Người trí dù khoảnh khắc kề cận bậc hiền minh, cũng hiểu ngay lý pháp, như lưỡi nếm vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 65
Tìm lỗi của người khác rất dễ, tự thấy lỗi của mình rất khó. Kinh Pháp cú
Rời bỏ uế trược, khéo nghiêm trì giới luật, sống khắc kỷ và chân thật, người như thế mới xứng đáng mặc áo cà-sa.Kinh Pháp cú (Kệ số 10)
Kẻ không biết đủ, tuy giàu mà nghèo. Người biết đủ, tuy nghèo mà giàu. Kinh Lời dạy cuối cùng
Người hiền lìa bỏ không bàn đến những điều tham dục.Kẻ trí không còn niệm mừng lo, nên chẳng bị lay động vì sự khổ hay vui.Kinh Pháp cú (Kệ số 83)
Nhà lợp không kín ắt bị mưa dột. Tâm không thường tu tập ắt bị tham dục xâm chiếm.Kinh Pháp cú (Kệ số 13)
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê. Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hènKinh Pháp cú (Kệ số 29)
Nếu người nói nhiều kinh, không hành trì, phóng dật; như kẻ chăn bò người, không phần Sa-môn hạnh.Kinh Pháp cú (Kệ số 19)
Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ, ý tạo; nếu với ý ô nhiễm, nói lên hay hành động, khổ não bước theo sau, như xe, chân vật kéo.Kinh Pháp Cú (Kệ số 1)
Ðêm dài cho kẻ thức, đường dài cho kẻ mệt, luân hồi dài, kẻ ngu, không biết chơn diệu pháp.Kinh Pháp cú (Kệ số 60)

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Phật Thuyết Vị Tằng Hữu Chánh Pháp Kinh [佛說未曾有正法經] »» Bản Việt dịch quyển số 1 »»

Phật Thuyết Vị Tằng Hữu Chánh Pháp Kinh [佛說未曾有正法經] »» Bản Việt dịch quyển số 1

Donate


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Việt dịch (1) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.42 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.44 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Kinh Chánh Pháp Chưa Từng Có

Kinh này có 6 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 |
Việt dịch: Thích Huyền Vi

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Tôi nghe như vầy (1), một thuở nọ Đức Phật ngự tại thành Vương Xá (2), trên pháp hội Linh Sơn (3), cùng chúng đại tỳ kheo, một muôn hai ngàn năm trăm vị (12,500). Lúc bấy giờ có các đại Bồ Tát, số tới tám muôn bốn ngàn người (84,000), từ các cõi Phật đến câu hội. Các Bồ Tát ấy đều đủ đại trí, đặng đại tổng trì (4), đủ vô ngại biện tài (5), đạ chứng vô sanh pháp nhẫn (6), vào tam ma địa (7), tổng trì trí môn, rõ biết tâm ưa muốn của chúng sinh, khéo nói pháp yếu (8), như pháp giả thoát. Lại có bốn vị (9) đại thiên vương và trời Đế Thích, chủ cõi Ta Bà là vị đại Phạm thiên vương và vô lượng trăm nghìn trời, rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lầu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, người và phi nhơn (10) v.v…đều đến nhóm họp. Lúc bấy giờ có vị đại Bồ Tát tên là Diệu Kiết Tường (11) ở bên núi kia (Linh Sơn) cùng 25 vị Đại Bồ Tát. Ấy là: Đại Bồ Tát Long Kiết Tường, Đại Bồ Tát Long Thọ, Đại Bồ Tát Kiết Tường Sanh, Đại Bồ Tát Kiết Tường Tạng, Đại Bồ Tát Tối Thượng Liên Hoa Kiết Tường, Đại Bồ Tát Liên Hoa Kiết Tường Sanh, Đại Bồ Tát Bửu Thủ, Đại Bồ Tát Bửu Ấn Thủ, Đại Bồ Tát Sư Tử Ý, Đại Bồ Tát Sư Tử Úy Âm, Đại Bồ Tát Hư Không Tạng, Đại Bồ Tát Bình Đẳng Tâm Chuyển Pháp Luân, Đại Bồ Tát Liễu Biệt Nhất Thiết Cú Nghĩa Đại Biện, Đại Bồ Tát Biện Tích, Đại Bồ Tát Hải Ý, Đại Bồ Tát Diệu Cao Vương, Đại Bồ Tát Ái Kiến, Đại Bồ Tát Hỷ Vương, Đại Bồ Tát Vô Biên Thị, Đại Bồ Tát Vô Biên Tác Hạnh, Đại Bồ Tát Phá Chư Ma, Đại Bồ Tát Vô Ưu Thọ, Đại Bồ Tát Nhất Thiết Nghĩa Thành.
Lại có bốn vị Thiên Tử ở cung trời Đâu Suất ấy là Thiên Tử Phổ Khai Hoa, Thiên Tử Quang Minh Khai Hoa, Thiên Tử Mạn Đà La Hoa Hương, Thiên Tử Tinh Tiến Pháp Hành. Các Thiên Tử ấy dùng tâm tin ưu. Mỗi vị cùng các bà con đồng đến chỗ Bồ Tát Diệu Kiết Tường, nghe thọ chánh pháp. Lúc ấy các vị Đại Bồ Tát cùng chúng thiên tử, đã đến pháp hội rồi, thứ lớp mà ngồi.
Lúc bấy giờ, đại chúng đa số đều nói: Nhất thiết trí của Phật thậm thâm vô lượng, rộng lớn vô biên, không thể nào nghĩ bàn, không có món gì so sánh, tối thượng không ai hơn, không thể nào rõ biết tận tường. Tại sao Đại Bồ Tát phải mặc áo giáp tinh tiến, mới chứng được Vô Thượng (12) Chánh Đẳng Chánh Giác? Lúc ấy trong pháp hội có vị Đại Bồ Tát tên là Long Kiết Tường nói với các Bồ Tát rằng; nếu có Bồ Tát nào trồng các căn lành tâm không trụ trước (13), hồi hướng thật tế. Ấy gọi là an trụ các pháp căn lành, mặc áo giáp tinh tấn. Đại Bồ Tát ấy liền chứng đến nhất thiết trí của Phật tánh.
Bồ Tát Long Thọ nói: Nếu Bồ Tát phát tâm bình đẳng, tâm điều phục, tâm ái lạc, tâm ưu thích, tâm nhu nhuyến, tâm vô phân biệt. Ấy gọi là kiên cố, mặc áo giáp tinh tấn, liền hay chứng đến Phật nhất thiết trí (14).
