|
Chương
X
-ooOoo-
Phẩm Mười Kệ
(CCXXIII) Kàludàyin
(Thera. 56)
Ngài sanh cùng ngày với
đức Phật trong gia đình con vị
Bộ trưởng của vua ở Kapilavatthu. Bảy
vị cùng sanh một lần trong ngày, Vị
Bồ-tát, cây Bồ-đề, mẹ của
Ràhula và bốn vật báu: roi báu,
con ngựa Kanthaka, Channa và Kàludàyin.
Khi đến ngày đặt tên, ngài được
gọi là Udàyin, và vì ngài da
đen nên được gọi là Kàludàyin.
Ngài lớn lên làm bạn trẻ đồng
chơi với vị Bồ-tát. Rồi Thế Tôn
xuất gia, giác ngộ, và ở tại Trúc
Lâm (Veluvana), chuyển bánh xe Chánh pháp,
vua Suddhodana nghe vậy, cử một vị Bộ
Trưởng với một ngàn người tùy
tùng, bảo đem con của vua về. Vị Bộ
trưởng cùng cả ngàn tùy tùng,
nghe đức Phật giảng và chứng quả
A-la-hán. Ðức Phật đưa tay nói:
'Hãy đến, này các Tỷ-kheo'... và tất
cả sống giữa các vị Hiền Thánh, không
chuyển thông điệp của vua. Các vị sứ
giả khác cũng lâm vào cảnh tương
tự. Cuối cùng vua sai Kàludàyin
với một ngàn người tùy tùng và
Kàludàyin hứa thế nào cũng đưa
vị Bồ-tát về dầu có xuất gia.
Ngài đi đến nghe pháp, trở thành
vị A-la-hán, nhớ đến sứ mạng của
mình, chờ cho mùa mưa xong, khi trên con
đường về, hoa đã trổ bông, ngài
mới nói lên những bài kệ mời bậc
Ðạo Sư về và tán thán vẻ
đẹp cuộc hành trình:
527. Thế Tôn, nay là
thời,
Các cây nở hoa đỏ,
Từ bỏ chòm lá
cũ,
Tìm đến thời sai quả.
Chúng như ngọn lửa hừng,
Chói sáng và rực
sáng,
Bạch đấng Ðại
anh hùng,
Nay là thời hưởng vị.
528. Những cây nở hoa đẹp,
Khắp phương tỏa hương
thơm,
Bỏ lá, vọng sanh quả,
Nay là thời lên đường,
Từ bỏ địa phương
này,
Kính thưa bậc Anh hùng.
529. Không quá lạnh, quá
nóng,
Thế Tôn thời tiết đẹp,
Hãy để hai dân tộc,
Thích-Ca, Ko-li-ya,
Nhìn Ngài mặt hướng
Tây,
Vượt sông Ro-hi-ni.
530. Trong hy vọng, ruộng cày,
Trong hy vọng, giống gieo,
Trong hy vọng, thương gia,
Vượt biển đem tiền về.
Hy vọng con kiên trì,
Mong con, hy vọng thành.
531. Người tiếp tục gieo
giống,
Trời lại tiếp tục mưa,
Người nông tiếp tục
cày,
Thóc gạo tiếp tục đến,
Ðến nhiều cho quốc gia.
532. Ăn xin tiếp tục xin,
Thí chủ tiếp tục cho,
Thí chủ tiếp tục cho
Tiếp tục lên Thiên giới.
533. Bậc anh hùng tiếp tục,
Cho đến bảy thế hệ
Gia đình ấy được
sanh,
Bậc trí tuệ rộng lớn,
Con nghĩ Ngài có thể,
Là Thiên chủ chư
Thiên,
Trong Ngài đã được
sanh,
Bậc ẩn sĩ chân danh.
534. Phụ vương đại
ẩn sĩ,
Tên gọi Tịnh Phạn vương,
Còn mẹ bậc Chánh
giác,
Danh xưng là Ma-da,
Bà mang thai Bồ-tát,
Thân hoại, hưởng thiên
giới.
535. Gô-ta-mi, mạng chung,
Từ đấy, sau khi chết,
Ðược hưởng thọ
đầy đủ,
Các dục lạc cõi
trời,
Vui hưởng năm món
dục,
Ðược Thiên nữ
đoanh vây.
Rồi Thế Tôn được thỉnh
mời, thấy rằng mình đi sẽ cứu
độ cho nhiều người, nên đã ra
đi với hai mươi ngàn vị A-la-hán,
mỗi ngày đi bộ một do-tuần. Còn vị
Trưởng lão, dùng thần thông đi
đến Kapilavatthu trước mặt ông vua. Vua
không biết ngài là ai, nên ngài mới
xưng ngài là con vị Bộ Trưởng,
được vua sai đi đến Thế Tôn và
nói lên bài kệ:
536. Ta là con đức
Phật,
Ngài thắng bậc bất
thắng,
Bậc An-gi-ra-sa,
Bậc không ai sánh được,
Vua dòng họ Thích-ca,
Phụ thân của cha tôi,
Vua dòng Go-ta-ma
Là bậc Tổ phụ tôi,
Ðúng pháp là
như vậy.
(CCXXXIV) Ekavihàriya
(Tissa Kumàra) (Thera. 57)
Ngài sanh ra, sau khi đức
Phật đã nhập Niết-bàn là con trai
nhỏ nhất của vua Dhammàsoka. Vua Asoka,
đến năm thứ 218 sau khi đức Phật
nhập Niết-bàn, đã thống nhất toàn
thể Ấn Ðộ trong một đế quốc. Vua phong em
trai thứ ngài là Tissa làm Phó
vương, và vận động em ngài ủng
hộ cho Giáo hội.
Còn ngài trong khi đi săn
thấy Trưởng lão Mahà Dhammarakkhita
ngồi dưới gốc cây, cảm xúc rất
mạnh, tự mình muốn sống trong rừng.
Khi ngài chứng kiến Trưởng lão hiện thần
thông, ngài trở về lâu đài, và
nói với vua Asoka ngài muốn từ
bỏ cuộc đời thế tục. Vua Asoka không
thể làm ngài thay đổi sự quyết định
của mình. Tha thiết sống đời sống
một ẩn sĩ, ngài nói lên những
bài kệ như sau:
537. Khi trước mặt
sau lưng,
Không có một người
nào,
Như vậy an lạc lớn,
Sống một mình trong rừng.
538. Ta sẽ đi một mình,
Ðến ngôi rừng Phật
khen,
Hưởng an lạc đã
được,
Vị Tỷ-kheo thọ hưởng,
Nhờ sống đời tinh
tấn,
Sống riêng chỉ một
mình.
539. Ta sẽ gấp vào rừng,
Một mình, sống lý tưởng,
Ngôi rừng được
loài voi,
Cuồng loạn sống tự
do,
Trú xứ đem hoan hỷ,
Cho ẩn sĩ thiền định.
540. Trong ngôi rừng Sì-ta,
Với núi hang nước mát,
Sau khi rửa tay chân,
Ta kinh hành một mình.
541. Sống một, không sống
hai,
Trong rừng lớn đẹp
đẽ,
Ta sẽ sống tại đấy,
Việc xong, không lậu hoặc.
542. Như vậy, ta muốn làm,
Mong ước nguyện thành tựu,
Ta sẽ có lòng tin,
Không ai làm ai được.
