|
Phẩm
XIV
-ooOoo-
Tập Ba Mươi
Kệ
(LXXI) Subhà
ở Rừng Xoài của Jivaka (Therì. 150)
Trong thời đức Phật
hiện tại, nàng sanh ở Ràjagaha (Vương
Xá), trong gia đình một Bà-la-môn
nổi tiếng. Nàng được đặt tên
là Subhà và thân nàng rất
tuyệt đẹp, nhất là về tay chân. Do vậy
nàng được gọi là Subhà (người
đẹp). Khi bậc Ðạo Sư ở Ràjagaha
(Vương Xá), nàng khởi được
lòng tin và trở thành một nữ cư
sĩ. Về sau, nàng lo nghĩ đến kiếp người,
thấy sự nguy hiểm các dục lạc, và
thấy được sự an tịnh trong nếp sống
viễn ly. Nàng xuất gia với sự hướng
dẫn của bà Mahàpajàpati, và
phát triển thiền quán, nàng chứng được
quả Bất lai.
Một hôm, một thanh niên
ăn chơi ở Ràjagaha, trong khi còn
trẻ tuổi, đứng ở nơi vườn
xoài ở Jivaka và thấy nàng đi
vào rừng để nghỉ trưa. Nó chận
đường nàng lại và xin thỏa
mãn dục lạc. Nàng dạy cho nó biết,
với nhiều bài kệ, sự nguy hiểm của dục
lạc và sự lựa chọn của nàng về
đời sống viễn ly, thuyết pháp cho chàng
thanh niên ấy. Nhưng chàng thanh niên không
có nghe nàng và vẫn đòi thỏa
mãn các dục lạc. Vị Trưởng lão
Ni, không có dùng những lời khuyên
nhủ của mình, thấy chàng ấy mê
say con mắt của nàng, liền móc một con mắt
của nàng và đưa con mắt ấy
cho chàng và nói: 'Ðây là con
mắt có tội của nàng'. Chàng thanh
niên hoảng sợ, khủng khiếp và xin lỗi nàng.
Nàng đi đến trước mặt vị Ðạo
Sư, và khi thấy Ngài, con mắt của
nàng được chữa lành như cũ.
Do vậy, trước mặt Thế Tôn, nàng cảm
xúc rung động, hoan hỷ sung sướng. Bậc
Ðạo Sư biết được tâm trạng
của nàng, dạy nàng và giúp nàng
đạt được quả vị cao nhất.
Dằn lòng sự vui sướng của nàng,
nàng phát triển thiền quán, chứng được
quả A-la-hán, với hiểu biết ý nghĩa và hiểu
về pháp. Sau đó, an trú trong an lạc
Niết bàn, nàng nghĩ đến những gì
nàng chứng được và nói lên
câu chuyện của nàng với chàng thanh niên
ăn chơi bằng những câu kệ như sau:
366. Trong rừng xoài
tươi đẹp,
Của ông Jivaka,
Tỷ-kheo-ni Subhà,
Ðang bộ hành đi
tới,
Có chàng trẻ ăn
chơi
Ngăn chặn Subhà lại
Nàng nói lên người
ấy
Những lời nói như
sau.
367. Ta đã xúc phạm
gì,
Ðể chàng đứng
chận tôi?
Thật là không xứng
đáng
Ðể một người đàn
ông
Xúc phạm nữ xuất
gia,
Hỡi Hiền giả, hiểu cho.
368. Bậc Tôn sư ta dạy,
Chính học pháp như vậy,
Ðược bậc Thiện Thệ
thuyết,
Là con đường thanh
tịnh,
Không có cấu uế nào.
Sao chàng đứng chận
ta.
369. Tâm ta thật thanh tịnh,
Tâm người không thanh
tịnh,
Tâm người đầy
tham ái,
Ta không tham, không uế,
Mọi nơi, ý giải thoát
Sao chàng đứng chận
ta?
370. Nàng trẻ, không ác
pháp,
Nàng xuất gia làm gì?
Hãy bỏ áo Cà
sa!
Ðến, lạc hưởng rừng
hoa.
371. Toàn hoa tỏa hương
ngạt,
Cây rưới bụi muôn
hoa,
Xem tuổi xuân tuổi trẻ,
Là thời tiết hạnh phúc,
Hãy đến thọ hưởng
lạc
Trong rừng nở trăm hoa.
372. Con đường dưới
vòm hoa,
Xào xạc gió lay động,
Nàng được lạc
thú gì,
Khi một mình vào rừng.
373. Trú xứ chúng thú
dữ,
Vang tiếng voi rống dục,
Rừng lớn trống không
người,
Nhiều hiện tượng hãi hùng,
Nàng lại muốn đi
vào,
Không một ai bạn đường?
374. Như búp bê vàng
chói,
Giống tiên nữ vườn
trời,
Nàng đắp vải Kàsi,
Ðẹp mịn, sáng chói
nàng.
375. Ta sống nô lệ nàng,
Nếu nàng sống ở rừng,
Không một sanh loại nào,
Mà ta yêu hơn nàng,
Hỡi nàng mắt dịu
hiền,
Như mắt Kin-na-rì.
376. Nếu nàng theo lời ta,
Nàng sẽ được
hạnh phúc,
Hạnh phúc sống gia đình,
Sống lâu đài che
gió,
Sống có các nữ
nhân,
Hầu hạ phục vụ
nàng.
377. Mang lụa mịn Kàsi,
Dùng vòng hoa, sáp đỏ,
Ta làm nhiều trang sức,
Vàng châu báu ngọc ngà.
378. Nàng leo lên giường
quý,
Gỗ chiên đàn, lỏi
thơm,
Che màn đẹp tinh sạch,
Trải nệm mới lông dài.
379. Như sen vươn từ
nước,
Phục vụ cho phi nhân,
Như vậy nàng Phạm
hạnh,
Sống toàn hảo đến
già.
380. Ở đây là cái
gì,
Chàng xem là tuyệt diệu,
Trong nghĩa địa ứ
đầy,
Tràn đầy những
thân xác,
Chàng được thấy
cái gì,
Trong thân xác hủy hoại,
Khi chàng thốt ra lời,
Si mê, vô ý thức?
381. Chính mắt như sơn
dương,
Như Kinri giữa rừng,
Ta thấy con mắt nàng,
Dục lạc liền tăng trưởng.
382. Trong gương mặt không
uế,
Sáng chói như vàng
ròng,
Chẳng khác gì hoa sen,
Ðặt chính giữa đài
sen,
Thấy con mắt của nàng,
Lòng dục liền tăng trưởng.
383. Tuy xa ta vẫn nhớ,
Lông mi dài tuyệt đẹp,
Không gì ta yêu hơn,
Mắt Kinri của nàng.
384. Chàng muốn dùng
phi đạo,
Tìm mặt trăng mà
chơi,
Muốn nhảy qua Mê-ru,
Muốn tìm đến con Phật.
385. Trên đời này,
cõi trời,
Ta nay không tham ái.
Ta không biết người ấy,
Người ấy như thế nào,
Ðường đạo đã
giết sạch,
Giết hại tận gốc rễ.
386. Quăng đi như hố
than,
Than hừng đang cháy
đỏ,
Ðánh giá như thuốc
độc,
Ðang xâm nhập đến
thân,
Ta không biết người ấy,
Người ấy như thế nào,
Ðường đạo đã
giết sạch,
Giết hại đến gốc rễ.
387. Hãy cám dỗ nữ nhân,
Không có biết quán sát,
Hay Ðạo Sư người
ấy,
Ðang còn phải học tập,
Chàng mê hoặc người
ấy,
Làm hại được
người ấy.
388. Còn ta đã chánh
niệm,
Ðối khen chê lạc
khổ,
Biết hữu vi bất tịnh,
Bám chặt tư tưởng
ấy.
389. Ta là đệ tử Ni,
Của bậc đại Thiện
Thệ,
Ta đã dấn thân
bước
Trên đường đạo
tám ngành,
Mũi tên đã nhổ
lên
Không còn các lậu
hoặc,
Ta đi đến nhà trống,
Tâm tư ta hoan hỷ.
390. Ta đã được
thấy nó,
Một búp bê khéo
vẽ,
Với trục quay gỗ mới,
Khéo cột với dây que,
Búp bê ấy nhảy múa,
Nhiều điệu múa khác
nhau.
391. Dây que ấy được
rút,
Mở lòng rời phân tán,
Thành trống không, miếng
nhỏ,
Chỗ nào ý say đắm.
392. Thân ta ví dụ vậy,
Không bộ phận không
động.
Không bộ phận, không
động.
Chỗ này ý say đắm.
393. Như thấy một bức
vẽ,
Tô màu đỏ trên
tường,
Cái thấy chàng đảo
lộn,
Vì trí người thiếu
sót.
394. ảo thuật xem tối thượng,
Như cây vàng trong mộng,
Mù lòa ngươi chạy
theo,
Cái trống không, không
thực,
Như cái trò múa
rối,
Ðược xem giữa quần
chúng.
395. Mắt nàng như hòn
bi,
Ðặt lỗ trống của
cây,
Như những bong bóng nước,
Ðầy dẫy những nước
mát,
Những con người đa
dạng,
Sanh ra những mủ ghèn.
396. Thiếu nữ đẹp tuyệt
ấy,
Với tâm không chấp
trước,
Bóc một con mắt nàng.
Trao liền cho người ấy,
Và nói hãy cầm
lấy,
Con mắt này của người.
397. Khi ấy tham liền diệt,
Chàng khẩn cầu xin lỗi,
Mong rằng Phạm hạnh ni,
Ðược an ổn trở lại,
Tôi sẽ không còn
dám,
Xâm phạm thế này nữa.
398. Hai hạng người thế này,
Chẳng khác ôm lửa
hừng,
Tôi như nắm rắn độc,
Mong an ổn tha thứ.
