Dầu giữa bãi chiến trường, thắng ngàn ngàn quân địch, không bằng tự thắng mình, thật chiến thắng tối thượng.Kinh Pháp cú (Kệ số 103)
Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ, ý tạo; nếu với ý ô nhiễm, nói lên hay hành động, khổ não bước theo sau, như xe, chân vật kéo.Kinh Pháp Cú (Kệ số 1)
Người ta trói buộc với vợ con, nhà cửa còn hơn cả sự giam cầm nơi lao ngục. Lao ngục còn có hạn kỳ được thả ra, vợ con chẳng thể có lấy một chốc lát xa lìa.Kinh Bốn mươi hai chương
Người có trí luôn thận trọng trong cả ý nghĩ, lời nói cũng như việc làm. Kinh Pháp cú
Nên biết rằng tâm nóng giận còn hơn cả lửa dữ, phải thường phòng hộ không để cho nhập vào. Giặc cướp công đức không gì hơn tâm nóng giận.Kinh Lời dạy cuối cùng
Không nên nhìn lỗi người, người làm hay không làm.Nên nhìn tự chính mình, có làm hay không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 50)
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc lại thêm hương; cũng vậy, lời khéo nói, có làm, có kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 52)
Những người hay khuyên dạy, ngăn người khác làm ác, được người hiền kính yêu, bị kẻ ác không thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 77)
Hãy tự mình làm những điều mình khuyên dạy người khác. Kinh Pháp cú
Người thực hành ít ham muốn thì lòng được thản nhiên, không phải lo sợ chi cả, cho dù gặp việc thế nào cũng tự thấy đầy đủ.Kinh Lời dạy cuối cùng

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Kinh [摩訶般若波羅蜜經] »» Bản Việt dịch quyển số 5 »»

Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Kinh [摩訶般若波羅蜜經] »» Bản Việt dịch quyển số 5

Donate


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.57 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 1.07 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Kinh Bát Nhã Ba La Mật

Kinh này có 27 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    
1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 |
Việt dịch: Thích Trí Tịnh

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

PHẨM TRANG NGHIÊM
THỨ MƯỜI BẢY

Bấy giờ Ngài Tu Bồ Ðề bạch đức Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Ðại Bồ Tát đại trang nghiêm.
Những gì là đại trang nghiêm?
Bực Bồ Tát nào có thể đại trang nghiêm?"
Ðức Phật nói: "Nầy Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ Tát Ðại thừa đại trang nghiêm. Chính là Ðàn na ba la mật đến Bát nhã ba la mật trang nghiêm. Tứ niệm xứ đến bát thánh đạo phần trang nghiêm. Nội không đến vô pháp hữu không trang nghiêm. Thập lực đến pháp bất cộng và nhứt thiết chủng trí trang nghiêm.
Biến thân như Phật trang nghiêm, quang minh chiếu khắp tam thiên Ðại Thiên quốc độ, cũng chiếu khắp mười, mỗi phương đều hằng sa quốc độ. Làm chấn động Ðại Thiên quốc, cũng chấn động hằng sa quốc độ trong mười phương.
Bồ Tát nầy an trụ trong Ðàn na ba la mật Ðại thừa đại trang nghiêm. Ðại Thiên quốc độ nầy biến thành cõi lưu ly. Bồ Tát nầy hóa thành Chuyển Luân Thánh Vương, chúng sanh cần dùnh thứ gì thời đều cung cấp đầy đủ thứ ấy, cần ăn cho ăn, cần uống cho uống, cần mặc cho y phục, cần chỗ ở cho nhà phòng giường nệm, cần ánh sáng cho đèn đuốc, cần lành bệnh cho thuốc men, cần trang điển cho chuổi ngọc châu báu cùng các loại hoa hương. Cấp cho xong rồi lại thuyết pháp cho họ tu hành pháp Ðại thừa. Chúng sanh nghe xong, trọn chẳng rời sáu ba la mật nhẫn đến Vô thượng Bồ đề.
Ðây gọi là đại Bồ Tát Ðại thừa đại trang nghiêm.
Nầy Tu Bồ Ðề! Ví như nhà ảo thuật giỏi, ở giữa ngã tư đường hóa làm đại chúng, rồi cung cấp đồ ăn uống, nhà phòng, thuốc men, hoa hương cho đại chúng ấy. Tu Bồ Ðề nghĩa thế nào? Ðối với nhà ảo thuật nầy thiệt có đại chúng cho chăng?"
Bạch đức Thế Tôn! Không có thiệt.
Nầy Tu Bồ Ðề! Cũng vậy, đại Bồ Tát hóa làm Chuyển Luân Thánh Vương cung cấp nhu cầu đầy đủ cho tất cả chúng sanh, mặc dù có làm mà thiệt thời không chỗ cho. Tại sao vậy? Vì pháp tướng như ảo vậy.
Lại nầy Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ Tát an trụ Thi la ba la mật hiện sanh vào nhà Chuyển Luân Thánh Vương, đem thập thiện đạo giáo hóa chúng sanh. Có vị đem tứ thiền, tứ vô lượng tâm, tứ vô sắc định, tứ niệm xứ đến mười tám pháp bất cộng giáo hóa chúng sanh. Chúng sanh nghe pháp tin hiểu thọ trì mãi đến thành Vô thượng Bồ đề trọn không rời pháp ấy.
Ví như nhà ảo thuật giỏi, ở giữa ngã tư đường hóa làm đại chúng rồi đem pháp thập thiện đạo giáo hóa, cũng đem tứ thiền, tứ vô lượng tâm, tứ vô sắc định, tứ niệm xứ đến mười tám pháp bất cộng để giáo hóa khiến thật hành. Tu Bồ Ðề nghĩ thế nào? Có chúng sanh thiệt được nhà ảo thuật giáo hóa chăng?
Bạch đức Thế Tôn! Không có thiệt.
Cũng vậy, nầy Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ Tát giáo hóa chúng sanh thật hành thập thiện đạo đến mười tám pháp bất cộng, nhưng thiệt không có chúng sanh thật hành thập thiện đạo đến pháp bất cộng. Tại sao vậy? Vì pháp tướng như ảo vậy.
Ðây gọi là đại Bồ Tát đại trang nghiêm.
Lại nầy Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ Tát an trụ Sằn đề ba la mật, giáo hóa chúng sanh làm cho họ thật hành Sằn đề ba la mật. An trụ và giáo hóa thế nào? Ðại Bồ Tát từ lúc sơ phát tâm đến nay, dầu bị tất cả chúng sanh mắng nhiếc, đánh đập, chém giết vẫn không móng khởi một niệm động tâm và cũng dạy tất cả chúng sanh thật hành nhẫn nhục nầy, nhưng thiệt không có chúng sanh thọ giáo và thật hành nhẫn nhục. Tại sao vậy? Vì pháp tướng như ảo vậy. Ví như nhà ảo thuật giỏi, hóa hiện đại chúng rồi dạy thật hành nhẫn nhục.
Ðây gọi là đại Bồ Tát đại trang nghiêm.
Lại nầy Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ Tát an trụ Tỳ lê gia ba la mật, giáo hóa tất cả chúng sanh thật hành Tỳ lê gia ba la mật. An trụ và giáo hóa thế nào? Ðại Bồ Tát đúng với tâm nhứt thiết trí, thân tâm tinh tấn giáo hóa chúng sanh. Nhưng thật không có chúng sanh thọ giáo. Tại sao vậy? Vì pháp tướng như ảo vậy. Ví như nhà ảo thuật giỏi.
Ðây gọi là đại Bồ Tát đại trang nghiêm.
Lại nầy Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ Tát an trụ Thiền na ba la mật, giáo hóa tất cả chúng sanh thật hành Thiền na ba la. An trụ và giáo hóa thế nào? Ðại Bồ Tát an trụ trong pháp bất động, chẳng thấy có loạn, chẳng thấy có định, giáo hóa tất cả chúng sanh thật hành Thiền na ba la mật, nhẫn đến Vô thượng Bồ đề trọn chẳng rời Thiền na ba la mật. Nhưng thiệt không có chúng sanh thọ giáo thật hành Thiền na ba la mật. Tại sao vậy? Vì pháp tướng như ảo vậy. Ví như nhà ảo thuật giỏi.
Ðây gọi là đại Bồ Tát đại trang nghiêm.
Lại nầy Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ Tát an trụ Bát nhã ba la mật, giáo hóa tất cả chúng sanh thật hành Bát nhã ba la mật. An trụ và giáo hóa thế nào? Ðại Bồ Tát lúc an trụ trong Bát nhã ba la mật, không có pháp được thử ngạn bỉ ngạn, giáo hóa tất cả chúng sanh thật hành Bát nhã ba la mật, nhẫn đến Vô thượng Bồ đề trọn chẳng rời Bát nhã ba la mật. Nhưng thiệt không có chúng sanh thật hành Bát nhã ba la mật. Tại sao vậy? Vì pháp tướng như ảo vậy. Ví như nhà ảo thuật giỏi.
Ðây gọi là đại Bồ Tát đại trang nghiêm.