543. Ta cột áo giáp lại,
Sẽ vào trong rừng sâu,
Ta không ra khỏi rừng,
Nếu chưa đạt lậu
tận.
544. Trong khi gió nhẹ thổi,
Mát lạnh, thơm mùi
hương,
Ta ngồi trên chỏm núi,
Ta sẽ phá vô minh.
545. Trên tấm thảm hang
động,
Trải đầy những hoa
rừng,
Ta hưởng lạc giải thoát,
Tại vòng đai núi
rừng.
546. Chí nguyện ta viên mãn,
Giống như mặt trăng
rằm.
Mọi lậu hoặc tận trừ,
Nay không còn tái sanh.
(CCXXXV) Mahà
Kappina (Ma-ha Kiếp-tân-na) (Thera. 58)
Trong thời đức Phật
hiện tại, ngài sanh ở biên địa, tại
thành phố tên Kukkuta, trong gia đình
một vị vua và được đặt tên
là Kappina. Khi phụ vương mất, ngài
thừa tự ngôi vua với tên là Mahà-Kappina.
Ðể tăng trưởng sự hiểu biết, ngài
sai sứ giả mỗi buổi sáng đi ra khỏi
bốn cửa thành, giữ lại các vị
học giả và tin cho ngài biết. Thời ấy bậc
Ðạo Sư đã ra đời và
đang ở Sàvatthi. Các thương
gia của thành phố Sàvatthi đem
đồ đến Kukkutta bán, đem quà
dâng vua. Vua hỏi tình hình ở Sàvatthi
và dân chúng theo tôn giáo nào.
Các thương gia thưa không trả lời
cho vua được, vì chưa được
súc miệng. Sau khi vua bảo đem nước súc
miệng xong, các thương gia chấp tay và thưa:
'Ở đất nước chúng tôi, Phật
báu đã ra đời'. Khi nghe nói đến
chữ Phật, vua cảm thấy hân hoan thoải
mái, bảo thương gia nói lại ba lần,
và thưởng chúng một trăm ngàn
đồng tiền vàng. Các thương gia cũng
nói đến Pháp báu và Tăng báu,
và vua tặng thưởng gấp ba lần. Rồi
vua từ bỏ thế tục và xuất gia. Các
vị Bộ trưởng cũng theo gương vua.
Rồi tất cả cùng đi tìm đức
Bổn Sư và đi đến sông Hằng. Rồi
họ tuyên bố, nếu có bậc Ðạo Sư,
có đức Phật tối thượng thời
móng chân các con ngựa không bị
thấm ướt! Rồi họ đi ngang qua con sông
ấy và qua một con sông khác nữa,
sông Candabhàgà.
Hôm ấy, bậc Ðạo
Sư dậy sớm khi rạng đông, với lòng
từ bi, dùng Phật nhãn xem xung quanh thế giới
và thấy Mahà Kappina đã từ
bỏ vương quốc và đi đến với
một số tùy tùng lớn để xuất
gia. Bậc Ðạo Sư trước hết đi vào
Sàvatthi khất thực với một số
Tỷ-kheo, rồi Ngài bay đến bờ sông Candabhàgà,
và ngồi xuống kiết-già, đối diện
với bến nước và phóng hào quang. Mahà
Kappina và các tùy tùng thấy được
các hào quang liền đến đảnh lễ
đức Phật. Thế Tôn thuyết pháp cho họ và
tất cả đều chứng quả A-la-hán. Và
xin trở thành Sa-môn. Ðức Phật nói:
'Hãy đến, các Tỷ-kheo', và như vậy
là lễ thọ giới của họ. Rồi Thế Tôn
đem toàn thể về Jetavana ngang qua hư không.
Một hôm Thế Tôn hỏi Mahà
Kappina có thuyết pháp cho đại chúng
không, và khi được trả lời không.
Thế Tôn cho gọi Mahà Kappina và khuyên
Mahà Kappina thuyết pháp cho đại chúng.
Mahà Kappina vâng lời dạy của Thế
Tôn và trong buổi thuyết pháp đầu
tiên độ cho hơn ngàn Sa-môn chứng
quả A-la-hán. Rồi đức Phật xác
nhận Mahà Kappina là vị thuyết pháp
đệ nhất cho chúng Tăng.
Một hôm, ngài giảng cho
các Tỷ-kheo-ni như sau:
547. Ai thấy sớm sự
việc,
Trước khi sự việc đến,
Và biết được cả
hai,
Có lợi hay có hại,
Thù hay bạn người
ấy,
Không thấy được
sơ hở,
Dầu quan sát kỹ càng.
548. Với ai khéo tu tập,
Niệm thở vào thở ra,
Tiếp tục hành viên mãn,
Như lời Phật thuyết giảng,
Sẽ chói sáng đời
này,
Như trăng thoát vùng
mây.
549. Tâm ta thật trắng bạch,
Vô lượng, khéo tu tập,
Thấu triệt, chế ngự vững,
Chói sáng khắp mọi phương.
550. Bậc có tuệ vẫn sống,
Dầu tài sản kiệt tận,
Không có được
trí tuệ,
Có tiền, như không sống.
551. Tuệ phê phán điều
nghe,
Tuệ tăng trưởng danh xưng,
Ở đời người có
tuệ,
Ðược vui trong đau
khổ.
552. Pháp này thuộc hiện
tại,
Không vi diệu hy hữu,
Ðâu có sanh, thì
chết,
Ðây không gì hy
hữu.
553. Sanh đã không gián
đoạn,
Sống có chết thường
hằng,
Sanh sanh, chết tại đấy,
Pháp hữu tình là
vậy.
554. Ðiều lợi cho kẻ sống,
Không lợi cho kẻ chết,
Than khóc cho kẻ chết,
Không danh, không thanh tịnh,
Không được hàng
Sa-môn,
Bà-la-môn tán thán.
555. Than khóc hại thân,
mắt,
Dung sắc, lực và trí,
Nếu tâm tư, hoan hỷ,
Các phương cũng hân
hoan,
Dầu hạnh phúc đi
tìm,
Không có gì an lạc.
556. Do vậy các cư sĩ,
Muốn nhận trong gia đình,
Chỉ những người có
trí,
Và những người nghe
nhiều,
Với sức mạnh trí
tuệ,
Họ làm tròn nhiệm vụ,
Như chiếc thuyền vượt qua,
Con sông nước tràn
đầy.
(CCXXXVI) Cùla-Panthaka
(Thera. 59)
Câu chuyện của ngài đã
được kể trong chương VIII. Phần còn
lại được kể trong tập sớ Cùlasetthi-Jàtaka.
Trong một trường hợp khác ngài nói
lên những bài kệ như sau:
557. Ta chậm chạp, tiến
chậm,
Trước ta bị khinh miệt,
Anh ta đuổi ta đi:
Nay, ngươi hãy về nhà.
558. Ta bị đuổi như
vậy,
Tại cửa chính Tăng
xá,
Sầu khổ, đứng tại
đấy,
Vọng luyến lời Phật dạy.
559. Tại đấy, Thế Tôn
đến,
Ngài rờ trên đầu
ta,
Với cánh tay, nắm ta,
Dắt ta vào Tăng xá.
560. Ðạo Sư thương
xót ta,
Cho ta khăn lau chân;
Hãy an trú tâm tư,
Vào vật thanh tịnh này.
