Người Cư Sĩ [ Trở Về ] [Trang chủ]
ABHIDHAMMATTHASANGAHA
THẮNG PHÁP TẬP YẾU LUẬN
Tỳ kheo THÍCH
MINH CHÂU
(dịch và giải)
RÙPA: SẮC PHẦN MỘT - SAMUDDESA: TÓM LƯỢC I. PÀLI VĂN Cittacetasikà dhammà rùpam dàni pavuccati. Từ trước cho đến đây là
chỉ chương I cho đến chương V đã
phân tích các tâm (citta) và các tâm sở (Cetasikà). Với các
phân loại là chỉ cho chương I, chương II và chương III đã
phân tích các loại tâm và tâm sở một cách chi ly và rõ ràng.
Với sự diễn tiến là chỉ cho chương IV đã
nói đến 7 loại lộ trình của
tâm trong khi đang sống, và chương
V đã nói đến
các cảnh giới và sự diễn tiến của tâm thức khi
tái sanh (Patisandhicitta).
I. PÀLI VĂN Pavattikkamato càti pancadhà tattha sangaho. Một hòn đá có sắc trắng, cứng, tròn và nặng. Ðó là những đặc tánh của hòn đá. Chúng ta không thể tìm thấy một hòn đá mà không có những đặc tánh trên hay những đặc tánh khác. Nói một cách khác, chúng ta khó có thể nghĩ đến sự hiện hữu của một vật chất ngoài những đặc tánh liên hệ của vật chất ấy. Nếu chúng ta loại trừ những đặc tánh của một thân thể thời thân thể tự dưng không còn tồn tại. Các sắc pháp thật sự chỉ là sự tổng hợp của những đức tánh luôn luôn biến động. Do vậy các sắc pháp được tên là Rùpa nghĩa là những gì luôn luôn biến động. Chữ Rùpa chỉ chung cho các sắc pháp và chỉ riêng cho những đối tượng con mắt thấy. Chữ Samuddesà có nghĩa là giải thích sơ lược. Samutthànà: bàn đến sự sanh khởi các phần tử của sắc phép như 10 phần tử sắc pháp tác thành con mắt v.v..., do 4 nguyên nhân tạo ra là Kamma (nghiệp), Citta (tâm), Utu (thời tiết) và Àhàrà (đồ ăn). Kalàpa chỉ cho những tổng hợp tạo thành sắc pháp như thân thập pháp, mắt thập pháp v.v... Pavattikkamà chỉ cho sự hiện thành các sắc pháp tùy theo
sanh thú, thời gian và các loại chúng sanh.
I. PÀLI VĂN. Mahàbhùtàni là 4 Ðại chủng tức là Ðịa, Thủy, Hỏa và Phong, bốn phần tử căn bản không thể rời nhau và tác thành mọi sắc pháp, từ nhỏ đến lớn, từ vi trần cho đến núi cao. Upàdàya rùpàni là Tứ Ðại
Sở tạo sắc, là các sắc do 4 Ðại họp lại tác thành. Cái
gì cứng gọi là Ðịa đại, tánh
cứng không thể tách rời Ðịa đại
mà chính là căn tánh của Ðịa
đại.
Không có Ðịa đại nào
mà không cứng. Cũng vậy, cái gì ướt là Thủy
đại,
cái gì nóng là Hỏa đại và
cái gì động là Phong
đại.
Các sắc pháp khác, do 4 Ðại chủng này tác thành gọi
là 4 Ðại sở tạo sắc hay Upàdàya rùpàni.