Lại nầy Tu Bồ Ðề! Tùy theo chỗ đáng được độ của chúng sanh trong hằng sa quốc độ ở mười phương, đại Bồ Tát tự biến thân hình an trụ Ðàn na ba la mật nhẫn đến Bát nhã ba la mật, cũng giáo hóa chúng sanh thật hành sáu ba la mật. Chúng sanh tuân hành pháp nầy đến Vô thượng Bồ đề trọn chẳng rời pháp nầy. Nhưng thiệt không có chúng sanh tuân hành. tại sao vậy? Vì pháp tướng như ảo vậy. Ví như nhà ảo thuật giỏi.
Ðây là đại Bồ Tát đại trang nghiêm.
Lại nầy Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ Tát đại trang nghiêm đúng với tâm nhứt thiết trí, chẳng nghĩ rằng tôi dạy bao nhiêu người nầy an trụ sáu ba la mật mà chẳng dạy những người kia.
Cũng chẳng nghĩ rằng tôi dạy bao nhiêu người nầy an trụ tứ niệm xứ đến bất cộng pháp mà chẳng dạy bao nhiêu người kia.
Cũng chẳng nghĩ rằng tôi dạy bao nhiêu người nầy cho họ được quả Tu Ðà Hoàn, Tư Ðà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, Bích Chi Phật, nhứt thiết chủng trí mà chẳng dạy bao nhiêu người kia.
Ðại Bồ Tát đúng với tâm nhứt thiết trí, nghĩ rằng tôi sẽ làm cho vô lượng vô biên vô số tất cả chúng sanh an trụ sáu ba la mật. Tôi sẽ đặt tất cả chúng sanh nơi tứ niệm xứ nhẫn đến mười tám pháp bất cộng. Tôi sẽ làm cho tất cả chúng sanh được quả Tu Ðà Hoàn đến nhứt thiết chủng trí. Nhưng thiệt không có chúng sanh an trụ sáu ba la mật nhẫn đến được nhứt thiết chủng trí. Tại sao vậy? Vì pháp tướng như ảo vậy. Ví như nhà ảo thuật giỏi.
Ðây gọi là đại Bồ Tát đại trang nghiêm”.
Ngài Tu Bồ Ðề thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Theo ý nghĩa mà con được nghe nơi đức Phật dạy, thời đại Bồ Tát không đại trang nghiêm là đại trang nghiêm. Vì các pháp tự tánh rỗng không vậy.
Nghĩa là sắc tự tướng rỗng không nhẫn đến thức tự tướng rỗng không, nhãn tự tướng rỗng không nhẫn đến ý tự tướng rỗng không, sắc tự tướng rỗng không nhẫn đến pháp tự tướng rỗng không, nhãn thức tự tướng rỗng không nhẫn đến ý thức tự tướng rỗng không, nhãn xúc tự tướng rỗng không nhẫn đến ý xúc tự tướng rỗng không, nhãn xúc nhân duyên, sanh thọ tự tướng rỗng không nhẫn đến ý xúc, nhơn duyên, sanh thọ tự tướng rỗng không, Ðàn na ba la mật đến Bát nhã ba la mật tự tướng rỗng không, nội không nhẫn đến vô pháp hữu pháp không tự tướng rỗng không, tứ niệm xứ nhẫn đến mười tám pháp bất cộng tự tướng rỗng không, Bồ Tát tự tướng rỗng không.
Do duyên cớ trên đây mà biết rằng đại Bồ Tát không đại trang nghiêm là đại trang nghiêm”.
Ðức Phật nói: "Phải lắm, đúng như lời ông nói. Nầy Tu Bồ Ðề! Nhứt thiết trí chẳng chẳng phải là tác pháp, chúng sanh cũng chẳng phải là tác pháp. Ðại Bồ Tát vì chúng sanh nầy mà đại trang nghiêm.
Tại sao vậy? Vì tác giả bất khả đắc vậy.
Nầy Tu Bồ Ðề! Nhứt thiết trí chẳng phải là pháp làm ra, sanh ra, chúng sanh nầy cũng chẳng phải pháp làm ra, sanh ra.
Tại sao vậy? Vì sắc chẳng phải làm ra chẳng phải chẳng làm ra, thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải làm ra chẳng phải chẳng làm ra, ngã nhơn nhẫn đến tri giả, kiến giả chẳng phải? Làm ra chẳng phải chẳng làm ra.
Tại sao vậy? Vì các pháp rốt ráo bất khả đắc vậy.
Nầy Tu Bồ Ðề! Mộng nhẫn đến biến hóa chẳng phải làm ra chẳng phải chẳng làm ra, vì rồt ráo bất khả đắc vậy.
Nầy Tu Bồ Ðề! Nội không nhẫn đến vô pháp hữu hữu pháp không chẳng phải làm ra chẳng phải chẳng làm ra, vì rốt ráp bất khả đắc vậy. Tứ niệm xứ nhẫn đến mười tám pháp bất cộng chẳng phải làm ra chẳng phải chẳng làm ra, vì rốt ráo bất khả đắc vậy.
Nầy Tu Bồ Ðề! Pháp như, pháp tướng, pháp tánh, pháp trụ, pháp vị, thiệt tế chẳng phải làm ra chẳng phải chẳng làm ra, vì rốt ráo bất khả đắc vậy. Bồ Tát chẳng phải làm ra chẳng phải chẳng làm ra, vì rốt ráo bất khả đắc vậy. Nhứt thiết trí và nhứt thiết chủng trí chẳng phải làm ra chẳng phải chẳng làm ra, vì rốt ráo bất khả đắc vậy.
Nầy Tu Bồ Ðề! Do duyên cớ nầy nên nhứt thiết trí chẳng phải pháp làm ra, sanh ra, chúng sanh nầy cũng chẳng phải pháp làm ra sanh ra. Ðại Bồ Tát vì chúng sanh nầy mà đại trang nghiêm”.
Ngài thưa Tu Bồ Ðề: "Bạch đức Thế Tôn! như con quán sát nghĩa của đức Phật nói thời sắc không phược, không thoát, thọ, tưởng, hành, thức không phược, không thoát”.
Ngài Phú Lâu Na hỏi Ngài Tu Bồ Ðề: "những sắc gì không phược, không thoát, những thọ, tưởng, hành, thức gì không phược, không thoát?"
Ngài Tu Bồ Ðề nói: "Sắc như mộng và thọ, tưởng, hành, thức như mộng không phược, không thoát. Sắc như ảnh, như hưởng, như ảo, như diệm, như hóa và thọ, tưởng, hành, thức như ảnh, như hưởng, như ảo, như diệm, như hóa không phược, không thoát.
Nầy Ngài Phú Lâu Na! Sắc, thọ, tưởng, hành, thức quá khứ, không phược, không thoát. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức vị lai không phược, không thoát. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức hiện tại, không phược, không thoát.
Tại sao không phược, không thoát?
Vì sắc, thọ, tưởng, hành, thức đây là vô sở hữu nên không phược, không thoát.
Vì sắc, thọ, tưởng, hành, thức đây là ly, là tịch diệt, là bất sanh nên không phược, không thoát.
Nầy Ngài Phú Lâu Na! Thiện và bất thiện cùng vô ký, sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng không phược, không thoát.
Thế gian, xuất thế gian và hữu lậu cùng vô lậu, sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng không phược, không thoát.
Tại sao vậy? Vì là vô sở hữu, là ly, là tịch diệt, là bất sanh nên không phược, không phước
Tất cả pháp cũng không phược, không thoát. Tại sao vậy? Vì là vô sở hữu, là ly, là tịch diệt, là bất sanh nên không phược, không thoát.
Nầy Ngài Phú Lâu Na! Ðàn na ba la mật đến Bát nhã ba la mật không phược, không thoát. Vì là vô sở hữu, là ly, là tịch diệt, là bất sanh nên không phược, không thoát.
Nầy Ngài Phú Lâu Na! Nội không đến vô pháp hữu pháp không, tứ niệm xứ đến mười tám pháp bất cộng, Vô thượng Bồ đề, nhứt thiết trí, nhứt thiết chủng trí, Bồ Tát và Phật cũng đều không phược, không thoát.
Nầy Ngài Phú Lâu Na! Pháp như, pháp tướng, pháp tánh, pháp trụ, pháp vị, thiệt tế, vô vi pháp cũng đều không phược, không thoát. Vì là vô sở hữu, là ly, là tịch diệt, là vô sanh nên không phược, không phước.
Nầy Ngài Phú Lâu Na! Ðây gọi là đại Bồ Tát Ðàn na ba la mật đến Bát nhã ba la mật không phược, không thoát, tứ niệm xứ đến nhứt thiết chủng trí không phược, không thoát.
Ðại Bồ Tát an trụ trong sáu ba la mật không phược, không thoát, nhẫn đến an trụ nhứt thiết chủng trí không phược, không thoát để thực hiện không phược, không thoát thành tựu chúng sanh, không phược, không thoát thành tịnh Phật độ, không phược, không thoát cúng dường chư Phật, không phược, không thoát nghe chánh pháp, không phược, không thoát trọn chẳng rời chư Phật, không phược, không thoát trọn chẳng rời các thần thông, không phược, không thoát trọn chẳng rời ngũ nhãn, không phược, không thoát trọn chẳng rời các môn đà la ni, không phược, không thoát trọn chẳng rời các môn tam muội, không phược, không thoát sẽ sanh đạo chủng trí, không phược, không thoát sẽ được nhứt thiết chủng trí, không phược, không thoát chuyển pháp luân, không phược, không thoát an lập chúng sanh nơi Tam thừa.