Và ngồi xuống một
bên,
Tâm tư khéo an trú.
561. Ta nghe lời Ngài dạy,
Sống hân hoan Chánh pháp,
Ta thực hành thiền định,
Ðể đạt đích
tối thượng.
562. Ta biết được đời
trước,
Thiên nhãn ta thanh tịnh,
Ba minh đã đạt
được,
Lời Phật dạy làm
xong.
563. Pan-tha-ka hóa hiện,
Dưới hàng ngàn hình
thức,
Ngồi vườn xoài xinh
đẹp,
Chờ đợi thời phát
hiện.
564. Rồi Ðạo Sư giữ
ta,
Một sứ giả báo thời,
Ðúng thời được
báo hiệu,
Ta đến, ngang hư không.
565. Ðảnh lễ chân
Ðạo Sư,
Một bên ta ngồi xuống.
Biết ta đã ngồi xuống,
Bậc Ðạo Sư chấp
nhận.
566. Bậc nhận đồ
tế vật,
Cả toàn thể thế giới,
Là phước điền loài
Người,
Ngài chấp nhận cúng
dường.
(CCXXXVII) Kappa
(Thera. 59)
Trong thời đức Phật
hiện tại, ngài sanh trong vương quốc Magadha,
làm con một vua bản xứ, kế vị ngôi
vua, nhưng rơi vào hưởng thụ các
dục vọng. Khi bậc Ðạo Sư với lòng
từ bi, nhìn thế giới để xem ai xứng đáng
được cứu độ. Bậc Ðạo
Sư thấy ngài, nghĩ rằng Kappa có
thể tu tập quán bất tịnh, xuất gia và
chứng quả A-la-hán. Thế Tôn đi trên
hư không đến Kappa, và nói với
ngài với những câu kệ như sau:
567. Ðầy nhiều loại
uế vật,
Chỗ chưa còn phần uế,
Như vũng nước đọng
lâu,
Ung nhọt vết thương lớn.
563. Ðầy những máu
và mủ,
Chìm đắm, trong hố
phân,
Thân ứ nước rỉ
chảy,
Luôn chảy nước bất
tịnh.
569. Trói bởi sáu mươi
gân,
Trét dùng thịt làm
hồ,
Mặc áo giáp bằng da,
Thân hôi thúi vô
dụng.
570. Nối thành dây xúc
xương,
Cột lại với dây gân,
Do chúng nhiều hợp sức,
Tác thành những uy nghi.
571. Thường tiến đến sự
chết,
Ðến gần cảnh tử thần,
Ở đấy, bị quăng
bỏ,
Con người đi theo dục.
572. Thân bị vô minh che,
Trói bởi bốn trói
buộc,
Thân chìm trong bộc lưu,
Mắc vào lưới tùy
miên,
573. Hệ lụy năm triền cái,
Ám ảnh bởi tâm tư,
Ði theo gốc khát ái,
Che trùm bởi màn si.
574. Thân này luân chuyển
vậy,
Dẫn đi bởi xe nghiệp,
Khi thành công, khi bại,
Chịu đựng nhiều ái
sanh.
575. Ai nghĩ 'thân của tôi',
Là phàm phu ngu muội,
Tăng mộ phần đáng
sợ,
Chấp chặt sự tái
sanh.
576. Ai tránh né thân
này,
Như tránh rắn dính
phân,
Họ bỏ gốc sanh hữu,
Chứng Niết-bàn, vô lậu.
Kappa nghe lời dạy bậc Ðạo
Sư, về thân phận các thân dưới
nhiều hình ảnh, sợ hãi và nhàm chán
thân mình, hốt hoảng xin xuất gia. Bậc
Ðạo Sư giao cho một Tỷ-kheo làm lễ
xuất gia. Kappa nhận mười đề tài
tu tập và chứng quả A-la-hán. Ngài
đi đến bậc Ðạo Sư, đảnh
lễ, ngồi xuống một bên và nói
lên chánh trí của mình với những
bài kệ trên. Do vậy các bài kệ này
trở thành bài kệ của ngài.
(CCXXXVIII) Upasena,
Con Của Vanganta (Thera. 60)
Trong thời đức Phật
hiện tại, ngài sanh ở làng Nàlaka,
làm con của nữ Bà-la-môn Rùpasàrì
và đặt tên là Upasena (anh của
Sàriputta). Khi đến tuổi trưởng thành
và học ba tập Vệ-đà. Ngài xuất
gia sau khi nghe đức Phật thuyết pháp. Sau một
năm thọ giới, ngài nghĩ làm tăng trưởng
hột giống Thánh chủng, độ cho một
Tỷ-kheo và với Tỷ-kheo này, ngài đi đến
bậc Ðạo Sư, bậc Ðạo Sư
nghe được việc này, chỉ trích cử
chỉ hấp tấp của ngài. Rồi Upasena
suy nghĩ: 'Nếu nay, vì có một đệ tử,
ta bị bậc Ðạo Sư quở trách. Nay
cũng nhân lý do này, ta sẽ được
Ðạo Sư tán thán'. Rồi tu tập
thiền quán. Ngài chứng được quả
A-la-hán. Ngài chấp nhận lối sống
hạnh đầu đà và khuyên các
vị khác thực hành theo, và lời khuyên
của ngài rất có kết quả khiến cho Thế Tôn
chấp nhận ngài là đệ tử rất
được nhiều người biết đến.
Một Tỷ-kheo hỏi ngài cần
phải làm gì khác khi các Tỷ-kheo ở
Kosambi tranh cãi nhau và có nạn phá
hòa hợp Tăng. Upasena dạy Tỷ-kheo ấy
như sau:
577. Xứ viễn ly, không
ồn,
Chỗ thú rừng thường
trú,
Tỷ-kheo dọn sàng tọa,
Tu học hạnh tịnh cư.
578. Từ những đống
rác rưới,
Từ một phần, xa lộ,
Làm Y Tăng-già-lê,
Mang áo cũ sờn mòn.
579. Với tâm tư hạ mình,
Tiếp tục đi từng nhà,
Tỷ-kheo sống khất thực,
Căn hộ, khéo chế ngự.
580. Bằng lòng món ăn
thô,
Không tìm nhiều vị khác;
Nếu tham đắm các vị,
Ý không vui tu thiền.
581. Ít dục và biết đủ,
Ẩn sĩ sống viễn ly,
Không thân cận cả
hai,
Tại gia và xuất gia.
582. Như kẻ ngu, người
câm,
Hãy tỏ mình như
vậy,
Bậc trí giữa chúng
Tăng,
Chớ có giảng quá
dài.
383. Chớ có chỉ trích
ai,
Hãy tránh làm hại
ai,
Chế ngự trong giới bổn,
Tiết độ trong ăn uống.
584. Khéo nắm giữ các
tướng,
Thiện xảo tâm diễn khởi,
Chú tâm vào tịnh
chỉ,
Ðúng thời tu thiền quán.
585. Ðủ tinh tấn nhẫn
nại,
Luôn chuyên chú bổn
phận,
Chưa đạt được
khổ diệt,
Kẻ trí tin tưởng
tiến.
586. Tỷ-kheo muốn thanh tịnh,
Sống nếp sống như vậy,
Mọi lậu hoặc đoạn
tận,
Chứng được tối
tịch tịnh.