Bồ Tát Kiết Tường Sanh nói: Nếu có Bồ Tát ở trong nhiều kiếp, ưa muốn rõ biết Phật nhứt thiết trí, phải ở trong vô lượng kiếp mặc áo giáp tinh tấn, vì các chúng sanh, hạnh khổ khó làm, không tự cống cao (15). Vị ấy hay chứng đến Phật nhất thiết trí.
Bồ Tát Kiết Tường Tạng nói: Nếu các Bồ Tát khởi tâm lợi tha, không đắm trước vui của mình, không ưa thiền định, nhưng hay khắp vì tất cả làm lợi ích lớn cho tất cả chúng sanh, dùng vô lượng căn lành, hồi hướng cho tất cả chúng sanh. Ấy là hay chứng đến Phật nhất thiết trí.
Bồ Tát Tối Thượng Liên Hoa Kiết Tường nói: Như Phật đã dạy, nếu các Bồ Tát đối với tất cả pháp, không tự tha, không hiển không mật, khắp hay điều phục, không các khởi tác; ở trong tất cả hành, nhưng dứt năng hành. Ấy là Bồ Tát trụ pháp Xa Ma Tha (16) tương ưng, tự năng hành rồi lại hay giáo tha. Đó là Bồ Tát liền hay chứng đến Phật nhất thiết trí.
Bồ Tát Liên Hoa Kiết Tường Sanh nói: nếu các Bồ Tát chấp trước pháp thế gian, tức không thể rõ biết Phật nhất thiết trí. Nếu đối với pháp thế gian, không bị đắm trước, không lợi, không suy, không hủy, không dự, không xưng, không cơ, không khổ, không lạc. Tức là đối với các pháp, không tăng không giảm. Ấy gọi là Bồ Tát xuất ly thế gian, liền hay chứng đến Phật nhất thiết trí.
Bồ Tát Trì Thế nói: Nếu các Bồ Tát dùng các thắng hạnh, lợi ích tất cả chúng sanh, nhưng đặng lợi mình, không phải do mình và người, rồi sinh ra phân biệt, nhưng đem căn lành hồi hướng tất cả, khởi lòng đại tinh tấn thường vì chúng sinh trồng các căn lành. Ấy gọi là Bồ Tát an ổn các thắng hạnh, liền chứng đến Phật nhất thiết trí.
Bồ Tát Địa Trì nói: Thí như trên đất liền hay sanh cây cối cùng các cỏ thuốc v.v…hoa trái tươi tốt đều hay thành tựu, cho đến muôn vật đều nhơn đất mà có ra, nhưng quả đất kia không bao giờ nghĩ; Ta sanh cỏ cây, rồi được thành tựu, đối với muôn vật, nương đất mà được an trụ, tất cả chúng sanh, y đại địa pháp giới mà được sinh trưởng, nhưng không bao giờ suy nghĩ ta hay sinh ra tất cả chúng sinh. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, khởi tâm bình đẳng cũng như quả đất liền, trường kỳ lợi lạc cho tất cả chúng sinh, nhưng không bao giờ nghĩ rằng, ta hay làm lợi lạc cho tất cả chúng sanh, lìa được sự phân biết kia tức hay chứng đến Phật nhất thiết trí.
Bồ Tát Bửu Thủ nói; người mặc áo giáp tinh tấn, làm các hạnh thù thắng rộng lớn vô biên tự không thấy đầy đủ thiện căn rộng lớn để mà thi hành. Nếu các vị Bồ Tát trụ tâm bình đẳng, không có ý tưởng phân biệt, cho đến trong giấc chiêm bao, đối với các chúng sanh, không sanh tâm buồn giận hay vui mừng, luôn muốn cho các hữu tình mặc áo giáp đại thừa, chứng đến Phật trí bình đẳng, khong theo ý niệm Thanh Văn (17), Duyên Giác. Bồ Tát ấy liền hay chứng được Phật nhất thiết trí.
Bồ Tát Bửu Ấn Thủ nói: Đã có cõi chúng sanh mỗi mỗi khiến họ khởi tâm đại bi, khắp thí (18) pháp ấn. Các chúng sanh ấy, những ai chưa tin khiến họ sanh lòng chánh tín, những người chưa nghe khiến họ nghe pháp thật nhiều, các kẻ xan tham khiến họ thật hành bố thí, những ai hủy phạm cấm giới, khiến họ trì gời kiến cố; những vị ưa giận tức,khiến họ thật hành nhẫn nhục, những người biến nhác, khiến họ khởi lòng tinh tiến, ai tâm bị tán loạn, khiến họ trụ thiền định, người nào quá ngu si, khiến họ tập đủ trí huệ, rồi khiến họ thường thật hành pháp lành, đều được tròn đầy thiện căn, thường làm theo ba thứ bửu ấn của Bồ Tát. Những gì là ba?
- Khiến chúng sinh tròn đầy trí Phật của họ, ai có căn lành đều nên hồi hướng cho tất cả chúng sanh. Ấy là bửu ấn (19) thứ nhất.
- Các chỗ mình làm lành, đều có lợi ích, thành tựu căn lành cho tất cả chúng sinh. Ấy là bửu ấn thứ nhì.
- Quán thế giới loài hữu tình cũng như hư không, tự tánh thanh tịnh. Ấy là bửu ấn thứ ba.
Nếu Bồ Tát thường thật hành các việc trên, không có thôi dứt. Tức là hay chứng đến Phật nhất thiết trí.
Bồ Tát Sư Tử Ý nói: nếu Bồ Tát tinh tiến kiên cố, nhưng không sợ hãi, không thể phá hoại, tâm không biếng nhác, không tưởng sợ sệt, dũng mãnh không thoái chuyển, ở trong vòng luân hồi (20), chịu đựng kham khổ, không khiếp không sợ, nhưng thường xa lìa, chứng đến niết bàn; đối với các việc khổ vui, bình đẳng mà trụ, không có hai tướng. Được như thế đó là hạng Bồ Tát mặc áo giáp tinh tấn, liền hay chứng đến Phật nhất thiết trí.