Nầy Ngài Phú Lâu Na! Ðại Bồ Tát thật hành không phược, không thoát sáu ba la mật, phải biết tất cả pháp đều không phược, không thoát, vì là vô sở hữu, là ly, là tịch diệt, là bất sanh nên không phược, không thoát.
Ðây gọi là đại Bồ Tát không phược, không thoát đại trang nghiêm”.
PHẨM VẤN THỪA
THỨ MƯỜI TÁM

Ngài Tu Bồ Ðề bạch đức Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Những gì là đại Bồ Tát Ðại thừa? Thế nào sẽ biết là đại Bồ Tát phát xu Ðại thừa? Thừa ấy pháp từ đâu? Thừa ấy đến chỗ nào? Sẽ an trụ chỗ nào? Ai sẽ ngồi nơi thừa ấy để ra?"
Ðức Phật nói: "Nầy Tu Bồ Ðề! Sáu ba la mật là đại Bồ Tát Ðại thừa.
Ðây là sáu ba la mật: Ðàn na ba la mật, Thi la ba la mật, Sằn đề ba la mật, Tỳ lê gia ba la mật, Thiền na ba la mật và Bát nhã ba la mật.
Thế nào gọi là Ðàn na ba la mật?
Nầy Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ Tát dùng tâm đúng với nhứt thiết trí để bố thí những sở hữu trong thân ngoài thân, cùng chung tất cả chúng sanh hướng về Vô thượng Bồ đề, vì pháp dụng vô sở đắc vậy. Ðây gọi là đại Bồ Tát Ðàn na ba la mật.
Thế nào gọi là Thi la ba la mật?
Nâỳ Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ Tát dùng tâm đúng với nhứt thiết trí, để tự thật hành thập thiện đạo và cũng dạy người khác thật hành, vì vô sở đắc vậy. Ðây gọi là Bồ Tát Thi la ba la mật.
Thế nào gọi là Sằn đề ba la mậ ?
Nâỳ Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ Tát dùng tâm đúng với nhứt thiết trí, tự đầy đủ nhẫn nhụcvà cũng dạy người khác thật hành nhẫn nhục, vì vô sở đắc vậy. Ðây gọi là đại Bồ Tát Sằn đề ba la mật.
Thế nào gọi là Tỳ lê gia ba la mật?
Nâỳ Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ Tát dùng tâm đúng với nhứt thiết trí, thật hành năm ba la mật kia, siêng tu không thôi nghĩ, cũng an lập chúng sanh nơi năm ba la mật, vì vô sở đắc vậy. Ðây gọi là đại Bồ Tát Tỳ lê gia ba la mật.
Thế nào gọi là Thiền na ba la mật?
Nầy Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ Tát dùng tâm đúng với nhứt thiết trí, tự dùng phương tiện nhập các thiền chẳng thọ sanh theo thiền và cũng dạy người khác nhập các thiền, vì vô sở đắc vậy. Ðây gọi là đại Bồ Tát Thiền na ba la mật.
Thế nào gọi là Bát nhã ba la mật?
Nầy Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ Tát dùng tâm đúng với nhứt thiết trí, chẳng chấp trước tất cả các pháp và quán pháp tánh vì vô sở đắc vậy. Cũng dạy người khác chẳng chấp trước tất cả các pháp và quán pháp tánh vì vô sở đắc vậy. Ðây gọi là đại Bồ Tát Bát nhã ba la mật.
Nầy Tu Bồ Ðề! Ðây là đại Bồ Tát Ðại thừa.
Ðại Bồ Tát lại có Ðại thừa. Những là nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, đệ nhứt nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô thỉ không, tán không, tánh không, tự tướng không, chư pháp không, bất khả đắc không, vô pháp không hữu pháp không, vô pháp hữu pháp không.
Những gì là nội không?
Nội pháp là nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt, thân và ý. Xét về nhãn thời nhãn rỗng không, nhẫn đến xét về ý thời ý rỗng không, vì chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì tự tánh như vậy. Ðây gọi là nội không.
Những gì là ngoại không?
Ngoại pháp là sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp. Xét về sắc thời sắc rỗng không, nhẫn đến xét về pháp thời pháp rỗng không, vì chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì tánh tự như vậy. Ðây gọi là ngoại không.
Những gì là nội ngoại không?
Nội ngoại pháp là thập nhị nhập : nội lục nhập tức là sáu căn và ngoại lục nhập tức là sáu trần.
Xét về nội pháp thời nội pháp rỗng không, xét về ngoại pháp thời ngoại pháp rỗng không, vì đều chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì tánh tự như vậy. Ðây gọi là nội ngoại không.
Những gì là không không?
Không là tất cả pháp rỗng không. Không nầy cũng là rỗng không, vì chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì tự tánh như vậy. Ðây gọi là không không.
Những gì là đại không?
Ðại là nói mười phương. Xét về Ðông phương thời Ðông phương rỗng không, nhẫn đến Hạ phương thời Hạ phương rỗng không, vì chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì tánh tự như vậy. Ðây gọi là đại không.
Những gì là đệ nhứt nghĩa không?
Ðệ nhứt nghĩa là nói Niết Bàn. Xét về về Niết Bàn thời Niết Bàn rỗng không, vì chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì tánh tự như vậy. Ðây là đệ nhứt nghĩa không.
Những gì là hữu vi không?
Hữu vi pháp là nói tam giới: Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Xét về Dục giới thời Dục giới rỗng không. Sắc giới thời Sắc giới rỗng không, Vô sắc giới thời Vô sắc giới rỗng không, vì chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì tánh tự như vậy. Ðây gọi là hữu vi không.
Những gì là vô vi không?
Vô vi pháp là nói không tướng sanh, không tướng trụ, không tướng diệt. Xét về vô vi pháp thời vô vi pháp rỗng không, vì chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì tánh tự như vậy. Ðây gọi là vô vi không.
Những gì là tất cánh không?
Tất cánh là nói các pháp rốt ráo bất khả đắc, tức là tất cánh rỗng không, vì chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì tánh tự như vậy. Ðây gọi là tất cánh không.
Những gì là vô thỉ không?
Xét về chỗ khởi đầu đến các pháp thời bất khả đắc, vì chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì tánh tự như vậy. Ðây gọi là vô thỉ không.
Những gì là tán không?
Tán là nói các pháp không diệt. Không diệt nầy cũng rỗng không, vì chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì tánh tự như vậy. Ðây gọi là tán không.
Những gì là tánh không?
Hoặc hữu vi pháp tánh hoặc vô vi pháp tánh, tánh nầy chẳng phải Thanh Văn, Bích Chi Phật làm ra, chẳng phải Phật làm ra, cũng chẳng phải người khác làm ra. Xét về tánh nầy, thời tánh nầy rỗng không, vì chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì tánh tự như vậy. Ðây gọi là tánh không.
Những gì là tự tướng không?
Tự tướng là nói sắc thời tướng biến hoại, thọ thời tướng lãnh thọ, tưởng thời tướng lấy tướng dạng, hành thời tướng tạo tác, thức thời tướng rõ biết. Tự tướng của những pháp hữu vi, pháp vô vi đều rỗng không, vì chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? ? Vì tánh tự như vậy. Ðây gọi là tự tướng không.
Những gì là chư pháp không?
Chư pháp là nói ngũ ấm, thập nhi nhập, thập bát giới. Xét về chư pháp nầy thời chư pháp nầy rỗng không, vì chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì tự tánh như vậy. Ðây gọi là chư pháp không.
Những gì là bất khả đắc không?
Tìm cầu các pháp bất khả đắc đây là bất khả đắc không, vì chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì tánh tự như vậy. Ðây gọi là bất khả đắc không.
Những gì là vô pháp không?
Nếu pháp không có thời cũng rỗng không, vì chẳng thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì tánh tự như vậy. Ðây gọi là vô pháp không.
Những gì là hữu pháp không?
Hữu pháp là nói trong các pháp hòa hiệp có tự tánh tướng. Hữu pháp nầy rỗng không, vì chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì tánh tự như vậy. Ðây gọi là hữu pháp không.
Những gì là vô pháp hữu pháp không?
Vô pháp trong các pháp và hữu pháp trong các pháp đều rỗng không, vì chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì tánh tự như vậy. Ðây gọi là vô pháp hữu pháp không.
Nầy Tu Bồ Ðề! Lại còn pháp pháp tướng không, vô pháp vô pháp tướng không, tự pháp? tự pháp tướng không, tha pháp tha pháp tướng không.
Những gì gọi là pháp pháp tướng không?
Pháp nơi đây là nói ngũ ấm. Ngũ ấm rỗng không. Ðây gọi là pháp pháp tướng không.
Những gì gọi là vô pháp vô pháp tướng không?
Vô pháp nơi đây là nói vô vi pháp. Ðây gọi là vô pháp vô pháp tướng không.
Những gì gọi là tự pháp tự pháp tướng không?
Xét về các pháp thời tự pháp rỗng không. Rỗng không nầy chẳng phải do biết cũng chẳng phải do thấy. Ðây gọi là tự pháp tự pháp tướng không.
Những gì gọi là tha pháp tha pháp tướng không?
Hoặc Phật xuất thế hoặc Phật chưa xuất thế, pháp trụ, pháp tướng, pháp vị, pháp tánh, như thiệt tế vượt quá những pháp không nầy. Ðây gọi là tha pháp tha pháp tướng không.