Như vậy vị Trưởng lão,
trong khi giảng dạy vị Tỷ-kheo, nêu rõ quả
chứng của mình và nói lên chánh
trí.
(CCXXXIX) Gotama
(Thera. 61)
Sanh ở Sàvatthi trước
khi đức Phật ra đời, trong một gia
đình Bà-la-môn từ Udicca. Ngài
lớn lên, rất giỏi các tập Vệ đà
và là một vị hùng biện vô địch.
Rồi Thế Tôn ra đời,
chuyển bánh xe pháp sau khi hóa độ Yasa
với các người bạn, đã đi
đến Sàvatthi theo lời mời khẩn thiết
của Anàthapindika (Cấp-cô-độc)
Bà-la-môn Gotama thấy Thế Tôn, nghe pháp
và xin xuất gia. Theo chỉ giáo của bậc
Ðạo Sư, ngài được một Tỷ-kheo
độ cho xuất gia, và được chứng
quả A-la-hán trong khi đang cạo tóc. Sau
khi sống một thời gian dài ở nước
Kosala, ngài trở về Sàvatthi. Nhiều bà
con của ngài, một số Bà-la-môn nổi
tiếng đến viếng ngài và hỏi ngài những
giáo lý chỉ đạo nào là phổ
thông mà ngài nghĩ là cần phải
thực hành. Ngài nói với họ như sau:
587. Hãy biết hạnh phúc
mình,
Quan sát lời nghe giảng,
Ðây cái gì thích
hợp,
Sa-môn hạnh mình theo.
588. Bạn kẻ thiện trong đạo,
Hành học pháp rộng lớn,
Khéo nghe bậc Ðạo
Sư,
Ðây hợp Sa-môn hạnh.
589. Với tâm kính chư
Phật,
Trọng Chánh pháp như thật,
Và mến quý chư Tăng,
Ðây hợp Sa-môn đạo.
590. Giữ uy nghi, đi lại,
Mạng sống tịnh, không
chê,
Tư tưởng khéo ổn
định,
Ðây hợp Sa-môn đạo.
591. Ðiều làm hay không
làm,
Uy nghi được ái kính,
An trú tăng thượng
tâm,
Ðây hợp Sa-môn đạo.
592. Sàng tọa tại rừng
núi,
Xa vắng ít ồn ào,
Thân cận bậc Mâu-ni,
Ðây hợp Sa-môn đạo
593. Giới hạnh và học nhiều,
Như thật nghiên cứu
pháp,
Thiền quán những sự thật,
Ðây hợp Sa-môn đạo.
594. Tu quán trên vô thường,
Tưởng vô ngã, bất
tịnh,
Không ưa thích tục
sự,
Ðây hợp Sa-môn đạo.
595. Tu tập các Giác chi,
Thần túc, căn là
lực,
Thu Chánh đạo Tám
ngành,
Ðây hợp Sa-môn đạo.
596. Mâu-ni bỏ khát ái,
Ðập tan gốc lậu
hoặc,
Hãy an trú giải thoát,
Ðây hợp Sa-môn đạo.
Như vậy, ngài tán thán
các hạnh thích hợp với đời sống
một ẩn sĩ, đề cao khả năng của Tăng
chúng, và chỉ rõ sự bất lực
của một ẩn sĩ không theo Chánh pháp.
Rồi các Bà-la-môn
ấy hoàn toàn chấp nhận giới luật,
được an trú trong Chánh pháp.
[ ^ ]
Chương
XI
-ooOoo-
Phẩm Mười Một
Kệ
(CCXL) Sankicca
(Thera. 62)
Trong thời đức Phật
hiện tại, ngài sanh trong một gia đình
Bà-la-môn nổi tiếng. Mẹ ngài chết khi sanh
ngài, và ngài được cứu sống,
chưa bị đốt cháy trên giàn
hỏa. Vì rằng sự sống của một
hữu tình trong đời sống cuối cùng
không thể chết được, trước khi chứng
quả A-la-hán, dầu cho có rơi từ núi
Sineru (Tu-di). Khi lên bảy tuổi, được
nghe mẹ ngài chết khi sanh ngài; ngài cảm
thấy xúc động và phát nguyện xuất
gia. Ngài được đưa tới gặp
Tôn giả Sàriputta, và ngài chứng
được quả A-la-hán, khi tóc ngài
đang bị cạo. Ngài dâng đời
sống ngài cho các tên cướp như
thế nào để ba ngàn Tỷ-kheo được nói
đến trong tập sớ Dhammapàla.
Rồi một cư sĩ muốn
hầu hạ ngài, yêu cầu ngài sống
gần chỗ vị ấy đang ở, nói như
sau:
597. Lợi ích ngài
là gì,
Ở rừng sâu, mùa mưa,
Như U-ju-hà-na,
Hỡi này ngài thân
mến!
Hang gió đẹp cho ngài,
Sống một mình, tu thiền.
Rồi vị Trưởng lão,
để nêu rõ vẻ đẹp của núi
rừng và sự thật khác, trả lời
như sau:
598. Như gió mùa
thổi mây,
Trong thời tiết mùa mưa,
Tưởng ta bay tràn khắp,
Tưởng dung hòa viễn
ly.
599. Quạ đen, từ trứng
sinh,
Lấy nghĩa địa làm
nhà,
Khiến ta khởi lên niệm,
Viễn ly đối với
thân.
600. Người kẻ khác
không hộ,
Người không hộ kẻ
khác,
Tỷ-kheo, sống an lạc,
Không kỳ vọng các dục.
601. Tảng đá có
nước trong,
Chỗ hội họp quy tụ,
Các loài vượn mặt
đen,
Các loài nai nhút nhát,
Dưới màn hoa nước
chảy,
Tảng đá ấy ta thích.
602. Ta sống trong rừng núi,
Trong hang động khe đá,
Tại trú xứ xa vắng,
Chỗ thú rừng qua lại.
603. Hãy hại chúng, giết
chúng!.
Hãy làm khổ hữu tình,
Ta không biết niệm ấy,
Phi Thánh liên hệ sân,
Ðạo Sư, ta hầu hạ,
Lời Phật dạy làm
xong,
Gánh nặng đặt xuống
thấp,
Gốc sanh hữu, nhổ sạch.
604. Vì đích gì,
xuất gia,
Bỏ nhà sống không
nhà,
Mục đích ấy,
ta đạt,
Mọi kiết sử tận diệt.
605. Ta không thích thú
chết,
Ta không thích thú sống,
Ta chờ thời gian đến,
Như thợ làm việc xong.
606. Ta không thích thú
chết,
Ta không thích thú sống,
Ta chờ thời gian đến,
Tỉnh giác, giữa chánh
niệm.
[ ^ ]
Chương
XII
-ooOoo-
Phẩm Mười Hai
Kệ
(CCXLI) Sìlavat
(Thera. 63)
Trong thời đức Phật
hiện tại, ngài sanh ở Ràjagaha (Vương
Xá), con của vua Bimbisàra (Tần-bà-ta-la),
và được đặt tên là Sìlavat.