I. PÀLI VĂN: b) Iti ca atthàrasavidhampetam rùpam sabhàvarùpam salakkhanarùpam, nipphanna-rùpam, rùpa-rùpam sammasana-rùpam ti ca sangaham gacchati. Jìvitarùpam: Tâm sắc. Kabalinkàro àhàro: Ðoàn thực. Àhàra-rùpam: Thực sắc. Atthàrasavidham: 18 loại. Sabhàvarùpam: Tự tánh sắc. Salakkhana-rùpam: Tự tướng sắc. Nipphannarùpam: Sở-tạo-sắc. Rùpa-rùpam: Sắc sắc. Sammasanarùpam: Tư duy sắc. b) Như vậy, 18 loại sắc pháp được phân loại theo tự tánh, tự tướng của chúng, theo khả năng chịu sự chi phối, chịu sự biến đổi và theo khả năng có thể dùng để tu quán tưởng. - Dhàtu: Giới, có nghĩa là cái gì có mang theo đặc tướng của mình. Pathavì dhàtu gọi là Ðịa giới, vì giống như đất, nó dùng để nâng đỡ và làm nền tảng cho các sắc khác cùng hòa hợp. Pathavì (Phạm văn Prthivi) cũng viết là Pathavi, puthavi, puthuvi, puthuvi, từ ngữ căn puth nghĩa là trương ra, dãn ra. Không có Ðịa giới, thời các vật không thể choán một chỗ nào. Àpodhàtu: Thủy giới, từ ngữ căn Ap nghĩa là đến, hay từ à - ngữ căn pày nghĩa là lớn lên hay tăng lên. Theo đạo Phật, chính Thủy giới này làm dính lại các phần tử tạo thành các sắc pháp, khỏi phải phân tán. Tejodhàtu: Hỏa-giới, từ ngữ căn Tej nghĩa là làm cho sắc bén, làm cho thành thục. Sự linh hoạt và thành thục của sự vật là nhờ ở Hỏa đại này. Cả lạnh và nóng là đặc tánh của Hỏa đại, chớ không phải lạnh là đặc tánh của Thủy đại như nhiều người đã hiểu lầm. Vàyo dhàtu: Phong giới. Vàyo từ ngữ căn Vày nghĩa là rung động. Tánh của Phong đại là động, công năng của Phong đại là làm cho lớn. Pasàdarùpa: Tịnh sắc là phần tử nhạy cảm của 5 căn như: con mắt thịt của chúng ta gồm 2 phần: - Sasambhàra cakkhu: Phù trần căn gồm có bốn Ðại chủng (Ðịa, thủy hỏa, phong) bốn Ðại chủng sở tạo là sắc, hương, vị ojà (tư dưỡng tố) và jìvitindriya (mạng-căn). - Phần thứ hai là Pasàda-rùpa (Tịnh-sắc) là phần ở chính giữa con ngươi và nhờ tịnh sắc này mà con mắt có thể thấy. Như vậy con mắt gồm có 10 phần và tịnh sắc là một phần trong ấy. Các Pasàdarùpa khác của tai, mũi, lưỡi, thân cần được hiểu tương tự. Riêng tịnh sắc của thân có mặt khắp cả thân thể, trừ ở nơi tóc, móng tay và da đã khô đét. Gocararùpa: Hành-cảnh-sắc tức là đối tượng của các căn. Rùpa, chữ Rùpa đây chỉ cho cả màu sắc và hình tướng. Photthabba: xúc, chỉ cho ba Ðại, trừ Thủy đại, vì Thủy đại quá tế nhị nên xúc không thể cảm giác. Ví dụ nước chẳng hạn, lạnh thuộc về Hỏa đại, mềm dịu của nước thuộc Ðịa đại và áp lực của nước thuộc Phong đại. Hadayavatthu: Tâm cơ hay là cứ điểm của tâm thức. Tập "Dhammasangani" (Pháp tụ) không nói đến sắc pháp này. Trong tập Atthasàlinì, Hadayavatthu được giải thích là Cittassa vatthu (cứ điểm của tâm-thức). Như vậy chúng ta thấy rõ đức Phật không chỉ rõ một cứ điểm nào cho tâm thức, hoặc là quả tim hay đầu não. Trong thời Ngài, theo truyền thống Upanishad, thời quả tim là cứ điểm của tâm thức. Theo các vị sớ giải như Ngài Buddhaghosa và Anuruddha, thì cứ điểm của tâm thức cũng là trái tim. Thật sự đức Phật chưa thấy chỉ rõ cứ điểm của tâm thức là chỗ nào và trong tập Patthàna, đức Phật nói đến cứ điểm của tâm-thức bằng danh từ chung yam rùpam nissàya (y cứ trên sắc-pháp này). Jìvitindriya: Ðây chỉ cho sắc-mạng-căn, và trong 52 tâm-sở có nói đến Danh mạng căn là một trong bảy Biến-hành tâm-sở. Chính sắc mạng căn này đã khởi một lần với Patisandhicitta (Kiết-sanh-thức) khi đi đầu thai, cũng một lúc với sắc pháp tiên khởi. Kabalìkàro àhàro: Ðoàn-thực, sở dĩ gọi vậy là các thức ăn thô cứng có thể viên thành từng miếng nhỏ. Sabhàvarùpa: Tự-tánh sắc, như tánh cứng, tánh ướt v.v... chỉ cho tánh của 4 Ðại-chủng. Salakkhanarùpa: Tự-tướng-sắc, chỉ cho tướng vô thường, khổ, vô ngã của các sắc-pháp. Nipphannarùpa: là các sắc-pháp do Kamma (nghiệp), Citta (tâm) v.v... tạo ra. Rùparùpa: chữ rùpa đầu theo nghĩa của ngữ-căn là biến đổi. Sammasanarùpa, vì các sắc-pháp có thể dùng để
quán tưởng.