Ðây gọi là đại Bồ Tát Ðại thừa.
Nầy Tu Bồ Ðề! Lại có đại Bồ Tát Ðại thừa. Chính là thủ lăng nghiêm tam muội, bữu ấn tam muội, sư tử du hí tam muội, diệu nguyệt tam muội, nguyệt tràng tướng tam muội, xuất chư pháp tam muội, quán đảnh tam muội, tất pháp tánh tam muội, tất tràng tướng tam muội, kim cang tam muội, nhập pháp ấn tam muội, tam muội vương an lập tam muội, phóng quang tam muội, lực tấn tam muội, cao xuất tam muội, tất nhập biện tài tam muội, thích danh tự tam muội, quán phương tam muội, đà la ni ấn tam muội, vô cuống tam muội, nhiếp chư pháp hải tam muội, biến phú hư không tam muội, kim cang luân tam muội, bửu đoạn tam muội, năng chiếu tam muội, bất cầu tam muội, vô trụ tam muội, vô tâm tam muội, tịnh đăng tam muội, vô biên minh tam muội, năng tác minh tam muội, phổ chiếu minh tam muội, kiên tịnh chư tam muội tam muội, vô cấu minh tam muội, hoan hỉ tam muội, điển quang tam muội, vô tận tam muội. oai đức tam muội, ly tận tam muội, bất động tam muội, bất thối tam muội, nhựt đăng tam muội, nguyệt tịnh tam muội, tịnh minh tam muội, năng tác minh tam muội, tác hành tam muội, tri tướng tam muội, như kim cang tam muội, tâm trụ tam muội, phổ minh tam muội, an lập tam muội, bửu tụ tam muội, diệu pháp ấn tam muội, , pháp đẳng tam muội, đoạn hỉ tam muội, đáo pháp đảnh tam muội, năng tán tam muội, phân biệt chư pháp cú tam muội, tự đẳng tướng tam muội, ly tự tam muội, đoạn duyên tam muội, bất hoại tam muội, vô chủng tướng tam muội, vô xứ hành tam muội, ly mông muội tam muội, vô khứ tam muội, bất biến dị tam muội, độ duyên tam muội, tập chư công đức tam muội, trụ vô tâm tam muội, tịnh diệu hoa tam muội, giác ý tam muội, vô lượng biện tam muội, vô đẳng đẳng tam muội, độ chư pháp tam muội, phân biệt chư pháp tam muội, tán nghi tam muội, vô xứ tam muội, nhứt trang nghiêm tam muội, sanh hành tam muội, nhứt hành tam muội, bất nhứt hành tam muội, diệu hành tam muội, đạt nhứt thiết hữu để tán tam tam muội, nhập danh ngữ tam muội, ly âm thanh tự ngữ tam muội, nhiên cự tam muội, tịnh tướng tam muội, phá tướng tam muội, nhứt thiết chủng diệu túc tam muội, bất hỉ khổ lạc tam muội, vô tận tướng tam muội, đà la ni tam muội, nhiếp chư tà chánh tướng tam muội, diệt tắng ái tam muội, nghịch thuận tam muội, tịnh quang tam muội, kiên cố tam muội, mãn nguyệt tịnh quang tam muội, đại trang nghiêm tam muội, năng chiếu nhứt thiết thế tam muội, tam muội đẳng tam muội, nhiếp nhứt thiết hữu tránh vô tránh tam muội, bất lạc nhứt thiết trụ xứ tam muội, như trụ định tam muội, hoại thân suy tam muội, hoại ngữ như hư không tam muội, ly trước như hư không bất nhiễm tam muội.
Thế nào gọi là thủ lăng nghiêm tam muội?
Biết chỗ hành xứ của các tam muội, đây gọi là thủ lăng nghiêm tam muội.
Thế nào gọi là bửu ấn tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời có thể ấn các tam muội, đây gọi là bửu ấn tam muội.
Thế nào gọi là sử tử du hí tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời có thể du hí trong các tam muội như sư tử, đây gọi là sư tử du hí tam muội.
Thế nào gọi là diệu nguyệt tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời có thể soi sáng các tam muội như mặc nguyệt sáng, đây gọi là diệu nguyệt tam muội.
Thế nào gọi là nguyệt tràng tướng tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời có thể nắm giữ tướng của các tam muội, đây gọi là nguyệt tràng tướng tam muội.
Thế nào gọi là xuất chư pháp tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời có thể xuất sanh các tam muội, đây gọi là xuất chư pháp tam muội.
Thế nào gọi là quán đảnh tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời có thể xem thấy tột đảnh của các tam muội, đây gọi là quán đảnh tam muội.
Thế nào gọi là tất pháp tánh tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời quyết định biết pháp tánh, đây gọi là tất pháp tánh tam muội.
Thế nào gọi là tất tràng tướng tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời có thể nắm giữ bảo tràng của các tam muội.
Thế nào gọi là kim cang tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời có thể phá các tam muội, đây gọi là kim cang tam muội.
Thế nào gọi là nhập pháp ấn tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời nhập vào các pháp ấn, đây gọi là nhập pháp ấn tam muội.
Thế nào gọi là tam muội vương an lập tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời an trụ vững vàng trong tất cả tam muội như đế vương, đây gọi là tam muội vương an lập tam muội.
Thế nào gọi là phóng quang tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời có thể phóng quang chiếu các tam muội, đây gọi là phóng quang tam muội.
Thế nào gọi là lực tấn tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời có thể làm thế lực đối với các tam muội, đây gọi là lực tấn tam muội.
Thế nào gọi là cao xuất tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời có thể tăng trưởng các tam muội, đây gọi là cao xuất tam muội.
Thế nào gọi là tất nhập biện tài tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời có thể biện thuyết các tam muội, đây gọi là tất nhập biện tài tam muội.
Thế nào gọi là thích danh tự tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời có thể giải thích danh tự của các tam muội, đây gọi là thích danh tự tam muội.
Thế nào gọi là quán phương tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời có thể quán sát phương hướng các tam muội, đây gọi là quán phương tam muội.
Thế nào gọi là đà la ni ấn tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời có thể nắm giữ các tam muội ấn, đây gọi là đà la ni ấn tam muội.
Thế nào gọi là vô cuống tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời không khi dối đối với các tam muội, đây gọi là vô cuống tam muội.
Thế nào gọi là nhiếp chư pháp hải tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời có thể nhiếp lấy các tam muội như nước đại hải, đây gọi là nhiếp chư pháp hải tam muội.
Thế nào gọi là biến phú hư không tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời che trùm các tam muội như hư không, đây gọi là biến phú hư không tam muội.
Thế nào gọi là kim cang luân tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời có thể nắm giữ các tam muội phần, đây gọi là kim cang luân tam muội.
Thế nào gọi là bửu đoạn tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời có thể dứt trừ phiền não cấu của các tam muội, đây gọi là bửu đoạn tam muội.
Thế nào gọi là năng chiếu tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời có thể dùng quang minh chiếu rõ các tam muội, đây gọ褐là năng chiếu tam muội.
Thế nào gọi là bất cầu tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời không có pháp để cầu, đây gọi là bất cầu tam muội.
Thế nào gọi là vô trụ tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời chẳng thấy tất cả pháp trụ, đây gọi là vô trụ tam muội.
Thế nào gọi là vô tâm tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời tâm và tâm sở chẳng hiện hành, đây gọi là vô tâm tam muội.
Thế nào gọi là tịnh đăng tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời đối với các tam muội chiếu sáng như đèn sáng, đây gọi là tịnh đăng tam muội.
Thế nào gọi là vô biên minh tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời làm ánh sáng vô biên cho các tam muội đây gọi là vô biên minh tam muội.
Thế nào gọi là năng tác minh tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời liền có thể làm sáng cho các tam muội, đây gọi là năng tác minh tam muội.
Thế nào gọi là phổ chiếu minh tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời có thể chiếu các tam muội môn, đây gọi là phổ chiếu minh tam muội.
Thế nào gọi là kiên tịnh chư tam muội tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời có thể làm cho tướng của các tam muội bền chắc trong sạch, đây gọi là kiên tịnh chư tam muội tam muội.
Thế nào gọi là vô cấu minh tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời có thể trừ cấu nhơ của các tam muội, đây gọi là vô cấu minh tam muội.
Thế nào gọi là hoan hỉ tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời lãnh thọ sự hoan hỉ của các tam muội, đây gọi là hoan hỉ tam muội.
Thế nào gọi là điển quang tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời chiếu suốt các tam muội như điển quang, đây gọi là điển quanq tam muội.
Thế nào gọi là vô tận tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời đối với các tam muội chẳng thấy cùng tận, đây gọi là vô tận tam muội.
Thế nào gọi là oai đức tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời có oai đức chiếu rõ đối với các tam muội, đây gọi là oai đức tam muội.
Thế nào gọi là ly tận tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời chẳng thấy các tam muội cùng tận, đây gọi là ly tận tam muội
Thế nào gọi là bất động tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời làm cho các tam muội chẳng động, chẳng lay, đây gọi là bất động tam muội.
Thế nào gọi là bất thối tam muội?
