 Bồ-tát liền hỏi:
 -Chỉ mỗi người ấy chịu cảnh bệnh tật hay ai cũng phải chịu?
 Thưa:
 -Tất cả mọi người thế gian không ai tránh khỏi cảnh ấy.
 Bồ-tát lại hỏi:
 -Như ta đây rồi cũng phải chịu bệnh tật như thế phải không?
 Xa phu đáp:
 -Phàm đã có sinh ra thì dù người sang giàu hay hèn kém cũng đều phải chịu cảnh khổ như vậy cả.
 Thái tử nghe tâu như thế lòng đầy Ưu sầu, chẳng vui liền nói với người hầu xe:
 -Nay Ta chẳng còn thích thú gì với việc đi du ngoạn nữa, cần phải suy nghĩ tìm ra phương cách xa rời nỗi khổ ấy.
 Nói rồi liền cho quay xa giá trở về hoàng cung. Vua Du-đầu-đàn cũng cho gọi ngự xa đến hỏi về chuyến du ngoạn của Thái tử ra cửa thành phía Nam. Người ấy thưa:
 -Tâu Đại vương, Thái tử ra khỏi cửa thành, đang đi bỗng thấy bên đường có một người bệnh, khí lực suy kiệt chịu thông khổ vô cùng, Thái tử thấy cảnh ấy lòng chẳng vui nên truyền cho xa giá hồi cung.
 Vua cha nghe xong liền nghĩ: “Đây có thể là hiện tượng báo hiệu con ta sẽ xuất gia chăng? Lời tiên A-tư-đà nói ngày trước quả là không sai”. Thế rồi, nhà vua lại cố sức tìm mọi cách để ràng buộc Thái tử với những thứ vui dục lạc.
 Này các Tỳ-kheo, lúc đó chư Thiên ở cõi trời Tịnh cư thấy Thái tử trở lại với cảnh sống hoan lạc trong năm dục nên cũng suy nghĩ tìm cách thị hiện các hiện tượng nhằm giúp Thái tử giác ngộ, mau chóng xuất gia.
 Một thời gian sau, Bồ-tất lại cho gọi người đánh xe đến bảo là mình muốn xuất thành du ngoạn nên lo sửa soạn ngựa xe. Quan ngự xa vội tâu lên vua, vua cha nghe tâu xong liền bảo:
 -Thái tử hai lần trước đi ra cửa thành phía Đông và Nam thấy kẻ già yếu và người bệnh tật nên trở về cung rất buồn bã. Lần này đi ra cửa thành phía Tây, lòng ta lo lắng, đến khi trở về thì mới có thể an vui được. Phải lệnh cho các nơi trong, ngoài thành lo dọn dẹp phố sá, trang hoàng cờ phướn, lọng dù, hương hoa mọi thứ, phải hơn hẳn các lần trước và lại cũng cấm những kẻ già bệnh chết lai vãng gần đường đi, những sự việc chẳng lành không được để xảy ra... Các sở ty, công quán gấp rút thực hiện lệnh ban thật chu đáo gấp bội.
 Lúc ấy Bồ-tát cùng quan quân tùy tùng thứ lớp chỉnh tề ra khỏi cửa thành phía Tây. Vị Thiên tử cõi trời Tịnh cư liền hóa thành một người chết nằm trên xe tang có đầy hương hoa bày biện, những người thân đi tống táng theo sau khóc than thảm thiết. Bồ-tát thấy cảnh ấy động lòng trắc ấn hỏi xa phu:
 -Đây là người gì mà trên xe có hương hoa bày biện, lại có nhiều quyến thuộc đi theo khóc than như thế?
 Lúc ấy vị Thiên tử cõi trời Tịnh cư liền dùng thần thông khiến quan ngự xa đáp lời Bồ-tát:
 -Thưa đó là người chết.
 Bồ-tát lại hỏi:
 -Sao gọi là chết?