I. PÀLI VĂN. - Chữ Àkàsadhàtu (Hư-không-giới) được xem là một trong 28 sắc-pháp, không phải hư không trên trời như thường được hiểu, mà cốt chỉ khoảng trống đã hạn chế và phân chia các sắc pháp với nhau, vì vậy nên mới gọi là Paricchedarùpa (Hạn-giới sắc). Abhidhamma xem Hư-không-giới được cấu-tạo bởi 4 pháp: Nghiệp, tâm, thời tiết và đồ ăn. Vikàrarùpa chỉ cho tánh biến-hóa của sắc pháp. Lahutà chỉ cho sức khỏe thân thể và được ví như một thanh sắt được nung đỏ cả ngày. Mudutà được ví như một tấm da được đập nhồi thật nhu nhuyến và Kammannatà đối nghịch với tánh cứng rắn của thân thể và được ví như vàng khéo giũa, khéo mài. Lakkhanarùpa: Tướng sắc được gọi vậy vì có những tướng sai khác trong các giai đoạn sanh (uppàda), trú (thiti) và diệt (bhanga). Upacaya (sanh khởi) được xem là sự sanh khởi đầu tiên của ba thân thập pháp (kàyadasaka), tánh thập pháp (bhàvadasaka) và cơ thập pháp (vatthu dasaka), khi mới thác sanh. Sự sanh-khởi tiếp tục của ba thập pháp này, từ khi thác sanh cho đến mạng chung được xem là giai đoạn santati (an-trú). Cả giai đoạn up-acaya và santati đôi khi được xem như là jàti (sanh). Do vậy, số các sắc pháp chỉ còn 27 chớ không phải 28. Tuổi thọ của một sắc pháp hữu-vi thường là 17 tâm sát-na. Tâm sát na đầu là Upacaya, tâm sát-na cuối là Aniccatà và 15 tâm sát-na ở giữa là Jaratà (già, tàn lụn). Aniccatà chỉ giai đoạn sắc bị
hủy hoại. Trừ 5 rùpas (sắc-pháp) vinnatti, jàti, jarà
và aniccatà, còn 23 sắc còn lại chỉ được
tuổi thọ là 17 tâm sát-na.
I. PÀLI VĂN. Jìvitàhàrarùpehi atthàrasavidham tathà. Paricchedo ca vinnatti vikàro lakkhanantica. Aniphannà dasà ceti attha-vìsavidham bhave. - Ðoạn này chỉ là đoạn tóm tắt đoạn trước mà thôi, kể rõ 18 và 10 sắc-pháp, cộng thành 28 sắc pháp tất cả. PHẦN HAI - RÙPAVIBHÀGO: PHÂN LOẠI CÁC SẮC PHÁP I. PÀLI VĂN. - Vô-nhân vì các sắc-pháp không tương ứng với các nhân tham, sân, si, vô tham, vô sân, vô si, Hữu-duyên vì chỉ có sự hiện-hữu tương đối, liên hệ đến 4 nguyên nhân Kamma, citta, utu và àhàra (Nghiệp, tâm, thời tiết và đồ ăn). Hữu lậu, vì trở thành đối tượng của dục vọng. Hữu vi, vì bị chi phối bởi 4 nguyên nhân Kamma, citta, utu, àhàra. Thuộc thế gian, vì phụ thuộc vào 5 thủ uẩn. Thuộc Dục giới, vì nằm trong phạm vi của giới-vức Dục lạc. Phi sở duyên, vì không nhận thức được
đối tượng. Phi sở đoạn, vì các sắc pháp không bị
tuần tự phải đoạn diệt như các
phiền não. Ở đây, không có
nghĩa là các sắc-pháp không bị vô thường chi phối.