An trụ torng tam muội nầy thời có thể chẳng thấy các tam muội bất thất, đây gọi là bất thối tam muội.
Thế nào gọi là nhựt đăng tam muội.
An trụ trong tam muội nầy thời phóng quang chiếu các tam muội môn, đây gọi là nhựt đăng tam muội.
Thế nào gọi là nguyệt tịnh tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời có thể trừ sự tối tăm của các tam muội, đây gọi là nguyệt tịnh tam muội.
Thế nào gọi là tịnh minh tam muội?
An trụ trong tam muội nầy nơi các tam muội được tứ vô ngại trí, đây gọi là tịnh minh tam muội.
Thế nào gọi là năng tác minh tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời nơi các tam muội môn có thể làm sáng, đây gọi là năng tác minh tam muội.
Thế nào gọi là tác hành tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời có thể làm cho các tam muội có chỗ tạo tác.
Thế nào gọi là tri tướng tam muội?
An trụ trong các tam muội nầy thời thấy các tam muội liền biết tướng của các tam muội, đây gọi là tri tướng tam muội.
Thế nào gọi là như kim cang tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời có thể quán xuyến thấu suốt các pháp, nhưng cũng chẳng thấy có thấu suốt, đây gọi là như kim cang tam muội.
Thế nào gọi là tâm trụ tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời tâm chẳng động, chẳng chuyển, chẳng não, cũng chẳng nghĩ nhớ có tâm nầy, đây gọi là tâm trụ tam muội.
Thế nào gọi là phổ minh tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời thời thấy khắp quang minh của các tam muội, đây gọi là phổ minh am muội.
Thế nào gọi là an lập tam muội?
An trụ ở trong tam muội nầy thời ở nơi các tam muội an lập chẳng động, đây gọi là an lập tam muội.
Thế nào gọi là bửu tụ tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời thấy khắp các tam muội như thấy đống châu báu, đây gọi là bửu tụ tam muội.
Thế nào gọi là diệu pháp ấn tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời có thể ấn khả các tam muội, vì dùng vô ấn để ấn vậy, đây gọi là diệu pháp ấn tam muội.
Thế nào gọi là pháp đẳng tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời quán sát các pháp bình đẳng, không pháp nào chẳng bình đẳng, đây gọi là pháp đẳng tam muội.
Thế nào gọi là đoạn hỉ tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời dứt sự hỉ trong tất cả pháp, đây gọi là đoạn hỉ tam muội.
Thế nào gọi là đáo pháp đảnh tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời diệt các pháp ám, cũng là ở trên các tam muội, đây gọi là đáo pháp đảnh tam muội.
Thế nào gọi là năng tán tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời có thể phá tan các pháp, đây gọi là năng tán tam muội.
Thế nào gọi là phân biệt chư pháp cú tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời phân biệt các pháp cú của các tam muội, đây gọi là phân biệt chư pháp cú tam muội.
Thế nào gọi là tự đẳng tướng tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời được tự đẳng của các tam muội, đây gọi là tự đẳng tướng tam muội.
Thế nào gọi là ly tự tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời nơi các tam muội nhẫn đến không thấy một chữ, đây gọi là ly tự tam muội.
Thế nào gọi là đoạn duyên tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời dứt duyên của các tam muội, đây gọi là đoạn duyên tam muội
Thế nào gọi là bất hoại tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời chẳng thấy các pháp biến dị, đây gọi là bất hoại tam muội.
Thế nào gọi là vô chủng tướng tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời chẳng thấy các pháp có nhiều thứ loại, đây gọi là vô chủng tướng tam muội?
Thế nào gọi là vô xứ hành tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời chẳng thấy xứ hành của các tam muội, đây gọi là vô xứ hành ta muội.
Thế nào gọi là ly mông muội tam muội?
An trụ torng tam muội nầy thời lìa rời sự tối tăm vi tế của các tam muội, đây gọi là ly mông muội tam muội.
Thế nào gọi là vô khứ tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời chẳng thấy tướng đi của tất cả tam muội, đây gọi là vô khứ tam muội.
Thế nào gọi là bất biến dị tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời chẳng thấy tướng biến dị của các tam muội, đây gọi là bất biến dị tam muội.
Thế nào gọi là độ duyên tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời vượt qua cảnh giới của các tam muội duyên, đây gọi là dộ duyên tam muội.
Thế nào gọi là tập chư công đức tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời chứa nhóm công đức của các tam muội, đây gọi là tập chư công đức tam muội.
Thế nào gọi là trụ vô tâm tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời đối với các tam muội tâm vô sở nhập, đây gọi là trụ vô tâm tam muội.
Thế nào gọi là tịnh diệu hoa tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời làm cho các tam muội tịnh diệu như hoa xinh đẹp sạnh thơm, đây gọi là tịnh diệu hoa tam muội.
Thế nào gọi là giác ý tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời được thất giác phần ở trong các tam muội, đây gọi là giác ý tam muội.
Thế nào gọi là vô lượng biện tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời ở trong các pháp được vô lượng biện, đây gọi là vô lượng biện tam muội.
Thế nào gọi là vô đẳng đẳng tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời được tướng vô đẳng đẳng nơi các tam muội, đây gọi là vô đẳng đẳng tam muội.
Thế nào gọi là độ chư pháp tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời vượt qua tất cả tam giới, đây gọi là độ chư pháp tam muội.
Thế nào gọi là phân biệt chư pháp tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời phân biệt thấy các tam muội và các pháp, đây gọi là phân biệt chư pháp tam muội.
Thế nào gọi là tán nghi ta muội?
An trụ trong tam muội nầy thời được tiêu tan sự nghi đối với các pháp, đây gọi là tán nghi tam muội.
Thế nào gọi là vô trụ xứ tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời chẳng thấy chỗ trụ xứ của các pháp, đây gọi là vô trụ xứ tam muội.
Thế nào gọi là nhứt trang nghiêm tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời trọn chẳng thấy các pháp có hai tướng, đây gọi là nhứt thiết trang nghiêm tam muội.
Thế nào gọi là sanh hành tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời chẳng thấy các hành sanh khởi, đây gọi là sanh hành tam muội.
Thế nào gọi là nhứt hành tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời chẳng thấy các tam muội thử ngạn, bỉ ngạn, đây gọi là nhứt hành tam muội.
Thế nào gọi là bất nhứt hành ta muội?
An trụ trong tam muội nầy thời chẳng thấy các tam muội một tướng, đây gọi là bậc nhứt hành tam muội.
Thế nào gọi là diệu hành tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời chẳng thấy các tam muội hai tướng, đây gọi là diệu hành tam muội.
Thế nào gọi là đạt nhứt thiết hữu để tán tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời nhập vào tất cả cõi, tất cả tam muội, trí huệ thông đạt cùng không chỗ thông đạt, đây gọi là đạt nhứt thiết hữu để tán tam muội.
Thế nào gọi là nhập danh ngữ tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời nhập vào danh ngữ của tất cả tam muội, đây gọi là nhập danh ngữ tam muội.
Thế nào gọi là ly âm thanh tự ngữ tam muội?
An trũ trong tam muội nầy thời chẳng thấy âm thanh tự ngữ của các tam muội, đây gọi là ly âm thanh tự ngữ của các tam muội.
Thế nào gọi là nhiên cự tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời oai đức chiếu sánh như ngọn đuốc, đây gọi là nhiên cự tam muội.
Thế nào gọi là tịnh tướng tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời sạch tướng của các tam muội, đây gọi là tịnh tướng tam muội
Thế nào gọi là phá tướng tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời chẳng thấy tướng của các tam muội, đây gọi là phá tướng tam muội.
Thế nào gọi là nhứt thiết chủng diệu túc tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời tất cả tam muội chủng đều đầy đủ, đây gọi là nhứt thiết chủng diệu túc tam muội.
Thế nào gọi là bất hỉ khổ lạc tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời chẳng thấy các tam muội khổ lạc, đây gọi là bất hỉ khổ lạc tam muội.
Thế nào gọi là vô tận tướng tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời chẳng thấy các tam muội chung tận, đây gọi là vô tận tướng tam muội.
Thế nào gọi là đà la ni tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời có thể chấp trì các tam muội, đây gọi là đà la ni tam muội.
Thế nào gọi là nhiếp chư tà chánh tướng tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời nơi các tam muội chẳng thấy tướng tà chánh, đây gọi là nhiếp chư tà chánh tướng tam muội.
Thế nào gọi là diệt tắng ái tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời không thấy sự ưa ghét của các tam muội, đây gọi là diệt tắng ái tam muội.
Thế nào gọi là nghịch thuận tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời chẳng thấy sự nghịch thuận của các pháp, của các tam muội, đây gọi là nghịch thuận tam muội.
Thế nào gọi là tịnh quang tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời chẳng thấy sự cấu nhơ nơi quang minh của các tam muội, đây gọi là tịnh quang tam muội.
Thế nào gọi là kiên cố tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời chẳng thấy các tam muội chẳng kiên cố, đây gọi là kiên cố tam muội.
Thế nào gọi là mãn nguyệt tịnh quang tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời các tam muội đầy đủ như mặt nguyệt đêm rằm, đây gọi là mãn nguyệt tịnh quang tam muội.