Khi đến tuổi trưởng thành, anh ngài
là Ajàtasattu làm vua, muốn giết ngài,
nhưng không giết được, vì ngài
sống đời sống cuối cùng và
chưa chứng quả A-la-hán. Rồi Thế Tôn,
biết sự việc đã xảy ra bảo Mahà
Maggallàna đi mời ngài đến. Hoàng
tử Sìlavat xuống voi, thích nghi giáo
lý với tâm tánh của ngài, ngài khởi
lòng tin, xuất gia, và sau một thời gian,
chứng quả A-la-hán. Rồi ngài ở Kosala,
và khi Ajàtasattu sai những người
đến giết ngài, ngài dạy cho những người
ấy, hóa độ và những người
ấy xuất gia học đạo. Và ngài giảng
cho họ như sau:
608. Ở đây hãy
học giới,
Khéo học tập ở đời,
Giới thành đạt toàn
diện,
Ðưa đến mọi thành
công.
609. Bậc trí hãy hộ
giới,
Nếu kỳ vọng ba lạc,
Ðược danh xưng tài
sản,
Sau chết, hưởng thiên lạc.
610. Người trì giới,
tự chế,
Ðược nhiều người
bạn tốt,
Kẻ ác giới, hành
ác,
Mất mát các bạn
bè.
611. Người ác giới chỉ
được,
Ác danh, không tài sản,
Bậc trì giới luôn
được
Khen danh xưng, tán thán.
612. Khởi đầu, an trú
giới,
Giới là mẹ thiện pháp,
Giới đứng đầu
mọi pháp,
Vậy hãy trong sạch giới.
613. Giới hạn chế, phòng
ngự,
Làm sáng chói tâm
tư,
Là đầu bến chư
Phật,
Vậy hãy trong sạch giới
614. Giới sức mạnh vô
song,
Giới, binh khí tối thượng,
Giới, trang sức đệ nhất,
Giới áo giáp hy hữu.
615. Giới, đầu cầu
cường dại,
Giới, hương thơm vô
thượng,
Giới, hương thoa đệ
nhất,
Nhờ giới, bay bốn phương.
616. Giới, tư lương cao
nhất,
Giới, hành trang tối thượng,
Giới vận tải, đệ nhất,
Nhờ giới, đi bốn
phương.
617. Ðây, kẻ xấu
bị trách,
Sau chết sanh đọa xứ,
Kẻ ngu không định
giới,
Ưu tư khắp các chỗ.
618. Ðây bậc tốt
được khen,
Sau chết sanh thoát giải,
Kẻ trí khéo định
giỏi,
Hân hoan, khắp các chỗ.
619. Ở đây, giới tối
cao,
Nhưng trí tuệ, tối thượng,
Giữa loài Người, loài
Trời,
Bậc giới tuệ thắng lợi.
(CCXLII) Sunìta
(Thera. 63)
Trong thời đức Phật
hiện tại, ngài sanh trong một gia đình
đổ rác, và sống với nghề đi
quét đường, không đủ tiền để
sống khỏi đói. Trong canh một Thế Tôn
khởi lòng từ mẫn nhìn khắp thế giới
và thấy trong tâm của Sunìta, có
đủ điều kiện để chứng quả A-la-hán,
chói sáng như ngọn đèn trong cái
ghè. Khi trời đã mới sáng, Thế Tôn
dậy, đắp y cầm y bát, với một
số Tỷ-kheo tùy tùng, đi đến Vương
Xá để khất thực và tìm đến
con đường Sunìta đang quét
dọn. Sunìta đang quét các đống
rác gom lại từng đống, đổ
vào thúng rồi gánh mang đi. Khi ngài
thấy bậc Ðạo Sư đi đến với
đoàn tùy tùng, ngài cảm thấy
hoan hỷ xúc động không tìm được
chỗ để ẩn núp, ngài đứng sát
như mắc dính vào vách tường và
chấp tay vái chào. Khi đức Bổn Sư
đến gần, đức Phật với lời rất
dịu ngọt hỏi ngài sao cam phận sống đời
sống khổ sở như vậy, và có thể
xuất gia được không? Ngài hoan hỷ chấp
nhận và được đức Phật
độ cho xuất gia với câu: 'Hãy đến
này các Tỷ-kheo!'. Bậc Ðạo Sư đưa
ngài về tịnh xá, dạy cho ngài một
phương pháp thiền quán. Ngài chứng
được tám thiền chứng và năm
thắng trí. Phát triển thiền quán, ngài
chứng được thắng trí thứ sáu.
Rồi Sakka và các Phạm thiên đến
đảnh lễ ngài đã được
ghi như sau:
Rồi bảy trăm chư
Thiên,
Huy hoàng đi đến gần,
Tùy tùng đấng
Phạm Thiên,
Và Thiên chủ Ðế
Thích,
Họ sung sướng đảnh
lễ,
Trưởng lão Sunìta,
Bậc chiến thắng cao sang,
Vượt qua già và chết!
Thế Tôn thấy ngài được
chư Thiên đoanh vây, Thế Tôn mỉm cười
và khen ngài, thuyết giảng cho ngài với
câu kệ: 'Với giới sống Phạm hạnh' (kệ
số 631). Rồi nhiều Tỷ-kheo, muốn rống tiếng
con sư tử hỏi ngài sanh ra từ gia đình
nào, vì sao lại xuất gia, làm thế nào
để chứng quả, ngài trả lời cho họ với
những bài kệ như sau:
620. Ta sanh nhà hạ
tiện,
Nghèo khổ không đủ
ăn,
Nghề ta rất hèn hạ,
Ta kẻ quét hoa rơi.
621. Ta bị người nhàm
chán,
Miệt thị và khinh bỉ,
Hạ mình xuống thật
thấp,
Ta kính lễ quần chúng.
622. Rồi ta thấy đức
Phật,
Thượng thủ chúng Tỷ-kheo,
Bậc Ðại Hùng vào
thành,
Magadha tối thượng.
623. Ta quăng bỏ đòn
gánh,
Ðến gần để đảnh
lễ,
Với lòng thương xót
ta,
Bậc Thượng nhân đứng
lại.
624. Lễ chân Ðạo
Sư xong,
Ta đứng liền một bên,
Ta xin được xuất gia,
Bậc tối thượng mọi
loài.
Bậc Ðạo Sư từ
bi,
Từ mẫn khắp thế giới,
Nói: 'Hãy đến Tỷ-kheo',
Ðại giới, ta thọ vậy.
Rồi ta sống trong rừng,
Một mình không biếng nhác,
Ta theo lời Ðạo Sư,
Như bậc chiến thắng dạy.
Trong đêm canh thứ nhất,
Ta nhớ các đời trước,
Trong đếm canh chặn giữa,
Thiên nhãn ta thanh tịnh,
Trong đếm canh cuối cùng,
Ta phá khối si ám.
Khi đêm vừa mở rộng,
Rạng đông, trời ló
rạng,
Ðế Thích, Phạm Thiên
đến,
Chấp tay đảnh lễ
ta,
Ðảnh lễ bậc Thượng
sanh!
Ðảnh lễ bậc Thượng
nhân!
Ngài đoạn tận lậu
hoặc,
Ngài xứng đáng
cúng dường.
Bậc Ðạo Sư thấy
ta,
Ðứng đầu chúng
chư Thiên,
Nở ra một nụ cười,
Nói với ta nghĩa này.
Nhờ khổ hạnh, Phạm hạnh,
Nhờ tự chế, điều phục,
Nhờ vậy, là Phạm
chí,
Ðây, Phạm chí tối
thượng.