Bồ Tát Sư Tử Vô Úy Âm nói: ví như kẻ sĩ trong thế gian có sức mạnh lớn, khuất phục mọi việc dễ dàng. Ấy gọi là chánh sĩ (21)
Các chánh sĩ thường thi hành các phá, xa lìa các tội cấu không sanh tà kiến, siêng thật hành đại hạnh, tâm thường nhu nhuyến, không có tướng thô ác, xa lìa các sự tàn bạo. Ấy gọi là chánh sĩ.
Thường pháp ngôn hiền lành, gần gũi các thiện hữu, đem tâm quý trọng, tôn kính sư trưởng, thuận đi theo con đường chánh, không có trái nghịch. Ấy gọi là chánh sĩ.
Xa lìa các sự tham ái, thật hành chánh mạng (22), dùng nghiệp thanh tịnh, dẹp hết các lỗi lầm, dùng tâm trí huệ, đoạn hết tà kiến ngu si, đối với ba nghiệp của mỗi người an trụ tịch tĩnh, đối với kẻ khác không sanh tâm nhiễu loạn, không bàn luận các việc tốt xấu hay dở, không chê không khen. Ấy gọi là chánh sĩ.
Thương xót các người nghèo cùng, ra ơn bố thí, không nhớ tưởng oán thân, trong tâm chất trực, ngoài tướng nhu hòa, xa lìa các tà vạy, gìn giữ thật hành chơn chánh, dùng pháp vô thượng, an vui tâm hồn, tịch nhiên kiên cố, bình đẳng yên trụ. Ấy gọi là chánh sĩ.
Đối với chúng sinh có gặp chướng ngại vì họ mà phá diệt; đối với thân mạng tài sản, thường hay khắp thí, đối với pháp thắng nghĩa không sanh xan lẫn, thấy các chúng sinh, những ai không phước không huệ, vì họ diệt trừ các pháp bất thiện, rồi sau mới thí cho diệu pháp bảo tạng (23), chúng sinh nghèo khổ thường cho những đồ quý báu, chúng sinh đau ốm cho thuốc thang, chúng sanh sợ hãi, cho họ an vui, người không chỗ nương tựa, vì họ làm chủ tể, kẻ bị sa vào bánh xe luân hồi, vì họ cứu độ, người ở trong chỗ tối tăm vì họ làm yến sáng chiếu soi, ai ở trong tà đạo, chỉ con đường chánh cho họ, thường dùng pháp ngữ (24) giáo dục tất cả, thấy lỗi lầm của họ không sanh giận tức. Ấy gọi là chánh sĩ.
Các Bồ Tát phải thật hành như thế, tức hay an trụ pháp tương ưng với Xa Ma Tha (25), rồi chứng đến Phật nhất thiết trí.
Bồ Tát Hư Không Tạng nói: Bồ Tát bình đẳng quán sát, nhìn chúng sanh với con mắt đại từ, cũng như hư không, không có ngằn mé, quán sát hành động với tâm đại bi, không lường không ngằn cũng lại như thế, thường sinh tâm hoan hỷ, giũ gìn các giác quan, xa lìa mọi sự nhiễm trước, đối với sáu pháp ba la mật (26) thật hành không thất mỏi mệt, làm việc bố thí v.v…tâm như hư không, không bị ngăn ngại; trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ, đều cũng như thế. Bồ Tát ấy liền hay chứng đến Phật nhất thiết trí.
Bồ Tát Bình Đẳng Tâm Chuyển Pháp Luân nói: Như có vị Bồ Tát nào hành đạo bồ đề, phải đối với sự vật không khởi chấp tướng và tâm phân biệt, chắc chắn không bị ma vương làm não hại, thường được sự hộ niệm của các đức Phật, chư thiên, long thần, thường đến hộ vệ, tạo được căn lành, chân thật không mất. Nếu Bồ Tát đối với sự vật sanh tâm hữu tướng, khởi tưởng phân biệt, tức là cảnh giới ma, bị ma khuấy động, các Đức Phật khôn thể nhiếp thọ, chư thiên khó bề hộ vệ. Nếu vị nào kiên cố, không lay động, không trước tướng, không phân biệt. Bồ Tát ấy sẽ chuyển pháp luân (27) vô thượng, khắp vì tất cả? vì sao? Vì Bồ Tát rõ tánh của sự vật không phát khởi, không tạo tác. Bồ Tát tuy khởi các tâm, nhưng không chấp trước, đem tâm vô tướng để chứng quả Phật Bồ Đề, cho đến chuyển diệu pháp luân, cũng lại như thế. Ấy được gọi là Đại Bồ Tát mặc áo giáp tinh tấn, hay chứng đến Phật nhất thiết trí.
Bồ Tát Liễu Biệt Nhứt Thiết Cú Nghĩa Đại Biện nói: Các chánh sĩ nên biết, tất cả chỗ là Bồ Đề, phiền não là bồ đề, các chỗ làm là bồ đề, pháp hữu vi là bồ đề, pháp hữu lậu là bồ đề, pháp vô lậu là bồ đề, tâm có chấp trước là bồ đề, tâm không chấp trước là bồ đề, căn lành là bồ đề, căn không lành là bồ đề, pháp thế gian là bồ đề, pháp xuất thế gian là bồ đề, pháp luân hồi là bồ đề, cảnh niết bàn là bồ đề, hư không là bồ đề, chơn thật là bồ đề, uẩn, xứ, giới (28) là bồ đề, địa, thủy, hỏa, phong, không, là bồ đề, Đại Bồ Tát rõ tất cả pháp tự tánh đều không, các cõi tạo tác đều không tạo tánh, đối với tất cả nghĩa lý như thật rõ biết. Ví như hư không, khắp tất cả chỗ; pháp bồ đề cũng lại như thế, khắp tất cả chỗ. Nếu Bồ Tát hiểu rõ các pháp, phải đủ biện tài, rồi đặng chánh trí, phân biệt cú nghĩa, liền hay chứng đến Phật nhất thiết trí.
Bồ Tát Biện Tích nói: Nếu Bồ Tát có trí tuệ giải thoát, ra làm việc đều không chấp tướng, vì tâm không chấp tướng, nên không tăng giảm, không động, không lay, đối với tất cả ngôn ngữ như lý mà hiểu, chê bai khen ngợi cũng không chuyển động. Gặp được tất cả ngôn ngữ ngoại đạo, tất cả ngôn ngữ Như Lai, hoặc trong hoặc ngoài, hoặc ẩn, hoặc hiển, đều xem bình đẳng, không có sai khác, biết rõ tất cả sự vật đều về nơi tịch diệt (29), tâm không bao giờ trụ trước, an nhiên không động, như núi Diệu Cao (30), không có tướng động chuyển. Bồ Tát đầy đủ trí tuệ giải thoát, trở về tâm tịch diệt. Tức là chứng được Phật nhứt thiết trí.
