|
Phẩm
X
-ooOoo-
Tập Mười
Kệ
(LXIII) Kisà
Gotamì (Therì. 143)
Trong thời đức Phật
hiện tại, nàng được sanh ở Sàvatthi,
trong một gia đình nghèo khổ, tên là
Gota mì, vì nàng yếu đuối nên
được gọi là Kisà Gotamì (Gotamì
ốm yếu). Khi lập gia đình, nàng bị
khinh thường và được gọi là con
gái một người không có gì. Nhưng
khi nàng có con, nàng được kính
trọng. Khi người con lớn lên và có thể
chạy được, nó chết, và nàng
cảm thấy đau khổ, và nhớ đến
sự đối xử với mình được
thay đổi khi đẻ đứa con, nàng
nghĩ: 'Chúng sẽ giữ lấy con ta và
đem bỏ vào nghĩa địa'. Nàng
ôm đứa con chết vào lòng và đi
vào từng nhà xin: 'Hãy cho con tôi thuốc'.
Và được trả lời: 'Nay thuốc còn
gì dùng nữa'. Nhưng nàng không hiểu.
Có người thương xót khuyên nàng
đến đức Phật để xin thuốc, Nàng
đi đến tinh xá và xin đức Phật:
'Hãy cho con tôi thuốc'. Bậc Ðạo
Sư thấy được hy vọng tu chứng nơi
nàng bèn nói: 'Hãy đi đến nhà
nào không có người chết, và đem
lại một hột cải!' Nàng vâng lời,
đi vào nhà đầu tiên và
yêu cầu như vậy, nhưng bị từ
chối, vì trong nhà có người chết.
Nàng đi vào nhiều nhà khác, được
trả lời như vậy và nàng nghĩ: 'Ðây
có thể là bậc Ðạo Sư dạy khéo
cho ta', nên nàng đem dặt con nàng ở
nghĩa địa và nói:
Pháp này không
riêng làng,
Không riêng thành, gia
tộc,
Không riêng cho một ai,
Cho đến toàn thế giới,
Kể cả các chư Thiên,
Ở tại mọi từng trời,
Pháp nhĩ là như vậy.
Tất cả là vô thường.
Rồi nàng đi đến bậc
Ðạo Sư, và khi ngài hỏi có
tìm được hột cải không, nàng
trả lời: 'Việc làm đã làm xong về
hột cải. Hãy xác nhận cho con'.
Thế Tôn nói:
Tâm còn bị đắm
say,
Con cái và súc vật,
Tử thần bắt người
ấy,
Như lụt trôi làng
ngủ
(Pháp cú, 287)
Khi đức Phật nói xong,
nàng chứng được Sơ quả (quả
Dự lưu) và xin được xuất gia.
Ðức Phật chấp nhận và nàng
được các Tỷ-kheo-ni cho thọ giới. Sau đó,
không bao lâu nàng nghiên cứu về nguyên
nhân của sự vật và khiến thiền quán
tăng trưởng. Rồi bậc Ðạo Sư
nói lên bài kệ:
Người sống một
trăm năm,
Không thấy pháp sanh
diệt,
Tốt hơn sống một
ngày,
Thấy được pháp
sanh diệt.
(Pháp Cú 113)
Khi đức Phật nói xong,
nàng chứng quả A-la-hán. Vì nàng
đặc biệt tu hạnh khắc khổ nên nàng
mặc thô y, và đức Phật ngồi
tại tinh xá Kỳ Viên đặt nàng
vào hạnh mặc thô y đệ nhứt. Suy tư
trên quả chứng của mình, nàng nói
lên những bài kệ này trước mặt
Thế Tôn, những bài kệ tán thán sự
thân cận với các bậc Hiền Thánh:
213. Bạn lành được
ẩn sĩ,
Khắp thế giới, ngợi khen,
Thân cận với bạn lành,
Kẻ ngu thành người
trí.
214. Hãy thân bậc chân
nhân,
Thân vậy, trí tăng
trưởng,
Thân cận bậc chân
nhân,
Mọi khổ đau được
thoát.
215. Hãy biết, Bốn thánh
đế,
Khổ và khổ tập khởi,
Biết về đau khổ diệt,
Và đoạn Thánh
tám ngành.
216. Khổ thay phận nữ nhân,
Chính Ngài đã
nói lên,
Bậc đánh xe điều
ngự,
Những ai đáng điều
ngự,
Khổ thay phận chồng chung,
Nhiều người một lần
sanh.
217. Trong đau khổ đâm
họng,
Mẹ yếu uống thuốc độc,
Trường hợp gặp bào
thai,
Bị chết khi đang sanh,
Cả hai mẹ và con,
Ðều cùng gặp tai nạn.
218. Khi mang thai đi về,
Ta thấy chồng chết đường,
Và khi ta sanh đẻ,
Ta không về đến nhà.
219. Hai con đều bị chết,
Chồng nữ nhân khốn
khổ,
Lại bị chết giữa đường;
Mẹ, cha và cả anh,
Ðều cùng bị thiêu
đốt,
Dồn chung trên đống
lửa.
220. Ôi, nữ nhân khốn
khổ,
Sanh gia cảnh khốn cùng,
Người phải chịu khổ
đau,
Vô lượng, không kể xiết.
Nước mắt người
đã khóc,
Trải nhiều ngàn lần sanh.
221. Ta thấy giữa nghĩa
trang,
Thịt con ta bị ăn,
Gia đình bị tàn
hại,
Bị mọi người khinh bỉ,
Tuy vậy, người chết chồng.
Ðạt được sự
bất tử.
222. Ta tu tập Thánh đạo,
Ðường tám ngành,
bất tử,
Ta chứng được Niết-bàn,
Thấy được gương
Chánh pháp.
223. Trên ta, mũi tên đâm,
Ðã được rút
ra khỏi,
Gánh nặng đã đặt
xuống,
Việc nên làm đã
làm,
Ta là Trưởng lão
Ni,
Kisà-Gotamì,
Với tâm khéo giải
thoát,
Ta nói lên đời này.
[ ^ ]
Phẩm
XI
-ooOoo-
Tập Mười Hai
Kệ
(LXIV) Uppalavanna
Trong thời đức Phật
hiện tại, nàng được sanh ở Sàvatthi,
con gái của vị trưởng kho bạc. Vì
da nàng màu tim của sen xanh, nàng được
gọi là Uppalavannà. Khi nàng đến tuổi
trưởng thành, vua và thường dân
dành nhau đến cưới nàng. Vị trưởng
kho bạc, không thể làm cho mọi người bằng
lòng, nghĩ đến một kế để giải quyết.