 Thưa:
 -Chết tức là thần thức lìa khỏi thân xác, các căn cũng ngưng hoạt động, vĩnh biệt cha mẹ, vợ con, anh em thân quyến không thể nào gặp lại nữa. Sau khi chết rồi tinh thần một mình đi về một cảnh giới khác, mọi thứ liên hệ trước kia đều dứt bỏ, cảnh vĩnh biệt thật đáng buồn thương.
 Bồ-tát liền hỏi:
 -Chỉ mỗi người ấy chịu cánh chết chóc, hay là ai cũng phải chịu cảnh ấy?
 Thưa:
 -Phàm đã sinh ra thì con người ai cũng phải chịu cảnh chết chóc.
 Bồ-tát nghe tâu như vậy, lòng áy náy chẳng an nói:
 -Thế gian lại còn có cảnh khổ này nữa, vậy mà nơi vương cung chỉ toàn cảnh vui chơi. Ta nay còn thích thú gì mà đi du ngoạn, cần phải suy nghĩ tìm ra phương cách để mong dứt nỗi khổ kia.
 Thái tử liền truyền cho xa giá trở về cung. Lúc đó, vua Du-đầu-đàn cũng cho gọi người xa phu đến hỏi về chuyên du ngoạn ra cửa thành phía Tây của Thái tử. Người xa phu thưa:
 -Tâu đại vương, Thái tử ra khỏi cửa thành đi được một quãng thì thấy bên đường có một người chết nằm trên một chiếc giường nhỏ có bốn người khiêng, thân quyến đi theo sau gào khóc thảm thiết. Thái tử nhìn thấy cảnh tượng ấy tự dưng buồn bã chẳng vui nên cho xa giá quay về.
 Vua cha nghe tâu như thế liền suy nghĩ: “Đây chính là hiện tượng báo trước con ta sẽ đi xuất gia, đúng như lời tiên A-tư-đà nói ngày trước chăng?” Suy nghĩ như vậy rồi nhà vua càng cho tăng thêm các thú vui trong hoàng cung hơn trước.
 Này các Tỳ-kheo, khi ấy chư Thiên ở cõi trời Tịnh cư lại thấy Thái tử sống trong cảnh vây hãm của năm dục, liền suy nghĩ tìm cách thị hiện các hiện tượng để giục Bồ-tát mau chóng xuất gia.
 Bấy giờ Bồ-tát lại cho gọi kẻ mã phu đến bảo là mình muốn xuất thành du ngoạn nên lo sửa soạn ngựa xe. Vị ấy vội trình tâu lên vua, vua cha nghe tâu xong liền bảo ông ta:
 -Ba lần trước, Thái tử đi ra cửa thành các hướng Đông, Nam và Tây đều gặp cảnh người già, bệnh, chết khiến tâm ưu sầu, không vui. Lần này nên đi ra theo hướng Bắc; cũng phải ra lệnh các sở ty, công quán chú ý tới việc dọn dẹp đường sá, mọi thứ trang hoàng bày biện cũng phải hơn trước, không để xảy ra các hiện tượng chẳng lành, cấm những kẻ già cả, bệnh tật, chết chóc lai vãng gần các trục lộ chính.
 Lúc ấy Bồ-tát cùng quan quân theo hầu thứ lớp chỉnh tề ra khỏi cửa phía Bắc của kinh thành. Vị Thiên tử cõi trời Tịnh cư liền hóa thành một vị Tỳ-kheo mang y hoại sắc, râu tóc cạo nhẵn, tay cầm tích trượng, mắt khép nhẹ nhìn xuống đất bước đi, dung mạo đoan nghiêm, oai nghi khác tục. Thái tử từ xa trông thấy liền hỏi người ấy là ai.
 Bấy giờ vị Thiên tử cõi trời Tịnh cư liền dùng thần thông khiến mã phu đáp lời của Bồ-tát:
 -Người ấy là vị tu sĩ xuất gia.
 Thái tử nghe tâu liền xuống xe, đến trước vị Tỳ-kheo vái chào, nhân dịp đó liền hỏi:
 -Xuất gia thì đạt được những lợi ích gì?