[ ^ ]
Chương
XIII
-ooOoo-
Phẩm Mười Ba
Kệ
(CCXLIII) Sona-Kolivisa
(Thera. 65)
Trong thời đức Phật
hiện tại, ngài sanh tại Campà, trong gia
đình một hội viên của Hội đồng
thành phố nổi tiếng. Từ khi ngài sắp
được sanh, tài sản lớn của phụ
thân được tăng trưởng, và
khi ngài được sanh, cả thành phố
tổ chức hội lễ lớn. Vì ngài bố
thí cúng dường cho một vị Ðộc
giác Phật trong đời trước, nên
đời này ngài có một thân hình
như bằng vàng mịn và đặc biệt
mềm mại, và ngài được gọi là
Sona (vàng). Dưới chân và trên
bàn tay của ngài có lông mịn màu
vàng mọc lên, và ngài được nuôi
dưỡng trong giàu sang xa hoa, có đến ba
tòa lâu đài thích hợp cho từng
mùa.
Khi bậc Ðạo Sư giác
ngộ và chuyển bánh xe Pháp ở Ràjagaha
(Vương Xá). Vua Bimbisàra cho mời Sona
đến, ngài đến với một số đông
tùy tùng, nghe bậc Ðạo Sư thuyết
pháp, khởi lòng tin và được phép
cha mẹ cho xuất gia. Ngài nhận từ bậc
Ðạo Sư một đề tài tu tập, nhưng
không thể định tâm vì có liên
lạc với đông người khi sống ở
trong rừng. Ngài nghĩ rằng thân ngài
quá được cung dưỡng để đạt
được hạnh phúc, và đời
sống ẩn sĩ làm thân mệt mỏi, ngài
vượt lên trên những đau đớn
vì chân ngài bị sưng khi ngài tập
đi kinh hành, nhưng dầu ngài hết sức
tinh tấn, ngài chưa thành đạt được
quả chứng. Ngài nghĩ: "Ta không thể thành
đạt con đường và quả vị
thì sống xuất gia để làm gì?
Tốt hơn ta hoàn tục và làm các
công đức!'. Thế Tôn biết được
tâm tư ngài, dạy cho ngài bài học
của cây đàn, phải làm lắng
dịu nhiệt lực với tu tập tịnh chỉ.
Ðược chỉ dạy, ngài đi đến
núi Linh Thứu và sau một thời gian, ngài
chứng quả A-la-hán. Suy nghĩ trên thành
tựu của mình, ngài tuyên bố chánh
trí ngài như sau:
632. Người xưa, cao
trong nước,
Phục vụ vua Ăng-ga,
Nay lại cao trong pháp,
So-na vượt đau khổ.
633. Năm được cắt,
năm bỏ,
Năm thượng pháp tu
tập,
Tỷ-kheo vượt năm gút,
Ðược gọi vượt bộc
lưu.
634. Tỷ-kheo tánh kiêu ngoa,
Phóng dật, ưa vị
ngoài,
Giới, thiền định, trí
tuệ,
Không đi đến viên
mãn.
635. Việc phải làm, quăng
bỏ,
Không phải việc, lại làm,
Kẻ kiêu ngoa phóng dật,
Lậu hoặc được tăng
trưởng.
636. Những ai khéo tinh cần,
Thường tu tập niệm thân,
Không phải việc, không làm,
Kiên trì việc nên làm.
Bậc chánh niệm tỉnh giác,
Lậu hoăc đi đến
diệt.
637. Trên đường thẳng
được thuyết,
Hãy bước, chớ quanh
co,
Hãy tự mình trách
mình,
Hãy đem Niết-bàn lại,
638. Khi tinh cần nỗ lực,
Căng thẳng, vượt mức
độ,
Thế gian, Vô Thượng Sư,
Dùng ví dụ chiếc đàn,
Bậc pháp nhãn, có
mắt,
Ngài thuyết pháp cho ta.
639. Ta nghe lời Ngài giảng,
Lạc trú lời giảng
dạy,
Bình tĩnh, ta thực hành,
Ðể đạt đích
tối thượng,
Ba minh ta đạt được,
Lời Phật dạy làm
xong.
640. Ai chuyên nhất xuất
ly,
Tâm tư hướng viễn
ly,
Ai chuyên nhất vô sân,
Diệt trừ các chấp thủ.
641. Ai chuyên nhất ái
diệt,
Tâm tư không si mê,
Thấy sanh khởi các xứ,
Tâm được khéo
giải thoát.
642. Vị Tỷ-kheo tâm tịnh,
Ðược giải thoát
chơn chánh,
Không chất chứa việc
làm,
Ðiều phải làm không
có.
643. Như một hòn đá
tảng,
Không bị gió lay động,
Cũng vậy toàn bộ
phận,
Sắc, vị, thanh, hương,
xúc.
644. Pháp ái bất khả
ái,
Không động, người
như vậy,
Tâm trú, không hệ lụy,
Tùy quán, sự hoại
diệt.
[ ^ ]
Chương
XIV
-ooOoo-
Phẩm Mười Bốn
Kệ
(CCXLIV) Revata
(Thera. 67)
Các bài kệ của vị Trưởng
lão này đã được đề cập
trong phẩm một các bài kệ trước (XLII).
Khi đến già, một hôm ngài đi đến
yết kiến đức Phật và trú ở Sàvatthi,
trong một ngôi rừng. Cảnh sát đến,
đuổi bắt kẻ trộm, kẻ trộm quăng
đồ ăn trộm gần ngài rồi bỏ
chạy, các cảnh sát chạy đến, thấy
đồ ăn trộm, liền bắt ngài dẫn
đến vua Pasenadi. Vua truyền thả ngài và
hỏi có phải ngài đã lấy
trộm đồ? Ngài thuyết pháp nói lên
sự kiện ngài không có thể làm một
sự việc như vậy và nói những bài
kệ như sau:
645. Từ khi xa xuất
gia,
Bỏ nhà, sống không
nhà,
Ta không biết tư duy,
Phi thánh, liên hệ sân.
646. Hay làm hại, sát
hại,
Hay làm khổ hữu tình,
Ta không biết tư duy,
Trong thời gian dài này.
647. Và ta biết lòng từ,
Vô lượng khéo tu tập,
Ta thứ lớp tích lũy,
Như lời đức Phật
dạy.
648. Là bạn thân tất
cả,
Từ mẫn mọi hữu tình,
Ta tu tập tâm từ,
Luôn vui, không sân hận.
649. Ta thích thú với tâm,
Không động, không
dao động,
Ta tu tập Phạm trú,
Ðược bậc thiện hành
trì.
650. Ta đạt được
vô tầm,
Ðệ tử bậc Chánh
giác,
Với im lặng bậc Thánh,
Ta trực diện đạt được.
651. Như núi đá
không động,
Ðứng vững khéo
an trú,
Cũng vậy là Tỷ-kheo,
Ðạt được si
mê diệt,
Vị ấy như ngọn núi,
Không gì làm dao động.
652. Con người không uế nhiễm,
Luôn tìm sự trong sạch,
Tội nhẹ như đầu
tóc,
Xem nặng như mây khói.
653. Như thành trì biên
địa,
Phòng hộ cả trong ngoài,
Hãy phòng hộ tự
ngã,
Sát-na không bỏ qua.