Bồ Tát Hải Ý nói: Bồ Tát có trí tuệ như biển lớn, muôn pháp đều về một vị bình đẳng. Bồ Tát đa văn tổng trì đặc tính của sự vật, một mùi vị không sai khác, biết rõ các pháp vôn là chơn tự tánh, đều là vô sở hữu (31); do nhân duyên sanh ra sự vật, tức là nghĩa chân thật, nơi chốn sinh ra các căn lành, rõ biết các pháp là như vậy, không tăng không giảm, bản tính xưa nay, phước lợi không cùng, rốt ráo vắng lặng, không đoạn không thường, tự biết như thật. Lại nữa, đối với chúng sanh khởi tâm vô lượng, không quên không mất, thường sanh tâm tôn trọng, vì họ giảng nói rõ ràng, bình đẳng chỉ bày pháp bất cọng, rộng vì các chúng sanh, gieo trồng căn lành. Bồ Tát ấy, thường mặc áo giáp tinh tấn, chắc chắn chứng được Phật nhất thiết trí.
Bồ Tát Diệu Cao Vương nói: Các chánh sĩ phải biết: "Phật nhứt thiết trí", chưa dễ gì biết rõ, khó mà độ lượng trong phần thủ chứng. Vì sao thế? Nếu các Bồ Tát vượt qua tất cả tâm hạnh của chúng sanh trong thế gian, vượt qua tất cả kiến văn chúng sanh trong thế gian, cho đến tin, ưa, hiểu, biết, đều hay vượt qua chúng sinh trong thế gian, triết để thật hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí huệ. Phước đức gom góp cao hơn núi Tu Di. Bồ Tát ấy liền chứng đến Phật nhất thiết trí.
Bồ Tát Ái Kiến nói: Đại Bồ Tát đối với cảnh sáu trần, quán không chỗ quán, cho đến duyên không chỗ duyên, vì sao? Vì hoặc sắc hoặc tâm bản tánh thanh tịnh, vì sắc thanh tịnh, mắt không chỗ xem, vì tiếng thanh tịnh, tai không chỗ nghe, vì hương thanh tịnh, mũi không chỗ ngửi, vì mùi thanh tịnh, lưỡi không chỗ rõ, vì xúc thanh tịnh, thân không chỗ biết, vì pháp thanh tịnh, ý không chỗ duyên, sở dĩ vì sao? Vì các căn thanh tịnh tự tánh vốn không, không tự, không tha, không ai, không nhàm, tự tánh bình đẳng, quán sát chúng sanh, không có cao thấp, đều là bình đẳng. Đối với giáo pháp của chư Phật, khởi tâm quyết định, không sanh nghi hoặc, ưa giáo pháp không nhàm chán, đặng rồi liền bố thí (32), thí không hối tiếc dần dần hay viên mãn tất cả Phật pháp. Đại Bồ Tát ấy, hành được như vậy đó, liền chứng được Phật nhất thiết trí.
Bồ Tát Hỷ Vương nói: Đại Bồ Tát an trụ tâm bố thí nhẫn nhục; nếu có ai hủy bán, mạ nhục, trách móc, đả đảo, trong lúc ấy, Bồ Tát không sanh tâm giận tức, mà còn hoan hỷ thương xót, đối với các chúng sanh, thường kết bạn lành, không có tướng mình và người, không có người năng hủy mà cũng không có kẻ sở hủy, các sự vật đều không, trong không, ngoài không, tướng người, tướng ta đều là trống không, do đó thường sinh tâm vui mừng, ra làm việc bố thí. Dù có ai muốn sinh đầu, mắt, tay, chân, vợ con, quyến thuộc, cho đến thân mạng, không sẻn không tiếc, vui mừng bố thí. Bồ Tát ưa tìm cầu giáo pháp nhiệm mầu, nếu nghe một bài kệ bốn câu, dù có mất ngôi vị chuyển luân vương (33) cũng không luyến tiếc; nếu được một chúng sinh nào, phát tâm bồ đề, dù có được ngôi vị Đế Thích (34) cũng không có gì ưa thích. Nếu tạm nghe những giáo pháp ít có, dù có được ngôi vị Phạm Thiên (35) cũng không ưa mến. Nếu đặng thấy các đức Như Lai, dù cho có của báu chứa đầy trong 3.000 đại thiên thế giới cũng xem như ngói đá. Ưa thấy các đức Phật vui mừng tràn ngập, đầy đủ các giác quan, thành tựu được pháp phần bồ đề, liền hay chứng được Phật nhất thiết trí.
Bồ Tát Vô Biên Thị nói: Đại Bồ Tát không có tướng ngã kiến (36), quán sát tất cả sự vật đều là thanh tịnh, không sanh nghi lầm, liền hay được thấy tất cả các đức Phật, nhìn các sắc không có tham trước, không vọng tưởng theo sắc, nhìn các chúng sanh, không cố chấp theo chúng sanh, cho đến quán sát tất cả sắc tượng trong thế gian cũng như thế. Nhục nhãn đã thấy tất cả cõi Phật đều là thanh tịnh, vì nghiệp báo (37) thanh tịnh, liền đặng đầy đủ thiên nhãn (38), đủ đại thần thông rồi được đầy đủ huệ nhãn, tròn đầy Phật pháp bất cộng (39) liền được đầy đủ pháp nhãn, đoạn hết phiền não liền đặng đầy đủ Phật nhãn. Bồ Tát ấy sẽ đặng đầy đủ thập lực (40), liền chứng đặng Phật nhất thiết trí.
Bồ Tát Vô Biên Tác Hạnh nói: Tất cả chỗ làm của chư Phật đều là bồ đề, vì sao? Bồ đề thường sanh ra tất cả trí tuệ, không nội tưởng, không ngoại tưởng cũng không trung gian. Thế nên Bồ Tát đối với tất cả sự vật không bao giờ chấp trước, bao nhiêu phiền não giới dứt hết không còn, không có việc ma, vượt ngoài cảnh giới của ma. Bồ Tát ấy liền chứng được Phật nhất thiết trí.