Thế nào gọi là đại trang nghiêm tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời đại trang nghiêm thành tựu các tam muội, đây gọi là đại trang nghiêm tam muội.
Thế nào gọi là năng chiếu nhứt thiết thế tam muội?
An trụ trog tam muội nầy thời có thể chiếu các tam muội và tất cả pháp, đây gọi là năng chiếu nhứt thiết thế tam muội.
Thế nào gọi là tam muội đẳng tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời nơi các tam muội chẳng thấy tướng định, tướng loạn, đây gọi là tam muội đẳng tam muội.
Thế nào gọi là nhiếp nhứt thiết hữu tránh vô tránh tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời có thể làm cho các tam muội chẳng phân biệt có kia đây, không kia đây, đây gọi là nhiếp nhứt thiết hữu tránh vô tránh tam muội.
Thế nào gọi là bất lạc nhứt thiết trụ xứ tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời chẳng thấy chỗ y tựa của các tam muội, đây gọi là bất lạc nhứt thiết trụ xứ tam muội.
Thế nào gọi là như trụ định tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời chẳng vượt quá tướng như của các tam muội, đây gọi là như trụ định tam muội.
Thế nào gọi là hoại thân suy tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời chẳng thấy thân tướng, đây gọi là hoại thân suy tam muội.
?Thế nào gọi là hoại ngữ như hư không tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời chẳng thấy ngữ nghiệp của các tam muội như hư không, đây gọi là hoại ngữ như hư không tam muội.
Thế nào gọi là ly trước như hư không bất nhiễm tam muội?
An trụ trong tam muội nầy thời thấy các tam muội như hư không vô ngại, cũng chẳng nhiễm tam muội nầy, đây gọi là ly trước như hư không bất nhiễm tam muội.
Nầy Tu Bồ Ðề! Ðây gọi là đại Bồ Tát Ðại thừa”.
PHẨM QUẢNG THỪA
THỨ MƯỜI CHÍN

Ðức Phật bảo Ngài Tu Bồ Ðề: "Có đại Bồ Tát Ðại thừa, chính là tứ niệm xứ.
Thế nào là bốn?
Nầy Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ Tát, trong nội thân, theo thân quán sát, cũng không có thân giác, vì bất khả đắc vậy.
Trong ngoại thân, theo thân quán sát, cũng không có thân giác, vì bất khả đắc vậy.
Trong nội ngoại thân, theo thân quán sát, cũng không có thân giác, vì bất khả đắc vậy.
Ðại Bồ Tát quán thân, siêng tinh tấn nhứt tâm trừ sự tham ưu của thế gian.
Nội thọ, nội tâm, nội pháp, ngoại thọ, ngoại tâm, ngoại pháp, nội ngoại thọ, nội ngoại tâm, nội ngoại pháp, đại Bồ Tát theo thọ tâm pháp quán sát, cũng không có thọ giác, tâm giác, pháp giác, vì bất khả đắc vậy, siêng tinh tấn nhứt tâm trừ sự tham ưu của thế gian.
Nầy Tu Bồ Ðề! Thế nào là đại Bồ Tát trong nội thân theo thân quán sát?
Lúc đại Bồ Tát đi thời biết là đi, lúc đứng thời biết là đứng, lúc ngồi thời biết là ngồi, lúc nằm thời biết là nằm. Thân hành động thế nào thời biết như vậy. Ðây là trong nội thân, đại Bồ Tát theo thân quán sát, siêng tinh tấn nhứt tâm trừ sự tham ưu của thế gian, vì bất khả đắc vậy.
Ðại Bồ Tát lúc đến, lúc đi, lúc nhìn ngó, co duỗi, cúi ngửa, lúc đắp y, cầm bát, lúc ăn uống, lúc nằ nghĩ, ngủ, thức, ngồi, đứng, nói, nín, lúc nhập thiền, xuất thiền cũng thường nhứt tâm. Ðây là trong nội thân, đại Bồ Tát theo thân quán sát lúc thật hành Bát nhã ba la mật, vì bất khả đắc vậy.
Trong nội thân, lúc theo thân quán sát, đại Bồ Tát nhứt tâm niệm, lúc thở vào biết là thở vào, lúc thở ra biết là thở ra, lúc thở vào dài thời biết là thở vào dài, lúc thở ra dài thời biết là thở ra dài, lúc thở vào vắn thời biết là thở vào vắn, lúc thở ra vắn thời biết là thở ra vắn, . Ðây là trong nội thân, đại Bồ Tát theo thân quán sát, siêng tinh tấn nhứt tâm trừ sự tham ưu của thế gian, vì bất khả đắc vậy.
Ðại Bồ Tát quán sát thân tứ đại nghĩ rằng trong thân thể có địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại.
Ví như nhà hành thịt dùng dao bén giết bò chia làm bốn phần rồi hoặc đứng hoặc ngồi quán sát bốn phần thịt bò nầy.
Cũng vậy đại Bồ Tát lúc thật hành Bát nhã ba la mật quán sát thân thể bốn đại: thủy đại, hỏa đại, phong đại. Ðây là trong nội thân, đại Bồ Tát theo thân quán sát, vì bất khả đắc vậy
Ðại Bồ Tát lại quán sát thân thể từ đảnh đầu đến chân, da mỏng bao bọc nhiều thứ bất tịnh đầy trong thân. Nghĩ rằng thân thể có tóc, lông, móng, răng, da mỏng, da dầy, gân, thịt, xương, tủy, tim, gan, phổi, tùy, cật, mật? , tiểu trường, đại trường, bao tử, bàng quang, phân dãi, mồ hôi, cáu ghét, nước mắt, nước mũi, nước miếng, máu, mủ, đàm, nhớt, não óc.
Ví như trong kho của nhà nông chứa lộn lạo đầy những lúa, nếp, mè , đậu, bắp. Người có đôi mắt sáng mở kho liền thấy rõ là lúa, là nếp, là mè , là đậu, là bắp.
Ðại Bồ Tát quán sát trong thân từ đầu đến chân thấy rõ từng chi tiết bất tịnh, siêng tinh tấn nhứt tâm trừ sự tham ưu của thế gian, vì bất khả đắc vậy.
Ðại Bồ Tát nếu thấy thân người chết đã trải qua một ngày, hai ngày đến năm ngày, xanh ứ sình trương mủ nước rỉ chảy, tự nghĩ rằng thân thể của ta đây rồi cũng sẽ như vậy, tất chẳng thoát khỏi thế ấy. Ðây là đại Bồ Tát trong nội thân theo thân quán sát, siêng tinh tấn nhứt tâm trừ sự tham ưu của thế gian, vì bất khả đắc vậy.
Ðại Bồ Tát nếu thấy thân người chết vất bỏ đã sáu ngày, bảy ngày, bị chồn, chó, sài lang, quạ, kên kên, xé ăn, tự nghĩ rằng thân thể của ta đây rồi cũng sẽ như vậy, tất chẳng thoát khỏi thế ấy. Ðây là đại Bồ Tát trong nội thân theo thân quán sát, siêng tinh tấn nhứt tâm trừ sự tham ưu của thế gian, vì bất khả đắc vậy.
Ðại Bồ Tát nếu thân người chết vất bỏ bị cầm thú xé ăn rã rời hôi thúi bất tịnh, tự nghĩ rằng thân thể của ta đây rồi cũng sẽ như vậy, tất chẳng thoát khỏi thế ấy. Nếu thấy thân người chết vất bỏ, da thịt đã tan lộ bày gân xương liên tỏa, đại Bồ Tát tự nghĩ rằng thân thể của ta đây rồi cũng sẽ như vậy, tất chẳng thoát khỏi thế ấy. Nếu thân người chết vất bỏ, xương cốt đã rã rời trên đất, đại Bồ Tát tự nghĩ rằng thân thể của ta đây rồi cũng sẽ như vậy, tất chẳng thoát khỏi thế ấy. Nếu thấy thân người chết vất bỏ, xương cốt rã rời trên đất, xương chân chỗ nầy, xương đầu chỗ nọ, mỗi lóng, mỗi đốt đều khác chỗ, đại Bồ Tát tự nghĩ rằng thân thể của ta rồi cũng như vậy, tất chẳng thoát khỏi thế ấy. Nếu thấy xương khô bỏ lâu ngày, gió thổi, nắng soi, màu trắng như vỏ ốc, đại Bồ Tát tự nghĩ rằng thân thể của ta rồi cũng như vậy, tất chẳng thoát khỏi thế ấy. Nếu thấy xương khô bỏ trên đất lâu ngày mục rã nát bấy lộn với đất, đại Bồ Tát tự nghĩ rằng thân thể của ta rồi cũng như vậy, tất chẳng thoát khỏi thế ấy. Trong nội thân, đại Bồ Tát theo thân quán sát, siêng tinh tấn nhứt tâm trừ sự tham ưu của thế gian, vì bất khả đắc vậy.
Như quán sát nội thân với ngoại thân cùng nội ngoại thân, cũng theo thân quán sát như vậy.
Cũng phải theo như trên đây mà giải thuyết rộng về thọ niệm xứ, tâm niệm xứ, và pháp niệm xứ.
Ðây gọi là đại Bồ Tát Ðại thừa, vì bất khả đắc vậy.
Nầy Tu Bồ Ðề! Lại có đại Bồ Tát Ðại thừa, chính là tứ chánh cần.
Những gì là bốn?