654. Ta không thích thú
chết,
Ta không thích thú sống,
Ta chờ thời gian đến,
Như thợ làm việc xong.
655. Ta không thích thú
chết,
Ta không thích thú sống,
Ta chờ thời gian đến,
Tỉnh giác, giữ chánh
niệm.
656. Ðạo Sư, ta hầu
hạ,
Lời Phật dạy làm
xong,
Gánh nặng, đặt xuống
thấp,
Gốc sanh hữu, nhổ sạch.
657. Vì đích gì
xuất gia,
Bỏ nhà, sống không
nhà,
Mục đích ấy,
ta đạt,
Mọi kiết sử diệt tận.
658. Nỗ lực, chớ phóng
dật,
Ðấy lời ta giáo
giới,
Ta sẽ nhập Niết-bàn,
Ta thoát mọi sanh y.
(CCXLV) Godatta
(Thera. 67)
Trong thời đức Phật
hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, trong một
gia đình lữ hành và đặt tên
là Godatta. Sau khi cha chết, ngài sắp đặt
nhà cửa, đem theo năm trăm cỗ xe hàng
hóa, đi chỗ này chỗ khác, sống bằng
nghề buôn bán. Một hôm, một con bò
ngã qụy xuống đường, trong khi kéo
xe, và các người làm công của
ngài không thể đỡ con bò đứng
dậy được, ngài tự đi đến
đánh con bò rất nặng. Con bò tức
giận vì sự tàn bạo của ngài
nói lên giọng người: 'Này Godatta,
đã lâu ta đem tất cả sức
lực ta kéo gánh nặng cho ông, nhưng
nay ta không đủ sức kéo nên phải
ngã quỵ xuống, ông đánh đập
ta tàn nhẫn. Vậy chỗ nào ông tái
sanh, ta cũng sẽ sanh làm kẻ thù của
ông để làm hại ông!'. Ngài nghe
vậy rất lấy làm xúc động,
tự nghĩ: 'Sao lại sống làm hại các
loài hữu tình như vậy?' Rồi ngài
từ bỏ tất cả tài sản, xin xuất
gia với một vị Trưởng lão, và sau
một thời gian chứng quả A-la-hán.
Một hôm, khi ngài đang
hưởng thọ sự an lạc giải thoát, ngài
thuyết pháp cho chúng xuất gia và tại
gia về các pháp thế gian:
659. Như con bò giống
tốt,
Ðược huấn luyện tốt
đẹp,
Bị cột vào gánh
nặng,
Mang gánh nặng kéo đi,
Bị áp đè quá
nặng,
Không lật đổ gánh
nặng.
660. Cũng vậy, ai nhiều tuệ,
Như nước ở trong biển,
Không khinh miệt người khác,
Thánh pháp là như
vậy,
Ðối với các hữu
tình.
661. Sống trong vòng thời
gian,
Bị thời gian hàng phục,
Hữu, phi hữu chi phối,
Loài Người chịu đau
khổ,
Con cháu họ sầu ưu,
Chính ngay trong đời này.
662. Hân hoan, khi được
lạc,
Gặp khổ lại chán chường,
Kẻ ngu bị não hại,
Chi phối cả hai đường,
Không thấy được
như thật.
663. Những ai giữa khổ lạc,
Người dệt không chi phối,
Ðứng vững như cột
cửa,
Không hân hoan chán chường
664. Ðối với được
hay mất,
Với danh với không danh,
Ðối với chê hay
khen,
Với khổ hay với lạc.
665. Chúng tôi dính chỗ
nào,
Như giọt nước trên sen,
Bậc anh hùng mọi chỗ,
Ðược lạc, không
bị bại.
666. Người đúng pháp
không được,
Người được, không
đúng pháp,
Ðúng pháp nhưng
không được,
Hơn được không
đúng pháp.
667. Người có danh, ít
trí
Người có trí, không
danh,
Không danh nhưng có trí,
Hơn ít trí, có
danh.
668. Ðược khen bởi kẻ
ngu,
Bị chê bởi kẻ trí,
Ðược kẻ trí
chê bai,
Hơn được người
ngu khen.
669. Lạc do dục đem lại,
Khổ do viễn ly sanh,
Khổ do viễn ly sanh
Hơn lạc do dục sanh.
670. Làm phi pháp để
sống,
Làm đúng pháp,
có chết,
Làm đúng pháp,
có chết,
Hơn sống, làm phi pháp.
671. Ai đoạn dục phẫn
nộ,
Tâm tịnh hữu, phi hữu
Sống ở đời, không
ái,
Không thương yêu ghét
bỏ.
672. Sau khi tu Giác chi,
Các căn và các
lực,
Ðạt tịch tịnh tối
thắng,
Chứng Niết-bàn vô lậu.
[ ^ ]
Chương
XV
-ooOoo-
Phẩm Mười Lăm
Kệ
(CCXLVI) Anna-Kondanna
(Thera. 69)
Sanh trước Thế Tôn tại
làng Donavatthu, không xa Kapilavatthu bao nhiêu,
trong một gia đình Bà-la-môn rất
giàu có, ngài được gọi với tên
gia tộc là Kondanna. Lớn lên, ngài
biết ba tập Vệ-đà và giỏi về đoán
tướng. Khi bậc Bồ-tát mới sanh, ngài
là một trong tám vị Bà-la-môn được
mời đến đoán tướng. Dầu ngài
mới học nghề, ngài thấy các tướng của
bậc Ðại nhân trên đứa bé
và nói, vị này sau sẽ thành Phật.
Rồi ngài sống, chờ đợi vị Bồ-tát
xuất gia. Khi vị Bồ-tát xuất gia, lúc
hai mươi chín tuổi, Kondanna được
nghe tin, liền xuất gia với bốn vị Bà-la-môn
đoán tướng khác, như Vappa v.v...
và trong sáu năm sống ở Uruvelà,
gần vị Bồ-tát, khi vị Bồ-tát
đang tu khổ hạnh. Lúc vị Bồ-tát
không tu khổ hạnh nữa, các vị này
chán chường bỏ đi đến Isipatana
(chư Tiên đọa xứ). Rồi đức
Phật đến Isipatana, thuyết kinh Chuyển Pháp
Luân cho họ, và Kondanna cùng hàng vạn
Phạm Thiên chúng chứng được Sơ
quả. Ðến ngày thứ năm, nhờ bài
kinh 'Vô Ngã Tướng', Kondanna chứng
quả A-la-hán. Bậc Ðạo Sư trong buổi
họp Tăng chúng ở tinh xá Kỳ Viên, đã
xác chứng ngài là bậc Ðệ nhất
trong các hàng Tăng chúng Tỷ-kheo (Xem. Ang.
i. 26). Và trong một trường hợp khi Kondanna
giảng về Bốn sự thật, đề cập
đến ba tướng: Vô thường, Khổ, Vô
ngã, với những phương pháp sai biệt,
dựa trên Niết-bàn và giảng với sự
lưu loát của đức Phật. Bài
giảng ảnh hưởng mạnh mẽ đến Sakka
(Ðế Thích) khiến vị này thốt lên
những bài kệ:
673. Ta bội phần hân
hoan,
Ðược nghe pháp vị
lớn,
Pháp được giảng
ly tham,
Hoàn toàn không chấp
thủ.
Trong một trường hợp khác,
thấy tâm tư của một số người
còn bị chi phối nặng nề bởi tà kiến,
nên ngài nói lên bài kệ như sau:
674. Trên thế giới đất
tròn,
Nhiều màu sắc hình tướng,
Làm say đắm tâm
tư,
Ta nghĩ là như vậy,
Tướng tịnh rất hấp
dẫn,
Liên hệ đến tham dục.
675. Như gió thổi tung bụi,
Ðược mây trấn
áp xuống,
Các tư duy lắng dịu,
Khi thấy, với trí tuệ.
676. Mọi hành là vô thường
Khi thấy với trí tuệ,
Vị ấy nhàm chán
khổ,
Ðây con đường
đến tịnh.
677. Mọi hành là đau
khổ,
Khi thấy với trí tuệ,
Vị ấy nhàm chán
khổ,
Ðây con đường
đến tịnh.
678. Mọi pháp là vô ngã,
Khi thấy với trí tuệ,
Vị ấy nhàm chán
khổ,
Ðây con đường
đến tịnh.
Rồi ngài nêu rõ, ngài
đã chứng được thiền quán ấy,
và nói lên chánh trí, ngài nói
rằng:
679. Trưởng lão
Kondanna,
Giác ngộ bởi giác
ngộ,
Ðã sắc bén thoát
ly,
Ðoạn tận sanh và
chết,
Và đời sống Phạm
hạnh,
Ðược hoàn toàn
viên mãn.
680. Hoặc bộc lưu, bẫy
mồi,
Hoặc cột trụ vững chắc,
Ngọn núi khó phá hoại,
Sau khi chặt phá xong,
Cột trụ và bẫy mồi,
Chặt tảng đá khó
phá,
Hành thiền, vượt bờ
kia,
Thoát khỏi Ma trói buộc.
681. Tỷ-kheo hoảng hốt động,
Ði đến các bạn
ác,
Chìm trong bộc lưu lớn,
Bị sóng lớn ngập
tràn.
682. Bậc trí không hoảng
hốt,
Không dao động, thận
trọng,
Các căn khéo chế ngự,
Làm bạn với kẻ thiện,
Bậc trí tuệ như vậy,
Có thể đoạn đau
khổ.
683. Một người đen,
gầy mòn,
Yếu ốm, đầy đường
gân,
Tiết độ trong ăn uống,
Tâm tư không ưa não.
683. Trong rừng núi rộng
lớn,
Bị muỗi ruồi đốt
cắn,
Như con voi lâm trận,
Ta chánh niệm, chịu đựng.
684. Ta không thích thú
chết,
Ta không thích thú sống,
Ta chờ thời gian đến,
Như thợ làm việc xong.
685. Ta không thích thú
chết,
Ta không thích thú sống,
Ta chờ thời gian đến,
Tỉnh giác, giữ chánh
niệm.
686. Ðạo Sư, ta hầu
hạ,
Lời Phật dạy, làm
xong,
Gánh nặng, đặt xuống
thấp,
Gốc sanh hữu, nhổ sạch.
687. Vì mục đích
xuất gia,
Bỏ nhà, sống không
nhà,
Mục đích ấy,
ta đạt,
Ta cần gì ở rừng.
(CCXLVII) Udàyin
(Thera. 69)
Trong thời đức Phật
tại thế, ngài sanh ở Kapilavatthu, trong một
gia đình Bà-la-môn. Ngài thấy
được uy lực của đức Phật
khi đức Phật thăm gia đình ngài.
Ngài khởi lòng tin, xuất gia và sau một
thời gian, ngài thành bậc A-la-hán. Nay
có đến ba vị Trưởng lão Udàyin:
con một Bộ trưởng, tên là Kàludàyin
(xem CCXXXIII), vị Bà-la-môn này và
Ðại Udàyin. Khi kinh Ví dụ con
voi được thuyết giảng, trong kinh này, con
voi Sela của vua Pasenadi được tán
thán, ngài Udàyin này cảm thấy
phấn khởi khi nghĩ đến đức Phật,
nghĩ rằng các người này chỉ tán
thán một con vật, còn ta sẽ tán thán
các đức tánh tốt đẹp của
một con voi tuyệt diệu, tức là đức Phật.
Rồi Ngài nói lên những bài kệ như
sau:
689. Ðức Phật,
sanh làm người,
Tự điều phục thiền định,
Uy nghi Phạm thiên đạo,
Hoan hỷ trong tâm tịnh.
690. Loài người đảnh
lễ Ngài,
Bậc đạt được
bờ kia,
Ðối với hết thảy
pháp,
Chư Thiên đảnh lễ
Ngài,
Như vậy ta được
nghe,
Ta là A-la-hán.
691. Vượt qua mọi kiết sử,
Từ rừng đến Niết-bàn,
Vui thoát ly các dục,
Như vàng thoát khoáng
sản.
692. Vị ấy thật như
voi,
Tuyệt luân đẹp rực
rỡ
Ðứng trên đỉnh
núi cao
Dãy trường sơn Hi-mã,
Trong mọi danh Nàga,
Ngài chân danh Vô thượng.
693. Rồi ta sẽ tán thán,
Nàga này cho người,
Nàga không làm ác,
Nên được gọi Nàga,
Từ tốn, không làm
hại,
Là hai chân Nàga.
694. Chánh niệm và tỉnh
giác,
Hai chân khác Nàga,
Voi Nàga là tín,
Ngà màu trắng là
xả
695. Chánh niệm là cổ họng,
Trí tuệ chỉ cho đầu,
Suy tầm với cái vòi,
Chỉ cho tư duy pháp.
Hòa trú là bụng
pháp,
Viễn ly ví đuôi
voi.
696. Tu thiền, thở vô lạc,
Nội tâm, khéo định
tỉnh,
Nàga đi, định
tỉnh,
Nàga đứng, định
tỉnh.
697. Nàga nằm, định
tỉnh,
Nàga ngồi, định
tỉnh,
Trong tất cả tình huống,
Nàga sống chế ngự
Ðây thành tích
Nàga.
698. Ăn đồ ăn không
tội,
Ðồ có tội không
ăn;
Ðược đồ ăn,
y phục,
Từ bỏ, không tích
trữ.
699. Kiết sử tế hay thô,
Chặt đứt mọi trói
buộc,
Chỗ nào vị ấy đi,
Bước đi, không kỳ
vọng.
700. Như sen sanh trong nước,
Lớn lên được tăng
trưởng,
Không có dính nước
ướt,
Thơm ngát, rất khả
ái.
701. Cũng vậy bậc Chánh
Giác,
Sanh và trú ở đời,
Không có dính sự
đời,
Như sen không dính nước.
702. Như đống lửa
cháy đỏ,
Không củi tự tắt
dần,
Trong than tro lắng dịu,
Ðược gọi lửa diệt tận.
703. Ví dụ, bậc trí
thuyết,
Ðể nêu rõ ý nghĩa,
Ðại Nàga sẽ hiểu,
Những gì về Nàga,
Do Nàga ấy giảng.
704. Vô tham và vô sân,
Vô si, không lậu hoặc,
Nàga từ bỏ thân,
Sẽ diệt độ Niết-bàn,
Không còn có lậu
hoặc.
[Phẩm trước][Mục
lục][Phẩm kế][
^ ]
|