Bồ Tát Phá Chư Ma nói: Nếu Bồ Tát không khởi ngã kiến, liền xa lìa các cô chấp, các cố chấp không sanh, lánh được nghiệp ma, liền hay rõ ngộ các (41) uẩn, các uẩn đều không ngã tướng hằng diệt, ngã tướng diệt rồi, ma không làm hại, ma nghiệp đã diệt, giải thoát các chướng ngại, xa lìa các chướng ngại, liền đặng bồ đề. Ấy gọi là chứng đến Phật nhất thiết trí.
Bồ Tát Vô Ưu Thọ nói: Nếu người nào tạo nghiệp bất thiện, thường sanh lo sợ, ăn năn tự trách. Nếu người tạo các nghiệp thiện, không có lo sợ. Thế nên Bồ Tát thường thật hành pháp lành, không có gián đoạn, hiên tiền liên tiếp, tức không bị lo tổn thương tên độc phiền não, liền mặc áo giáp tinh tiến, chứng đến Phật nhất thiết trí.
Bồ Tát Nhất Thế Nghĩa Thành nói: Nếu các thiện nam, giới pháp đầy đủ, hạnh nguyện đầy đủ, liền hay an trụ giới pháp căn bản. Vì như hương thơm, khắp xông tất cả, nhưng hay lìa các lồi lầm, xa lìa các việc ác mới được giác ngộ hoàn toàn, khi giác ngộ rồi mới hoàn thành nhứt thiết trí. Do đó phải biết giới pháp đầy đủ là gốc, phần bồ đề mới được thành tựu. Bồ Tát rõ biết như thế, tức là chứng đến Phật nhất thiết trí.
Như thế đó các Bồ Tát mỗi ngài nói pháp rồi, trong pháp hội có vị Thiên Tử Đâu Suất, tên là Phổ Khai Hoa, nói lên lời nầy: Các Bồ Tát! Vì như trong thế gian có loại cây Diệu Hoa, cây đẹp hoa nở tròn đầy, sắc hương sung mãn nhiều người ưa thích. Các vị Bồ Tát cũng lại như vậy, nếu các pháp mầu giải thoát, như hoa nở tròn đầy, trang nghiêm. Tất cả Đại Bồ Tát rất là ưa thích.
Lại cũng như những cây hoa trong vường ở cung trời Đao Lợi (42), cao lớn trang nghiêm, hoa nở tròn trịa, được các vị trời ưa thích. Đại Bồ Tát, nếu đủ các pháp giải thoát, hoa giác ngộ nở trang nghiêm. Tất cả Bồ Tát và các nhơn thiên rất là ưa thích. Cũng như viên ngọc ma ni tối thượng vĩ đại, trong sạch không có tỳ vết, đủ đức như ý; Đại Bồ Tát trong tâm thanh tịnh, không có các cấu nhiễm, đầy đủ công đức thắng pháp. Như thế tức là chứng được Phật nhất thiết trí.
Thiên Tử Quang Minh Khai Hoa nói: Các Bồ Tát như mặt trời chiếu yến sáng, phá các chỗ tỗi tăm, tất cả sắc tướng được hiển bày. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, đủ trí huệ sáng suốt, châm vào đuốc diệu pháp, soi khắp chúng sanh, diệt trừ các si ám. Khi si ám đã diệt thì không bị ngu mê che lấp; thường đi theo con đường sáng. Thế nên, Bồ Tát chỉ dẫn cho những chúng sinh nào đi sai đường, quay về con đường chánh. Tức là chứng đến Phật nhất thiết trí.
Thiên Tử Mạn Đà La Hoa Hương nói: Các Bồ Tát! Mùi thơm vi diệu của hoa Mạn Đà La (43) nghe xa hằng trăm do tuần. Đại Bồ Tát đầy đủ giới, định, huệ cũng lại như thế; Thơm giới, thơm định và thơm huệ (44). Nghe khắp tất cả trong thế gian. Nếu các chúng sanh nghe mùi thơm ấy, tất cả phiền não thảy đều tiêu trừ. Đại Bồ Tát ấy, đầy đủ thắng pháp công đức như thế, liền chứng được Phật nhứt thiết trí.
Thiên Tử Tinh Tấn Pháp Hành nói: Nếu các Bồ Tát tạm thời thoái chí, tức không thể tiến tu thắng hạnh, khó đặng quả Phật Bồ Đề. Nếu tâm tinh tiến, không tính kiếp số, trường kỳ dõng mãnh, trồng các căn lành, tâm không bao giờ nhàm chán, thường thật hành tám pháp trợ đạo. Những gì là tám? Một là: khuyên làm hạnh thù thắng, tương ưng các sự vật. Hai là: thường thật hành bốn hạnh vô lượng, theo pháp từ, bi, hỷ, xả. Ba là: thật hành năm (45) loại thần thông, theo pháp trí huệ. Bốn là: thường hành phương pháp tứ nhiếp; ấy là các pháp: bố thí, ái ngữ, lợi hạnh và đồng sự. Năm là: đối với ba (46) môn giải thoát, kiên nhẫn thật hành đầy đủ. Sáu là: rộng vì người khá, tuyên nói pháp nhiệm mầu. Bảy là: phát khởi tâm vô thượng Đại Bồ Đề. Tám là: khôn khéo phương tiện, hồi hướng (47) tất cả, nhiếp trì chánh pháp. Bồ Tát thật hành tám pháp nầy, tức hay chứng đến Phật nhứt thiết trí.
Lúc bấy giờ Đại Bồ Tát Diệu Kiết Tường bảo các Bồ Tát và chư Thiên Tử rằng: Các Đại Bồ Tát, đối với các pháp, phải xa lìa những sự phân biệt, liền chứng Phật trí. Thế nào là lìa những sự phân biệt? Nghĩa là không phân biệt ba cõi (48), không phân biệt các kiến chấp, không phân biệt là trong, là ngoài, không phân biệt là quả vị Thanh Văn, quả vị Duyên Giác, là địa vị ngu dị sanh (49), cũng không phân biệt là luân hồi, là phiền não, là năng quán, là sở quán, là nhơn, là quả, là cảnh giới hay phi cảnh giới, là tăng, là giảm, là ngã kiến, là ngã sở kiến, là xan tham, là bố thí, là phá giới, là trì giới, là giận tức, là nhẫn nhục, là giải đãi, là tinh tiến, là tán loạn, là thiền định, là ngu si hay trí huệ; cũng không phân biệt là căn lành hay sanh các pháp lành, là căn không tốt hay sinh các pháp không tốt, không phân biệt là pháp thế gian, là pháp xuất thế gian, trụ pháp bình đẳng, không phân biệt là hữu vi, là vô vi, không phân biệt là tâm có chấp trước, là tâm không chấp trước, không phân biệt là hữu lậu, là vô lậu. Các Bồ Tát phải biết: Các pháp nói trên không nên phân biệt, trụ tâm bình đẳng tương ưng, tức hay chứng đến Phật nhứt thiết trí.