 Vị Tỳ-kheo đáp:
 Tôi nhận thấy con người sống trong cảnh sinh, lão, bệnh, tử tất cả đều vô thường biến chuyển hoại diệt, không an ổn; vì thế mà rời bỏ thân tộc, chọn nơi thanh vắng, tinh cần tìm phương tiện để dứt các khổ kia. Pháp môn tôi tu tập là các Thánh đạo vô lậu; thực hành các pháp, chế ngự các căn; khởi tâm đại Từ bi, năng thể hiện tinh thần vô úy; tâm luôn bình đẳng hộ niệm chúng sinh; không nhiễm theo thế gian nên vĩnh viễn đạt được giải thoát. Đó gọi là xuất gia.
 Bồ-tát chăm chú nghe nói xong, lòng đầy hoan hỷ, liền ca ngợi: -Lành thay, lành thay! Trong các cõi trời, người, chỉ có phương cách này là cao hơn hết. Ta sẽ quyết tâm tu học theo con đường này.
 Sau đó, Bồ-tát lên xe và truyền cho xa giá trở về hoàng cung. Vua cha cũng cho gọi mã phu đến hỏi về chuyến du ngoạn vừa rồi của Bồ-tát. Vị ấy thưa:
 -Tâu Đại vương, Thái tử rời thành, trên đường đi tất cả mọi việc đều được thực hiện chu đáo như lệnh ban, không có các hiện tượng chẳng lành. Chỉ có một người mặc áo hoại sắc, râu tóc đều cạo sạch, tay chống tích trượng lần bước, oai nghi trang nghiêm, dáng hình thanh thoát. Thái tử trông thấy liền xuống xe vái chào, thưa hỏi nhau, thần cũng không rõ bàn nói về chuyện gì. Sau đó Thái tử lên xe ra lệnh quay về cung.
 Vua Du-đầu-đàn nghe tâu xong trong lòng thầm nghĩ: “Lời tiên A- tư-đà nói trước đây quả là không sai”. Rồi cũng như lần trước, nhà vua cho tăng thêm các thú vui trong hoàng cung nhằm ràng buộc Bồ-tát.
 Đức Phật nói với các vị Tỳ-kheo:
 -Lúc ấy chư Thiên ở cõi trời Tịnh cư muốn làm cho Bồ-tát mau chóng xuất gia nên đã ứng mộng cho vua cha thấy bảy sự việc lạ.
 -Thứ nhất, nhà vua nằm mộng thấy có nhiều người, xe mang cờ Đế Thích cùng nhau từ cửa Đông kinh thành Ca-tỳ-la đi ra.
 -Thứ hai, nhà vua nằm mộng thấy Thái tử cỡi con voi quý có kẻ theo hộ vệ từ cửa Nam kinh thành Ca-tỳ-la đi ra.
 -Thứ ba, nhà vua nằm mộng thấy Thái tử ngồi trên xe tứ mã từ cửa Tây kinh thành Ca-tỳ-la đi ra.
 -Thứ tư, nhà vua nằm mộng thấy một bánh xe quý giá từ cửa Bắc kinh thành Ca-tỳ-la đi ra.
 -Thứ năm, nhà vua nằm mộng thấy Thái tử ở bốn con đường lớn tay đưa cao dùi thúc mạnh vào chiếc trông lớn.
 -Thứ sáu, nhà vua nằm mộng thấy trong kinh thành Ca-tỳ-la có một tòa lầu cao, Thái tử ở trên đó, ném ra bốn phía vô số châu báu, đông đảo chúng sinh cùng nhau nhặt rồi đi.
 -Thứ bảy, nhà vua nằm mộng thấy cách kinh thành Ca-tỳ-la không xa có sáu người cùng kêu gào khóc lóc.
 Bấy giờ, vua Du-đầu-đàn nằm mộng thấy bảy sự việc như thế trong lòng vô cùng sợ hãi, giật mình thức giấc. Nhà vua cho gọi các vị đại thần về cung kể lại sự việc mình nằm mộng, bảo các quan tìm người giỏi việc đoán mộng đến để giải mộng. Lúc ấy vị Thiên tử ở cõi trời Tịnh cư hóa làm một vị Bà-la-môn, mặc áo da hươu đứng ngoài cửa thành nói lớn là mình có thể giải được các điềm mộng của nhà vua. Các vị đại thần nghe thế liền tâu lên vua, nhà vua liền truyền đưa vào cung. Vua Du-đầu-đàn thuật lại đầy đủ các sự việc mình nằm mộng cho vị Bà-la-môn nghe và hỏi:
 -Các mộng ấy có phải là điềm lành chăng?