Ông cho gọi Uppalavannà và yêu cầu
nàng xuất gia. Và vì căn cơ đã
thuần thục, nàng nhận lời ngay, và
được đưa đến tinh xá Tỷ-kheo-ni
để xuất gia.
Sau một thời gian, khi nàng
phụ trách công việc dọn dẹp phòng làm
lễ Bố-tát, nàng thắp ngọn đèn
quét phòng. Rồi lấy ngọn đèn
làm tướng để thiền quán, không bao
lâu nàng chứng được quả A-la-hán.
Nàng trở thành vị thần thông đệ
nhất.
Và bậc Ðạo Sư,
ngồi giữa đại chúng ở Jetavana
ấn chứng cho nàng là thần thông
đệ nhất. Nàng suy tư trên quả an lạc
của thiền và thánh quả, nói lên một
số bài kệ. Ðây là những lời
thốt ra tà miệng một bà mẹ trở thành
tình địch với con gái của mình,
đối với một người mà sau này
trở thành vị Tỷ-kheo tên là Tỷ-kheo ở
trên bờ sông Hằng. Những bài kệ này
nói lên sự nguy hiểm, sự hạ liệt và
sự uế nhiễm của các dục:
I
224. Hai, mẹ và con gái,
Chúng tôi sống một
chồng,
Lời nàng đã nói
lên
Làm ta xúc động
mạnh,
Cảnh ngộ thật hy hữu,
Làm tóc lông dựng
ngược.
225. Ðáng ngán thay các
dục,
Bất tịnh, hôi, nhiều gai,
Ở đây, mẹ, con gái,
Chúng tôi lấy một
chồng.
226. Thấy nguy hiểm trong dục,
Viễn ly an ổn vững
Nàng xuất gia Vương
Xá,
Bỏ nhà, sống không
nhà.
II
Sung sướng nàng nói lên
quả chứng của mình.
227. Ta biết các đời
trước,
Thiên nhãn được
thanh tịnh,
Trí biết được tâm
người,
Nhĩ giới được trong
sạch.
228. Ta chứng được
thần thông,
Lậu tận ta đạt được,
Ta chứng sáu thắng trí,
Lời Phật dạy, làm
xong.
III
Nàng hiện lên một thần
thông với sự chấp thuận của bậc
Ðạo Sư và ghi như sau:
229. Do hiện hóa thần
thông,
Ta đến xe bốn ngựa,
Ta đảnh lễ chân
Phật,
Thế giới chủ, quang vinh.
IV
Nàng bị Ác ma đến
quấy phá, tại rừng cây Sàla
và trách móc Ác ma.
Ác ma:
230. Nàng đi đến
gốc cây,
Ðang nở hoa tuyệt đẹp,
Nàng đến, đứng
một mình,
Dưới gốc cây có
hoa!
Nàng đến chỉ một
mình;
Này kẻ dại khờ kia,
Sao nàng lại không sợ,
Có kẻ cám dỗ nàng!
Nàng:
231. Trăm ngàn người
cám dỗ,
Có đến đây như
ngươi,
Mảy lông ta không động,
Ta không gì hoảng hốt,
Ác ma, làm gì ta,
Khi ngươi đến một mình.
232. Ta có thể biến mất,
Hay vào bụng nhà ngươi,
Ta đứng giữa hàng
mi,
Ngươi không thấy ta
đứng.
233. Với tâm khéo nhiếp
phục,
Thần túc khéo tu trì,
Sáu thắng trí, ta chứng,
Lời Phật dạy, làm
xong.
234. Các dục giống gươm
giáo,
Chém nát các uẩn
ta,
Những dục mà ngươi
gọi,
Là lạc thú cuộc
đời.
Ngày nay, dục lạc ấy.
Với ta, không hấp dẫn.
235. Ở tất cả mọi nơi,
Hỷ lạc được đoạn
tận,
Khối tối tăm mù
ám,
Ðã bị làm tan
nát,
Hỡi này kẻ Ác
ma,
Ngươi hãy biết như
vậy,
Ngươi chính là Ác
ma,
Ngươi đã bị
bại trận.
[ ^ ]
Phẩm
XII
-ooOoo-
Tập Mười Sáu
Kệ
(LXV) Punnà
hay Punnikà (Therì. 146)
Trong thời đức Phật
hiện tại, nàng được sanh ở Sàvatthi,
trong gia đình ông Anàthapindika (Cấp
Cô Ðộc) con gái của một người
nô lệ. Nàng chứng được quả Dự
lưu khi nghe kinh Sư tử hống (Trung Bộ Kinh,
kinh số 11 hay 12). Về sau, sau khi nàng hóa độ
được một Bà-la-môn tin tưởng
nhờ nước làm cho thanh tịnh và được
cảm tình của ông chủ, nàng được
thoát ly khỏi giới nô lệ, và với sự
bằng lòng của ông chủ, nàng được
xuất gia. Và nhờ triển khai thiền quán, nàng
chứng quả A-la-hán với hiểu pháp và
hiểu nghĩa. Suy tư trên quả chứng của
mình, nàng nói lên những bài kệ
như sau:
236. Mùa đông
ta mang nước,
Luôn luôn xuống dòng
nước,
Ta sợ các hình phạt,
Lời trách móc các
bà.
237. Hỡi này Bà-la-môn,
Ngươi sợ hãi vì
ai?
Luôn luôn xuống dòng
nước,
Tay chân run cầm cập.
Ngươi phải chịu cảm
thọ,
Rét lạnh quá độ
vậy?
238. Và nàng có biết
chăng
Hỡi này Punnikà?
Sao nàng lại đến hỏi
Vị làm các nghiệp lành,
Vị đã chận đứng
lại,
Các nghiệp ác bất thiện.
239. Vị ấy già hay trẻ,
Làm các nghiệp ác độc,
Người ấy nhờ rảy
nước,
Ðược giải thoát
ác nghiệp.
240. Ai nói với ngươi
vậy,
Kẻ ngu với kẻ ngu,
Người tin nhờ rảy nước,
Ðược giải thoát
ác nghiệp.
241. Tất cả những ếch, rùa,
Sẽ được lên cõi
trời,
Cùng các rắn cá
sấu,
Và các thủy vậy
khác.
242. Kẻ giết bò giết heo,
Kẻ đánh cá sanh
thú,
Các kẻ cướp giết
người,
Các người làm ác
khác,
Họ nhờ có rảy nước,
Có thể thoát ác nghiệp.
243. Nếu những con sông này,
Có thể làm trôi mất,
Ác nghiệp xưa ngươi
làm,
Chúng cũng làm trôi
luôn,
Các thiện nghiệp ngươi làm,
Khiến ngươi thành rỗng không.