Lại nữa, các Đại Bồ Tát: Các Đức Phật nghĩ có chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác cũng không thể được. Vì sao? Vì không phải do tâm 'sở duyên", cũng chẳng phải do trí "sở trí", duy có Phật tánh (50) trực ngộ, cùng với Phật bình đẳng, nhứt thiết trí cũng bình đẳng, đối với 'nhứt thiết trí', quán 'vô sở hữu', vì 'vô sở hữu' , nên đối với nhứt thiết trí, không chỗ chấp trước, chẳng phải sắc thủ, thụ, tưởng, hành, thức đều không thể thủ (chấp trước). Ấy mới gọi là nhứt thiết trí. Không có pháp tướng (51), nhưng đều đủ 'pháp tướng'. Ấy gọi là 'nhứt thiết trí'; không thể chứng bố thí ba la mật, không thể chứng trì giới ba la mật, không thể chứng nhẫn nhục ba la mật, tinh tấn ba la mật không thể chứng, thiền ba la mật không thể chứng, bát nhã ba la mật cũng không thể chúng. Sở dĩ vì sao? Vì các pháp 'vô sở đắc'. Thế nên nhất thiết trí cũng 'vô sở đắc'.
Lại nữa, các vị Bồ Tát! Nhất thiết trí không phải ba đời có thể đặng, đời đã qua không thể đặng, đời hiện tại không thể đặng, đời chưa đến cũng không thể đặng, vì không trụ trước trong ba đời. Không nhãn thức 'sở quán', mà cũng không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý 'sở quán'. Vì cớ sao? Vì lìa các cảnh giới. Các vị Đại Bồ Tát thành tựu nhứt thiết trí, phải như thế mà trụ. Lý do vì sao? Vì tất cả pháp cũng như thế mà trụ. Các pháp bình đẳng, nhứt thiết trí cũng bình đẳng, cho đến pháp của chư Phật cùng pháp của phàm phu đều là bình đẳng. Như vậy, tất cả pháp bình đẳng. Thế nên gọi là 'nhứt thiết trí'. Đại Bồ Tát! Phải như thế mà trụ, nên học đúng như vậy. Vì như bốn đại (52) tự tánh đều không, nghĩ rằng vốn tự có tánh cũng không thể được. Vì sao? Bởi vì tự tánh vốn không; trong thế gian các pháp thiện và bất thiện, tự tánh không cũng không thể được. Vì sao? Vì không phân biệt. Phân biệt đã không, ấy là nghĩa chân thật.
Lúc ấy Bồ Tát Diệu Kiết Tường nói pháp ấy xong trong pháp hội có hai nghìn thiên tử, chứng đặng vô sanh (53) pháp nhẫn; một muôn hai nghìn thiên tử khác phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác.


Chú thích:
1. Tôi nghe như vầy: Tôi có nghe như vầy. Lời của Tôn Giả A Nan nói: Tiếng Pali: Evam me Sutam. Tiếng Sanskrit: Evam Maya Srutam. Kinh nào có câu nầy đứng đầu đều là do đức Phật thuyết, sau đó Tôn giả A Nan thuật lại.
2. Thành Vương Xá: (S) Rajagriha (P) Rajagaha: Kinh đô nước Ma Kiệt Đà (Magadha) vua Tần Bà Sa La (Bimbisara) trị vì lúc đức Phật giáng sanh. Sau khi đắc đạo, đức Phật thường thuyết pháp tại thành nầy để hóa độ Vua và Hoàng tộc.
3. Pháp hội Linh Sơn: (S) Gridhrakuta. Đức Phật thuyết kinh nầy tại núi Linh. Cảnh núi nầy hình như con ó ở gần thành Vương Xá. Đọc theo dịch âm là Kỳ Xà Quật, dịch nghĩa Linh Thứu Sơn, Kê Túc Sơn. Tại núi nầy, đức Phật thuyết nhiều bộ Kinh quan trọng, như KINH PHÁP HOA, KINH KIM QUAN MINH v.v…
4. Đại Tổng Trì: Maha Dharani. Tổng thiệt bất thất, trì ác bất sanh, nghĩa là giữ trọn vẹn, không để cho dù là việc thiệc nhỏ không thất lạc, không để cho ác nhỏ khởi lên. Trong khi tổng trì, Bồ Tát hoạc nhà đạo đức lấy giới, định, huệ, làm thể, nương theo đó mà tu thì có đủ công đức về đại tổng trì.
5. Vô ngại biện tài: Tài biện luận, tài giảng thuyết về đạo lý không ai sánh bằng, tài ăn nói hùng hồn, xảo diệu, khiến ai nấy cũng đều tín thọ. Tài biện thuyết của Phật và Bồ Tát không trở ngại, không có sức chi chống ngăn nổi, không có ai phản đối được. Nên gọi là vô ngại biện tài.
6. Vô sanh pháp nhẫn: Đức nhẫn nhục của người tu học đắc đạo thể nhập chân lý: các pháp không sanh không diệt. Bự tu hành nếu hiểu các pháp không sanh, không diệt, tức là hiểu thật tướng sự vật vốn không sanh diệt. Hiểu như thế thì không còn lo rầu, phiền não, đối với chúng sinh, được vậy gọi là vô sanh pháp nhẫn. Đi đến chỗ không còn sinh tử luân hồi.
7. Tam ma địa: Samadhi, pháp đại định của nhà đạo bực cao, trong khi nhập định thân tâm không xao động, chăm chú vào một mục đích mà thôi. Các vọng tưởng tà kiến không thể nào xâm nhập vào tâm của nhà tu đại định. Đắc cảnh tam ma địa được vào pháp thân thanh tịnh.
8. Nói Pháp yếu: Giảng giải các giáo pháp thiết thực đúng với chơn lý, hợp với sự thật. Nhất là nói pháp hợp căn cơ, độ sinh dễ dàng.