I. PÀLI VĂN. Pasàda - hadaya - ankhàtam chabbidhampi vatthu - rùpam nàma, Itaram avatthu-rùpam. Pasàdavinnattisankhàtam sattavidhampi dvàrarùpam nàma; Itaram advàrarùpam. Pasàda-bhàva-jìvitasankhàtam atthavidham pi indriya-rùpam nàma; Itaram anindriya-rùpam. Pasàda-visayasankhàtam dvàdasavidham pi olàrika rùpam, santike-rùpam sappatigharùpan ca; Itaram sukhuma-rùpam durerùpam, appatigha-rùpan ca. Kammajam upàdinna-rùpam; Itaram anupàdinna - rùpam. Rùpàyatanam sanidassana-rùpam; Itaram anidassana rùpam. Cakkhadi-dvayam asampatta-vasena, ghànàdittayam sampattavasena ti panca-vidhampi gocaraggàhika-rùpam; Itaram agocaraggàhika-rùpam. Vanno, gandho, raso, ojà, bhùta-catukkam ceti atthavi-dhampi avinibbhoga-rùpam; Itaram vinibbhoga-rùpam. Agocaraggàhikarùpam: Bất thủ cảnh sắc. Vanno: Hiễn sắc. Gandho: Hương. Raso: Vị. Ojà: Thực tố. Avinibbhogarùpam: Bất-giản-biệt-sắc. Vinibbhogarù-pam: Giản biệt sắc. Sáu loại Tịnh sắc, tâm sở y gọi là sở y sắc, các sắc khác gọi là Phi sở y sắc. Bảy loại Tịnh sắc và biểu sắc gọi là môn sắc; các sắc khác gọi là Phi môn sắc. Tám loại Tịnh sắc, Bổn tánh sắc và mạng sắc gọi là căn sắc; các sắc khác gọi là Phi căn sắc. Mười hai loại Tịnh sắc, Hành cảnh sắc gọi là thô sắc, cận sắc, hữu đối sắc; các sắc khác gọi là tế sắc, viễn sắc và phi hữu đối sắc. Các sắc do nghiệp sanh gọi là Hữu chấp thọ sắc; các sắc khác gọi là Phi hữu chấp thọ sắc. Sắc nhập gọi là Hữu kiến sắc; các sắc khác gọi là Phi hữu kiến sắc. Hai nhãn căn và nhĩ căn không cần đạt đến đối tượng. Ba căn tỷ, thiệt và thân căn cần đạt đến đối tượng. Năm căn này gọi là thủ cảnh sắc; các sắc khác gọi là Bất thủ cảnh sắc. Tám loại sắc, hiễn sắc, hương, vị, thực tố và bốn Ðại-chủng gọi là Bất giản biệt-sắc; các sắc khác gọi là giản biệt sắc. - Pasàdarùpa: Tịnh-sắc, sở dĩ gọi là căn
sắc vì Tịnh sắc này chi phối 9 sắc còn lại trong
10 sắc. Upàdinnam: Hữu chấp thọ, vì 18 sắc do nghiệp sanh
đều
bị tham - ái và tà - kiến chấp thọ, chi phối. Gocaraggàhikarùpam:
Thủ-cảnh sắc, sở dĩ gọi vậy vì các sắc này lấy 5 trần
làm đối cảnh. Ojà: Thực-tố,
được
xem như một sắc-pháp và có khả-năng
tạo ra các sắc khác. Avinibbhogarùpam: Bất giản biệt
sắc, vì tám sắc này không thể rời nhau.
I. PÀLI VĂN. Ajjhattikàdibhedene vibhajanti yathàraham. I. PÀLI VĂN. - Ðạo Phật không tìm kiếm nguyên nhân đầu
tiên sinh khởi ra các pháp mà chỉ chấp nhận sự hiện
hữu các sắc pháp và tìm kiếm những ảnh hưởng gì tác
thành các sắc pháp. Theo luận Abhidhamma, có 4 nguyên nhân sanh
khởi các sắc pháp: Nghiệp, Tâm, thời tiết và đồ
ăn.
I. PÀLI VĂN. - Kammaja: Do nghiệp sanh. Nghiệp đây chỉ các Thiện và bất-thiện-nghiệp trong quá khứ, thuộc Dục-giới và Sắc-giới vì chỉ những nghiệp này mới tạo ra Sắc-pháp. 25 tâm này gồm 12 Bất-thiện-tâm, 8 Thiện-tâm ở Dục-giới và 5 Thiện-tâm ở Sắc-giới. Một thiện, bất-thiện-nghiệp trong khi lâm chung khiến kiết-sanh-tâm (Patisandhicitta) khởi lên trong đời sau. Cùng với kiết sanh tâm này, các sắc-pháp do nghiệp quá khứ chi phối khởi lên trong từng sát-na, như ngọn lửa của cây đèn, cho đến tâm sát-na thứ 17, khi con người lâm chung. Khi được thai sanh, do kết quả
nghiệp quá khứ, ba loại thập pháp (dasaka) được sanh-khởi;
Kàyadasaka (thân thập pháp), Bhàvadasaka (Tánh thập pháp)
và Vatthudasaka (Tâm sở y thập pháp). Thân thập pháp gồm có
4 Ðại-chủng, 4 đại-sở-tạo (Hiển
sắc, Hương, vị, thực tố) mạng-căn và Thân tịnh-sắc.
Tánh thập pháp và Tâm-sở-y thập pháp cũng gồm các pháp
tương tợ.
I. PÀLI VĂN. (b) Tattha appanà-javanam iriyàpathampi sannàmeti. Votthapana-kàmàvacarajavanàbhinnà pana vinnattimpi samutthà-penti. Somanassajavanàni panettha terasa hasanampi janenti. (b) Ở đây, an-chỉ tốc-hành-tâm điều-hòa uy-nghi của thân thể. Nhưng các quyết-định-tâm, Dục-giới-tốc-hành-tâm và thắng-trí tạo các (thân) biểu và (khẩu) biểu. Mười ba tốc-hành tâm câu-hữu với hỷ cũng tạo ra sự cười. - Cittaja: Do tâm sanh, tâm không có hành-tướng nhưng có khả năng tạo ra sắc-pháp (Rùpa). Nói một cách khác, thiện-tâm và bất-thiện-tâm tạo ra những sắc-pháp tốt đẹp hay không tốt đẹp. Ðiều này rất rõ ràng khi nhận xét các hiện tướng vật lý nơi con người thay đổi do tư tưởng người ấy thay đổi. Theo Abhidhamma, từ sát-na đầu tiên Bha-vanga khởi lên, nghĩa là liền sau khi kiết-sanh-thức khởi, các sắc pháp do tâm tạo đã bắt đầu được tạo ra. Kiết sanh thức không tạo ra các pháp do tâm tạo vì đã có nghiệp (kamma) tạo giúp và vì kiết sanh thức mới sanh vào một đời sống mới. Không một sắc pháp nào do tâm sanh được khởi lên, trong giai đoạn trú và diệt của Sát-na-tâm vì tâm sát-na khi ấy yếu đuối. Mười tâm thức không đủ khả năng để cấu tạo các sắc-pháp. Bốn vô-sắc Dị-thục không tạo sắc-pháp vì các thiền vô-sắc-giới được phát triển nhờ không tham ái sắc-pháp. Các Thiền-tâm rất cần thiết để tạo các sắc-pháp do tâm tạo. Một người chứng cảnh Thiền có thể tạo những sắc-pháp rất mạnh mẽ khiến người tu thiền có thể sống không cần ăn uống. Những ai có hoạt động tâm linh mạnh đều có sức mạnh dưỡng sinh. Một người sống thọ hưởng an lạc Niết-Bàn có thể sống không ăn uống trong nhiều ngày. Như đức Phật, sau khi thành đạo, sống không ăn uống trong 19 ngày. Trong 79 tâm, 26 Tốc hành-tâm (10 sắc-giới-thiện và Duy-tác-tâm, 8 Vô-sắc-thiện và Duy-tác-tâm cùng với 8 Siêu-thế-tâm) có thể tạo những cử chỉ thân thể như bay trên không, độn thổ, đi trên nước v.v... Ở đây Votthapanacitta (Quyết-định-tâm) là ý-môn-hướng-tâm (manodvàràvajjana). Các Dục-giới Tốc-hành-tâm (29) là 12 Bất-thiện-tâm, 1 Tiếu-sanh-tâm và 16 Tịnh-quang-thiện và Duy-tác-tâm. Abhinnà Città (Thắng-trí-tâm) là 2 đệ-ngũ Thiền thiện và Duy-tác-tâm, câu-hữu với Xả và tương ưng với Trí. 13 Tốc-hành-tâm câu-hữu với Hỷ là 4 Bất-thiện-tâm và 8 Tịnh-Quang-thiện tâm và Duy-tác-tâm câu-hữu với Hỷ và 1 Tiếu-sanh-tâm câu-hữu với Hỷ. Các người phàm phu khi cười lớn hay mỉm cười là kinh
nghiệm 4 Bất - thiện - tâm và 4 Tịnh - quang - tâm ; các vị
Sekha (Hữu - học) cũng kinh nghiệm các tâm tương tợ trừ
2 Bất thiện tâm tương ứng với tà kiến. Các vị A-La-Hán
kinh nghiệm 4 Duy-tác-tâm và một Tiếu - sanh - tâm. Các đức
Phật chỉ mỉm cười với 4 Tịnh-quang-Duy-tác-tâm.
I. PÀLI VĂN. - Chúng ta đã biết khi thác
sanh, nghiệp tạo ra ba: thân thập pháp, tánh thập pháp và
Tâm-sở y thập pháp. Hỏa-đại ở
bên trong, gồm trong 3 loại thập pháp này cùng với hỏa-đại
ở ngoài, tạo ra các sắc-pháp do thời-tiết sanh, tại
trú-vị của kiết-sanh-thức. Tại sanh-khởi-vị, Hỏa-đại
do Nghiệp sanh thay thế hỏa đại do tâm sanh. Utu ở đây được
dùng theo nghĩa tejodhàtu (Hỏa-đại)
gồm cả lạnh và nóng. Nói cho thật đúng,
chính Hỏa-đại cả nội với ngoại, tạo ra sắc-pháp. Các
sắc-pháp do thời-tiết chung tạo ra, cũng gồm vào loại
do thời-tiết sanh.
I. PÀLI VĂN. - Àhàra (món ăn) nghĩa là
chất ăn trong các món ăn vật-chất
và ojà (thực tố) chứa trong các sắc-pháp do nghiệp
sanh, do tâm sanh và do thời tiết sanh. Nội ojà (thực tố),
được
ngoại thực tố giúp đỡ mới tạo ra các sắc pháp, khi đạt
đến trú vị và trú vị này kéo dài đến
49 (tiểu) tâm sát-na. Các sắc-pháp khởi lên khi thực
tố được tiêu hóa khắp thân
thể. Nội thực tố một mình không thể tạo ra các sắc-pháp,
nếu không có sự giúp đỡ của ngoại
thực tố.
I. PÀLI VĂN. - Quả tim hay sở-y-sắc và 8 căn-sắc
(mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, nam tánh, nữ tánh và mạng
căn) hoàn toàn do nghiệp sanh.
Như vậy Jìvitindriya (mạng căn) trong
các động vật như người và các loài thú cần phải
phần biệt với các bất - động -
vật khác như cây và các vật chất, vô tri, vì chúng
không phải do nghiệp sanh. Chúng vẫn có sự sống, nhưng khác
với sự sống của con người và cây cối. Ðiều chú ý ở
đây
là hư - không - giới được
xem là do cả 4 nhân sanh. Tiếng nói có giọng do tâm sanh,
không có giọng do thời tiết sanh. Các điệu
nhạc do người đánh hay thổi là do thời tiết sanh và
bị chi phối bởi tâm.
I. PÀLI VĂN. - 18 sắc-pháp do nghiệp sanh: Bất-giản-biệt-sắc 8 + Hư-không-giới 1 + Sở-y-sắc 1 + Sắc-căn 8. 15 sắc-pháp do tâm sanh: Bất-giản-biệt-sắc 8 + Hư-không giới 1 + Tiếng 1 + Biến-hóa-sắc 3 + Biểu sắc 2. 13 sắc-pháp do thời tiết sanh: Bất-giản-biệt-sắc 8 + Hư-không-giới 1 + Biến - hóa sắc 3 + Tiếng 1. 12 sắc-pháp do đồ ăn sanh: Bất-giản-biệt-sắc 8 + Hư-không-giới 1 + Biến hóa sắc 3. 4 Lakkhana (Sắc tướng) là chung cho tất cả sắc pháp, không có sắc pháp nào không có 4 giới này. PHẦN BỐN - KÀLAPA-YOJANÀ: TỔNG HỢP CÁC SẮC I. PÀLI VĂN. - Các sắc pháp chỉ là sự tổ hợp của nhiều đặc
tánh, kết hợp lại dưới những hình thức và mức
độ
khác nhau. Sự tổng hợp của những đặc tánh này được
gọi là Kalàpa. Có tất cả là 21 loại tổng hợp, 9
loại do nghiệp tạo, 6 bởi Tâm, 4 bởi thời tiết và 2 bởi
đồ
ăn.
I. PÀLI VĂN. Nava cha caturo dve-ti kalàpà ekavìsati. Kalàpànam pariccheda-lakkhanattà vicakkhanà. Na kalàpangamiccàhu àkàsam lakkhanàni ca. Vì hư không chỉ hạn giới và các tướng sắc chỉ nêu rõ tánh tự nhiên của các sắc, nên các vị có trí tuyên bố không thuộc về tổng hợp sắc. I. PÀLI VĂN. - Theo đạo Phật có bốn loại chúng
sanh: Noãn sanh (andaja) do trứng sanh, thai-sanh (jalàbuja)
do từ thai sanh ra, thấp sanh (samsedaja) từ chỗ ướt mà sanh
và hóa sanh (opapàtika). Các chúng sanh sanh trưởng từ nơi ẩm
ướt như một loại động vật hạ
đẳng thuộc về thấp sanh. Một số loại thấp sanh thiếu
một vài căn và thiếu
nam hay nữ tánh, nhưng tất cả đều
có tâm-sở-y là có tâm hay thức.
I. PÀLI VĂN. - Các vị hóa sanh thường vô hình, mắt thịt không thấy
được.
Do nghiệp quá khứ chi phối, các chúng sanh này hóa hiện
thình lình, không phải đi qua thời
thai nghén. Thường thường, các vị Patas (ngạ quỷ), và
Devas (chư Thiên) và Brahmà (Phạm Thiên) thuộc loại hóa sanh.
I. PÀLI VĂN. - Khi lâm chung, đến sát-na tâm thứ
17 của tử tâm, khi lộ trình tâm cuối cùng được
chấm dứt với một trong ba đối tượng như sau: Kamma, kammanimitta
và Gati-nimitta (nghiệp, nghiệp tướng và thú tướng)
thời sự diễn tiến các sắc pháp do nghiệp sanh được
cắt đứt. Các sắc pháp do nghiệp sanh đến phút cuối cùng
được
chấm dứt với tử tâm. Rồi tâm và các món đồ
ăn cũng chấm dứt sự phát sanh các sắc pháp. Chỉ còn
thời tiết còn ảnh hưởng hoạt động
cho đến khi thi thể bị tan rã hoàn toàn.
I. PÀLI VĂN. Patisandhimupàdàya tathàrupam pavattati. - Ðoạn này nói đến sự tiếp
tục sanh khởi của các sắc-pháp, qua một đời sống khác,
bắt đầu từ kiết-sanh-thức.
I. PÀLI VĂN. Asannasattànam pana cakkhu-sota-vatthu-saddàni pi na labbhanti. Tathà sabbàni pi cittajarùpàni. Tasmà tesam pati-sandhikàle jìvitanavakameva. Pavattiyan ca saddavajjitam utu-samutthànarùpam atiricchati. b) Iccevam kàmarùpàsannisankhàtesu tìsu thànesu patisan-dhipavattivasena duvidhà rùpapavatti veditabbà. b) Như vậy trong Dục-giới, sắc-giới và vô-tưởng-giới, sự diễn tiến các sắc-pháp cần phải được hiểu theo hai phần vị, tái-sanh và tương-tục-sanh. - Một vài loại hóa-sanh ở Dục-giới không có nam hay nữ tánh. Nhưng các loại hóa sanh ở sắc-giới không những vô-tánh mà còn không có tịnh-sắc căn của mũi, lưỡi, thân, dầu vẫn có phù-trần-căn của những căn này. Tịnh-sắc-căn của các căn này bị mất đi vì không có sở-dụng cho các vị Phạm-Thiên. Các loại noãn-sanh cũng được gồm
vào với các loại thai-sanh. Khi tái sanh, các loại này
đều
có ba loại thập pháp thuộc thân, tánh và tâm-sở-y.
Có khi chúng không có nam hay nữ tánh. Như vậy các loại trứng
có tâm-sở-y tức là có tâm.