Ðại Bồ Tát đối với những pháp ác bất thiện chưa pháp sanh, vì làm cho pháp ác chẳng sanh nên muốn có tâm siêng tinh tấn mà nhứt tâm hành đạo. Ðối với pháp ác bất thiện đã pháp sanh, vì dứt trừ nên muốn có tâm siêng tinh tấn mà nhứt tâm hành đạo. Ðối với pháp thiện chưa phát sanh, vì phát sanh nên muốn có tâm siêng tinh tấn mà nhiếp tâm hành đạo. Ðối với pháp thiện đã pháp sanh, vì làm cho còn mãi để tu tập đến được đầy đủ rộng lớn nên muốn có tâm siêng tinh tấn mà nhiếp tâm hành đạo, vì bất kảh đắc vậy. Ðây gọi là đại Bồ Tát Ðại thừa.
Nầy Tu Bồ Ðề! Lại có đại Bồ Tát Ðại thừa, chính là tứ như ý phần.
Những gì là bốn?
Ðại Bồ Tát dùng sự mong muốn định hạnh thành tựu mà tu như ý phần, dùng sự tinh tấn định hạnh thành tựu mà tu như ý phần, dùng sự tư duy định hạnh thành tựu mà tu như ý phần, dùng sự nhứt tâm định hạnh thành tựu mà tu như ý phần. Ðây gọi là đại Bồ Tát Ðại thừa, vì bất khả đắc vậy,
Nầy Tu Bồ Ðề! Lại có đại Bồ Tát Ðại thừa, chính là ngũ căn.
Những gì là năm? Tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, huệ căn. Ðây là đại Bồ Tát Ðại thừa, vì bất khả đắc vậy.
Lại có đại Bồ Tát Ðại thừa, chính là ngũ lực.
Những gì là năm? Tín lực, tinh tấn lực, niệm lực, định lực, huệ lực, đây là đại Bồ Tát Ðại thừa, vì bất khả đắc vậy.
Lại có đại Bồ Tát Ðại thừa, chính là thất giác phần.
Những gì là bảy? Ðại Bồ Tát tu niệm giác phần, trạch pháp giác phần, tinh tấn giác phần, hỉ giác phần, trừ giác phần, định giác phần và xã giác phần, nương nơi ly, nơi vô nhiễm hướng đến Niết Bàn. Ðây gọi là đại Bồ Tát Ðại thừa, vì bất khả đắc vậy.
Lại có bát thánh đạo phần là đại Bồ Tát Ðại thừa.
Những gì là tám? Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định. Ðây gọi là đại Bồ Tát Ðại thừa, vì bất khả đắc vậy.
Lại có ba môn tam muội là đại Bồ Tát Ðại thừa.
Những gì là ba? Không tam muội, vô tướng tam muội và vô tác tam muội.
Không tam muội là nói các pháp tự tướng rỗng không. Ðây gọi là không giải thoát môn.
Vô tướng tam muội là nói diệt hoại các pháp tướng, không nghĩ, không nhớ. Ðây gọi là vô tướng giải thoát môn.
Vô tác tam muội là nói đối với các pháp không mong cầu tạo tác. Ðây gọi là vô tác giải thoát môn.
Ba môn nầy là đại Bồ Tát Ðại thừa, vì bất khả đắc vậy.
Lại có đại Bồ Tát Ðại thừa, chính là khổ trí, tập trí, diệt trí, đạo trí, tận trí, vô sanh trí, pháp trí, tỉ trí, thế trí, tha tâm trí, và như thiệt trí.
Thế nào gọi là khổ trí? Biết khổ chẳng sanh, đây gọi là khổ trí.
Thế nào gọi là tập trí? Biết tập phải dứt, đây gọi là tập trí.
Thế nào gọi là diệt trí? Biết khổ dứt diệt, đây gọi là diệt trí.
Thế nào gọi là đạo trí? Biết bát thánh đạo phần, đây gọi là đạo trí.
Thế nào gọi là tận trí? Biết tham, sân, si, diệt tận, đây gọi là tận trí.
Thế nào gọi là vô sanh trí? Biết trong các cõi hữu lậu là vô sanh, đây gọi là vô sanh trí.
Thế nào gọi là pháp trí? biết bổn sự của ngũ ấm, đây gọi là pháp trí.
Thế nào gọi là tỉ trí? Biết nhân vô thường nhẫn đến biết ý xúc nhơn duyên sanh thọ vô thường, đây gọi là tỉ trí.
Thế nào gọi là thế trí? Biết nhơn duyên danh tự, đây gọi là thế trí.
Thế nào gọi là tha tâm trí? Biết tâm niệm của những chúng sanh khác, đây gọi là tha tâm trí
Thế nào gọi là như thiệt trí? Biết nhứt thiết chủng trí của chư Phật, đây gọi là như thiệt trí.
Mười một trí nầy là đại Bồ Tát Ðại thừa, vì bất khả đắc vậy.
Lại có tam căn là đại Bồ Tát Ðại thừa.
Những gì là ba? Vị tri dục tri căn, tri căn và trí giả căn.
Tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn và huệ căn, ngũ căn của hành hữu học chưa đắc quả, đây gọi là vị tri dục căn.
Ngũ căn của hành hữu học đã đắc quả, đây gọi là tri căn.
Ngũ căn của bậc vô học, hoặc A La Hán, Bích Chi Phật, hoặc chư Phật, đây gọi là trí giả căn.
Tam căn nầy là đại Bồ Tát Ðại thừa, vì bất khả đắc vậy.
Lại có tam tam muội là đại Bồ Tát Ðại thừa. Những gì là ba? Hữu giác hữu quán tám muội, vô giác hữu quán tam muội và vô giác vô quán tam muội.
Rời những dục nhiễm và rời những pháp ác bất thiện có giác, có quán, rời dục nhiễm pháp sanh hỉ lạc nhập sơ thiền, đây gọi là hữu giác hữu quán tam muội.
Chặng giữa của sơ thiền và nhị thiền, đây gọi là vô giác hữu quán tam muội.
Từ nhị thiền đến phi hữu tưởng phi vô tưởng định, đây gọi là vô giác vô quán tam muội.
Tam tam muội nầy? Là đại Bồ Tát Ðại thừa, vì bất khả đắc vậy.
Lại có thập niệm là đại Bồ Tát Ðại thừa.
Những gì là mười? Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm xã, niệm thiên, niệm thiện, niệm xuất nhập tức, niệm thân và niệm tử.
Mười chánh niệm nầy là đại Bồ Tát Ðại thừa, vì bất khả đắc vậy.
Lại có tứ thiền, tứ vô lượng tâm, tứ vô sắc định, bát bội xả và cửu thế đệ định là đại Bồ Tát Ðại thừa, vì bất khả đắc vậy.
Lại có đại Bồ Tát Ðại thừa, chính là thập lực.
Những gì là mười? Một là Phật biết như thiệt những tướng thhị xứ, bất thị xứ của tất cả pháp. Hai là Phật biết như thiệt những nghiệp, những thọ pháp của chúng sanh khác, biết chỗ tạo nghiệp, biết nhơn duyên, biết báo của chúng sanh khác. Ba là Phật biết như thiệt những tướng cấu tịnh sai khác của các thiền giải thoát, các tam muội và các định. Bốn là Phật biết như thiệt những tướng căn tánh thượng hạ của chúng sanh khác. Năm là Phật như thiệt biết những loại dục giải của chúng sanh khác. Sáu là Phật như thiệt biết vô số tánh loại sai khác của thế gian. Bảy là Phật như thiệt biết chỗ đến của tất cả đạo hạnh. Tám là Phật như thệit biết túc mạng của mình và của chúng sanh khác từ một đời đến vô lượng đời trong vô lượng kiếp có tướng như vậy, có nhơn duyên như vậy. Chín là Phật thiên nhãn thanh tịnh hơn chư Thiên, như thiệt thấy biết chúng sanh chết đây sanh kia, hoặc thiện đạo hoặc ác đạo. Mười là Phật biết như thiệt các lậu tận nên vô lậu tâm giải thoát, vô lậu huệ giải thoát, trong pháp hiện tại tự chứng biết nhập vào pháp ấy, nghĩa là chứng biết như thiệt ta đã hết sanh tử, đã thành phạm hạnh, từ đời nay chẳng còn lại thấy có đời sau nữa.
Mười trí lực nầy là đại Bồ Tát Ðại thừa, vì bất khả đắc vậy.
Lại có đại Bồ Tát Ðại thừa, chính là tứ vô sở úy.
Thế nào là bốn? Phật nói lời thành thiệt rằng ta là bực nhứt thiết chánh trí. Ðối với những điều như như thiệt gạn hỏi về các pháp của tất cả đại chúng, Phật không tự thấy có mảy may e sợ. Vì thế nên Phật được rất an ổn, được vô sở úy an trụ ngôi thánh chúa, ở giữa đại chúng như sư tử hống chuyển pháp luân thanh tịnh mà tất cả hàng Sa Môn, Bà La Môn, chư Thiên Vương, Phạm Vương, Ma Vương, cùng chúng sanh khác đều không chuyển được. Ðây là vô sở úy thứ nhứt.