 Vị Bà-la-môn thưa:
 -Tâu Đại vương, về điềm mộng thứ nhất thấy đông đảo dân chúng cầm cờ Đế Thích từ cửa Đông của thành cùng nhau đi ra là hình tượng Thái tử xuất gia được vô lượng trăm ngàn chư Thiên cung kính vây quanh.
 -Về điềm mộng thứ hai thấy Thái tử cỡi con voi quý có kẻ hộ vệ từ cửa thành phía Nam đi ra, đó là hình tượng sau khi Thái tử xuất gia sẽ chứng Tuệ giác Vô thượng, đầy đủ Mười lực.
 -Về điềm mộng thứ ba thấy Thái tử ngồi trên xe tứ mã từ cửa thành phía Tây đi ra, đó là hình tượng Thái tử sau khi xuất gia sẽ chứng Tuệ giác Vô thượng, đầy đủ Bốn vô úy.
 -Về điềm mộng thứ tư thấy bánh xe báu từ cửa Bắc của thành đi ra, đó là hình tượng Thái tử sau khi xuất gia sẽ chứng Tuệ giác Vô thượng Bồ-đề và chuyển bánh xe pháp để giáo hóa chúng sinh.
 -Về điềm mộng thứ năm thấy Thái tử ở nơi bốn con đường đưa cao dùi thúc vào chiếc trống to, đó là hình tượng Thái tử sau khi xuất gia sẽ chứng đắc Tuệ giác Vô thượng được chư Thiên loan truyền lên tới cõi trời Phạm thế.
 -Về điềm mộng thứ sáu thấy một tòa lầu cao, Thái tử ở trên ấy ném xuống nhiều vật báu và vô số chúng sinh cùng nhau nhặt lấy rồi đi, đó là hình tượng Thái tử sau khi xuất gia, chứng Tuệ giác Vô thượng rồi, sẽ giữa chúng hội trời, người, tám bộ chúng đem pháp bảo truyền bá giáo hóa như các pháp Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất Bồ-đề phần, Bát thánh đạo và vô số các pháp khác.
 -Về điềm mộng cuối cùng thấy cách hoàng cung thành không xa, có sáu người cất tiếng gào khóc, đó là hình tượng Thái tử sau khi xuất gia sẽ chứng Tuệ giác Vô thượng Bồ-đề khiến cho nhóm lục sư ngoại đạo sinh lòng buồn bã lo sợ.
 Bấy giờ người giải mộng sau khi đã giải thích rõ về các điềm mộng của vua Du-đầu-đàn, liền tâu với nhà vua:
 -Tâu Đại vương, Đại vương phải nên vui mừng chớ sinh lo buồn. Vì sao vậy? Vì các điềm mộng ấy đều là điềm tốt đẹp, chứng tỏ vương cung đạt được nhiều phước báo lớn lao.
 Tâu vua xong, vị ấy đột nhiên biến mất.
 Lúc ấy vua Du-đầu-đàn nghe vị Bà-la-môn giải rõ các điềm mộng, lòng càng sợ Thái tử sẽ đi xuất gia nên càng cho gia tăng các món dục lạc trong vương cung để ràng buộc Bồ-tát.
 Lúc ấy, nàng Da-du-đà-la cũng nằm mộng thấy mười hai việc đáng lo sợ, liền thức giấc trong lòng lo lắng, bồn chồn. Bồ-tát hỏi thì Da-du-đà-la khóc lóc thưa:
 -Tâu Thái tử, thiếp nằm mộng thấy tất cả mặt đất rộng lớn tự nhiên chấn động; lại thấy cái lọng trắng đẹp thường che phủ bên trên chỗ thiếp nằm, Xa-nặc đến đoạt lấy và đi mất; lại thấy nhiều cờ Đế Thích bị xé rách bày la liệt khắp mặt đất; thấy những xâu chuỗi anh lạc trên người thiếp bị dòng nước cuốn trôi; thấy mặt trời, mặt trăng cùng tinh tú rơi rụng hết cả; thấy tóc của thiếp bị một người cầm dao báu cắt mất rồi bỏ đi; thấy thân thể mình đoan nghiêm thanh tịnh bỗng trở nên xấu xí dơ dáy, thấy chân tay trên thân mình tự nhiên đều gãy hết; thấy hình tướng dung mạo mình không còn hồng hào, tươi sáng như xưa; thấy nơi chiếc giường mình thường nằm bị lún sâu vào đất; thấy chiếc giường thiếp vẫn cùng với Thái tử nằm nghỉ bốn chân đều bị gãy; thấy một ngọn núi báu bốn bề cao vút bị lửa đốt cháy sụp xuống đổ nát; thấy một cây báu trong cung vua bị gió thổi mạnh đổ nhào; thấy ánh sáng mặt trời bị che khuất, trời đất tối tăm; thấy trăng sáng trên không, cùng các ngôi sao chiếu sáng khắp cả trong cung này rồi tự nhiên lặng mất hết; thấy có ngọn đuốc sáng rực hiện ra nơi kinh thành Ca-tỳ-la; thấy vị thần hộ thành dáng vẻ đoan nghiêm, nhân từ đứng dưới cửa thành kêu khóc lớn tiếng thảm thiết; thấy thành này tự nhiên biến ra một vùng đất hoang vắng; thấy tất cả cây cối, ao suối đều héo tàn khô cạn; thấy một tráng sĩ tay cầm một cây côn lớn chạy nhanh khắp bốn phương.
 Thái tử, thiếp nằm mộng thấy sự việc như vậy lòng thật bồn chồn lo lắng, không an. Phải chăng thân mạng thiếp chẳng thọ hay tình yêu mặn nồng giữa thiếp và Thái tử sắp đến lúc biệt ly? Đây là những điềm gì? Là dữ hay lành?
 Bồ-tát lúc ấy nghe Da-du-đà-la kể lại mọi điềm mộng liền suy nghĩ: “Thời điểm xuất gia đã đến nên mới biểu hiện ra các điềm như vậy và khiến ứng mộng cho chánh phi”. Bồ-tát an ủi Da-du-đà-la:
 -Nàng chẳng nên mang lòng lo lắng sợ hãi, vì sao vậy? Vì các mộng tưởng vốn điên đảo chẳng thật. Nếu những gì nàng mộng thấy là thật thì núi non, cờ xí đã nghiêng ngã, mặt trời mặt trăng đã rơi rụng, thân thể của nàng nào có thương tổn gì đâu, Xa-nặc cầm chiếc lọng đi lại mộng thấy là đoạt lấy. Tất cả mộng mị ấy đều là giả dối, không thật. Nàng nên yên nghĩ đừng quá lo buồn.
 Đêm ấy Bồ-tát cũng nằm mộng thấy năm sự việc:
 -Một là thấy thân mình nằm trên đất liền, đầu gối lên núi Tu-di, tay nâng biển rộng còn chân thì giẫm lên cá đại dương.
 -Hai là nằm mộng thấy loại cỏ tên Kiến lập từ chỗ mục nát mọc lên, ngọn của nó cao tới tầng trời A-ca-ni-trá.
 -Ba là nằm mộng thấy bốn con chim từ bốn phương bay lại, lông cánh rực rỡ nhiều màu, nương theo chân của Ngài mà hóa thành màu trắng.
 -Bốn là nằm mộng thấy con thú màu trắng nhưng đầu thì màu đen chạy đến quỳ gối liếm thân Ngài.
 -Năm là nằm mộng thấy một ngọn núi cao lớn đầy những phân dơ dáy, Ngài đang ở trên núi ấy, dạo quanh nhiều vòng giẫm lên mà không hề bị ô nhiễm.