399. Thoát khỏi bị xúc
phạm,
Vị Tỷ-kheo-ni ấy,
Từ đấy đi đến
gần
Bậc Giác ngộ thù
thắng,
Thấy được tướng
công đức,
Tốt đẹp và thù
thắng,
Mắt của nàng hồi
phục,
Ðược trở lại như
xưa.
[ ^ ]
Phẩm
XV
-ooOoo-
Tập Bốn Mươi
Kệ
(LXXII) Isidàsi
(Therì. 162)
Trong thời đức Phật
hiện tại, nàng được sanh ở Ujjeni,
con gái một thương gia có giới đức,
được kính trọng, và giàu có
và đặt tên là Isidàsi. Khi
nàng đến tuổi trưởng thành, cha nàng
gả nàng cho con trai một người thương
gia, xứng đôi vừa lứa. Trong một
tháng, nàng sống với chồng như một
người vợ trung thành. Nhưng vì nghiệp
đời trước của nàng, chồng nàng
trở thành lạnh nhạt đối với
nàng và đuổi nàng ra khỏi nhà.
Mọi sự việc này được ghi rõ trong
nguyên bản Pàli. Vì nàng tự tỏ
không xứng đáng đối với người
chồng này và chồng khác, nàng
trở thành dao động, và được
cha cho phép, nàng xuất gia với sự hướng
dẫn của Trưởng lão Ni Jinadattà.
Sau khi tu học thiền quán, không bao lâu nàng
chứng quả A-la-hán với sự hiểu biết về pháp
và về nghĩa.
Sống trong sự an lạc Niết-bàn,
một hôm sau khi đi khất thực và
ăn xong, trong thành Patna, nàng ngồi
bên bờ cát sông Hằng và đáp
lời hỏi của Trưởng lão Ni Bodhi,
nàng nói lên kinh nghiệm tu tập của nàng
ngang qua những bài kệ này. Và để cho
có sự liên hệ giữa các câu trả
lời trước và sau có bài kệ được
các nhà kiết tập về sau thêm vào:
400. Trong thành được
đặt tên,
Tên chỉ một đóa
hoa,
'Pàtaliputta',
'Con của đóa bông
kèn',
Sống hai Tỷ-kheo-ni,
Có giới hạnh tốt
đẹp,
Thuộc gia đình Thích-ca,
Gia đình cao quyền quý.
401. Một I-xi-đa-xi,
Thứ hai tên Bô-dhi,
Cả hai có giới hạnh,
Ưa thích tu thiền định,
Ðược nghe kinh điển
nhiều,
Kiết sử được trừ
bỏ.
402. Họ đi khất thực
xong,
Ăn xong, bát rửa sạch,
Ngồi hưởng lạc viễn
ly,
Nói lên những lời
này.
403. Hỡi I-xi-đa-xi,
Căn nàng thật thoải
mái,
Tuổi thọ chưa tổn giảm;
Nàng thấy khuyết điểm
gì,
Khiến tâm chú trọng nhiều,
Ðến hạnh nguyện xuất
ly.
404. Như vậy sống viễn
ly,
Thiện xảo về thuyết pháp,
I-xi-da-xi thuyết,
Lời nói như thế này,
Hãy nghe, này Bô-đi,
Ta xuất gia thế nào.
405. Tại thành phố thù
thắng
Ðặt tên Uj-jê-ni,
Cha ta là triệu phú
Có đức độ
giới hạnh,
Ta là con gái một,
Ðược cha thương,
yêu quý.
406. Từ thành Xê-kê-ta,
Một người dạm hỏi
đến,
Một gia đình quyền quý,
Hỏi ta cho con trai
Triệu phú bèn gả ta,
Làm dâu người giàu
ấy.
407. Sáng và chiều, ta đến
Ðảnh lễ cha, mẹ chồng,
Cúi đầu đảnh
lễ chân,
Như ta được dạy
bảo.
408. Với chị, với em anh,
Với bà con chồng ta,
Thấy một người bước
vào,
Ta e sợ mời ngồi.
409. Về đồ ăn, uống,
nhai,
Ðược cất giữ
có chỗ,
Ta thiết đãi cho ăn,
Thích hợp từng người
một.
410. Ta thức dậy đúng
thời,
Ði vòng quanh khắp nhà,
Rồi chà rửa chân
tay,
Ta đến lễ chồng ta.
411. Cầm theo lược trang liệu
Thuốc xoa mắt gương
nhỏ,
Ta trang điểm chồng ta,
Như thị tỳ hầu hạ.
412. Ta tự nấu dọn cơm,
Ta tự rửa chén bát,
Như mẹ đối với
con,
Ta hầu chồng như vậy.
413. Như vậy phục vụ
chồng,
Với phục vụ tối
thượng
Dậy sớm không biếng nhác,
Với tâm tư khiêm tốn,
Với giới hạnh tốt
đẹp,
Nhưng chồng ác cảm
ta.
414. Chồng ta nói mẹ cha,
Xin phép con sẽ đi,
Với I-xi-đa-xi,
Con không thể sống chung,
Cùng dưới một mái
nhà,
Con không thể cùng ở.
415. Chớ nói vậy, này
con!
Vợ con người có trí,
Thông minh, biết dậy sớm,
Sao con không hoan hỷ.
416. Nàng không hại gì
con,
Nhưng con không bao giờ
Có thể sống chung được
Với I-xi-đa-xi
Con ghét cay chán ngấy
Xin phép, con sẽ đi.
417. Ðược nghe lời chồng
nói,
Cha mẹ chồng hỏi con.
Làm gì xúc phạm
chồng?
Hãy thẳng thắn nói
thật.
418. Con không xúc phạm
gì!
Không hại, không mưu
tính.
Với lời nói khó chịu,
Có thể làm gì được?
Tuy vậy chồng của con,
Lợi ác cảm chống con.
419. Họ đưa ta về nhà,
Nhà thân phụ của
ta,
Với tâm tư khổ não,
Sửng sốt và bối
rối
Không muốn mất con trai,
Họ muốn bảo vệ nó.
Ôi, chúng ta bại trận,
Bởi nữ thần may rủi.
420. Cha ta lại gả ta,
Cho gia đình thứ hai,
Một gia đình giàu
có,
Bằng lòng nửa số
tiền
Là tiền gả bán ta.
421. Ta chỉ sống một tháng,
Trong gia đình vị ấy,
Vị ấy trả lui ta,
Dầu ta tận tụy làm,
Chẳng khác người nô
lệ,
Không lỗi lầm có đức.
422. Cha ta nói khất sĩ,
Sống điều phục chế ngự,
Ngươi hãy làm rể
ta,
Bỏ áo rách ghè
bình.
423. Vị ấy sống nửa
tháng,
Rồi nói với cha ta,
Hãy trả lui áo rách,
Ghè bình và bình
bát,
Con nay muốn sống lại,
Nghề khất sĩ của con.
424. Cha, mẹ, toàn bà con,
Liền nói với vị ấy:
Ở đây có cái gì,
Làm con không bằng lòng?
Hãy nói gấp cái
gì,
Làm con không vừa ý.
425. Ðược nói vậy,
vị ấy,
Liền trả lời như sau:
Nếu đối với tự
ngã,
Con có thể bằng lòng,
Nhưng con không chung sống,
Với I-xi-đa-xi!
426. Từ giã vị ấy
đi,
Một mình, ta suy nghĩ:
Ta đến để xin phép,
Hoặc chết hay xuất gia.
427. Rồi Ji-na-đat-ta.
Vị ni sư ấy đến,
Trong khi đi khất thực,
Ðến gia đình cha ta,
Vị thọ trì giới luật,
Nghe nhiều, có giới hạnh.
428. Thấy Ni sư, chúng
tôi,
Ðều đứng lên kính
cẩn,
Và ta liền sửa soạn,
Chỗ ngồi cho Ni sư,
Ngồi xuống, ta đảnh
lễ,
Dưới chân bậc Ni sư,
Lễ xong, ta cúng dường,
Các đồ ăn đồ
uống.
429. Các món ăn, uống,
nhai,
Tại đấy, được
dự trữ,
Làm Ni sư thỏa mãn,
Ta thưa với Ni sư,
Nay ta muốn xuất gia,
Sống đời không gia
đình,
Cha ta nói với ta:
'Này con hãy ở đây'.
430. Hành trì đúng
Chánh pháp,
Với đồ ăn đồ
uống,
Hãy làm cho thỏa mãn,
Sa-môn, hai lần sanh.
431. Vừa nói, ta khóc
lóc,
Chấp tay vái cha ta;
Với điều ác con làm,
Con sễ tiêu nghiệp ấy.
432. Cha ta nói với ta:
Hãy chứng ngộ Bồ-đề.
Và Chánh pháp tối
thượng!
Hãy chứng đắc
Niết-bàn,
Ðã được Lưỡng
Túc Tôn,
Thành tựu và chứng
đạt.
433. Ta đảnh lễ mẹ
cha,
Cùng tất cả bà
con,
Sau bảy ngày xuất gia,
Ta chứng được Ba minh.
434. Ta biết bảy đời trước,
Quả gì nay thành thục,
Ta sẽ nói cho bạn,
Hãy nhất trí lắng
nghe.
435. Tại thành phố đặt
tên,
Ê-ra-ka-kac-chê,
Ta sống là thợ vàng,
Tài sản thật phong phú.
436. Say đắm với tuổi
trẻ,
Ta xâm phạm vợ người,
Do vậy, sau khi chết,
Trong cảnh giới địa
ngục,
Ta bị đốt, nung nấu
Trong một thời gian dài,
Thoát khỏi sự nung đốt
Ta sanh trong bụng khỉ.
437. Bảy ngày từ khi sanh,
Ta bị khỉ chúa thiến,
Ðây là quả của
nghiệp,
Do đi đến vợ người.
438. Từ đây ta chết đi,
Mệnh chung rừng Xin-đa,
Sanh trong bụng con dê,
Một mắt và què quặt.
439. Mười hai năm bị
thiến,
Mang nặng những đứa
con,
Sán trùng ăn vô
dụng,
Do đi đến vợ người.
440. Từ đấy ta chết đi,
Sanh làm con bò cái,
Của một lái buôn
bò,
Con nghé màu đỏ
sẫm,
Khi được mười hai
tháng.
Lại bị người ta thiến.
441. Rồi ta lại kéo cày,
Kéo xe cho chúng nó,
Mù, lo lắng, vô dụng,
Do đi lại vợ người.
442. Từ đấy chết được
sanh,
Nhà nữ tỳ gần đường,
Không là nữ không
nam,
Do đi lại vợ người.
443. Ðến tuổi ba mươi
năm,
Bị chết, ta được sanh
Sanh làm người con gái,
Gia đình người đánh
xe,
Nghèo khổ ít tài
sản,
Rơi vào tay vay lãi,
Do tiền nợ tăng trưởng,
Chủ lữ đoàn bắt
ta.
444. Kéo ta, dầu ta khóc,
Lôi ta ra khỏi nhà.
445. Khi ta mười sáu tuổi,
Lớn lên thành thiếu nữ,
Con trai thương gia ấy,
Bắt ta lấy làmvợ.
446. Nhưng nó có vợ
khác,
Có giới đức danh
xưng,
Lại biết thương mến chồng,
Chính ta tạo thù hằn.
447. Do quả của nghiệp này,
Họ khinh ghét chống ta,
Dầu ta như nô tỳ,
Hầu hạ phục vụ
họ,
Nhưng nay ta chấm dứt,
Mọi sự việc như trên.
[ ^ ]
Phẩm
XVI
-ooOoo-
Ðại Phẩm
(LXXIII) Sumedhà
(Therì. 167)
Trong thời đức Phật
hiện tại, nàng sanh ở thành Mantàvatì
con gái vua Konca và được đặt
tên là Sumedhà. Khi nàng đến tuổi
trưởng thành, cha mẹ nàng bằng lòng
để Anikaratta, vua Vàranavati xem mắt
nàng. Nhưng từ lúc nhỏ, nàng quen
cùng đi với các công chúa lứa
tuổi nàng, và những người hầu
hạ tại tinh xá Tỷ-kheo-ni để nghe các
vị này thuyết pháp, và trong một thời
gian dài, vì chí nguyện lúc còn nhỏ,
nên nàng sợ hãi sự sanh tử luân
hồi, tâm tư thiên về đời sống
xuất gia, không ưa thích các dục
lạc.
Khi nghe quyết định của cha
mẹ và bà con, nàng nói: 'Bổn phận
của tôi không phải trong đời sống
gia đình, tôi sẽ xin xuất gia', cha mẹ
và các bà con không thể khuyên nàng
từ bỏ quyết định của nàng. Nàng
suy nghĩ: 'Như vậy, ta sẽ được phép
xuất gia', và cương quyết theo chí nguyện
của mình nàng cắt tóc, và dùng
tóc ấy, theo phương pháp cảc Tỷ-kheo-ni
thường dùng, nàng chú tâm vào
tánh bất tịnh của sắc đẹp thân
xác và chứng được Sơ thiền, Khi
nàng ở trong định Sơ thiền cha mẹ và
bà con nàng đến phòng nàng để
nói chuyện gả chồng cho nàng. Nhưng nàng
khiến mọi người kể cả người hầu cận
của vua đến để rước nàng về, cũng
tin vào đạo pháp rồi nàng từ
bỏ gia đình, đi đến tịnh xá
Tỷ-kheo-ni để xuất gia.
Sau khi tu tập thiền quán, và
giải thoát được chín muồi, nàng
chứng quả A-la-hán với hiểu biết về nghĩa
và về pháp. Rồi nghĩ đến sự thắng
trận của nàng, nàng nói lên sự
phấn khởi, sung sướng của nàng:
448. Con gái vua Konca,
Với hoàng hậu chánh
ngôi,
Tại Matavatì,
Ðược sanh Sumedha,
Hân hoan gắng thực hành,
Lời dạy bậc Ðạo
Sư.
449. Giới hạnh thuyết giảng
khéo,
Nghe nhiều khéo huấn luyện,
Theo lời đức Phật
dạy,
Nàng đến cha mẹ nàng,
Nói rằng: 'Thưa mẹ
cha,
Cả hai, hãy nghe con!'.
450. Con hân hoan Niết-bàn,
Dầu sanh hữu Chư Thiên,
Sanh hữu ấy vô thường,
Giá trị gì các
dục,
Trống không, vị ngọt ít,
Còn tàn hại thời
nhiều.
451. Các dục thật cay
đắng,
Ví như nọc rắn độc,
Kẻ ngu mới tham đắm,
Trong các loại dục ấy.
Những ai thọ hưởng dục,
Trong một thời gian dài,
Bị khổ đau địa
ngục,
Hành hạ và tàn
hại.
452. Những kẻ làm nghiệp
ác,
Những kẻ tâm trí
ác,
Bị đau đớn sầu
khổ,
Trong cảnh giới đọa xứ.
Kẻ ngu thường không
nhiếp,
Chế ngự thân, khẩu, ý.
453. Kẻ ngu có liệt tuệ,
Không tư duy quyết định,
Không ngăn chặn khổ tập,
Khi có thời thuyết pháp,
Không biết lo học hỏi,
Không giác tri Thánh
đế.
454. Những sự thật, thưa
mẹ,
Phật thù thắng thuyết
giảng,
Phần lớn chúng quần
sanh,
Không hiểu sự thật ấy;
Họ hoan hỷ tái sanh,
Ước muốn sanh thiên
giới.
455. Sanh thiên không thường
trú,
Sanh hữu là vô thường,
Kẻ ngu không sợ hãi,
Luôn luôn phải tái
sanh.
456. Bị sanh bốn đọa xứ,
Ðược sanh Thiên, Nhân
giới
Ðược chúng khó
khăn thay,
Những ai rơi đọa xứ,
Trong cảnh giới địa
ngục,
Không có sự xuất
gia.
457. Mong cả hai cha mẹ,
Cho con được xuất
gia,
Trong giáo pháp thuyết giảng,
Của bậc chứng Mười
lực,
Sống thong dong nhàn hạ,
Nỗ lực đoạn sanh tử.
458. Sao con ưa tái sanh,
Với thân tội lỗi này,
Thân trống rỗng, không
lõi,
Vì mục đích đoạn
diệt,
Tham ái được tái
sanh,
Xin cho con xuất gia.
459. Nay thời, Phật ra đời,
Phi thời đã từ
bỏ,
Thời cơ nay đã đến,
Cho đến trọn đời con,
Con không làm tổn thương,
Giới luật và Phạm
hạnh.
460. Sumedha nói vậy,
Nàng lại thưa mẹ cha.
Con nguyện không ăn uống,
Khi còn là cư sĩ,
Ở đây con sẵn sàng,
Chờ chết đến với con.
461. Mẹ sầu khổ, khóc
than!
Cha hoàn toàn sửng sốt,
Họ gắng thuyết phục ta,
Nằm dưới đất
lâu dài.
462. Này con hãy đứng
dậy!
Có gì là sầu
khổ,
Khi con được cả nước,
Varanavati,
Anikarata,
Ðẹp trai, xứng đôi
con.
463. Con sẽ là hoàng hậu,
Vợ chính Anika!
Này con, thật khó thay!
Ðời sống vị xuất
gia,
Giữ gìn các giới
luật,
Sống đời sống Phạm
hạnh.
464. Uy lực của vị vua,
Tiền của và quyền thế,
Sản nghiệp và hạnh phúc,
Với tuổi trẻ thanh xuân!
Hãy thọ hưởng dục
lạc,
Hãy nhận lời lấy
chồng.
465. Sumedha thưa rằng:
Thôi đừng, sự
việc ấy,
Họ đi đến tái sanh,
Họ trống không, không
lõi,
Hoặc xuất gia, hoặc chết,
Con chỉ cưới như vậy.
466. Sá gì thân hôi
nhớp,
Phát mùi, gây sợ
hãi,
Bao da đựng xác chết,
Rỉ chảy đồ bất
tịnh.
467. Sá gì thân ta biết,
Ghê tởm, lấm máu
thịt,
Chỗ chứa đựng loài
sâu,
Mồi ăn cho chim chóc,
Thân xác này là
vậy,
Nay đem đến cho ai?
468. Thân thể bỏ nghĩa địa,
Không lâu, mất thức
tri,
Như khúc gỗ quăng bỏ,
Bà con đều ghê tởm.
469. Thân ấy quăng nghĩa
địa,
Làm mồi ăn kẻ
khác,
Trước chúng tắm rửa
sạch,
Nay chúng sinh ghê tởm,
Cha mẹ còn như vậy,
Nói gì chung quần chúng.
470. Họ mê thân không lõi,
Ràng buộc bởi gân
xương,
Ðầy nước miếng, nước
mắt,
Ðầy phân tiểu hôi
hám.
471. Nếu thân được mổ
xẻ,
Lội nội phần ra ngoài,
Chính mẹ phải ghê
tởm,
Không chịu nổi mùi
hôi.
472. Chính do uẩn, xứ,
giới,
Tác thành các thân
này,
Gốc tái sanh, đau khổ;
Họ như lý nói lên,
Hoàn toàn không vui thích.
Vậy ai, tôi muốn cưới?
473. Từng ngày trăm ngọn
giáo,
Luôn luôn mới đâm
thân,
Dầu bị hại trăm
năm,
Như vậy còn tốt
hơn,
Vì khổ ấy cuối cùng,
Rồi cũng được
tiêu diệt.
474. Kẻ trí quyết bằng
lòng
Sự giết hại như trên,
Bậc Ðạo Sư dạy
rằng:
Họ luân hồi dài dà,
Với tâm tư giết hại,
Liên tục nối tiếp nhau.
475. Trong cảnh giới Trời,
Người,
Bàng sanh, a-tu-la,
Ngạ quỷ và Ðịa
ngục,
Chịu giết hại vô lượng.
476. Trong địa ngục, rất
nhiều,
Kẻ tâm uế, đọa lạc,
Chỗ trú ẩn Thiên giới,
Không có lạc Niết-bàn.
477. Những ai đạt Niết-bàn,
Họ liên hệ mật thiết,
Với những lời thuyết dạy,
Của bậc đủ Mười
lực,
Thong dong không rộn ràng,
Nỗ lực đoạn sanh tử.
478. Thưa cha ngày hôm nay
Con quyết tâm ra đi,
Những tài sản rỗng không,
Không có giá trị
gì,
Con ghê tởm các dục,
Con chán ngấy các dục,
Họ đã được
tách thành,
Như thân cây Ta-la.
479. Nàng trả lời phụ
thân,
Với lời nói như vậy.
Anikaratta
Ðược hứa gả công
chúa,
Ði đến gần xin cưới,
Theo như giờ hẹn định.
480. Mái tóc đen, dày
mịn,
Với gươm, nàng cắt
ngang,
Cửa lầu được
đóng lại,
Nàng chứng được
Sơ thiền.
481. Nàng sống trong cảnh
thiền,
A-ni-ka đến thành,
Sumedha trong cung,
Tu tập tưởng vô thường.
482. Trong khi nàng tác ý,
Vua bước lên tam cấp,
Trang sức vàng châu báu,
Chấp tay cầu xin nàng.
483. Hãy trị vì quốc
độ,
Với tiền của uy quyền,
Với tài sản, hạnh
phúc,
Với tuổi trẻ thanh xuân,
Hãy thọ hưởng các
dục,
Thật khó kiếm ở đời.
484. Ta giao nàng vương quốc,
Hưởng tài sản, bố
thí,
Nàng chớ có buồn
nản,
Khiến mẹ cha khổ đau.
Sumedha trả lời,
Với vua, từng vấn đề;
Ðối với nàng, các
dục,
Không cầu không si mê,
Chớ hoan hỷ các dục,
Hãy thấy dục nguy hiểm.
485. Mandhatà là vua,
Chúa bốn châu hưởng
dục,
Dục lạc ấy tối
thượng,
Tưy vậy khi vua chết,
Cũng chưa được
thỏa mãn,
Ước vọng chưa đầy
đủ.
486. Dầu có mười bảy
báu,
Khắp mười phương
đầy tràn,
Không có dục thỏa
mãn,
Người chết, chưa thỏa
mãn.
487. Các dục ví gươm
giáo,
Các dục ví đầu
rắn,
Ví như bó đuốc
cháy
Giống xương gậm trơn
tru.
488. Các dục không thường
còn,
Cũng không có thường
hằng,
Khổ nhiều, thuốc độc
lớn,
Như hòn đạn cháy
đỏ,
Nguồn gốc của bất
hạnh,
Kết quả là đau khổ.
489. Dục như trái của
cây,
Như miếng thịt, khổ lụy,
Giống như mộng như
huyễn,
Dục như của vay mượn.
490. Dục như gươm, như
cọc,
Bệnh tật và cục bướu,
Bất hạnh và dao động,
Ví như hố than hừng,
Nguồn gốc của bất
hạnh,
Sợ hãi và tàn sát.
491. Như vậy, dục nhiều
khổ,
Ðược gọi chứng ngại
pháp,
Hãy đi, từ bỏ
tôi,
Khi tôi còn tái sanh,
Thời đối với tự
ngã,
Tôi không có lòng
tin.
492. Ai giúp gì tôi được,
Khi đầu tôi đang
cháy,
Khi già chết bám sát,
Tôi cần phải nỗ lực,
Ðối với tàn hại
ấy!
493. Không đi đến gần
cửa,
Nàng thấy mẹ và
cha,
Và vua Anika,
Ngồi dưới đất
khóc than,
Thấy vậy nàng tỏ
lời,
Thưa mọi người như sau:
494. Kẻ ngu, đã lâu
rồi,
Khóc luân hồi nói
tiếp,
Từ vô thỉ đến
nay,
Khóc phải bị mệnh chung,
Khóc anh em bị giết,
Khóc tự mình bị
giết.
495. Hãy nhớ từ vô
thỉ,
Nước mắt, sữa và
máu,
Tuôn chảy theo luân hồi,
Không bao giờ dừng nghỉ,
Hãy nhớ các chúng
sanh,
Luân hồi xương chất
đống.
496. Hãy nhớ tràn bốn
biển,
Ðầy nước mắt,
sữa, máu,
Hãy nhớ xương một
kiếp,
Cao bằng Vi-pu-la.
497. Hãy nhớ từ vô
thỉ,
Không đủ để làm
thành,
Cả đất nước
Diêm Phù,
Những nấm mồ hột
táo,
Của mẹ cha luân hồi.
498. Hãy nhớ từ vô
thỉ,
Những cỏ cây cành
lá,
Không đủ để chứa
đựng,
Những ghè bốn ngón
tay,
Chứa người cha, luân
hồi.
499. Hãy nhớ tới hình
ảnh,
Con rùa mù biển đông,
Cho đầu nó lọt vào,
Lỗ hổng khúc cây trôi,
Ðể nói lên ví
dụ,
Ðược làm người
khó vậy.
500. Hãy nhớ thân sắc
người,
Ðược ví bong bóng
nước,
Ðầy cả những bất
hạnh,
Trống không không có
lõi,
Hãy thấy uẩn vô
thường!
Nhớ địa ngục nhiều
họa.
501. Hãy nhớ nghĩa địa
lớn,
Nhờ tái sanh tiếp tục,
Nhờ sợ hãi thuồng
luồng,
Hãy nhớ Bốn sự
thật.
502. Nước bất tử có
đây,
Sao người uống trăm
đắng,
Tất cả các dục
lạc,
Thật trăm cay ngàn đắng.
503. Nước bất tử có
đây!
Sao người ưa dục não!
Mọi dục lạc đốt
cháy
Sôi sùng sục nung nấu.
504. Ðây không có
kẻ thù!
Sao thích dục thù địch?
Vua lửa, trộm, nước,
oán,
Thù chung thật là nhiều.
505. Ở đây có giải
thoát!
Sao để dục giết trói,
Trong dục có giết trói!
Mê dục nhiều khổ đau.
506. Ðuốc cỏ đang
cháy rực,
Nắm, không thả, bị
đốt,
Dục ví như bó đuốc,
Ðốt cháy ai không
thoát.
507. Chớ nhận dục lạc
nhỏ,
Bỏ lạc lớn rộng rãi,
Chớ như cá nuốt câu,
Sau phải chịu hoạn nạn.
508. Hãy nhiếp dục trong dục,
Như chó bị dây cột,
Chớ để dục ăn ngươi,
Như dân đói ăn
chó.
509. Khổ thật là vô
lượng,
Khiến tâm nhiều ưu tư,
Ngươi hệ lụy với dục,
Hãy bỏ dục vô
thường.
510. Ở đây, không có
già!
Sao theo dục bị già?
Mọi sanh ở khắp nơi,
Bị bệnh chết chi phối,
511. Ðây không già,
không chết.
Ðây con đường
không già,
Không chết, không sầu
não,
Không thù địch
trói buộc,
Không vấp ngã sợ
hãi,
Không nung nấu đọa đầy.
512. Ðích này, nhiều
người đạt,
Ðích này là bất
tử,
Nay cần phải chứng được,
Ai như lý chú tâm,
Nếu không có nỗ lực,
Không sao chứng đạt
được.
Sumedhà nói vậy,
Không thích đi đến
hành
Nàng thuyết phục được
vua,
Với tóc quăng trên
đất.
513. Ðứng dậy A-ni-ka
Chắp tay xin cha nàng,
Hãy cho Su-me-dha,
Ðược xuất gia tu học,
Ðể nàng thấy cho được,
Giải thoát và chân
lý.
514. Mẹ cha cho xuất gia,
Thoát sầu, sợ, khiếp đảm,
Sáu thắng trí chứng
đạt.
515. Chứng luôn quả tối
thượng.
Dầu còn là học nữ.
516. Thật vi diệu hy hữu!
Một công chúa con vua,
Lại đạt được
Niết-bàn!
Nàng nói lên như
sau,
Thời trước đời
cuối cùng.
517. Trong thời đức Thế
Tôn,
Konàgamana!
Trong trú xứ mới làm,
Tại cảnh Tăng già
lam,
Với bạn là ba người,
Chúng tôi cúng tịnh
xá.
518. Mười lần, một trăm
lần,
Mười trăm, trăm trăm
lần,
Chúng tôi sanh chư Thiên,
Còn nói gì, làm
người.
519. Giữa chư Thiên chúng
tôi,
Có được thân
lực lớn,
Còn nói gì chúng
tôi,
Khi được làm thân
người,
Ta hoàng hậu, bảy báu!
Ta chính là nữ báu.
520. Ðây là nhân,
là nguồn
Ðây chính là căn
gốc,
Kham nhẫn lời Ðạo
Sư!
Ðây dây chuyền thứ
nhất
Ðấy chính là
Niết-bàn,
Nếu chúng ta mến pháp.
521. Như vậy với lòng
tin,
Họ thuyết rõ nên lời
Lời nói đầy trí
tuệ,
Thù thắng và tối
thượng
Họ chán ghét tái sanh,
Do chán ghét, tham diệt.
-[Hết Tập III, Tiểu Bộ]-
[Phẩm trước][Mục
lục][ ^ ]
|