Phật nói lời thành thiệt rằng ta là bực tất cả lậu đã dứt diệt hết sạnh. Ðối với chỗ gạn hỏi như thiệt về lậu phiền não dứt diệt đây của tất cả đại chúng, Phật không tự thấy có mảy may e sợ. Vì thế nên Phật được rất an ổn, được vô sở úy, an trụ ngôi thánh chúa, ở giữa đại chúng chư sư tử hống chuyển pháp luân thanh tịnh mà tất cả trời, Người cùng chúng sanh khác không chuyển được. Ðây là vô sở úy thứ hai.
Phật nói lời thành thiệt rằng đây là những pháp chướng ngại chánh đạo giải thoát. Ðối với những lời gạn hỏi như thiệt về pháp chướng đạo đây của tất cả đại chúng. Phật không tự thấy có mảy may e sợ. Vì thế nên Phật được rất an ổn, được vô sở úy, an trụ bực thánh chúa, ở giữa đại chúng như sư tử hống chuyển pháp luân thanh tịnh mà tất cả Nhơn, Thiên cùng chúng sanh khác đều không chuyển được. Ðây là vô sở úy thứ ba.
Phật nói lời thành thiệt rằng những thánh đạo mà ta đã dạy quyết định có thể ra khỏi thế gian, theo đây thật hành thời có thể hết khổ. Ðối với những lời gạn hỏi như thiệt về thánh đạo đây của tất cả đại chúng. Phật không tự thấy có mảy may e sợ. Vì thế nên Phật được rất an ổn, được vô sở úy, an trụ bực thánh chúa. ở giữa đại chúng như sư tử hống chuyển pháp luân thanh tịnh mà tất cả Nhơn, Thiên cùng chúng sanh khác đều không chuyển được. Ðây là vô sở úy thứ tư.
Tứ vô sở úy nầy là đại Bồ Tát Ðại thừa, vì bất khả đắc vậy.
Lại có đại Bồ Tát Ðại thừa, chính là tứ vô ngại trí.
Những gì là bốn? Pháp vô ngại trí, nghĩa vô ngại trí, từ vô ngại trí và lạc thuyết vô ngại trí đây là đại Bồ Tát Ðại thừa, vì bất khả đắc vậy.
Lại có đại Bồ Tát Ðại thừa, chính là thập bát bất cộng pháp.
Những gì là mười tám? Một là thân của chư Phật không đổi, hai là khẩu của chư Phật không lỗi, ba là ý niệm của chư Phật không lỗi, bốn là chư Phật không có dị tướng, năm là chư Phật không có tâm bất định, sáu là chư Phật không có tâm chẳng biết rồi mà xả, bảy là nguyện dục không diệt, tám là tinh tấn không diệt, chín là chánh niệm không diệt, mười là huệ không diệt, mười một là giải thoát không diệt, mười hai là giải thoát tri kiến không diệt, mười ba là tất cả thân nghiệp của chư Phật đều theo nghiệp trí huệ mà hiện hành, mười bốn là tất cả khẩu nghiệp đều theo trí huệ mà hiện hành, mười lăm là tất cả ý nghiệp đều theo trí huệ mà hiện hành, mười sáu là trí huệ của chư Phật thấy biết thuở quá khứ không ngại, không chướng, mười bảy là trí huệ thấy biết thuở vị lai không ngại, không chướng, mười tám là trí huệ thấy biết thuở hiện tại không ngại, không chướng. Ðây là đại Bồ Tát Ðại thừa, vì bất khả đắc vậy.
Lại có đại Bồ Tát Ðại thừa, chính là tự đẳng ngữ đẳng chư tự nhập môn.
Những gì là tự đẳng ngữ đẳng chư tự nhập môn?
A tự môn, vì tất cả pháp từ đầu vốn là bất sanh vậy.
La tự môn, vì tất cả pháp ly cấy vậy.
Ba tự môn, vì tất cả pháp đệ nhứt nghĩa vậy.
Giá tự môn, vì tất cả pháp trọn bất khả đắc vậy, vì tất cả pháp bất diệt, bất sanh vậy.
Na tự môn, vì tất cả pháp rời danh tánh tướng bất đắc, bất thất vậy.
LÃ tự môn, vì tất cả pháp thoát khỏi thế gian vậy, cũng là vì ái chi nhơn duyên dứt diệt vậy.
Ðà tự môn, vì tất cả pháp thiện tâm phát sanh, cũng là tướng xả thí vậy.
Bà tự môn, vì các pháp bà tự rời lìa vậy.
Ðồ tự môn, vì các pháp đồ tự thanh tịnh vậy.
Sa tự môn, vì các pháp tự tại tánh thanh tịnh vậy.
Hòa tự môn, vì nhập vào các pháp, dứt bặt ngữ ngôn vậy.
Ða tự môn, vì nhập vào các pháp, như tướng bất động vậy.
Dạ tự môn, vì nhập vào các pháp, như thiệt bất sanh vậy.
Tra tự môn, vì nhập vào các pháp, chiết phục bất khả đắc vậy.
Ca tự môn, vì nhập vào các pháp, tác giả bất khả đắc vậy.
Ta tự môn, vì nhập vào các pháp, thời gian bất khả đắc vậy, vì các pháp thời gian lay chuyển vậy.
Ma tự môn, vì nhập vào các pháp, ngã sở bất khả đắc vậy.
Già tự môn, vì nhập vào các pháp, khứ giả bất khả đắc vậy.
Tha tự môn, vì nhập vào các pháp, xứ sở bất khả đắc vậy.
Xà tự môn, vì nhập vào các pháp, sanh bất khả đắc vậy.
Bả tự môn, vì nhập vào các pháp, bả tự bất khả đắc vậy.
Ðà tự môn, vì nhập vào các pháp, tánh bất khả đắc vậy.
Xa tự môn, vì nhập vào các pháp, định bất khả đắc vậy.
Khư tự môn, vì nhập vào các pháp, hư không bất khả đắc vậy.
Xoa tự môn, vì nhập vào các pháp, diệt tận bất khả đắc vậy.
Ðá tự môn, vì nhập vào các pháp, hữu bất khả đắc vậy.
Nhã tự môn, vì nhập vào các pháp, trí bất khả đắc vậy.
Tha tự môn, vì nhập vào các pháp, tha tự bất khả đắc vậy.
Bà tự môn, vì nhập vào các pháp, phá hoại bất khả đắc vậy.
Xa tự môn, vì nhập vào các pháp, dục bất khả đắc vậy, ngũ ấm như ảnh cũng bất khả đắc vậy.
Ma tự môn, vì nhập vào các pháp, ma tự bất khả đắc vậy.
Hòa tự môn, vì nhập vào các pháp, kêu gọi bất khả đắc vậy.
Ta tự môn, vì nhập vào các pháp, ta tự bất khả đắc vậy.
Noa tự môn, vì nhập vào các pháp, chẳng đến, chẳng đi, chẳng đứng, chẳng ngồi, chẳng nằm vậy.
Phả tự môn, vì nhập vào các pháp, biên bờ bất khả đắc vậy.
Ca tự môn, vì nhập vào các pháp, tụ họp bất khả đắc vậy.
Sai tự môn, vì nhập vào các pháp, sai tự bất khả đắc vậy.
Già tự môn, vì nhập vào các pháp, hiện hành bất khả đắc vậy.
Tra tự môn, vì nhập vào các pháp, cong vậy bất khả đắc vậy.
Ðồ tự môn, vì nhập vào các pháp, chỗ tột biên bờ nên chẳng diệt, chẳng sanh vậy.
Quá chữ Ðồ thời không chữ có thể tuyên thuyết. Tại sao vậy? Vì không còn có chữ vậy.
Những chữ vô ngại, vô danh, cũng diệt, chẳng nói được, chẳng chỉ được, chẳng thấy được, chẳng biên chép được.
Nầy Tu Bồ Ðề! Phải biết tất cả pháp như hư không. Ðây gọi là đà la ni môn chính là nghĩa của chữ A.
Nếu đại Bồ Tát, nơi những tự môn ấn, a tự ấn nầy, hoặc nghe, hoặc thọ, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc trì, hoặc giảng nói cho người khác, thời biết rằng sẽ được hai mươi công đức.
Những gì là hai mươi? Ðược nhớ biết dai. Ðược tâm kiên cố. Ðược chỉ thú của kinh. Ðược trí huệ. Ðược lạc thuyết vô ngại. Dễ được những môn đà la ni khác. Ðược tâm không nghi hối. Ðược nghe lành chẳng mừng, nghe dữ chẳng giận. Ðược chẳng cao, chẳng hạ, an trụ tâm không tăng, không giảm. Ðược thiện xảo, biết lời nói của chúng sanh. Ðược khéo phân biệt ngũ ấm, thập nhị nhập, thập bát giới, thập nhị nhơn duyên, tứ duyên và tứ đế. Ðược khéo phân biệt những căn tánh lợi độn của các chúng sanh. Ðược khéo biết tâm niệm của kẻ khác. Ðược khéo phân biệt ngày, tháng, năm, mùa. Ðược khéo phân biệt thiên nhĩ thông, Ðược khéo phân biệt túc mạng thông. Ðược khéo phân biệt sanh tử thông. Ðược có thể khéo tuyên thuyết thị xứ, phi xứ. Ðược khéo biết thân oai nghi qua, lại, ngồi, đứng.
Những đà la ni môn, tự môn, a tự môn nầy gọi là đai Bồ Tát Ðại thừa, vì bất khả đắc vậy”.

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 27 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 3.15.2.239 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập