Người Cư Sĩ [ Trở Về ] [Trang chủ]
ABHIDHAMMATTHASANGAHA
THẮNG PHÁP TẬP YẾU LUẬN
Tỳ kheo THÍCH
MINH CHÂU
(dịch và giải)
LỘ TRÌNH CỦA TÂM (CITTA-VÌTHI) PHẦN MỘT: LỘ TRÌNH CỦA TÂM QUA 5 CĂN BÀI KỆ GIỚI THIỆU I. PÀLI VĂN. Bhùmi-puggala-bhedena pubbàpara-niyàmitam. Pavatti-sangaham nàma patisandhi-pavattiyam. Pavakkhàmi samàsena yathàsambhavatokatham. - Chương trước đã giải thích các tâm và tâm sở, tổng hợp theo thọ, môn v.v... Chương này bàn đến sự diễn tiến của tâm thức khi thọ sanh và khi sinh hoạt thường ngày tùy theo loại người và các cảnh giới. Chữ "định đoạt bởi những tâm nào trước những tâm nào sau" nghĩa là một tâm này khởi lên,theo sau một số tâm và đi trước một số tâm. 6 LOẠI, 6 THỨ I. PÀLI VĂN. 3) Vithì-muttànam pana kamma-kammanimitta-gatinimittavasena tividhà hoti visayappavatti. 4) Tattha vatthu-dvàràrammanàni puble vuttana-yàneva. 5) Cakkhu-vinnànam, sota-vinnànam, ghàna-vinnànam, jivhà-vinnànam, kàya-vinnànam, mano-vinnànam ceti cha vinnànàni. 3) Ðối với tâm thoát ly ngoài lộ trình, đối tượng hiện khởi có ba: nghiệp, nghiệp tướng và thú tướng. 4) Ở đây, các trú căn, căn môn và sở duyên đã nói trước rồi. 5) 6 thức tức là nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức. - Các tâm có những tác động Patisandhi, Bhavanga và Cuti không phải là tâm sát-na trong lộ trình của tâm thức, cho nên các tâm ấy được gọi là thoát ly lộ trình của tâm. CÁC LOẠI LỘ TRÌNH I. PÀLI VĂN. Hay theo thức cũng có sáu. Lộ trình của nhãn thức, lộ trình của nhĩ thức, lộ trình của tỷ thức, lộ trình của thiệt thức, lộ trình của thân thức, lộ trình của ý thức. Như vậy sự diễn tiến của tâm đối với các môn cần phải tương quan như vậy. Tâm trạng thụ động của tâm, khi được trôi chảy không bị một kích thích nào, được gọi là Bhavanga hay hữu phần. Các tâm khởi lên trên mặt Bhavanga rồi chìm xuống vào Bhavanga. Thông thường, chúng ta không thể giữ mãi một tâm, không cho chìm xuống Bhavanga. Một tâm có thể sánh như một làn sóng nổi lên trên mặt biển, tồn tại trong một thời gian rồi chìm xuống để làm nổi dậy một làn sóng khác rồi đến một làn sóng khác. Cũng như vậy, một tâm khởi lên trên mặt Bahavanga, được nhận thức rồi tâm ấy chìm xuống để làm khởi dậy một tâm khác và một tâm khác nữa. Như vậy một tâm có ba giai đoạn: 1) Uppàda (2) (Sanh) Thiti (trú) và Bhanga (diệt). Ðời sống của một tâm, từ khi khởi cho đến khi chìm xuống gọi là Cittakhana (Tâm sát-na). Khi một kích thích ở ngoài được thọ lãnh ngang qua 5 căn, 1. Sự trôi chảy yên tịnh của Bhavanga bị rung động trong một tâm sát-na và được gọi là Bhavangacalana (sự rung động của hữu phần). 2. Rồi dòng Bhavanga đứng dừng lại trong một tâm sát-na và gọi là Bhavangupaccheda (sự dừng đứng của Bhavanga). Rồi cùng trên một đối tượng ấy, những tâm sát-na sau này khởi lên, tiếp nối nhau một cách mau lẹ, khởi lên rồi chìm xuống. 3. Pancadvàravajjana (ngũ môn hướng tâm) 4. Cakkhuvinnàna (nhãn thức hay một trong 4 thức khác). 5. Sampaticchana (Tiếp thọ tâm). 6. Santìrana (Suy đạc tâm). 7. Votthapana (Xác định tâm). 8 - 14) Javana (Tốc hành tâm). Tâm này mạnh đến 7 sát-na. 15 - 16) Tadàlambana (Ðồng sở duyên). Tâm này gìn giữ và ghi nhận vào trong tiềm thức và lập đi lập lại đến hai sát-na. Như vậy, từ Bhavanga calana đến Tadàlambana có đến 16 tâm sát-na tất cả và hoàn tất sự diễn tiến của tâm ngang qua 5 môn gọi là Pancadvàravìthi (Lộ trình của tâm qua 5 môn). Khi chúng ta nghe tiếng, ngửi hương, nếm vị, chúng ta có đến hàng ngàn Vithì (Lộ trình). Khi chúng ta tiếp tục phân biệt các pháp, mỗi lần chúng ta ghi nhận kinh nghiệm vào trong tiềm thức. Sự tương quan giữa tâm và vật chất. Vật ở đời hình như ở yên, những sự thật những vật ấy luôn luôn chuyển dịch thay đổi. Chúng có thể ví dụ như lửa một ngọn đèn, ngọn lửa hình như bất dịch nhưng sự thật luôn luôn đổi mới từng sát-na một. Ðó là định lý Anicca của đạo Phật. Nhưng nếu sự vật thay đổi biến dịch mau chóng như vậy, vì sao một lộ trình của tâm có thể diễn tiến trên một sự vật làm đối tượng, vì một lộ trình dài cho đến 16 tâm sát-na. Abhidhamma giải thích rằng sự biến dịch của sự vật chậm hơn sự biến dịch của tâm đến 16 lần. Một vật hay đối tượng cần một tâm sát-na để khởi lên rồi đến sát-na thứ hai được tâm nhận lãnh. Như vậy tuổi thọ đời sống của một đối tượng có tất cả là 17 tâm sát-na. Ðến cuối sát-na thứ 17, lộ trình của tâm được trọn đủ và đời sống của vật đối tượng được tiêu diệt. PHÂN LOẠI CÁC ÐỐI TƯỢNG I. PÀLI VĂN. Ngang qua 5 môn: Rất lớn, lớn, nhỏ và rất nhỏ.
- 1) Khi sự kích thích của đối tượng quá rõ ràng, sự kích thích ấy được lãnh thọ chỉ một sát-na sau khi khởi lên rồi lộ trình của tâm tiếp theo, kéo dài đến 16 sát-na, và đời sống của đối tượng được chấm dứt. Một đối tượng như vậy được gọi là Atimahanta hay Rất lớn. 2) Khi sự kích thích của đối tượng không quá rõ ràng như trên, sự kích thích ấy được lãnh thọ có thể chậm trễ hơn sau khi khởi lên và bị chấm dứt giữa chừng trước khi lộ trình của tâm được hoàn thành. Lộ trình ấy chỉ tồn tại cho đến cuối giai đoạn Javana (tốc hành). Do vậy các tâm sát-na của Ðồng sỏ duyên (Tadàlambana) không khởi lên. Ðối tượng như vậy được gọi là Mahanta hay lớn. 3) Khi sự kích thích của đối tượng còn yếu ớt hơn, sự kích thích ấy được lãnh thọ còn chậm trễ hơn nữa sau khi khởi lên và bị chấm dứt trước khi giai đoạn Javana được bắt đầu. Trong trường hợp này, tâm sát-na của Votthapana (xác định tâm) được lập lại hai hay ba lần rồi chìm vào trong Bhavanga. Ðối tượng như vậy được gọi là Paritta hay nhỏ. 4) Khi sự kích thích quá muội lược, sự kích thích này lại quá chậm và chấm dứt sau khi khiến Bhavanga rung động, trước khi một tâm sát-na nào có thể khởi lên. Một đối tượng như vậy gọi là Atiparitta hay rất nhỏ. 5) Khi sự kích thích qua ý môn được rõ ràng, thời một lộ trình của tâm được diễn ra đầy đủ cho đến cả hai tâm sát-na của Tadàlambana (Ðồng sở duyên). Ðối tượng này được gọi là vibhùta hay quá rõ ràng. 6) Khi sự kích thích không được rõ ràng, thời lộ trình của tâm chỉ diễn tiến đến Javana rồi chìm xuống Bhavanga. Như vậy hai sát na của Tadàlambana không khởi. Ðối tượng như vậy gọi là không rõ ràng. LỘ TRÌNH CỦA TÂM I. PÀLI VĂN. Tasmà, yadi ekacittakkhanàtìtakam rùpàrammanam cakkhussa àpàthamàgacchanti, tato param dvikkhattum bhavange calite bhavangasotam vocchinditvà tameva rùpàrammanam àvajjantam pancadvàràvajjanacittam uppajjitvà nirujjhati. Tato tassànantaram tameva rùpam passantam cakkhuvinnànam. Sampaticchantam sampaticchanacittam. Santìrayamànam santìranacittam. Vavatthapentam votthapanacittam ceti yathàkkamam uppajjitvà niruj’hanti. Tato param ekùnatimsa-kàmàvacarajavanesu yam kinci laddhappaccayam yebbhuyyena sattakkhattum javati. Javanànubandhàni ca dve tadàrammanapàkàni yathàraham pavattanti. Tato param bhavangapàto. Do vậy, khi sắc pháp được vào trong phạm vi tiếp nhận của mắt một tâm sát-na chậm hơn, tiếp theo hữu phần rung động hai lần và giòng hữu phần dừng nghỉ, rồi ngũ môn hướng tâm khởi lên và diệt mất, làm phận sự hướng tâm đến sắc đối tượng ấy. Tiếp theo tâm ấy, các tâm sau đây tuần tự khởi lên rồi diệt mất: nhãn thức thấy sắc, tiếp thọ tâm lãnh thọ (sắc), suy đạc tâm suy đạc (sắc), xác định tâm xác định (sắc). Tiếp theo, một trong 29 Dục giới tốc hành tâm do nhân duyên chi phối, phần lớn tồn tại đến 7 sát-na. Theo sau Javanà là hai Ðồng sở duyên tâm tùy theo mà khởi lên. Tiếp đến, lộ trình chìm trong Bhavanga. - Theo thông lệ, khi một đối tượng vào trong phạm vi nhận thức của thức, qua một trong 5 cửa, một sát na của Bhavanga được trôi qua. Sát na ấy gọi là quá khứ hữu phần (atìtabhavanga). Rồi lộ trình của các tâm tiếp tục tiếp diễn cho đến 16 sát-na. Một đối tượng như vậy gọi là rất lớn. - 29 Dục giới tốc hành tâm là: Bất thiện 12 + Thiện 16 + Tiếu sanh tâm 1. - Một đối tượng tồn tại cho đến 17 tâm sát-na như sau: * Bhavannga rung động 2 + quá khứ hữu phần 1 = 3. I. PÀLI VĂN. b) Yàva tadàrammanuppadà pana appahontàtìtakamàpàthamàgatam àrammanam mahantam nàma. Tattha javanàvasàne bhavangapàto va hoti, natthi tadàrammanuppàdo. c) Yava javanuppàdà pi appahontàtìtakamàpàthamàgatam àrammanam parittam nàma. Tattha javanampi anuppajjitvà dvittikkhattum votthapanameva pavattati, tato param bhavangapàto va hoti. d) Yàva votthapanuppàdà ca pana appahontàtìtakamàpàthamàgatam nirodhàsannamàrammanam atiparittam nàma. Tattha bhavanga-calanameva hoti, natthi vìthicittuppàdo. e) Iccevam cakkhudvàre tathà sotadvàràdisu ceti sabbathàpi pancadvàre tadàrammana-javana-votthapana-moghavàrasankhàtànam catunnam vàrànam yathàkkamam àrammabhùtà visayappavatti-catudhà veditabbà. b) Một đối tượng được gọi là lớn nếu được thâu nhận chậm hơn và không thể tồn tại cho đến khi đồng sở duyên khởi lên. Ðến cuối Tốc hành tâm, đối tượng ấy chìm vào hữu phần và đồng sở duyên tâm không khởi lên. c) Một đối tượng được gọi là nhỏ nếu được thâu nhận chậm hơn và không thể tồn tại cho đến khi Tốc hành tâm khởi lên, ở đây Tốc hành tâm không khởi lên, xác định tâm phải tồn tại hai hay ba tâm sát-na. Xong lại chìm vào hữu phần. d) Một đối tượng sắp sửa diệt được gọi là rất nhỏ nếu được thâu nhận rất chậm và không thể tồn tại cho đến khi xác định tâm khởi lên. Ở đây Hữu phần chỉ rung động, lộ trình tâm không khởi lên. e) Như vậy đối với nhãn môn. Cũng vậy đối với nhĩ môn v.v... tổng cộng tất cả 5 môn, có 4 sự trình bày của đối tượng, tùy theo thứ tự, theo 4 cách, được biết là Tadàlambana-vàra, tồn tại cho đến Tốc hành tâm, Votthapanavàra, tồn tại cho đến xác định tâm và moghavàra, chỉ khiến cho Hữu phần rung động. - Vìthicitta: Những tâm khởi ra trên lộ trình có 14: Ngũ môn hướng tâm 1 + Nhãn thức + Tiếp thọ tâm 1 + Suy đạc tâm 1 + Votthapana 1 + Javana 7 + Tadàlambana 2. TOÁT YẾU I. PÀLI VĂN. 2. 14 sát-na tâm 3. Và rộng hơn có 54 tâm. - 7 giai đoạn của tâm sát-na là ngũ môn hướng tâm, một trong năm thức, tiếp thọ tâm, suy đạc tâm, xác định tâm, Tốc hành tâm và Ðồng sở duyên. - 14 Tâm sát-na là ngũ môn hướng tâm 1 + một trong 5 thức 1 + Tiếp thọ tâm 1 + Suy đạc tâm 1 + Xác định tâm 1 + Tốc hành tâm 7 + Ðồng sở duyên 2: 14. - 54 tâm là 54 Dục giới tâm (12 bất thiện + 18 vô nhân tâm + 24 Tịnh quang tâm). PHẦN HAI - LỘ TRÌNH QUA Ý MÔN I. PÀLI VĂN. Avibhùte àlambane javanàvasàne bhavangapàtova hoti, natthi ta-dàlambanuppàdo. - Những đối tượng của sự nhận thức ngang qua ý môn thuộc về Dục giới, như khi tưởng nhớ, suy nghĩ hay nội quán. Hay thuộc về Ðại hành, như là quang tướng của đối tượng tu thiền; Hay là những khái niệm của vô sắc giới, hay của siêu thế giới, tức là Niết bàn. Ðối tượng ở Dục giới có thể rõ ràng hay không rõ ràng. Khi đối tượng rõ ràng, lộ trình của tâm tồn tại cho đến 2 sát-na của Ðồng sở duyên tâm. Nhưng nếu đối tượng không rõ ràng, thời chỉ đến giai đoạn Tốc hành tâm rồi chìm xuống Hữu phần. Khi một người tu hành quán tưởng trên một đối tượng của Ðại hành hay của Siêu thế, vị này chứng được nhiều lộ trình trên đối tượng này và chìm xuống Bhavanga (Hữu phần) nhiều lần. Sau một thời gian tu tập, vị ấy có thể tùy theo ý muốn gìn giữ Tốc hành tâm (Javana) không cho chìm xuống Bhavanga (hữu phần). Ðó gọi là Thiền tâm được tên là Appanà (An-chỉ). Lộ trình Dục giới tâm này rất quan trọng và được gọi là Appanà-Javana-vàra hay lộ trình của tâm đến Appanà-Javana. Lộ trình này rất quan trọng, vì chính ở lộ trình này mà Dục giới tâm chấm dứt và Ðại Hành hay Siêu thế tâm bắt đầu. Dục giới Tốc hành tâm này phải là một trong 8 Tịnh quang tâm tương ứng với Trí (4 Thiện + 4 Duy tác), không thể là bất thiện hay không tương ứng với Trí. Ba hay bốn Sát-na tâm đầu của Dục giới Tốc hành tâm này thuộc về Dục giới. Ðại hành hay Siêu thế Tốc hành bắt đầu từ thứ tư hay thứ năm. Nhưng Dục giới Tốc hành tâm này rất mạnh và được gọi: 1) Parikamma (Chuẩn bị), 2) Upacàra (Cận hành), 3) Anuloma (Thuận thứ) và 4) Gotrabhù (Chuyển tánh). Sau Appanà Javana, sẽ không có Tadàlambana (Ðồng sở duyên), vì ở đây đối tượng không phải thuộc Dục giới. TOÁT YẾU I. PÀLI VĂN. - 3 loại tức là 3 tâm: Ý môn hướng tâm, Tốc hành tâm và Ðồng sở duyên. - Mười tâm sát-na là Ý môn hướng tâm 1 + Tốc hành tâm 7 + Ðồng sở duyên 2. - 41 tâm thuộc Dục giới được khởi lên, trừ 13 tâm sau này: 10 Thức tâm + 1 Ngũ môn hướng tâm + 2 Tiếp thọ tâm. Nên để ý rằng 3 Suy đạc tâm và 8 Ðại Dị thục khởi lên trên lộ trình qua ý môn, dưới danh nghĩa Ðồng sở duyên. LỘ TRÌNH CỦA AN-CHỈ TỐC HÀNH TÂM I. PÀLI VĂN. - Appanà nghĩa là hướng dẫn và y chỉ nhứt tâm trên đối tượng (Ekaggam cittam àrammane appenti), như vậy là một hình thức của vitakka (tầm) nhưng sắc sảo và mãnh liệt hơn. Vị muốn tu thiền lựa chọn một đối tượng thích hợp, tùy theo tánh tình của mình rồi chuyên chú quán tưởng cho đến khi chứng được sơ thiền. Ở đây lộ trình của tâm sẽ như sau: Manodvàràvajjana (Ý môn hướng tâm), Parikamma (Chuẩn bị tâm), Upacàra (Cận hành tâm), Anuloma (Thuận thứ tâm), Gotrabhù (Chuyển tánh), Appanà (An chỉ). Tâm đầu là Ý môn hướng tâm, đến trước Tốc hành tâm, và tùy thuộc với đối tượng được nhận thức. Thứ đến Parikamma (Chuẩn bị tâm), sở dĩ được gọi vậy vì tâm này sửa soạn chuẩn bị cho một tâm cao hơn, hoặc là Ðại-hành tâm, hoặc là Siêu thế tâm. Xong đến Upacàra hay Cận hành tâm, vì tâm này khởi lên rất gần với thiền tâm hay Siêu thế tâm sắp chứng được. Thông thường hai sát-na tâm này khởi lên, bắt đầu cho lộ trình của Appanà (An chỉ). Nhưng đối với vị tu hành đã thuần thục, chỉ có Upacàra tâm khởi lên, không có Parikamma tâm. Tâm sát-na thứ ba được gọi là Anuloma (Thuận thức) vì tâm này vừa thuận với tâm trước và thuận với tâm tiếp (gotrabhù). Gotrabhù nghĩa là tâm đã diệt trừ Dục giới tánh, phát triển đại hành tánh hoặc siêu thế tánh. Tiếp theo tâm này là tâm Appanà. Ðến đấy định tâm đã đạt được mức độ rất cao. Một Jhàna chưa phát triển đến mực độ tối đa được gọi là Upacàrasamàdhi. Ðối với người phàm phu hay người hữu học (Sekha), một trong 4 Dục giới Tốc hành thiện tâm, tương ứng với trí khởi lên. Ðối với vị vô học (asekha), thời một trong 4 Dục giới Tốc hành Duy tác tâm, tương ứng với trí khởi lên. Lộ trình của Siêu thế appanà-javana được diễn tiến như sau: (Chuẩn-bị, Cận-hành, Thuận-thứ, Chuyển-tánh, Ðạo tâm, Quả tâm, Quả tâm). Một trong 4 Dục giới Tốc hành thiện tâm, tương ứng với trí khởi lên trong 4 giai đoạn sơ khởi này. Ðối tượng của ba tâm sát-na đầu tiên thuộc về Dục giới, nhưng đối tượng của tâm sát-na thứ tư là Niết-bàn. Tuy vậy tâm sát-na Gotrabhù (Chuyển tánh) này chưa có thể diệt trừ các phiền não. Chỉ có Ðạo tâm (magga) tiếp theo mới làm cả hai phận sự thể nhập Niết-bàn và diệt trừ phiền não. Magga hay đạo tâm chỉ khởi có một lần, tiếp theo là 2 quả tâm, nếu có Parikamma, hoặc 3 Quả tâm nếu không có Parikamma. Trong trường hợp đệ nhị, đệ tam, đệ tứ thiền, tâm sát-na thứ tư được gọi là Vodàna (thanh tịnh), thế cho Gotrabhù. Nếu có tâm Parikamma, thì Vodàna khởi lên vào sát-na thứ tư, nếu không thì vào sát-na thứ ba. Một trong 4 Ðạo tâm (Magga) chỉ khởi lên một lần trong đời người. Nhưng Quả tâm thì có thể chứng được cả ngày liên tục. Ba Quả tâm trước, Dự lưu, Nhứt lai, Bất lai khởi lên sau một Tốc hành thiện tâm. Khi hưởng quả A la hán, thì Tốc hành tâm khởi trước phải là Duy-tác, vì một vị A la hán không có Tốc hành thiện tâm. - 26 Tốc hành tâm tức là Ðại hành 18 + Siêu thế 8. SỰ LIÊN LẠC GIỮA TỐC HÀNH VÀ AN CHỈ-TÂM I. PÀLI VĂN. I. PÀLI VĂN. Sukhitakriyato attha cha sambhonti upekkhakà. Puthujjanàna sekkhànam kàmapunna-tihetuto. Tihetukàmakriyato vìtaràgànamappanà. Ðối với phàm phu và các hạng Hữu-học, quả Appanà (An-chỉ) khởi lên tiếp theo Dục giới thiện tâm có ba nhân; Ðối với các vị A la Hán, thời quả Appanà (An-chỉ tâm) khởi lên tiếp theo Dục giới Duy-tác tâm có ba nhân. - Thiện tâm câu hữu với hỷ là 2 Dục giới tâm câu hữu với hỷ và tương ứng với trí. - Có 32 An-chỉ thiện tâm câu hữu với Hỷ: Ðạo (4 Ðạo x 4 thiền): 16 Quả (3 quả trước x 4 Thiền): 12 Siêu thế giới (A la hán quả x 4 thiền): 4 - 12 An-chỉ thiện tâm câu hữu với xả:
Vô sắc giới: 4 Siêu thế, A la Hán quả: 1 I. PÀLI VĂN. Tatthàpi somanassasahagatakriyàjavanàvasàne somanassasahagatàneva tadàrammanàni bhavanti. Upekkhàsahagatakriyàjavanàvasàne ca upekkhà-sahagatàni honti. Nếu Tốc hành tâm của vị A la hán câu hữu với hỷ, Ðồng sở duyên của vị này cũng sẽ câu hữu với hỷ. Nếu Tốc hành tâm câu hữu với xả, Ðồng sở duyên của vị này sẽ câu hữu với xả. - Một kinh nghiệm hiện tại ở Dục giới được tâm thức ghi nhận tùy theo thái độ của chúng ta đối với đối tượng, thái độ này tùy thuộc kết quả của nghiệp chúng ta ở quá khứ. Do vậy, những tâm làm công tác Tadàlambana là 11 Dị thục tâm tức là 3 Suy đạc tâm và 8 Ðại Dị thục. Nếu Suy đạc tâm câu hữu với hỷ, đối với một đối tượng rất khả ái, thời Tadàlambana cũng câu hữu với hỷ. Tadàlambana vì quá muội lược nên không có thể tương ứng với sân. Tadàlambana là kết quả của những kinh nghiệm quá khứ của chúng ta. Một người có thể quán một vật khả ái đầy những nguy hiểm, nhưng Tadàlambana có thể câu hữu với hỷ. Cũng vậy một người có thể quán Từ bi đối với con rắn, nhưng tại Tadàlambana, người ấy chỉ có xả, không có hỷ. Chỉ có A la hán có thể chế ngự Tadàlambana, và trong trường hợp này, Tadàlambana với Javana đồng tánh với nhau. ÐỒNG SỞ DUYÊN VÀ ÐỐI TƯỢNG Ở DỤC GIỚI I. PÀLI VĂN. Tathà kàmàvacarajavanàvasàne kàmàvacarasattànam kàmàvacaradhammesveva àrammnabhùtesu tadàrammanam icchantìti. - Ðồng sở duyên tiếp theo một Dục giới Tốc hành tâm câu hữu với hỷ sẽ câu hữu với hỷ. Cũng vậy, những Tốc hành tâm câu hữu với xả. Theo thông lệ, Tốc hành tâm đi trước và Ðồng sở duyên tâm đi sau đều cùng chung một cảm thọ. Nhưng nếu Tốc hành tâm câu hữu với ưu, thời Ðồng sở duyên sẽ tương ứng với xả. Nếu Kiết sanh thức (Patisandhi) của một người câu hữu với hỷ thời sẽ không có Ðồng sở duyên vì Bhavanga tiếp theo cũng câu hữu với Hỷ. Trong trường hợp này Suy đạc tâm câu hữu với xả khởi lên trong một sát-na và được gọi là àganutukabhavanga. Thông thường, đối tượng của Tốc hành tâm và của Ðồng sở duyên tâm giống nhau. Trong trường hợp này, đối tượng lại khác nhau. Ðối tượng của Santìrana (Suy đạc tâm) là một Dục giới đối tượng mà người này đã quen thuộc trong đời trước của người này. Ðối tượng này được gọi là Paritta (nhỏ) so sánh với sắc giới, vô sắc giới, siêu thế giới đối tượng. Nếu Kiết sanh thức (Patisandhi) không câu hữu với hỷ, thời Ðồng sở duyên sẽ trở thành Upekkhà (xả) cũng như Bhavanga tiếp theo... TOÁT YẾU I. PÀLI VĂN. - Tadàlammbana chỉ khởi ra sau những Dục giới Tốc hành tâm, chỉ với những chúng sanh ở Dục giới, với những đối tượng ở Dục giới, những đối tượng này hoặc rất lớn hoặc rất rõ ràng. CÁC TỐC HÀNH TÂM: THỜI GIAN TÁNH DỤC GIỚI VÀ ÐẠI HÀNH TÂM I. PÀLI VĂN. Ðối với kẻ tu hành mới chứng lần đầu tiên, trong thiền thứ nhất, những Ðại-hành tốc hành tâm và Thắng trí tốc hành tâm khởi lên chỉ có một lần trong mọi trường hợp, rồi bị chìm xuống Bhavanga (Hữu phần). - Cả về phương diện tâm lý và đạo đức, Javana tâm rất quan trọng vì thiện hay ác được định đoạt trong giai đoạn này. Thông thường Dục giới Tốc hành tâm tồn tại 6 hay 7 sát-na. Khi con người bị bất tỉnh hay sắp chết, tốc hành tâm tồn tại chỉ có 5 sát-na. Khi đức Phật hiện thần thông, phun lửa lẫn nước từ thân của Ngài, chỉ có 4 hay 5 Tốc hành tâm khởi lên để suy quán những tâm sở thiền, một điều kiện tiên quyết để hiện thần thông song hành. Khi người tu thiền lần đầu tiên, chứng được sơ thiền Tốc hành tâm chỉ tồn tại có một sát-na. Cũng vậy khi chứng được 5 Thắng trí (Abhinnà) tức là: 1) Iddhividha (Thần túc thông), 2) Dibbasota (Thiên nhĩ thông), 3) Dibbacakkhu (Thiên Nhãn thông), 4) Paracittavijànana (Tha tâm-thông), 5) Pubbe nivàsànussatinànna (Túc mạng thông). SIÊU THẾ TỐC HÀNH TÂM I. PÀLI VĂN. Sabbathà pi samàpattivìthiyam bhavangasote viya vìthiniyamo natthìti katvà bahùni pi labbhantìti. 20. Sattakkhattum parittàni maggàbhinnà sakim matà.
Trong mọi trường hợp, trên lộ trình của sự quả chứng này, lộ trình diễn tiến như dòng sông của Hữu phần, không có sự dừng nghi lộ trình của tâm, Tốc hành tâm có thể tồn tại lâu dài. 20. Cần phải biết, Tốc hành tâm ở Dục giới khởi lên 7 lần, Ðạo tâm và Thắng trí tâm chỉ có một lần. Các trường hợp khác, các Tốc-hành tâm khởi lên nhiều lần. - 4 Tốc hành Ðạo tâm cũng chỉ có một tâm sát-na. Chính ở đây mà Niết-bàn được trực nhận lần đầu tiên. Một vị A na hàm hay A la hán đã tu sắc giới và vô sắc giới thiền có thể, với sức mạnh của ý chí, tạm dừng sự trôi chảy của tâm thức cho đến 7 ngày không dừng nghỉ. Khi một người chứng đến quả này, mọi hoạt động tâm linh đều dừng nghỉ, cho đến hơi thở cũng không, nhưng vẫn còn mạng căn và sức nóng. Sự sai khác giữa một thây chết và một vị vào Diệt tận định là vị này vẫn sống như thường. Ðịnh này được đặt tên là Nirodhasamàpatti, nirodha là diệt. Samàpatti là chứng đến. Sách nói rằng thân của vị đang nhập định này không thể bị ai làm hại. Liền trước khi chứng định này, vị này chứng trong hai sát-na, vô sắc đệ tứ thiền (phi tưởng phi phi tưởng xứ). Rồi dòng tâm thức dừng lại cho đến khi vị này muốn xuất khỏi Diệt tận định. Thường lệ, vị này nhập định khoảng một tuần lễ. Khi vị này từ định khởi dậy, sát-na tâm đầu tiên là A na Hàm quả tâm nếu vị này là vị A na Hàm; hay là A la hán quả tâm nếu vị này là A la hán. Sau đó dòng tâm thức chìm lại trong Bhavanga. PUGGALA-BHEDA: CÁC LOẠI CHÚNG SANH - VÔ NHÂN VÀ NHỊ NHÂN CHÚNG SANH I. PÀLI VĂN. - Vì sự sai khác của tâm tánh nên chúng sanh chia làm ba loại. a) Chúng sanh hạ tánh: Tâm của chúng thuộc bản năng và hành động của chúng bị tham, sân, si chi phối trong đời trước. Tâm của chúng yếu ớt như Suy-đạc tâm câu hữu với xả, tức là Dị-thục bất thiện tâm. Những hạng này không thể chứng thiền tâm. b) Những kẻ ngu si, điếc và sinh ra mù. Tâm của chúng cũng thuộc về bản năng như tâm của hạng trước, rất yếu ớt vì hành động quá khứ của chúng được thiện nhân (kusala hetu) rất yếu chi phối, yếu như Suy-đạc tâm câu hữu với xả, tức là Di-thục của thiện tâm không tương ứng với trí. Hai hạng chúng sanh này được gọi là Ahetuka (vô nhân chúng sanh) vì Dị thục của chúng không có nhân nào. Chúng cũng không có thể chứng thiền tâm. c) Những chúng sanh có vô tham và vô sân nhưng không có vô si được gọi là Duhekuta (nhị nhân chúng sanh), vì hành động của chúng được vô tham, vô sân chi phối mạnh ở quá khứ, nhưng không có vô si. Chúng không có vô si trong Di thục tâm của chúng. Hạng chúng sanh này không có Jhàna (Thiền) TAM NHÂN CHÚNG SANH I. PÀLI VĂN. - Những chúng sanh nào có tâm mạnh mẽ và sáng suốt vì hành động của chúng ở quá khứ được vô tham, vô sân và vô si chi phối, được gọi là ba nhân chúng sanh. Sở dĩ được gọi như vậy vì tâm dị thục này câu hữu với ba thiện nhân. Các vị này có thể tu thiền và chứng được Siêu thế tâm. Các vị có nhị nhân tâm và vô nhân tâm không có được Duy tác hay An-chỉ tâm. Dầu chúng sinh ra làm người, chúng không có Tịnh quang Dị thục tâm tương ưng với trí (vì chúng không có Tịnh quang Thiện tâm tương ưng với trí trong đời trước). Nếu sinh ra làm thú vật hay hạng chúng sanh thấp kém hơn, chúng cũng không có Tịnh quang Dị thục tâm không tương ưng với trí. TOÁT YẾU I. PÀLI VĂN. a) Vị A la hán không có 45 tâm sau đây: Trừ 45 tâm này, các vị A la hán có thể có 89 - 54: 44 tâm. * Bất thiện tâm tương ưng với Tà kiến 4 + Bất thiện tâm tương ưng với nghi 1 + A la hán quả 1 + Ðại hành Dị thục 9: 15 c) Các vị phàm phu không có 35 tâm sau đây: Trừ 35 tâm này, các vị phàm phu có 89 - 35: 54 tâm. I. PÀLI VĂN. Trên vô sắc giới địa, đạo tâm thứ nhất, tất cả tâm ở sắc giới, Tiếu sanh tâm và tâm của một sô sắc giới địa thấp hơn không có thể khởi lên. Trong mọi trường hợp, khi nào thiếu một căn môn nào, thì những tâm của lộ trình khởi qua căn môn ấy không thể khởi lên. Ðối với chúng sanh vô tưởng, trong mọi trường hợp, không có sự diễn tiến của tâm. I. PÀLI VĂN. 26) Iccevam chadvàrikacittappavatti yathàsambhavam bhavangantarità yàvatàyukamabbocchinnam pavattatìti. 26) Như vậy, sự diễn tiến của tâm ngang qua 6 căn môn tùy theo chúng khởi lên, sau khi chìm trong hữu phần, được diễn tiến không có gián đoạn cho đến lúc chết. - 1) Trừ 9 Ðại hành Dị thục, tất cả 8 tâm còn lại có thể khởi lên trong sự diễn tiến của tâm ở Dục giới. 2) Trừ 16 tâm (Sân tâm 2 + Ðại Dục thục Ðồng sở duyên 8 + Tỷ, thiệt, thân thức 6), 64 tâm còn lại (8 - 16) khởi lên ở sắc giới. 3) 42 tâm sau đây khởi lên ở vô sắc giới: I. Qua 5 căn môn: Ðối tượng rất lớn. 1. Atìta Bhavanga, 2) Bhavanga calana, 3) Bhavangupaccheda, 4) Pancadvàràvajjana, 5) Cakkhuvinnàna, 6) Sampaticchana, 7) Santìrana, 8) Votthapana, 9 - 15) Javana, 16 - 17) Tadàlambana. (Hữu phần quá khứ, Hữu phần rung động, Hữu phần ngưng lại, 5 môn hướng tâm, Nhãn thức, Tiếp thọ tâm, Suy đạc tâm, Xác định tâm, Tốc hành tâm, Ðồng sở duyên). II. - Qua ý môn: Ðối tượng rất rõ ràng 1) Manodvàràvajjana, 2 - 8) Javana. 9 - 10) Tadàlambana. (Ý môn hướng tâm, Tốc hành tâm, Ðồng sở duyên tâm). III. Các Sắc giới Thiền tâm 1) Manodvàràvajjana, 2) Parikamma, 3) Upacàra, 4) Anuloma, 5) Gotrabhù, 6) Appanà (Ý môn hướng tâm, chuẩn bị, cận hành, thuận thứ, chuyển tánh, an chỉ). IV. - Các vô sắc giới Thiền tâm 1) Manodvàràvajjana, 2) Parikamma, 3) Upacàra, 4) Anuloma, 5) Gotrabhù, 6) Àkàsanancàyatana. (Ý môn hướng tâm, Chuẩn bị, Cận hành, Thuận thứ, Chuyển tánh, Không vô biên xứ). V. - Siêu thế tâm 1) Parikamma, 2) Upacàra, 3) Anuloma, 4) Gotrabhù, 5) Magga, 6 - 7) Phala. (Chuẩn bị, Cận hành, Thuận thứ, Chuyển tánh, Ðạc
tâm, Quả tâm).
Ghi chú: Có thể tham chiếu thêm với: 1) Vi Diệu Pháp Toát Yếu, bản dịch Việt ngữ của Phạm Kim Khánh (với đầy đủ các ký tự Pàli). Ðầu trang | Mục lục | 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 | 09 | Phụ lục |
Source BuddhaSasana[ Trở Về ]