I. PÀLI VĂN. Sattaraseva - sannìnam arùpe natthi kinci pi Saddo vikàro jaratà maranan c’opapattiyam Na labbhanti pavattesu na kinci pi na labbhati. Khi tái-sanh, tiếng, biến hóa sắc, già và chết không có được. Khi tương-tục-sanh thời không sắc-pháp nào là không có. - Ðây là bài kệ tóm tắt con số hiện diện của các sắc-pháp ở Dục-giới, Sắc-giới, Vô-sắc-giới và đối với hạng vô-tưởng chúng-sanh. PHẦN SÁU - NIBBÀNA: NIẾT BÀN I. PÀLI VĂN. b) Tadetam sabhàvato ekavidhampi sa-upàdi-sesanibbàna-dhàtu anupàdisesanibbànadhàtu ceti duvidham hoti kàranapa-riyàyena Tathà sunnatam animittam appanihitam ceti tividham hoti àkàrabhedena. b) Niết-Bàn theo tự-tánh chỉ có một loại, theo phương thức tự kinh nghiệm trước và sau khi chết, có hai: Hữu-dư-y Niết-bàn giới và vô-dư-y Niết-bàn giới. Còn theo hành tướng thì có ba là: Không, vô-tướng, vô-nguyện. - Nibbàna hay Nirvàna (Phạm-văn) gồm có Ni và Vana, Ni có nghĩa là không. Vàna có nghĩa là dệt hay ái. Chính ái này tác dụng như một sợi dây nối liền các đời sống của một cá nhân, khi cá nhân này trôi lăn trong biển sanh-tử. Ni có nghĩa là không, Vàna: có nghĩa là thổi tắt. Nibbàna có nghĩa là thổi tắt lửa tham ái, sân-hận và si-mê. Niết-Bàn là nguyên lý cuối cùng (Vatthudhamma) thuộc về siêu thế, ra ngoài thế giới của tâm và sắc hay 5 uẩn. Nibbàna được chứng ngộ nhờ trực giác (paccakkha: Hiện kiến hay Thông-đạt-trí (pativedhanàna) và Anumàna (Tỷ-lượng), hay Anubodhanàna (tùy-giác-trí). Ðể diễn đạt hai ý trên, Nibbàna được xem là cần phải chứng-ngộ bởi trí tuệ thuộc Bốn Thánh Ðạo và trở thành một đối tượng cho các Ðạo và Quả. Về tự tánh (Sabhàvato), Nibbàna là an-tịnh (Santi) và như vậy chỉ có một (kevala). Niết Bàn này được xem là hai, tùy theo sự chứng nghiệm trước và sau khi chết. Trong chính văn có dùng danh từ Kàranapariyàyena, được các tập sớ Pàli ở Tích Lan giải thích là nguyên nhân được gọi vậy vì có hữu dư y hay không có hữu dư y. Sa-upàdisesa: Sa: với; upàdi: 5 uẩn (thân và tâm); Sesa: còn dư sót lại. Upàdi từ nguyên ngữ upa + à + da, lấy nghĩa là 5 uẩn do tham ái và tà-kiến chấp chặt. Upàdi cũng có nghĩa là Kilesa (phiền não). Theo chánh bản và các tập sớ, Nibbàna do các vị Sotàpanna, Sakadàgami và Anàgami chứng ngộ thuộc Saupàdisesanibbàna-dhàtu vì còn thân và còn phiền não. Nibbàna của các vị A-La-Hán cũng vẫn là sa-upàdisesa Nibbàna vì các vị này vẫn còn thân. Chỉ có Niết Bàn của vị A-La-Hán sau khi chết mới gọi là anupàdisesa-Nibbànadhàtu, vì cả hai ngũ-uẩn và phiền não đã được vất bỏ dứt sạch. Sunnata: không, có nghĩa là không có tham, sân, si hay mọi
pháp hữu vi. Animitta: Vô-tướng, có nghĩa là không còn tướng
tham, sân, si hay tướng các pháp hữu-vi. Appanihita: vô nguyện,
nghĩa là không còn đèo bòng
luyến ái gì nữa.
I. PÀLI VĂN. Nibbànamiti bhàsanti vanamuttà mahesayo. - Ðoạn này là những danh từ mà các vị Ðại Ẩn-sĩ gọi
Niết-Bàn. Chữ Padam ở đây có nghĩa
là pháp (Dhamma).
I. PÀLI VĂN. Paramattham pakàsenti catudhà va Tathàgatà - Bản đồ sau đây nêu rõ những loại tâm nào làm sanh khởi những loại sắc pháp nào. Chữ viết tắt:
Ghi chú: Có thể tham chiếu thêm với: 1) Vi Diệu Pháp Toát Yếu, bản dịch Việt ngữ của Phạm Kim Khánh (với đầy đủ các ký tự Pàli). Ðầu trang | Mục lục | 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 | 09 | Phụ lục |
Source BuddhaSasana[ Trở Về ]