244. Phạm chí vì cái
gì,
Ngươi sợ phải xuống
nước,
Cái ấy chớ có làm,
Chớ để lạnh hại da.
245. Ta đi theo tà đạo,
Nàng hướng ta Thánh
đạo,
Thưa nàng ta cho nàng,
Cái áo thấm nước
này.
246. Ngươi giữ cái
áo lại,
Ta không muốn cái áo!
Nếu ngươi sợ đau khổ,
Nếu ngươi không thích
khổ.
247. Chớ làm các điều
ác,
Công khai hay kín đáo,
Nếu ngươi làm sẽ làm,
Làm các điều ác
nghiệp.
248. Ngươi không thoát
đau khổ,
Dầu thấy đến, ngươi
chạy,
Nếu ngươi sợ đau khổ,
Không ưa thích đau
khổ.
249. Hãy đến quy y Phật,
Quy y Pháp và Tăng,
Hãy chấp nhận Giới
luật,
Ngươi sẽ được
lợi ích.
250. Ta đến quy y Phật,
Quy y Pháp và Tăng,
Ta chấp nhận Giới luật,
Ta sẽ được lợi ích,
251. Trước ta là bà
con,
Với tộc họ Phạm thiên,
Nay ta là Phạm chí,
Chân thật là như
vậy,
Ta chứng ngộ Ba minh,
Ðầy đủ trí
Vệ-đà,
An ổn đến với ta,
Tâm tư được gột
sạch.
Vị Bà-la-môn quy y và
thọ năm giới. Về sau được nghe bậc Ðạo
Sư thuyết pháp trở thành một thiện nam và
xuất gia. Nhờ tinh cần tu tập không bao
lâu chứng được Ba minh, và nghĩ
đến quả chứng của mình, nói lên
bài kệ này. Và vị Tỷ-kheo-ni, lập lại
bài kệ ấy trở thành bài kệ của mình.
[ ^ ]
Phẩm
XIII
-ooOoo-
Tập Hai Mươi
Kệ
(LXVI) Ambapàlì
(Therì. 147)
Trong thời đức Phật
hiện tại, nàng được sanh dưới một
gốc cây xoài trong vườn vua Vesàli
và được gọi là Ambapàli. Nàng
rất đẹp nên đến khi lớn lên
nhiều vương tôn công tử cạnh tranh để
chiếm đoạt nàng. Về sau để tránh những
cạnh tranh ấy và cũng do nghiệp lực của
nàng, nàng trở thành một kỹ nữ.
Vì lòng tin đối với bậc Bổn
Sư, nàng xây dựng một tinh xá trong
ngôi vườn của nàng và cúng cho
đức Phật và chúng Tăng. Khi nàng
nghe con nàng, tức là Trưởng lão
Vimalakondanna thuyết pháp, nàng triển khai thiền
quán về lý vô thường, như thân nàng,
chứng Tam minh và nàng nói lên những
bài kệ sau đây:
252. Ðen như sắc
con ong,
Tóc dài ta khéo uốn,
Nay biến đổi vì già,
Như vải gai, vỏ cây,
Ðúng như lời giảng
dạy,
Của bậc nói sự
thật.
253. Thơm như hộp ướp
hương,
Ðầu ta đầy những
hoa,
Nay biến đổi vì già,
Hôi như lông con thỏ,
Ðúng như lời giảng
dạy,
Của bậc nói sự
thật.
254. Như rừng khéo vun
trồng,
Lược kim tu chói sáng,
Nay biến đổi vì già,
Tóc lơ thơ rơi rụng,
Ðúng như lời giảng
dạy,
Của bậc nói sự
thật
255. Trang điểm với bện tóc,
Sáng chói nữ trang vàng,
Tóc mềm mại êm dịu,
Thơm ngát với mùi
hương,
Nay biến đổi vì già,
Rơi rụng đầu sói
trọc,
Ðúng như lời giảng
dạy,
Của bậc nói sự
thật.
256. Trước lông mày
của ta,
Chói sáng khéo tô
vẽ,
Nay biến đổi vì già,
Nhăn nheo, rơi suy sụp,
Ðúng như lời giảng
dạy,
Của bậc nói sự
thật.
257. Mắt ta xanh và dài,
Sáng đẹp như châu
báu,
Nay biến đổi vì già,
Hư hại không chói
sáng,
Ðúng như lời giảng
dạy,
Của bậc nói sự
thật.
258. Lỗ mũi mềm và thon,
Sáng chói và trẻ
măng,
Nay biến đổi vì già,
Héo khô và tàn
tạ,
Ðúng như lời giảng
dạy,
Của bậc nói sự
thật.
259. Trước tai ta sáng chói,
Như vàng vòng khéo
làm,
Nay biến đổi vì già,
Nhăn nhiu chảy xệ xuống,
Ðúng như lời giảng
dạy,
Của bậc nói sự
thật.
260. Trước răng ta sáng
chói,
Như búp nụ chuối
hoa,
Nay biến đổi vì già,
Bể gãy vàng như lúa,
Ðúng như lời giảng
dạy,
Của bậc nói sự
thật.
261. Ngọt là giọng nói ta,
Như chim cu hót rừng,
Nay biến đổi vì già,
Tiếng bể bị đứt đoạn,
Ðúng như lời giảng
dạy,
Của bậc nói sự
thật.
262. Trước cổ ta chói
sáng,
Mềm đầy đặn nhu
nhuyến,
Nay biến đổi vì già,
Nhiều ngấn và khô cằn,
Ðúng như lời giảng
dạy,
Của bậc nói sự
thật.
263. Trước cánh tay của
ta,
Sáng như hai cột tròn,
Nay biến đổi vì già,
Như hoa kèn yết ớt,
Ðúng như lời giảng
dạy,
Của bậc nói sự
thật.
264. Trước bàn tay của
ta,
Mềm mại như cành hoa,
Sáng như nữ trang vàng,
Nay biến đổi vì già,
Như rễ cây khô cằn,
Nhăn nhiu và thô nhám,
Ðúng như lời giảng
dạy,
Của bậc nói sự
thật.
265. Trước vú ta sáng
chói,
Căng thẳng và tròn
đầy,
Nay biến đổi vì già,
Trống rỗng treo lủng lẳng,
Như da không có nước,
Trống không, không căng
tròn,
Ðúng như lời giảng
dạy,
Của bậc nói sự
thật.
266. Trước thân ta chói
sáng,
Như giáp vàng đánh
bóng,
Nay biến đổi vì già,
Ðầy vết nhăn nhỏ
xíu,
Ðúng như lời giảng
dạy,
Của bậc nói sự
thật.