9. Bốn vị Đại Thiên Vương: Caturmaharaijakayrika, tứ Thiên Vương là bốn vị trời quản lãnh bốn châu thiên hạ, xem xét các điều thiện ác.
10. Phi nhơn: Chẳng phải người, chẳng giống người, chẳng phải người thường, như các hạn tiên, thần, quỷ, đều gọi là phi nhơn. Nhơn là tứ chúng: Tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di. Phi nhơn là Trời, rồng, dạ xoa, càn thát bà, A tu la, Ma hầu la, khẩn na la v.v…
11. Diệu Kiết Tường: Manjusri – tức là Bồ Tát Văn Thù. Ngài Văn Thù có 108 tên, đặc biệt tiêu biểu về trí tuệ căn bản, nên thường gọi Ngài là Đại Trí, cũng như người ta gọi Ngài Phổ Hiền là Đại Hạnh và Ngài Quán Thế Âm là Đại Bi. Lúc Thích Ca ra đời, Văn Thù hiện thân làm Bồ Tát hậu gần Phật, giúp Phật tuyên dương chánh pháp.
12. Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác: Anuttara-Samyak Sambhodhi, Quả vị Phật. Tức là quả đạo lý tối cao mà đức Phật chứng ngộ, lúc Ngài đại định dưới cội Bồ Đề.
13. Tâm không trụ trước: Tâm niệm không bao giờ chấp trước ở vào một chỗ, tức là lòng rộng như hư không, tâm bao la, không dính mắc vào một việc gì, dù việc ấy hết sức nhỏ nhiệm.
14. Nhất Thiết Trí: Cái trí hiểu biết tất cả mọi sự vật, tức là trí của Phật. Trong Kinh thường xưng khen Phật là bậc Nhất Thiết Trí. Những ai theo Phật và nghe chánh pháp, rốt cuộc chắc chắn được nhất thiết trí.
15. Không tự cống cao: Không bao giờ chính mình ngã mạn, tự cao, tự đắc, cho mình là cao thượng, cho mình là số một trên đời nầy.
16. Xa Ma Tha: Samatha, dịch là chỉ quán, định huệ, tịch chiếu minh tịnh. Tức là ngồi suy nghĩ, thân tâm chẳng lay động, chăm chú vào một vấn đề cho ngộ lý, quán sát mọi việc cho sáng tỏ.
17. Thanh Văn, Duyên Giác: Thanh Văn là hạng theo giáo lý Tứ Diệu Đế để đắc quả A La Hớn, Duyên Giác là bậc theo giáo pháp dạy về Thập Nhị Nhân Duyên, phần nhiều tự tu, tự ngộ đến quả Duyên Giác, Thanh Văn Duyên Giác là hai thừa trong Phật Giáo.
18. Pháp Ấn: Dharma-mudra, sự ấn chứng huyền linh của Phật, hành giả đã từng tu trì chánh pháp hoặc thọ trì pháp niệm Phật. Pháp ấn còn có nghĩa: sự ấn truyền cho nhau cái tâm Phật, giữa Phật với Phật, tổ với tổ; sự ấn định vào tâm mà phú chúc tâm pháp. Còn có nhiều nghĩa khác về Pháp ấn.
19. Bửu ấn: Cái ấn chứng đặc biệt vi diệu do chư Phật, chư đại Bồ Tát ban các vị tu trì có đạo đức. Đồng nghĩa với Phật ấn. Ngoài ra khi nhà sư niệm chơn ngôn mà thủ hộ, phép ấy cũng gọi là bửu ấn.
20. Luân hồi: Samsara. Luân là bánh xe, quay tròn. Hồi là lần về. Chúng sinh từ vô thỉ đến nay, luân hồi mãi, hết sanh rồi tử trong 6 đường, lăn đi lộn lại mãi, hết xuống rồi lên, hết lên rồi xuống, cũng như cái bánh xe lăn tròn mãi không lúc nào thôi.
21. Chánh sĩ. Bodhisattva, bực đại sĩ cầu chánh đạo, chánh quả. Thật hành hạnh Bồ Tát để giúp đỡ chúng sanh ra khỏi sông mê bể khổ.
22. Chánh mạng: Samyak-Ajiva: Đời sống chơn chánh, cách sống đời trong sạch của hàng đệ tử xuất gia. Chánh mạng là cách hành đạo thứ năm trong bát chánh đạo. Đệ tử Phật thích sống thanh tịnh ba nghiệp, bằng cách thuận theo chánh pháp mà nuôi mạng sống, lìa các sinh hoạt tà.
23. Diệu pháp bảo tạng: Pháp nhiệm mầu trong tạng quý báu. Đem thân tâm ra giúp ích cho đời, không luận ở đâu và hạng người nào.
24. Pháp ngữ: Lời nói ra chánh pháp, những ngôn ngữ giải bày điều hành, diễn thuyết đạo lý nhiệm mầu.
25. Xa Ma Tha: Samatha. Chỉ quán, định, huệ, tịch chiếu min tịnh. Tức là ngồi ngay thẳng suy nghĩ, thân thể và tâm ý chẳng lay động, chăm chú vào một vấn đề cho tỏ ý, quán sát cho sáng suốt…
26. Sáu pháp ba la mật: Ce-paramita: Sáu hạnh ba la mật. Lục độ là sáu nền đại hạnh có thể đưa người từ bến mê tới bờ giác, từ sanh tử đến niết bàn, từ địa vị pháp phu đến quả vị Phật.
27. Chuyển Pháp Luân: Dhammachakkappavattana. Quay bánh xe chánh pháp, tức là thuyết pháp để cứu độ chúng sanh. Pháp luân thường chuyển huệ tâm khai, nghĩa là bành xe chánh pháp thường quay làm cho tâm hồn được sáng suốt.
28. Uẩn, xứ, giới: Ngũ uẩn: Pacaskandha, sắc, thụ, tưởng, hành, thức. Thập nhị xứ: Dvadasayatana: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ và sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Thập bát giới: Astadasa-dhata. Nhãn giới, nhĩ,tỷ, thiệt, thân, ý; sắc giới, thanh, hương, vị, xúc, pháp; nhãn thức giới, nhĩ, tỹ, thiệt thân và ý.