267. Trước bắp vế của
ta,
Sáng chói như vòi
voi,
Nay biến đổi vì già,
Giống như những ống
tre,
Ðúng như lời giảng
dạy,
Của bậc nói sự
thật.
268. Trước ống chân
của ta,
Mềm mại như vòng vàng,
Nay biến đổi vì già,
Chẳng khác gậy cây
mè,
Ðúng như lời giảng
dạy,
Của bậc nói sự
thật.
269. Trước chân ta chói
sáng,
Với lông mềm như bông,
Nay biến đổi vì già,
Nứt nẻ đầy đường
nhăn,
Ðúng như lời giảng
dạy,
Của bậc nói sự
thật.
270. Thân này là như
vậy,
Nay già chứa nhiều khổ,
Ngôi nhà đã cũ
kỹ,
Vôi trét tường rơi
xuống,
Ðúng như lời giảng
dạy,
Của bậc nói sự
thật.
Và vị trưởng lão Ni,
thấy được những hình tướng
vô thường trên thân của mình,
nhận thức được tánh vô thường
của ba giới: Dục giới, Sắc giới và
Vô sắc giới, tâm tư quán triệt tánh
Vô thường, Khổ, Vô ngã, và phát
triển tuệ quán trên con đường tu tập
chứng được quả A-la-hán.
(LXVII) Rohinì
(Therì. 150)
Trong thời đức Phật
hiện tại, nàng sanh ở Vesali trong nhà
một phú gia Bà-la-môn và được
đặt tên là Rohinì (con bò
đỏ, nâu). Ðến tuổi trưởng thành,
khi đức Phật còn ở Vesali, nàng
đến nghe pháp, chứng được quả
Dự lưu. Rồi nàng giảng pháp cho cha
mẹ, cha mẹ chấp nhận pháp và cho phép
nàng xuất gia. Nàng khai triển thiền quán và
không bao lâu chứng quả A-la-hán với
hiểu biết về nghĩa và về pháp.
Suy tư đến một cuộc đàm
thoại về pháp với phụ thân, khi nàng
mới chứng quả Dự lưu, nàng nói
lên sự phấn khởi của nàng với
những bài kệ sau đây về nội dung cuộc
đàm thoại:
271. Nàng chỉ cho ta
thấy,
Ðây là một Sa-môn,
Nàng thức ta tỉnh dậy,
Ðây là một Sa-môn,
Nàng khen tặng Sa-môn,
Muốn thành nữ Sa-môn.
272. Nàng tìm cho Sa-môn
Rất nhiều đồ ăn
uống,
Này hỡi, Rô-hi-ni,
Sao nàng quý Sa-môn?
273. Họ nhác không thích
làm,
Sống với đồ người
cho,
Họ ham lợi thích ngọt,
Sao nàng quý Sa-môn?
274. Cha thân đã lâu
rồi,
Cha hỏi về Sa-môn,
Con sẽ tán thán họ
Tuệ giới hạnh tinh cần.
275. Họ thích làm không
nhác,
Họ làm việc tối thắng,
Họ trừ bỏ tham sân,
Vì vậy con quý họ.
276. Ba cội gốc điều ác,
Họ quét sạch thanh tịnh,
Mọi điều ác đoạn
tận,
Vì vậy con quý họ.
277. Thân nghiệp họ trong sạch,
Khẩu nghiệp họ cũng vậy,
Ý nghiệp họ trong sạch,
Do vậy con quý họ.
278. Không cấu uế giải thoát,
Như vỏ ốc trong sạch,
Trong sạch cả bên trong,
Trong sạch cả bên ngoài,
Công đức họ trắng
tinh,
Do vậy con quý họ.
279. Nghe nhiều thọ trì pháp,
Mạng sống đúng
Chánh pháp,
Họ thuyết nghĩa thuyết pháp,
Do vậy con quý họ.
280-281. Nghe nhiều thọ trì pháp,
Mạng sống đúng
Chánh pháp,
Nhứt tâm giữ chánh
niệm,
Lời sáng suốt khiêm
nhường
Họ chấm dứt đau khổ,
Do vậy con quý họ.
282. Từ làng họ ra đi,
Không nhìn ngó vật
gì,
Họ đi không mong chờ,
Do vậy con quý họ.
283. Không tìm cầu kho
tàng,
Không kho chứa, kho cất,
Họ tầm cầu cứu cánh,
Do vậy con quý họ.
284. Họ không nắm giữ tiền,
Không nắm vàng, nắm
bạc,
Họ sống với hiện tại,
Do vậy con quý họ.
285. Từ gia đình quốc
độ,
Họ xuất gia khác nhau,
Nhưng họ thương kính
nhau,
Do vậy con quý họ.
286. Hỡi này Rô-hi-ni,
Nàng sanh trong gia đình,
Nàng đem lại hạnh
phúc,
Cho gia đình chúng tôi,
Nàng tin Phật, Pháp,
Tăng,
Lòng tín kính sắc
bén.
287. Nàng biết rõ cái
này,
Là ruộng phước vô
thượng,
Chúng tôi cùng tín
kính,
Các vị Sa-môn này,
Tế đàn thiết lập đây,
Ðối với tôi rất
lớn.
288. Nếu cha sợ đau khổ,
Nếu cha không thích khổ,
Hãy quy y Phật-đà,
Quy y Pháp và Tăng,
Hãy chấp nhận giới
đức,
Cha sẽ được hạnh
phúc.
289. Tôi quy y Phật-đà,
Quy y Pháp và Tăng,
Tôi chấp nhận giới
luật,
Tôi sẽ được hạnh
phúc.
290. Lúc trước ta chỉ
là,
Bà con của Phạm thiên,
Nay ta thật chính là,
Một vị Bà-la-môn,
Ta chứng đạt Ba minh,
Ðược an toàn yên
ổn,
Ba Vệ-đà chứng ngộ,
Ta tắm rửa thật sạch.
Và vị Bà-la-môn sau khi
thọ quy y và các giới, xin xuất gia và
chứng quả A-la-hán. Nghĩ đến sự chứng
quả của mình, vị này nói lên
những câu kệ cuối cùng để tỏ lộ
sung sướng của mình.
(LXVIII) Càpà
(Therì. 151)
Trong thời đức Phật
hiện tại, nàng được sanh ở xứ
Vankahàra, trong làng những người
thợ săn đặt bẫy mồi, con người
chủ thợ săn và được đặt
tên là Càpà. Trong lúc ấy, Upaka
một ẩn sĩ khổ hạnh, gặp đức
Bổn Sư khi Ngài đi từ Bồ đề
đạo tràng đến Ba-la-nại để chuyển
pháp luân và hỏi ngài: 'Này Ngài,
hình như Ngài được dồi dào
sức khỏe. Da của Ngài thật trong sáng.
Này Ngài, Ngài từ ai xuất gia? Vị
Ðạo Sư của Ngài là ai? Hay ngài
tin tưởng giáo lý gì?' Và bậc Ðạo
Sư trả lời như sau:
Ta chinh phục tất cả,
Mọi sự việc, Ta biết,
Sống giữa vật không
nhiễm,
Ta từ bỏ tất cả,
Mệnh chung, ác đoạn tận
Kiến thâm sâu, Ta chứng,
Ta chỉ ai cho ông,
Ta không có Bổn Sư,
Trên đời đứng
một mình,
Không ai sánh bằng Ta.
Nay Ta đang đi đến,
Thành phố Ba-la-nại,
Ðể vận chuyển Pháp luân,
Quay bánh xe Chánh pháp
Thức tỉnh và hướng
dẫn,
Quần chúng đang mê
muội,
Ðánh tiếng trống bất
tử,
Rưới cam lồ giải thoát.
Vị ẩn sĩ, biết được
sự giác ngộ và sứ mệnh của Ngài
nên nói: 'Này Ngài, mong rằng sự
việc sẽ như Ngài nói, Ngài xứng đáng
là bậc chiến thắng bất diệt'. Rồi Upaka
đi con đường tắt đến Vankahara,
và sống gần chỗ các người thợ
săn. Người chủ thợ săn lo cung phụng
cho Upaka. Một hôm, người chủ đoàn
thợ săn đi bắn xa với các con trai và
anh em, bảo Càpà lo cúng dường
cho Upaka. Nhưng Càpà rất đẹp
và khi Upaka đến tại nhà để khất
thực, Upaka mê say sắc đẹp của
nàng, đến nỗi ăn không được,
phải đem thức ăn về nhà và nguyện
thà chịu chết nếu không lấy được
Càpà. Sau bảy ngày, người chủ
thợ săn trở về hỏi vị A-la-hán của
mình ở đâu, và được biết
Upaka chỉ đến nhà mình một lần
đầu rồi thôi không đến nữa.
Người thợ săn tìm kiếm đến Upaka và
Upaka than khóc thú nhận sự đắm
say của mình. Người thợ săn hỏi
Upaka có biết nghề gì không, Upaka trả
lời là không và chịu đi lượm
các loài chim thú bị bắt được
và đem bán. Người thợ săn bằng
lòng cho Upaka một cái áo khoác
ngoài đưa về nhà và gả Càpà
cho. Sau một thời gian Càpà sanh được
một người con trai và đặt tên là
Subhadda. Khi đứa con khóc, Càpà
liền hát lên như sau để chế nhạo chồng
mình; 'Con của Upaka! Con của vị ẩn
sĩ! Con kẻ bán đồ săn! Chớ
khóc, chớ khóc này con'. Cuối cùng
Upaka tức quá trả lời: 'Này Càpà,
đừng nghĩ rằng không có ai che chở
cho ta! Ta có một người bạn, một vị
chiến thắng bất diệt, ta sẽ đến với người
bạn ấy'. Càpà biết chồng mình
tức giận, nhưng vẫn trêu chọc chồng
mình, cho đến một hôm Upaka cương
quyết ra đi. Nàng cố cản ngăn nhưng
không được và cuối cùng Upaka
ra đi để gặp Thế Tôn ở Sàvatthi.
Thế Tôn dặn các Tỷ-kheo khi nào có ai đến
hỏi: 'Vị chiến thắng bất diệt ở đâu?'
thời đưa người ấy vào gặp
đức Phật. Khi Upaka đến tịnh xá
và hỏi: 'Vị chiến thắng bất diệt ấy
ở đâu?' Các Tỷ-kheo đưa Upaka đến
gặp đức Phật. Ðức Phật cho
Upaka xuất gia và cuối cùng Upaka
chứng được quả Bất lai. Sau khi mạng
chung Upaka được sanh lên cõi Trời
Aviha, và khi tái sanh, Upaka chứng
được quả A-la-hán.
Còn Càpà, đau
buồn vì chồng bỏ đi, giao con lại
cho ông ngoại đi theo Upaka, xin được
xuất gia và chứng được quả A-la-hán
và lấy bài kệ của Upaka, hợp chung
với bài kệ của mình, nàng nói lên
sự phấn khởi của mình:
Upaka nói:
291. Ta trước tay cầm
gậy,
Nay ta thành thợ săn,
Sa lầy đầm khốn
cùng,
Ta không đến bờ kia.
292. Càpà chọc đứa
con,
Mỉa mai ta say đắm,
Chặt trói buộc Càpà,
Ta nay đã xuất gia.
Càpà nói:
293. Chớ có tức
giận em,
Hỡi bậc đại chiến
thắng,
Chớ có tức giận
em,
Hỡi bậc đại ẩn
sĩ,
Kẻ bị giận chi phối,
Khổ hạnh khó thanh tịnh.
294. Ta sẽ rời Nàlà!
Ai ở lại Nàlà,
Khi nếp sống đúng pháp,
Tại đấy vị Sa-môn,
Bị sắc đẹp nữ
nhân,
Trói buộc vào quyến rũ.
295. Hãy trở lui thưa chàng,
Chàng mắt đen của
thiếp,
Hãy hưởng thọ dục
lạc,
Như trước chàng đã
hưởng,
Thiếp xin phục tùng chàng,
Lại còn bà con thiếp.
296. Này Càpà phần
tư,
Ðiều nàng đã
nói lên,
Ðôi kẻ say mê nàng,
Có thể thành lớn mạnh.
297. Chàng mắt đen của
thiếp,
Thiếp chẳng đẹp hay sao,
Như cây lựu nẩy mầm,
Nở hoa trên đầu
núi,
Như giây leo giăng hoa,
Hay như bông thổi kèn,
Trong nội địa hoang đảo,
Hãy nhìn sắc đẹp
thiếp.
298. Ướp thơm với mùi
hương,
Hương chiên đàn
đỏ thắm,
Thiếp mang lụa Kàsi,
Lụa Kàsi tối thượng,
Thiếp đẹp như thế này,
Sao chàng bỏ rơi thiếp.
299. Như thợ săn bắt
chim,
Muốn dùng mồi bắt
chim,
Dầu bủa giăng sắc
đẹp,
Nàng không trí ta được!
300. Còn quả con trai này,
Do chàng sanh ra thiếp,
Chàng mắt đen của
thiếp,
Sao chàng lại từ bỏ,
Ðứa con trai của thiếp,
Ðứa con trai của chàng.
301. Bậc trí bỏ con trai,
Bỏ bà con, tài sản,
Bậc đại hùng xuất
gia,
Như voi biết trói buộc.
302. Con trai này của chàng,
Nay thiếp dùng gậy dao,
Ðánh ngã nó trên
đất,
Hãy tự cứu cho chàng,
Vì sầu muộn đứa
con,
Chàng không thể bỏ đi.
303. Nếu nàng quăng con trai
Cho chó sói, loài chó,
Kẻ sanh con trai ta,
Không động lòng
trắc ẩn,
Nàng sẽ không làm
được,
Khiến ta trở lui lại.
304. Nay mong chàng tốt lành,
Chàng mắt đen của
thiếp!
Chàng sẽ đi đến
đâu?
Làng nào, thị trấn
nào,
Chàng đi thành phố
nào?
Chàng đi kinh đô
nào?
305. Xưa đời sống
chúng tôi,
Tổ chức thành đồ
chúng!
Không phải là Sa-môn,
Chúng tôi tưởng Sa-môn!
Chúng tôi sống bộ
hành,
Làng này qua làng khác,
Sống trong những thành
phố,
Cũng như tại thủ đô.
306. Nay thật Thế Tôn này,
Dọc bờ sông Ni-liên,
Ngài thuyết giảng Chánh
pháp,
Cho các loài hữu tình,
Ðoạn tận mọi khổ đau,
Ta nay đi đến Ngài,
Ngài sẽ là Ðạo
Sư,
Ðạo Sư của chúng
ta.
307. Nay chàng đi đảnh
lễ,
Bậc Thế Tôn vô thượng!
Ði hữu nhiễu quanh Ngài!
Dâng Ngài lòng cung kính.
308. Càpà, như nàng
nói!
Lợi ích cả hai ta!
Nay ta thay mặt nàng,
Lễ Thế Tôn vô thượng,
Ði hữu nhiễu quanh Ngài,
Ta dâng lòng cung kính.
309. Rời Kàla ra đi,
Dọc sông Ni-liên-thiền,
Thấy bậc Chánh Ðẳng
giác,
Thuyết pháp đạo bất
tử.
310. Thuyết khổ, khổ tập khởi!
Vượt qua sự dau khổ,
Thuyết đường Thánh
tám ngành,
Ðưa đến khổ tịnh
chỉ.
311. Ðảnh lễ chân
Ngài xong,
Hữu nhiễu quanh Ngài
xong,
Trình lên lời ước
nguyện,
Của Càpà vợ chàng!
Rồi chàng xin xuất gia,
Sống đời không gia
đình,
Chứng đạt được
Ba minh,
Làm xong lời Phật dạy.
(LXIX) Sundàrì
(Therì. 153)
Trong thời đức Phật
hiện tại, nàng sanh ở Benares (Ba-la-nại),
con cái của Sujata, một Bà-la-môn.
Vì thân nàng đẹp đẽ, nàng
được gọi là Sundarì, khi nàng
lớn, em trai nàng chết. Cha nàng quá đau
khổ đi lang thang và gặp Trưởng lão
Ni Vasitthi. Khi Trưởng lão Ni hỏi cha nàng
bị đau khổ gì, cha nàng trả lời
bằng hai câu kệ đầu. Ðể làm nhẹ
bớt đau khổ, Trưởng lão Ni nói
hai câu kệ tiếp, và nói lên tâm trạng
giải thoát khỏi đau khổ của nàng.
Vị Bà-la-môn hỏi làm sao Trưởng
lão Ni lại được giải thoát khỏi
đau khổ như vậy. Vị Trưởng lão
Ni trả lời về Ba ngôi báu và quy y. Khi được
biết bậc Ðạo Sư nay ở Mithilà,
vị Bà-la-môn đánh xe đến Mithilà,
yết kiến đức Phật. Ðức Phật thuyết
pháp, vị Bà-la-môn khởi lòng tin,
xin xuất gia, vào ngày thứ ba chứng
quả A-la-hán, sau khi tinh tấn, tinh cần phát
triển thiền quán.
Người đánh xe, đánh
xe về nhà Bà-la-môn và nói cho nữ
Bà-la-môn sự việc đã xảy ra. Sundarì
nghe vậy, nàng xin mẹ xuất gia. Bà
mẹ nói nay toàn thể tài sản đều thuộc
của nàng, hãy thọ hưởng tài sản
ấy. Sundarì nói tài sản không
có nghĩa gì đối với nàng,
nàng chỉ muốn xuất gia. Sau khi được
bà mẹ bằng lòng, nàng bỏ cả
tài sản như những vật vô giá
trị. Nhờ tinh cần tinh tấn, nhờ chủng
tử tốt lành, nhờ trí tuệ chín muồi,
không bao lâu nàng chứng quả A-la-hán,
với hiểu biết về nghĩa và về pháp.
Sống trong sự an lạc giải
thoát, nàng nghĩ: 'Ta sẽ rống lên
tiếng rống con sư tử trước mặt bậc
Ðạo Sư!'. Sau khi xin phép bậc thầy
của mình nàng rời khỏi Benares,
với một số đông Tỷ-kheo-ni, và cuối
cùng đến Sàvatthi, yết kiến đức
Phật, đảnh lễ Ngài rồi đứng
một bên. Nàng nói lên chánh trí
của nàng, xem nàng như là con gái
sanh ra từ miệng đức Bổn Sư. Và tất
cả bà con nàng, bắt đầu từ
mẹ nàng và các người hầu cận
đều xuất gia. Suy nghĩ đến quả chứng
của mình và dùng lời tuyên bố
của người cha, nàng nói lên sự
phấn khởi của nàng như sau:
Sujàta:
312. Hỡi nữ Bà-la-môn,
Những con nàng đã
chết,
Trong thời gian quá khứ,
Thần chết ăn nghiến chúng,
Cả ngày và cả đêm
Khổ đau nung nấu nàng.
313. Nay có đến bảy con
Bị thần chết vồ lấy,
Nhưng này Vàsitthi
Chính vì lý do gì?
Nàng không bị đau
khổ,
Não hại và nung nấu?
Vàsitthi:
314. Nhiều trăm con trai ta
Hàng trăm chúng bà
con,
Ðã bị thần chết
ăn,
Của ta và của ngươi!
315. Ta biết đường giải
thoát,
Khỏi sanh và khỏi chết,
Ta không sầu, không khóc,
Ta không bị nung nấu.
Sujàta:
316. Hỡi nàng Vàsitthi
Vi diệu thay, lời người!
Nàng biết pháp của ai,
Nàng nói được
như vậy?
Vàsitthi:
317. Hỡi này, Bà-la-môn,
Bậc Chánh Ðẳng
Giác này,
Ở thành Mithìla,
Ngài thuyết cho hữu tình,
Chánh pháp thật vi diệu,
Ðoạn tận mọi khổ đau!
318. Hỡi này Bà-la-môn,
Ta nghe La-hán ấy,
Thuyết pháp không sanh y,
Ở đây nhờ hiểu rõ
Ta biết pháp vi diệu
Sầu vì con quét sạch.
Sujàta:
319. Con sẽ đi ngay đến
Thành phố Mithìla!
Mong bậc Thế Tôn ấy,
Giúp con thoát mọi khổ,
Bà-la-môn thấy Phật,
Bậc giải thoát mọi khổ.
320. Bà-la-môn thấy Phật,
Bậc giải thoát vô
sanh
Bậc Mâu-ni, vượt khổ
Thuyết pháp cho vị ấy.
321. Thuyết khổ, khổ tập khởi,
Vượt qua sự đau khổ,
Thuyết Thánh đạo tám
ngành,
Con đường lắng dịu
khổ.
322. Ở đây, hiểu Diệu pháp,
Hoan hỷ chọn xuất gia,
Sujàta ba đêm,
Chứng đạt được
Ba minh.
323. Hãy đi, người
đánh xe,
Ðánh xe này về nhà,
Chức nữ Bà-la-môn,
Ðược sức khỏe,
không bệnh,
Và nói vị Phạm
chí
Nay đã xuất gia rồi,
Sujàta ba đêm,
Chứng đạt được
Ba minh.
324. Người đánh xe
lấy xe,
Cùng với ngàn đồng
tiền,
Chức nữ Bà-la-môn,
Ðược sức khỏe,
không bệnh
Và nói vị Phạm
chí,
Nay đã xuất gia rồi,
Sujàta ba đêm
Chứng đạt được
Ba minh.
Mẹ của Sundarì:
325. Hỡi này người
đánh xe,
Xe ngựa, ngàn tiền này,
Khi nghe vị Phạm chí
Ðã đạt được
Ba minh,
Ta cho người đầy
bát
Cả xe và ngàn tiền.
326. Hỡi nữ Bà-la-môn!
Hãy giữ lại cho người,
Xe ngựa và ngàn tiền,
Tôi sẽ đi xuất gia,
Sống thân cận gần
gũi
Bậc trí tuệ tối thắng.
327. Voi, trâu bò và ngựa,
Châu báu và vòng
vàng,
Những gì làm gia tài,
Trở nên giàu có
này,
Cha con đã xuất gia,
Ðã bỏ lại tất
cả....
Này con Sundarì,
Con thừa tự gia đình,
Hãy thọ hưởng tài
sản,
Của đại gia đình
này,
328. Voi, trâu bò và ngựa,
Châu báu và vòng
vàng,
Những gì làm gia tài,
Trở nên cám dỗ nàng;
Sầu khổ vì đứa
con,
Cha con đã xuất gia,
Ðã từ bỏ tất
cả
Gia sản sự nghiệp này,
Con nay sẽ xuất gia,
Sầu khổ vì anh con
329. Hỡi này Sundarì
Nếu đấy ước nguyện
con,
Mong rằng tâm tư ấy,
Ðược thành tựu
viên mãn;
Nuôi sống bằng đồ
ăn,
Tích lũy nhờ khất
thực,
Y áo được tác
thành,
Với miếng vải lượm lặt,
Những nếp sống như vậy,
Ðược thành tựu
viên mãn,
Khiến lậu hoặc đoạn
tận,
Trong thế giới đời sau.
Sundarì:
330. Kính thưa Trưởng
lão Ni,
Con đã học, tu tập,
Thiên nhãn được
thanh tịnh,
Con biết các đời trước,
Tại chỗ con được sống,
Trước kia như thế nào.
331. Nhờ Ni sư, con được
Ôi, bạn lành của
con!
Bậc sáng chói tốt
đẹp,
Trong chúng Trưởng lão
Ni!
Ba minh đã chứng đạt,
Lời Phật dạy, làm
xong.
332. Ni sư hãy cho phép
Con đi đến Xá Vệ!
Con sẽ rống vang lên,
Tiếng rống con sư tử!
Trước mặt bậc Giác
ngộ,
Phật-đà, bậc tối
thượng.
333. Hỡi này Sundarì,
Nàng thấy bậc Ðạo
Sư,
Màu da, sắc màu vàng,
Như vàng ròng sáng
chói!
Bậc Chánh Ðẳng,
Chánh giác,
Không điều gì sợ
hãi,
Bậc đã điều phục
được,
Kẻ chưa được
điều phục.
334. Ðang đi đến trước
Ngài,
Ngài thấy Sundarì!
Ly tham không hệ lụy,
Giải thoát, không sanh
y,
Ðã làm việc phải
làm,
Không còn các lậu
hoặc.
335.Từ thành Ba-la-nại!
Con đã bước ra đi!
Con đến bậc Ðại
hùng.
Con là Sundarì,
Con chính đệ tử Ngài!
Con đảnh lễ chân
Ngài.
336. Ngài là bậc Giác
ngộ!
Ngài là bậc Ðạo
Sư!
Con là con gái Ngài
Ôi bậc Bà-la-môn!
Con sanh từ miệng Ngài!
Ðã làm việc phải
làm,
Không còn có lậu
hoặc,
Con là Sundarì
337. Hiền nữ, Ta mừng con
Ðường còn lại,
không xa!
Như vậy, bậc Tự điều,
Ðảnh lễ chân Ðạo
Sư!
Bậc ly tham, ly hệ,
Không hệ lụy trói buộc,
Ðã làm việc phải
làm,
Không còn các lậu
hoặc.
(LXX) Subhà,
Con Người Thợ Vàng (Therì. 156)
Trong thời đức Phật
hiện tại, nàng sanh ở Ràjagaha (Vương
Xá), con gái một người thợ vàng.
Vì nàng rất đẹp, nên được
gọi là Subhà. Khi nàng đến tuổi
trưởng thành, khi đức Phật còn
ở tại Ràjagaha, nàng đến yết kiến
Ngài, khởi lòng tin tưởng, đảnh
lễ ngài rồi ngồi xuống một bên.
Bậc Ðạo Sư biết được căn
cơ tâm tư thuần thục của nàng,
tùy theo ý nguyện của nàng, Ngài thuyết pháp
cho nàng về ly Bốn sự thật và nàng
chứng được quả Dự lưu. Về sau,
nàng nhận thấy sự khó khăn sống
trong gia đình, xin xuất gia dưới sự
hướng dẫn của bà Mahàpajàpati
Gotamì, hướng tâm đến con đường
siêu thoát. Thỉnh thoảng, các bà
con của nàng mời nàng trở lại với
đời, nói lên sự hấp dẫn của
đời. Một hôm nàng thuyết pháp cho
bà con của nàng, nói lên những nguy
hiểm của đời sống cư sĩ, và ở
đời thuyết pháp cho họ với hai mươi bốn
bài kệ như sau và chữa cho họ thoát khỏi
bệnh tham vọng. Rồi nàng phát triển thiền quán,
gột sạch các căn cuối cùng nàng
chứng được quả A-la-hán. Khi đã
chứng quả A-la-hán, nàng nói như
sau:
338. Ta trước mặc áo
trắng,
Ðược nghe giảng Chánh
pháp,
Do ta không phóng dật,
Chứng tri được chân
lý.
339. Nhờ vậy đối
mọi dục,
Không còn tham muốn lớn,
Thấy sợ hãi thân
kiến,
Ta mong muốn viễn ly.
340. Ta bỏ chúng bà con,
Bỏ lao công, nô tỳ,
Làng ruộng đất
phì nhiêu,
Khiến người thích hân
hoan,
Từ bỏ, ta xuất gia,
Gia sản đâu có ít.
341. Nhờ diệu pháp khéo
thuyết,
Ra đi, với lòng tin,
Ta không thể hy cầu
Vật gì thuận gia sản
Vàng bạc ta đã
bỏ,
Sao lại đi đến chúng?
342. Vàng bạc không giác
ngộ,
Không làm người an
tịnh,
Không hợp hạnh Sa-môn,
Không phải tài sản
thánh.
343. Chính vàng hay bạc
này
Làm tham ái, đắm
say,
Làm con người ngu si,
Làm tăng trưởng bụi
trần,
Nguy hiểm nhiều ưu não,
Ðây, không gì trường
cửu.
344. Ðây, loài Người
tham đắm,
Phóng dật, tâm uế nhiễm,
Chống đối thù
địch nhau
Rộng đường đấu
tranh nhau.
345. Giết hại, trói, tra tấn,
Hao tài sầu, ưu tư
Những ai chìm trong dục,
Gặp phải nhiều tai họa.
346. Vì sao bà con ta
Giống như kẻ thù
ta,
Lại trói buộc ta vào,
Trong vòng các dục lạc,
Hãy biết ta xuất gia,
Vì thấy dục đáng
sợ.
347. Bạc, vàng không có
thể
Ðoạn được các
lậu hoặc,
Các dục là thù
địch,
Sát nhân, chuyên giết
hại,
Chúng là kẻ oán
thù,
Là mũi tên, dây
trói.
348. Vì sao bà con ta
Giống như kẻ thù
ta,
Lại trói buộc ta vào
Trong vòng các dục lạc,
Hãy biết ta xuất gia,
Cạo tóc đắp đại
y.
349. Nuôi sống bằng đồ
ăn,
Tích lũy nhờ khất
thực,
Y áo được tác
thành
Với miếng vải lượm lặt
Sống vậy, thích hợp
ta,
Cơ bản, sống không
nhà.
350. Dục đại sĩ từ
bỏ
Dục loài Trời, loài
Người,
Trú an ổn, giải thoát
Không dao động an lạc.
351. Chớ để ta đến dục,
Trong dục, không an toàn,
Dục, thù địch
sát nhân
Gây khổ, dụ đống
lửa.
352. Ðường hiểm, đầy
sợ hãi,
Ðầy khổ hoạn, gai
góc,
Tham ái đường gập
ghềnh,
Hoang si mê rộng lớn.
353. Tai họa đầy hãi
hùng,
Các dục dụ đầu
rắn,
Kẻ ngu thích thú dục,
Kẻ mù lòa phàm
phu.
354. Chúng sanh chìm bùn
đục,
Những kẻ không thấy
đời,
Họ không có rõ biết,
Sự chấm dứt sanh tử.
355. Loài Người vì
nhân dục,
Con đường đến ác
thú,
Phần nhiều đi đường
ấy,
Khiến tự ngã bệnh hoạn.
356. Như vậy dục sanh thù,
Nung nấu, làm uế nhiễm,
Dục thuộc về thể vật,
Trói người vào tử
vong.
357. Dục làm cho diên
cuồng,
Loạn ngôn tâm thác
loạn,
Làm uế nhiễm chúng sanh,
Sắp rơi bẫy Ác ma.
358. Dục nguy hiểm không cùng,
Nhiều khổ, thuốc độc
lớn,
Ngọt ít, tạo đấu
tranh,
Héo tàn ngày tươi
sáng.
359. Ta quyết định như vậy,
Không trở lui dục nhân,
Tác thành điều bất
hạnh,
Luôn vui hưởng Niết-bàn.
360. Quyết đấu tranh với
dục,
Chờ đợi, mát, lắng
dịu,
Sẽ sống không phóng
dật,
Ðoạn diệt kiết sử dục.
361. Ta đi theo đường
ấy
Ðường đại sĩ
đi qua,
Không sầu, không cấu
uế,
An ổn, thẳng, Tám ngành.
362. Hãy xem Subhà này,
An trú trên Chánh pháp,
Con gái một thợ vàng,
Ðạt được không
tham dục,
Ngồi hành trì thiền
định,
Ở dưới một gốc cây.
363. Hôm nay, ngày mồng
tám
Từ khi nàng xuất gia,
Với lòng đầy tin
tưởng,
Sáng chói chân Diệu pháp,
Up-pa-la-van-na,
Huấn luyện giảng dạy nàng,
Nàng chứng được
Ba minh,
Vượt qua được thần
chết.
364. Nàng tự mình giải
thoát,
Không còn có nợ nần.
Là vị Tỷ-kheo-ni,
Các căn được
tu tập,
Ly hệ mọi khổ ách,
Việc cần làm làm xong,
Ðối với các lậu
hoặc,
Nàng đoạn diệt hoàn
toàn.
365. Sakka đến với nàng,
Cùng với chúng chư
Thiên,
Với thần thông diệu dụng,
Chúng đảnh lễ Subhà,
Nàng chỉ là con gái,
Con một người thợ vàng,
Nhưng nay là hội chủ,
Của mọi loài chúng sanh.
Vào ngày thứ tám, khi
nàng đã thọ giới, nàng chứng quả
A-la-hán. Thế Tôn ngồi dưới một cành
cây, nói lên bài kệ (362-364) để tán
dương nàng và chỉ nàng cho các
Tỷ-kheo biết. Câu kệ cuối cùng do các Tỷ-kheo
thêm vào để tán dương Sakka đã
đến đảnh lễ nàng.
[Phẩm trước][Mục
lục][Phẩm kế][
^ ]
|