29. Nơi tịch diệt: Chỗ vắng lặng, tức là trở về với bản thể của vũ trụ.
30. Núi Diệu Cao: Tức là núi Tu Di, Sumeru. Quả núi lớn nhất ở trung tâm vũ trụ. Ấy là hòn núi của tiên thánh, mỗi ngày các ngôi tinh tú xoay chung quanh quả núi nầy…
31. Vô sở hữu: Không chỗ có, chẳng chó chi mà được. Tự mình liễu ngộ rằng, các pháp vốn không, tất cả đều huyễn hóa, cho nên không thấy rằng mình có, không nhận rằng mình biết. Gọi là vô sở hữu.
32. Bố thí: Dana, cho một cách cùng khắp. Bố thí tài, bố thí pháp, và bố thí vô úy. Cao hơn là bố thí đến chỗ ba la mật, rốt ráo không chấp trước, không hư vọng.
33. Chuyển Luân Vương: Cakravartin. Vị Vua dùng chánh pháp trị dân, cũng như người quay cho bánh xe lăn tới, chớ không trở lui. Vị Vua ngồi trên cổ xe để đi thâu phục thiên hạ.
34. Ngôi vị Đế Thích. Tức là làm đến Vua Trời, Cakra. Đế Thích là Vua ở trời Đao Lợi, cõi dục. Cõi này có 33 cảnh giới. Ngôi vị Đế Thích là một ngôi vị cao sang, quyền quý…
35. Ngôi vị Phạm Thiên. Brahma là ngôi vị cao quý, có cung điện đồ sộ nguy nga. Cõi trời thanh tịnh ở miền sơ thiền trong cõi sắc. Một cảnh trong bốn cảnh: Phạm Thân Thiên, Phạm Chúng Thiên, Phạm Phụ Thiên và Phạm Thiên đều gọi chung là Phạm Thiên.
36. Tướng ngã kiến: Cái tướng chấp chặc cái ta, đem cái thân tâm của mình do bốn đại, năm uẩn hòa hiệp giả tạm mà cho là cái ngã thường trú bất biến.
37. Nghiệp báo: Cái nghiệp nó trả lại bằng sự vui vẻ hay khổ sở tùy theo đời trước mình đã làm lành hay làm ác. Cái nghiệp trong thời kỳ báo đáp. Tức là nghiệp quả hay quả báo.
38. Thiên nhãn: Dyvyacaksu. Mắt trời, mắt thần tiên sự thấy bằng thần thông, một thứ mắt trong ngũ nhãn. Với thiên nhãn, người ta có thể thấy mọi vật, các chúng sanh trong 6 đường luân hồi.
39. Bất cọng: Giáo pháp riêng biệt. Những pháp riêng biệt mà Phật chỉ dạy cho hàng Bồ Tát, những việc mà Đức Phật thi hành, những việc ấy chẳng giống với việc của ai cả.
40. Thập lực: Dasabala. Mười sức lực trí tuệ. 1. Tri thị xư phi xứ trí lực. 2. Tri tam thế nghiệp báo trí lực. 3. Tri chư thiên giải thoát tam muội trí lực. 4. Tri chúng sanh tâm tánh trí lực. 5. Tri chủng chủng giải trí lực. 6. Tri chủng chủng giới trí lực. 7. Tri nhứt thiết sở đạo trí lực. 8. Tri thiên nhãn vô ngại trí lực. 9. Tri túc mạng vô lậu trí lực. và 10. Tri vĩnh đoạn tập khí trí lực.
41. Các uẩn: Các sự chứa nhóm, như là sắc uẩn thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, và thức uẩn. Chứa nhóm đúc kết thành sắc thân.
42. Trời Đao Lợi: Trayastrimca: Cảnh của chư Thiên cõi Dục, thuộc về lục dục thiên. Cung trời Đao Lợi ở trên cảnh Tứ Thiên Vương. Trời Đế Thích quản trị toàn cảnh ấy.
43. Hoa Mạn Đà La: Mandarava. Hoa rất quý ở cõi trời hay cảnh Phật. Mạn Đà La hoa là hoa sen trắng mầu nhiệm, mất trắng tinh, mùi rất thơm. Ai thấy màu cà ngửi mùi rất lấy làm thích ý.
44. Thơm giới, thơm định và thơm huệ: Tức là giới hương, định hương và huệ hương. Gọi là tam vô lậu học. Ba phần học của hàng vô lậu, của hạng người quyết đắc quả thánh.
45. Năm loại thần thông: Thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, thần túc thông và lậu tận thông.
46. Ba môn giải thoát. Ba cửa giải thoát. Ấy là không (vốn là không); vô tướng (không có thể tướng), và vô tác ( không cố ý làm gì) cũng gọi là vô nguyện: không mong cầu gì cho mình.
47. Hồi hướng: Hồi là gom góp lại, hướng là gởi đến cho ngưới khác, gọi là hồi hướng. Có 4 nghĩa hồi tự hướng tha, hồi nhơn hướng quả, hồi sự hướng lý, hồi tướng hướng tánh.
48. Ba cõi: Cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc.
49. Ngu dị sanh: Tức là hàng nhị thừa mới giải thoát một phần vô minh, còn vi tế chưa đoạn, sự ngu mê khác hơn các chúng sanh khác, nghĩa là dứt được phần đoạn sanh tử. Nên gọi là ngu dị sanh.
50. Phật tánh: Buddhata. Bản tính sáng suốt giác ngộ của mỗi người. Tánh nầy, Phật cùng chúng sanh đồng nhau.
51. Pháp tướng: Tướng trạng các pháp. Các pháp tức các sự vật đều đồng một tánh, nhưng tướng khác nhau. Các tướng đều sai biệt nhau. Pháp tướng đối với chúng sanh tướng.
52. Bốn đại tự tánh: Mahabhuta là đặc tánh của bốn chất: đất, nước, gió, lửa. Bốn chất lớn nầy trong thế giới tạm họp thành con người và vạn vật.
53. Vô sanh pháp nhẫn: Đức nhẫn nhục của người tu học đắc đạo thể nhập chân lý: các pháp không sanh, không diệt. Bực tu hành nếu hiểu các pháp không sanh không diệt, tức là hiểu thật tướng sự vật vốn không sanh diệt. Hiểu như thế thì không còn lo rầu, phiền não, đối với chúng sinh, được vậy gọi là vô sanh pháp nhãn. Đi đến chỗ không còn sinh tử luân hồi.

« Kinh này có tổng cộng 6 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Kinh Kim Cang


Tổng quan về Nghiệp


Yếu lược các giai đoạn trên đường tu giác ngộ


Phù trợ người lâm chung

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 13.59.232.9 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập