|
Phẩm III
-ooOoo-
Tiểu Phẩm
1. (26) Chuyện Không
Chìm Trong Nước (Abhijjamàna)
Bậc Ðạo Sư kể chuyện
này trong lúc đang trú tại Veluvana
(Trúc Lâm)
Về phía Tây Benares (Ba-la-nại)
bên kia sông Hằng, khi ta đi qua thị trấn
Vàsabha, trong thôn làng tên gọi Cundatthilà
có một người thợ săn.
Y giết hươu nai trong rừng,
nấu loại thịt ngon nhất trên than hồng
và khi ăn xong, y buộc những thứ còn
lại trong cái thúng bằng lá, mang trên
đòn gánh đi vào làng.
Khi đám trẻ con thấy
y ở cổng thị trấn, chúng chìa tay ra,
chạy tới xin:
- Cho tôi miếng thịt! Cho tôi
miếng thịt!
Vì thế y cho mỗi đứa trẻ
một miếng thịt nhỏ. Một hôm y chỉ mang
hoa và cho mỗi đứa một chùm. Khi từ
trần, y tái sanh làm ngạ quỷ. Vừa đói
vừa khát, y bước đi trên sông
Hằng mà không bị chìm, mong tìm về
quê làng cùng bà con thân thuộc.
Vị đại thần của
vua Bimbisàra (Tần-bà-sa) sau khi đi
dẹp quân phiến loạn xong, trở về bằng thuyền
xuống dòng sông, trông thấy ngạ
quỷ kia đang đi xuôi dòng, bèn hỏi:
1. Ngươi chẳng bị
chìm xuống nước sông,
Ngươi đi trên mặt
nước sông Hằng,
Thân mình trần trụi,
và tuy thế,
Người đội vòng
hoa khéo điểm trang,
Như thể thoát ly thân phận
quỷ,
Ngươi đi đâu
đó, ở đâu chăng?
Bấy giờ những chuyện do ngạ
quỷ và đại thần Kiliya nói được
các vị kết tập Kinh điển kể lại qua các
vần kệ sau:
2. Ngạ quỷ đáp
lời: 'Tôi sẽ đi
Về thôn làng cũ Cun-dat-thi,
Giữa nơi đây với
Và-sa phố,
Kế cận Ba-la-nại sá gì!
3. Khi ấy, đại thần
nổi tiếng kia,
Người mang danh hiệu Ko-li-ya,
Ðem cho ngạ quỷ phần
cơm chín,
Một bộ áo và bánh
mạch nha.
4. Ngừng chiếc thuyền kia, vị
đại thần
Bảo tìm người hớt
tóc cúng dâng,
Khi người hớt tóc dùng
đồ cúng,
Ngạ quỷ hưởng ngay quả
phước ân.
5. Tức thì quỷ phục sức
cao sang
Mang đủ vòng hoa khéo
điểm trang,
Ngạ quỷ đứng nơi
kia hưởng thọ
Lễ dâng cúng tạo
phước ân tràn,
Vì duyên cớ ấy ta
nên cúng
Cho ngạ quỷ vì biết xót
thương.
Như vậy vị đại thần
Koliya cảm thấy xót thương ngạ
quỷ ấy và làm lễ bố thí cho nó
theo cách được nói trên. Vị ấy
tiếp tục xuôi dòng và đến Ba-la-nại
lúc rạng đông.
Ðức Thế Tôn du hành
qua không gian để đón mừng hội chúng
và đứng trên bờ.
Ðại thần Koliya vô
cùng hoan hỷ, thỉnh cầu đức Thế Tôn
thọ trai tại nhà vị ấy. Ðức Thế
Tôn im lặng nhận lời.
Với tâm thanh thản, đại
thần Koliya cúng dường thực phẩm
lên đức Phật và chúng Tăng.
Sau đó, khi một đám đông
dân chúng tụ họp lại, đức Thế Tôn
vì lòng lân mẫn chúng sanh đã
làm phép mầu khiến cho một số ngạ
quỷ xuất hiện trước quần chúng và
kể chuyện chúng đã đọa lạc như vậy
bằng cách nào.
Chư vị kết tập Kinh điển
diễn tả như sau:
6. Một bọn mang đầy
giẻ rách bung,
Bọn kia lấy tóc để che
thân,
Cả bầy ngạ quỷ tìm
lương thực,
Lang bạt đi quanh quẩn
khắp vùng.
7. Ra đi tìm kiếm xứ
xa xôi,
Song chẳng nhận đâu
được miếng mồi,
Ðói khát trở về
nằm bất tỉnh,
Ngã nhào xuống đất
trốn đi thôi.
8. Một bọn ngã nằm xuống
đất dơ,
Chúng không làm thiện
nghiệp ngày xưa,
Chúng trông như thể đang
thiêu đốt
Vì lửa hạ và cất
tiếng thưa:
9-10. 'Xưa là ác phụ
mẫu trong nhà,
Chẳng tạo nơi an trú
chúng ta
Qua các việc thi ân bố
đức,
Dù nhiều thực phẩm được
quăng xa,
Chúng ta đã chẳng
đem phân phát
Cho những đoàn du sĩ
xuất gia.
11. Trong lúc muốn làm
việc ác gian,
Biếng lười, bướng bỉnh,
lại tham ăn,
Chúng ta cho chút phần
thừa thải
Và phỉ báng người
được phát ban.
12. Nô tỳ và sản nghiệp
toàn gia,
Ngay cả đồ trang sức
ngọc ngà,
Giờ đây phục vụ
bao người khác,
Ðau buồn giành lại
số phần ta.
13. Những người đan
giỏ đáng chê bai,
Những kẻ đóng
xe bị đọa đày,
Những bọn tắm thuê cho
kẻ khác,
Chiên-đà hạ đẳng,
đám ăn mày.
14-15. Trong nhà hạ liệt, bọn
cùng đinh
Như vậy, bọn này được
tái sanh,
Ấy phận dành cho người
biển lận;
Còn người xưa tạo
nghiệp an lành,
Là người bố thí,
tay hào phóng,
Chiếu sáng vườn Thiên
lạc hiển vinh.
16. Hưởng thọ bao hoan lạc
cõi trời,
Họ làm chúa tể các lâu
đài,
Từ đây họ tái
sanh cao quý,
Giữa các phú gia ở
cõi người.
17. Trong nhà nóc nhọn có
nhiều tầng,
Ngay cả hoàng cung, với
tọa sàng
Bao phủ chăn màn lông
thú quý,
Những người đã
nhiếp phục điều thân,
Tái sanh vào các nhà
lương thiện,
Ðầy đủ tiện nghi
giữa thế nhân,
Tay của mỗi người cầm
chiếc quạt
Ðược làm bằng
các sợi lông công.
18. Bất cứ nơi nào
họ bước ra,
Họ đều điểm ngọc với cài
hoa;
Gia nhân hộ tống ngay bên
cạnh,
Tìm đủ thú vui
sáng tối mà.
19. Nan-da-ra, Hỷ lạc Viên này
Không phải để dành
cho những ai
Chẳng tạo tác nên
nhiều phước nghiệp,
Mà dành riêng biệt để
cho người
Ðã hoàn thành
được nhiều công đức,
Là Ðại Lâm Viên
của cõi trời
Tam thập tam thiên đầy
lạc thú,
Không vì phiền não, mãi
vui tươi.
20. Chẳng đời này
hoặc cõi đời sau
Hạnh phúc dành cho những
kẻ nào
Không tạo tác nên
nhiều phước nghiệp,
Song đời này lẫn
cõi đời sau
Ðể dành hạnh phúc
cho bao kẻ
Làm các thiện hành phước
nghiệp cao.
21. Vậy những ai mong chúng
bạn hiền,
Phải hoàn thành thiện
nghiệp tinh chuyên,
Bởi vì người tạo
nhiều công đức
Hưởng lạc thú nhiều
ở cõi thiên.
2. (27) Chuyện Ngạ
Quỷ Núi Sànuvàsin (Sànuvàsinpeta)
Bậc Ðạo Sư kể chuyện
này trong lúc đang trú tại Veluvana
(Trúc Lâm).
Ngày xưa ở thành Ba-la-nại,
vương tử của vua Kitava, trong lúc dạo
chơi từ vườn ngự uyển về, thấy một
vị Ðộc Giác Phật tên là Sunetta
đang đi khất thực, bèn buông lời
thô lỗ phỉ báng Ngài. Ngay khi vương
tử tiến bước lên thì cảm thấy cơ
thể nóng bừng như thiêu đốt trong
lửa địa ngục.
Vì bệnh này vị ấy
từ trần và tái sanh vào địa
ngục Avìci (A-tỳ hay Vô gián). Sau
đó vị ấy mạng chung và tái
sanh làm ngạ quỷ và kế tiếp trong thời kỳ
có đức Thế Tôn Gotama xuất hiện,
vị ấy tái sanh vào một làng chài
lưới gần thị trấn Kundi.
Vì nhớ lại các kiếp
trước, vị ấy không đi đánh
cá cùng các người khác và
thường quăng cá trở ra biển khi họ mang về.
Quyến thuộc trong gia đình đuổi vị
ấy ra khỏi nhà, nhưng một người
em trai vẫn thương mến vị ấy.
Rồi Trưởng lão Ananda
khuyến giáo vị ấy xuất gia làm Tỷ-kheo;
về sau đắc quả A-la-hán, vị ấy cư
trú cùng nhóm mười hai Tỷ-kheo trên
núi Sànuvàsin.
Còn quyến thuộc vị ấy
tái sanh làm ngạ quỷ. Bấy giờ cha mẹ
vị ấy hổ thẹn vì suy nghĩ: 'Kiếp trước
ta đã đuổi con ra khỏi nhà', nên
không đến gần vị ấy, nhưng bảo
người em trai xưa kia thương yêu vị
ấy ra đi.
Khi quỷ nhân này đã
vào làng của vị Trưởng lão đang
đi khất thực, nó quỳ xuống đất
với đầu gối bên phải, xuất
hiện nguyên hình với dáng điệu đảnh
lễ tôn kính và ngâm vần kệ:
- Kính thưa Tôn giả, mẹ
và cha....
Song năm vần kệ đầu
do chư vị kết tập Kinh điển đưa vào
đây để làm sáng tỏ vấn
đề này:
1. Có vì Trưởng
lão ở Kun-di,
Trú tại núi Sà-nu-và-si,
Ðiều phục các căn,
người khổ hạnh,
Pot-tha-pà ấy chính
danh kia.
2. Em trai, cùng với mẹ và
cha,
Khốn khổ thần dân
cõi Dạ-ma,
Vì tạo ác hành
trong kiếp trước,
Từ đời này đã
hóa ra ma.
3. Ở nơi đọa xứ, ốm
trơ xương
Như chiếc kim, lao nhọc, ở truồng,
Hốc hác, lo âu, đầy
sợ hãi,
Chúng không còn có
vẻ hung tàn.
4. Có chú em kia vội bước
chân,
Cô thân trên nẻo
vắng, mình trần,
Quỳ tay chân xuống như
thùng nước
Trước Trưởng lão
này, quỷ hiện thân.
5. Bấy giờ Trưởng lão
chẳng quan tâm,
Lặng lẽ người đi,
cất bước chân,
Song ngạ quỷ liền cho Trưởng
lão
Biết ngay sự việc, vội thưa
rằng:
'Tôi là em của ngài
tiền kiếp,
Ðã đọa vào loài
quỷ đói ăn.
6. Kính thưa Tôn giả,
mẹ cùng cha
Khốn khổ, thần dân
cõi Dạ-ma.
Vì tạo ác hành
trong kiếp trước,
Từ đời này đã
hóa ra ma.
7. Ở nơi đọa xứ ốm
trơ xương
Như chiếc kim, lao nhọc, ở truồng,
Hốc hác, lo âu, đầy
sợ hãi,
Chúng không còn có
vẻ hung tàn.
8. Xin hãy từ bi, hãy
xót thương,
Cúng dường hồi hướng
đến vong nhân.
Phước phần nhờ lễ
ngài dâng cúng
Những kẻ hung tàn được
miếng ăn'.
9. Khi Trưởng lão này
với chúng Tăng
Mười hai vị khất thực
quanh vùng,
Thế rồi tụ tập cùng
nơi chốn,
Mục đích là chiêu
đãi bữa ăn.
10. Tỷ-kheo bèn nói với
chư Tăng:
'Xin hãy cho tôi tất
cả phần
Ðã nhận, để tôi
dâng Giáo hội,
Vì thương xót quyến
thuộc thân nhân'.
11. Chúng Tăng giao thực
phẩm cho người,
Trưởng lão dâng trai
phạn thỉnh mời,
Trong lúc cúng dường
phần thực phẩm,
Người đem công đức
hướng về nơi
Song thân, tiểu đệ và
cầu nguyện:
'Mong quyến thuộc nay hưởng
phước trời'.
12. Lập tức sau khi chuyển phước
phần,
Cao lương liền xuất hiện
dần dần
Ngon lành, thịnh soạn,
đầy hương vị,
Sau đó chú em của
Thánh Tăng
Ðã trở thành chàng
trai tuấn tú,
Tráng cường, hạnh
phúc, lại thưa rằng:
13. 'Tôn giả, xin thưa, các
thức ăn
Giờ đây phong phú,
hãy nhìn trông,
Chúng tôi trần trụi,
xin cầu nguyện
Mong ước sao cho đủ
áo quần'.
14. Khi giẻ rách người
đã lượm xong
Từ trong đống rác
ở bên đường,
Người may giẻ rách
thành y phục
Dâng cúng Tỷ-kheo khắp
bốn phương.
15. Trong lúc người làm
lễ cúng dâng,
Tỷ-kheo hồi hướng đến
thân nhân
Phước phần lễ vật
này mang đến
Cha mẹ, chú em, ước
nguyện rằng:
'Mong lễ vật này cho
quyến thuộc
Họ hàng được hưởng
trọn hồng ân'.
16. Lập tức sau khi chuyển phước
phần,
Xiêm y liền xuất hiện dần
dần;
Thế rồi phục sức xiêm
y đẹp,
Chàng hiện nguyên hình
trước Thánh Tăng:
17. 'Xin thưa, ở quốc độ
Nan-da,
Các thứ mền chăn quả
thực là
Phong phú, song còn hơn
thế nữa,
Áo quần, màn phủ
ở quanh ta.
18. Chúng làm bằng lụa
hoặc bằng lông,
Bằng vải dày hay các
sợi bông,
Chúng thật dồi dào
và quý báu,
Ðang treo lơ lửng giữa
hư không.
19. Y phục chúng tôi nay
cứ mang
Thứ gì yêu quý tận
tâm can,
Kính thưa Tôn giả,
xin cầu nguyện
Cho chúng tôi nhà để
trú an'.
20. Trưởng lão liền xây
một thảo am
Cúng dường lên cả
tứ phương Tăng,
Ngay khi dâng lễ, người
cầu nguyện
Công đức chuyển cho cá
họ hàng.
21. Lập tức sau khi chuyển phước
phần,
Cửa nhà liền xuất hiện
dần dần,
Có nhiều tòa lớn xây
lầu các,
Thiết kế đầy cân xứng
mọi tầng.
Ngạ quỷ thưa:
22. 'Nhân giới không
sao có loại nhà
Cao sang tốt đẹp giống
như ta,
Những lâu đài thấy
trên thiên giới
Cũng giống nhà ta có
đấy mà!
23. Rực rỡ huy hoàng khắp
mọi nơi
Lâu đài chiếu sáng
bốn phương trời;
Giờ đây, Tôn giả,
xin cầu nguyện
Cho chúng tôi đầy
nước uống thôi'.
24. Trí giả đổ đầy
thùng nước trong,
Rồi đem dâng cúng
tứ phương Tăng,
Ngay khi làm lễ, người
cầu nguyện
Công đức chuyển cho các
họ hàng.
25. Lập tức sau khi chuyển phước
phần,
Nước trong liền xuất hiện
dần dần,
Có bốn hồ sen sâu
thăm thẳm
Xây dựng đầy cân
xứng tuyệt trần.
26. Nước hồ trong vắt
đến bên bờ
Mát lạnh mùi hương
nhẹ thoảng đưa,
Bao phủ toàn sen xanh, đỏ
thắm,
Tràn đầy hoa súng
với cành tơ.
27. Sau khi tắm rửa, uống
vừa xong,
Chúng lại hiện lên trước
Thánh Tăng:
'Tôn giả, chúng tôi
nhiều nước lắm,
Song chân cẳng lại bị
đau rần.
28. Trong lúc quẩn quanh ở
mọi nơi,
Ngã nhào trên sỏi
đá, cây gai,
Kính thưa Tôn giả,
xin cầu nguyện
Cho được chiếc xe chở
chúng tôi'.
29. Trưởng lão cầm
lên một chiếc hài
Cúng dâng Giáo hội
bốn phương trời,
Trong khi làm lễ người
cầu nguyện
'Mong quyến thuộc nay được
thảnh thơi'.
30. Lập tức sau khi chuyển phước
lành,
Cả bầy ngạ quỷ hiện nguyên
hình
Trên xe tiến đến đồng
thanh nói:
'Tôn giả từ bi với
chúng sanh.
31. Nhận được xiêm
y thực phẩm rồi
Ngôi nhà, nước uống,
chiếc xe ngồi,
Tôn giả, chúng tôi
xin kính lễ
Bậc Thánh từ bi giữa
cõi đời'.
Vị Trưởng lão kể sự
kiện trên với đức Thế Tôn, Ngài lấy
chuyện làm đề tài thuyết pháp.
3. (28) Chuyện Nữ
Quỷ Hồ Ràthakàrà (Rathakàràpeti)
Trong lúc đang trú tại
Sàvatthi (Xá-vệ), bậc Ðạo Sư
kể chuyện này liên hệ đến một nữ quỷ thần.
Thuở xưa vào thời đức
Thế Tôn Kassapa, có một nữ nhân kia
thực hành nhiều công đức thiện sự
và cúng dường Tăng chúng một
tinh xá tốt đẹp, rồi từ trần,
và do một ác nghiệp khác, nàng tái
sanh làm nữ quỷ thần trong một lâu đài
ở vùng Tuyết Sơn, chúa tể của núi
non, gần hồ Ratthakàra.
Nhờ các công đức
thiện sự, nơi đó hiện ra cho nàng một
lâu đài tuyệt mỹ làm toàn bằng
ngọc báu, khắp nơi đều đầy lạc
thú hấp dẫn, lại có một hồ
sen, giống như vườn thiên giới Nandana
(Hoan lạc Viên).
Toàn thân nàng có
màu vàng ròng, yêu kiều diễm lệ, được
khéo điểm trang rất khả ái. Nàng
cư trú tại lâu đài ấy không
có nam nhân nào cả. Tuy thế, trong lòng
nàng lại khởi lên ước vọng bầu
bạn với nam nhân.
Thế rồi nàng thả vài
quả xoài xuống dòng sông, suy nghĩ:
'Ðây là một mưu kế'. Tất cả đều
được hiểu như trong chuyện Hồ Kannamunda
(Chuyện 12, phẩm II).
Trong trường hợp này, có
một thanh niên sống ở Ba-la-nại thấy
trên sông Hằng một quả xoài và
muốn biết nguồn gốc của nó. Vì
vậy, đi theo dòng chàng tìm kiếm được
đối tượng của mình ở tận
nơi cư trú của nàng.
Nàng hân hoan đón
tiếp chàng vào nhà nàng và khi chàng
đã nhìn thấy mọi vẻ nguy nga lộng
lẫy của nó, chàng ngâm kệ hỏi nàng:
1. Nàng đi lên
đến một lâu đài
Có cột trụ xanh biếc sáng
ngời
Kiểu cách muôn màu, phong
phú quá,
Ở đây tiên nữ thật
hùng oai,
Trông nàng chẳng khác
vầng trăng sáng
Vằng vặc tròn quay ở
giữa trời.
2. Da nàng quả thật giống
vàng ròng,
Hình dáng huy hoàng
đẹp mắt trông,
An tọa trên ngai cao tột đỉnh,
Cô đơn vì thiếu
bóng lang quân.
3. Chung quanh nàng có đủ
hồ sen,
Nhiều loại hoa sen trắng mọc
chen,
Cát phủ đáy hồ,
quanh bến nước
Bằng vàng, chẳng thấy
lấm bùn đen.
4. Thiên nga xinh đẹp thỏa
lòng mơ,
Bơi lội chung quanh mặt nước
hồ;
Khi tụ họp, kêu ầm ỷ
quá,
Vui tai như tiếng trống rung
to.
5. Huy hoàng rực rỡ bóng
thuyền quyên,
Nàng dựa mình trên
một chiếc thuyền,
Mí mắt vòng cung đang
tỏa sáng,
Giọng cười, tiếng nói thật
êm đềm,
Tứ chi nàng thập phần
thanh lịch,
Nàng rạng ngời trong vẻ
diệu huyền.
6. Lầu các nàng không
chút bụi trần,
Có vườn tiên lạc
thú vô ngần,
Hiện thân hạnh phúc gia
tăng mãi,
Ðang đứng ở trên
khoảng đất bằng,
Tiên nữ có dung nhan tối
thắng,
Ta mong hưởng lạc thú
cùng nàng.
Nàng ngâm kệ đáp lời:
7. Làm nghiệp nào mang
quả đến đây,
Trí chàng hãy hướng
đến nơi này,
Hoàn thành những nghiệp
nào sanh quả
Có thể nhận ra ở chốn
này.
Nhờ cách ấy, sau chàng
sẽ được
Thiếp là tiên nữ thích
vui vầy.
Khi chàng trai nghe xong lời của
nàng quỷ thần, chàng trở về cõi người.
Tại đó chàng quyết tâm quán tưởng
đến nơi kia và do kết quả ấy, chàng
thực hành nhiều thiện nghiệp. Chẳng bao lâu chàng
từ trần và tái sanh tại nơi ấy
gần bên nàng.
Các vị kết tập Kinh điển
ghi vần kệ cuối cùng kể lại chuyện chàng
cộng trú cùng nàng:
8. 'Mong vậy!' Chàng
trai vội đáp lời,
Rồi chàng tạo các
nghiệp trên đời
Phát sinh kết quả về nơi
nọ,
Khi đã làm xong phước
nghiệp rồi,
Chàng được tái
sanh vào chốn ấy
Cùng nàng bầu bạn
cảnh bồng lai.
4. (29) Chuyện Rơm
Trấu (Bhusa)
Trong lúc đang trú tại
Sàvatthi (Xá-vệ), bậc Ðạo Sư
kể chuyện này liên hệ đến bốn ngạ quỷ.
Trong một ngôi làng nọ không
xa Sàvatthi, một gian thương kiếm kế sinh
nhai bằng cách đong lường dối trá
và các phương pháp bất lương
khác như pha trộn tạp chất vào lúa
gạo. Vợ, con trai, con dâu kẻ ấy cũng
gian ác như các vần kệ kể lại.
Khi tái sanh làm ngạ quỷ
ở rừng Vindhya, nỗi thống khổ của chúng
đều được nói ra đây.
Bấy giờ Tôn giả Mahà-Moggallàna
đang đi du hành qua vùng núi đồi,
một hôm đến tận nơi ấy, thấy
chúng, liền hỏi chúng đã tạo các
ác nghiệp nào:
1. Tên này ăn
trấu, nọ ăn rơm,
Trong lúc ngươi ăn
phẩn đáng nhờm,
Còn nữ quỷ này ăn
thịt nó,
Quả gì nghiệp ấy thật
kinh hồn?
Ðể đáp lời Trưởng
lão, vợ kẻ gian thương giải thích
các hạnh nghiệp do chúng đã tạo
nên:
2. Tên này đánh
mẹ thuở xưa xa,
Tên nọ bán buôn chẳng
thật thà,
Còn nữ quỷ này ăn
thịt nó,
Ðánh lừa với vọng
ngữ gian tà.
3. Khi được làm người
giữa chúng sanh,
Tôi là người vợ,
chủ gia đình,
Ðem tài sẳn giấu
người chân chánh,
Cũng chẳng hề cho chút
để dành.
Tôi đã giấu che
bao của cải,
Còn buông lời dối
trá gian manh:
'Nếu tôi cất giấu gì
trong đó,
Thì phẩn là lương
thực của mình'.
4. Do kết quả từ việc trước
đây,
Cùng lời dối trá
của tôi vầy,
Bữa cơm tôi có mùi
ngon ngọt
Ðã hóa thành
phân thối thế này.
5. Hành nghiệp nào đều
có quả mang,
Vì hành nghiệp chẳng
tự tiêu tan,
Nên tôi ăn uống
phân dơ bẩn
Giòi bọ hôi tanh thật
đáng nhàm.
Khi đã nghe xong lời của
nữ ngạ quỷ, Trưởng lão liền kể lại chuyện
lên đức Thế Tôn, Ngài lấy đó
làm đề tài thuyết pháp.
5. (30) Chuyện Chàng
Trai (Kumàra)
Tại Sàvatthi (Xá-vệ),
nhiều đệ tử tại gia trở thành hội chúng
nghe pháp, xây dựng trong thành phố này
một ngôi đình lớn rồi cúng
dường thực phẩm lên bậc Ðạo
Sư và Tăng chúng.
Một người phản đối
những gì đem dâng cúng các 'Sa-môn
trọc đầu'. Mẹ y xin sám hối với đức
Thế Tôn và cúng dường cháo gạo
suốt một tuần. Con trai bà từ trần
chẳng bao lâu sau đó và tái sanh
làm con một kỹ nữ sang trọng.
Khi nàng biết đó là
một nam nhi, nàng cho người đem nó
quăng ra nghĩa địa. Tại đó
hài nhi được công năng thiện nghiệp
của chính nó bảo vệ nên không bị
ai phá hại, cứ nằm ngủ ngon lành
như trong lòng mẹ.
Chuyện kể rằng chư thần linh
đã chăm sóc nó. Thế rồi khi đức
Thế Tôn với lòng đại bi, thức dậy
từ sáng sớm, dùng Phật nhãn quán
sát thế gian, Ngài thấy bé trai này
và đi đến nghĩa địa.
Nhiều người tụ tập lại,
bảo nhau:
- Bậc Ðạo Sư đã
đến đây chắc phải vì một duyên
cớ nào đó ở chốn này.
Rồi họ thưa Ngài:
- Bạch Thế Tôn, đứa
bé này đã làm nghiệp gì trong
đời trước?
Ðức Phật liền kể chuyện cho
họ nghe.
Sau đó một đại
phú gia nhận nuôi đứa bé và
nói:
- Trước sự hiện diện của
chính đức Thế Tôn, con xin nhận đứa
trẻ này làm con.
Ðức Thế Tôn trở về tinh
xá với lời sau:
- Ðứa bé này đã
được phú gia kia bảo hộ và sẽ
làm lợi ích cho nhiều người.
Sau khi người ấy từ trần,
chàng trai thừa hưởng gia tài và
thích thú các việc bố thí cùng
nhiều thiện sự khác.
Chư vị kết tập Kinh điển
nên vấn đề này qua sáu vần kệ
sau:
1. Kỳ diệu thay tri kiến Phật-đà,
Cách Ngài tiên đoán
nghiệp người ta,
Bao người đã tạo
nên công lớn,
Lắm kẻ ít gây thiện
nghiệp mà.
2. Cậu bé bị quăng
bỏ nghĩa trang,
Bú tay, sống sót cả
đêm trường,
Không thần hay rắn làm
thương tổn,
Vì phước nghiệp từ
kiếp trước mang.
Bầy chó liếm đôi
chân cậu bé,
Quạ diều, sơn cẩu chỉ
đi ngang.
3. Ðàn chim đã
tẩy sạch đồ dơ,
Bầy quạ lau đôi
mắt trẻ thơ,
Chẳng có người chăm
lo bảo hộ,
Cũng không hương cải,
thuốc đem cho.
4. Chúng chẳng biết đâu
đến mặt trăng
Kết giao với nguyệt điện, cung
Hằng,
Cũng không rải hạt
cầu may mắn
Cho trẻ đọa trong cảnh
khốn cùng,
Ðã bị mang đi
đêm tối nọ,
Quăng vào nghĩa địa
ở trong rừng.
5. Hài nhi ấy được
cả chư thần
Ðảnh lễ, cùng bên
các thế nhân
Thấy trẻ cựa mình
như một đống
Sanh tô, trong cảnh ngộ nguy
nan,
Chỉ còn sức sống
thêm đôi chút
Khi Ðại Trí Nhân
thấy, bảo rằng:
'Ðứa trẻ này
nhờ tài sản lớn
Sẽ thành đại phú
hộ trong vùng'.
Các đệ tử tại gia hỏi:
6. Hạnh nguyện nào đây
của trẻ thơ?
Tu hành gì cuộc sống
bây giờ?
Vì sao thiện nghiệp này sanh
quả,
Khi họa như vầy đã
xảy ra
Cho trẻ, rồi ngày sau
hưởng thọ
Uy quyền đầy phú quý
vinh hoa?
Bấy giờ cách đức
Thế Tôn tuyên thuyết khi nghe các đệ tử
tại gia hỏi, được các vị kết
tập Kinh điển trình bày như sau:
7. Những người kia
đã cúng Tăng-già,
Với thượng thủ là
đức Phật-đà,
Dịp ấy, trẻ không
đồng ý kiến
Buông lời thô lỗ, chẳng
ôn hòa.
8. Từ khi xua đuổi ý như
trên,
Hỷ lạc về sau, trí thản
nhiên,
Dâng cúng suốt tuần
phần cháo gạo
Ðức Như Lai trú
tại Kỳ Viên.
9. Ấy nguyện đời xưa của
trẻ thơ,
Còn đời tu tập chính
bây giờ,
Thiện hành kia đã mang
thành quả,
Khi họa như vầy đã
xảy ra
Cho trẻ, rồi về sau hưởng
thọ
Uy quyền đầy phú quý
vinh hoa.
10. Chàng sống đời
trường thọ bách niên,
Hưởng bao niềm lạc thú
vô biên,
Ðến khi hủy hoại thân
phàm tục,
Ðược tái sanh đồng
trú cõi thiên.
6 (31) Chuyện Ngạ
Quỷ Serinì (Serinì)
Bậc Ðạo Sư kể chuyện
này trong khi đang trú tại Jetavana (Kỳ
Viên).
Tương truyền ở quốc độ
Kuru (Câu-lâu) tại thành phố Hatthinipura
có một gái giang hồ tên là Serinì.
Khi dân trong thành chào đón chư
Tăng đến thuyết pháp, họ thúc giục nàng:
- Nàng hãy đến cúng
dường chư Tăng để tạ ân.
Nàng từ chối đáp:
- Sao tôi lại phải cúng
dường lễ vật cho các Sa-môn trọc đầu
này chứ? Sao tôi lại phải từ bỏ
một thứ gì đó vì con người
vô dụng ấy?
Khi từ trần, nàng tái
sanh làm một nữ ngạ quỷ ở sau hào lũy
của một tường thành nơi biên địa.
Thế rồi một cư sĩ tại gia từ thành
Hatthinipura đến vùng thành lũy này
để buôn bán, vào lúc rạng đông
đi ngang hào lũy để điều hành
công việc, trông thấy nữ ngạ quỷ liền hỏi,
qua vần kệ:
1. Trần truồng và
xấu xí hình dung,
Hốc hác, và thân
thể nổi gân
Người ốm yếu, xương
sườn lộ rõ,
Ngươi là ai hiện đến
đây chăng?
Nữ ngạ quỷ đáp:
2. Tôn giả, con là
ngạ quỷ nương,
Thần dân khốn khổ
của Diêm Vương,
Vì con đã phạm
hành vi ác,
Con đến cõi ma đói
ẩn thân.
Vị cư sĩ ngâm kệ hỏi:
3. Ngày xưa đã
phạm ác hành gì
Do khẩu, ý, thân đã
thực thi?
Vì hạnh nghiệp nào ngươi
đã tạo
Từ đây tới cảnh
giới âm ty?
Nữ ngạ quỷ đáp lại
vần kệ:
4. Con đã đi
quanh bến tắm công,
Lang thang suốt cả nửa tuần
trăng.
Mặc dù bố thí là
công đức,
Con chẳng cho mình chỗ trú
thân.
5. Khi con khát nước, đến
dòng sông,
Sông nước trở thành
bãi trống không;
Những lúc nắng, con ngồi
bóng mát,
Tàng cây lại hóa
nóng bừng bừng.
6. Cơn gió như thiêu
đốt, lửa hồng,
Thổi ào lên khắp cả
thân con,
Nhưng con xứng đáng
nhiều đau khổ
Hơn thế này, Tôn giả
đoái thương.
7. Xin Tôn giả đến Hat-pu-ra,
Và kể chuyện ngay với mẹ
già:
'Ta đã thấy con bà
thuở trước,
Thần dân khốn khổ
cõi Diêm-la.
Vì nàng đã phạm
hành vi ác,
Từ cõi đời đi
đến cõi ma'.
8. Giờ đây con có
món tư trang
Ðể dành lên đến
bốn trăm ngàn,
Con không hề nói cho ai biết,
Con đã giấu ngay dưới
tọa sàng.
9. Xin mẹ con dâng lễ cúng
dường,
Phước phần hồi hướng
đến tên con,
Chúc bà được
sống đời trường thọ;
Khi mẹ con dâng lễ cúng
dường,
Hồi hướng về con phần
phước đức,
Thỏa nguyền, con hạnh phúc
hân hoan'.
Trong lúc nữ ngạ quỷ kể chuyện
này, vị ấy chú ý lắng nghe lời nói,
và về sau, khi đã làm xong công việc,
vị ấy đến kể chuyện kia cho bà mẹ nó.
Các vị kết tập Kinh điển
ghi lại các vần kệ sau:
10. Người ấy thuận
lòng, vội nói ra:
'Ðược rồi!' và
đến Hat-pu-ra,
Nói: 'Ta đã thấy
con bà đó,
Khốn khổ, thần dân
cõi Dạ-ma.
Vì đã tạo nên
điều ác nghiệp
Từ đời này đến
cõi tà ma'.
11. Dịp kia, nàng đã
bảo cùng ta:
'Xin kể chuyện ngay với mẹ già:
Ta đã thấy con bà
thuở trước
Thần dân khốn khổ
cõi Diêm-la.
Vì nàng đã phạm
hành vi ác,
Từ cõi đời đi
đến cõi ma'.
12. Giờ đây nàng
có món tư trang
Ðể dành lên đến
bốn trăm ngàn,
Nàng không hề nói cho
ai biết
Nàng đã giấu
ngay dưới tọa sàng.
13. Xin mẹ nàng dâng lễ
cúng dường,
Phước phần hồi hướng
đến cho nàng,
Chúc bà được
sống đời trường thọ;
Khi mẹ nàng dâng lễ
cúng dường,
Hồi hướng về nàng
phần phước đức,
Thỏa nguyền, nàng hạnh
phúc hân hoan'.
14. Do vậy, bà dâng lễ
cúng dường
Phước phần hồi hướng
đến tên nàng,
Tức thì nữ quỷ liền an
lạc,
Hạnh phúc, dung nhan đẹp
lạ thường!
Khi mẹ nàng nghe chuyện này,
bà liền cúng dường Tăng chúng như
nàng ước nguyện và hồi hướng công
đức về nàng.
7. (32) Chuyện Người
Săn Nai (Migaludda)
Ðức Thế Tôn kể chuyện này
trong lúc đang trú tại Trúc Lâm.
Ở thành Ràjagaha (Vương
Xá) có người thợ săn kia sống
bằng cách săn bắn và giết hươu
nai suốt ngày đêm. Tuy nhiên, y lại
có một bạn thân là cư sĩ tại
gia thường khuyên răn y, nhưng y chỉ
nghe theo một phần. Do đó, y tái sanh
làm quỷ thần ở trong lâu đài.
Tôn giả Trưởng lão
Narada thấy quỷ và ngâm kệ hỏi:
1. Chàng nay là một
đấng nam nhi,
Hầu cận đủ nô
bộc, nữ tỳ,
Ðêm tối, sáng
ngời bao dục lạc,
Ban ngày phải chịu lắm
sầu bi,
Như vầy do ở trong tiền
kiếp
Chàng đã tạo nên
các nghiệp gì?
Quỷ này giải thích các
nghiệp đã làm:
2. Trong thành Vương Xá,
nước non xinh,
Xưa tại Ða Sơn, cảnh
hữu tình,
Tôi kẻ săn nai, lòng
độc ác
Với bàn tay vấy máu
vì mình.
3. Giữa loài vô hại
ở trong rừng
Tôi quẩn quanh với trí
bạo hung,
Luôn thấy lạc hoan khi
giết hại
Những con vật ấy, thật
buông lung.
4. Mặc dù tôi bản tính
như vầy,
Tôi có bạn thân
thiết lắm thay,
Cư sĩ tại gia lòng
mộ đạo
Tín thành, lân mẫn
với tôi đây,
Cản ngăn tôi, đã
nhiều lần nói:
'Ðừng tạo hành
vi ác thế này'.
5. 'Bạn hỡi, đừng
nên tạo ác hành,
Sợ rằng sẽ gặp cảnh
không lành,
Nếu mong hạnh phúc khi thân
hoại,
Ðừng thích thú
vì việc sát sanh'.
6. Mặc dù nghe lý lẽ khuyên
can
Của chính người đây,
một bạn vàng
Thương xót, mong tôi
nhiều hạnh phúc,
Tôi không tuân Giáo
pháp hoàn toàn,
Vì từ lâu đã
tìm vui thú
Việc ác, nên không có
trí quang.
7. Lần nữa, chính là
bậc trí nhân
Xót thương, dạy bảo
phải điều thân:
'Ban ngày nếu sát sanh', chàng
dặn,
Ðêm tối, phải điều
phục phát tâm!'.
8. Vì vậy ban ngày tôi
sát sanh,
Về đêm, tôi chế ngự
thân mình,
Giờ đây, dạo bước
trong đêm tối,
Nhưng sáng ngày tôi
chịu khổ hình.
9. Nhờ thiện hành, tôi hưởng
một đêm
Với bao lạc thú của
thần tiên;
Ban ngày bầy chó ngao
ùa tới,
Nhảy vọt khắp nơi xé
xác liền!
10. Những người nào
nhất mực tinh cần,
Lời Thiện Thệ tuân thủ quyết
tâm,
Sẽ đạt vẹn toàn
Bất tử giới,
Niết-bàn, là trạng thái
siêu nhân.
8. (33) Chuyện Người
Săn Nai Thứ Hai (Dutiyaludda)
Ðức Thế Tôn kể thêm
chuyện này nữa trong lúc đang trú tại
Veluvana (Trúc Lâm).
Tương truyền tại Ràjagaha
một người thợ săn trẻ tuổi kia, mặc
dù giàu có, vẫn rời bỏ mọi lạc
thú giàu sang và đi săn hươu
nai suốt ngày đêm. Kẻ ấy cũng
theo lời khuyên của một vị Trưởng
lão khi có người bạn cư sĩ khẩn
cầu, và từ bỏ việc đi săn ban
đêm, nên nhận quả báo ở đời
sau giống như chuyện trên.
Trưởng lão Nàrada
hỏi quỷ ấy qua các vần kệ sau:
1. Trong tòa cao ốc,
một lâu đài,
Trên tọa sàng, lông thú
phủ ngoài,
Năm thứ đàn tơ
đang nhẹ trổi,
Lòng chàng thích thú
nhạc êm tai.
2-3. Ban ngày vào lúc
mới hừng đông,
Chàng bị đuổi ra
tận nghĩa trang,
Và phải chịu bao điều
thống khổ,
Nghiệp nào đã tạo
ác về thân,
Về lời, hay ý trong tiền kiếp,
Nay chịu khổ này có
phải chăng?
Sau đó quỷ liền kể chuyện sau:
4. Trong thành Vương Xá
thật xinh tươi,
Cổ lũy Ða Sơn cảnh
tuyệt vời,
Tôi chính thợ săn
trong kiếp trước,
Buông lung, tôi thích
thú vui chơi.
5. Mặc dù tôi bản tính
hung tàn,
Tôi có bạn thân,
cận sự nam,
Mộ đạo, tín thành,
thường đón tiếp
Tỷ-kheo, đệ tử đức
Cồ-đàm,
Viếng thăm gia quyến; chàng
thương xót
Ngăn cản tôi, và
vẫn bảo ban:
6-10. (Giống các vần
kệ 5-10 ở chuyện trước).
9. (34) Chuyện Những
Phán Quyết Gian Dối (Kùtavinicchayika)
Trong lúc bậc Ðạo Sư
đang trú tại Veluvana (Trúc Lâm),
ngài kể chuyện này liên quan đến những
phán quyết gian dối.
Thời ấy, vua Bimbisàra
(Tần-bà-sa) hành trì Trai giới (Bồ-tát
giới) sáu ngày mỗi tháng. Nhiều người
theo gương vua giữ giới. Nhà vua thường
hỏi những người thỉnh thoảng vào
triều kiến:
- Này, khanh có hành trì
ngày trai giới hay không hành trì?
Thế rồi có một người
kia đã được bổ nhiệm làm phán
quan, một kẻ lừa dối, bất lương,
thường nhận hối lộ và hung bạo
nhưng lại sợ nói ra: 'Tôi không phải
là người giữ giới'. Vì vậy, y
nói:
- Tâu Ðại vương,
hạ thần có giữ giới.
Khi đã ra về sau buổi triều
kiến vua, một người bạn hỏi y:
- Này hiền hữu, hiền hữu có
giữ giới gì hôm nay chăng?
Y đáp:
- Này hiền hữu, vì sợ
hãi nên tôi đã nói thế lúc
yết kiến đức vua, chứ tôi không giữ
giới.
Sau đó người bạn
bảo y:
- Nếu chỉ còn nửa ngày
trai giới thì hôm nay bạn hãy giữ
như vậy. Hãy phát nguyện giữ giới đi.
Y đồng ý, trở về nhà,
rửa mặt và chuyên tâm giữ giới.
Ðêm ấy y vừa về đến nhà thì
mạng sống bị gián đoạn vì
một cây cột đổ xuống từ ngôi
nhà ọp ẹp của y trong một cơn gió mạnh.
Ngay sau khi chết, y tái sanh làm
một quỷ thần trong lâu đài ở vực
sâu dưới núi. Dù y chỉ giữ nửa
ngày trai giới trong một đêm thôi,
y vẫn được phước báo với một
đoàn tùy tùng gồm mười ngàn
tiên nữ hộ tống và hưởng lạc
thú thần tiên, nhưng do quả báo từ
các phán quyết gian dối và nói láo
kia, y tự lấy tay móc thịt trên lưng
mình và xé ra ăn.
Khi Tôn giả Nàrada từ
đỉnh núi Linh Thứu đi xuống,
thấy y, liền hỏi qua bốn vần kệ:
1. Ngươi đội
tràng hoa, miện, vòng vàng,
Tứ chi ngươi tẩm ướt
chiên-đàn,
Trông ngươi có dáng
đầy thanh thản,
Ngươi giống mặt trời
rực ánh quang.
2-3. Ðoàn thị nữ
này hộ tống ngươi,
Mười ngàn tiên nữ
rất xinh tươi
Ðeo vòng vỏ ốc
và trang điểm
Tấm lưới vàng kia
lấp lánh hoài,
Hình dáng ngươi gây
niềm cảm phục,
Ngươi đầy quyền lực
thật hùng oai.
4. Tay ngươi móc thịt
ở lưng ăn,
Ác nghiệp nào do khẩu,
ý, thân
Ðã tạo? Giờ đây
ngươi cấu xé
Thịt lưng mình bởi
nghiệp nào chăng?
Quỷ này kể chuyện mình qua
bốn vần kệ:
5. Tôi hành động
giữa cõi phàm trần
Ðem tổn hại cho chính
bản thân
Bằng cách vu oan và vọng
ngữ,
Dối lừa và phỉ
báng tha nhân.
6. Tại đó, xưa tôi
họp việc chung
Ðến khi tôi phải nói
chân ngôn,
Thì tôi bài bác
điều công chánh,
Và lại quay về việc dối
gian.
7. Vậy người nào phỉ
báng tha nhân
Sẽ phải tự mình xé
nát thân,
Như chính hôm nay tôi
phải chịu
Tự mình lấy thịt
ở lưng ăn.
8. Nà-ra-da đã thấy
điều này:
Bi mẫn là người nói
thẳng ngay.
Ðứng phỉ báng,
buông lời dối trá,
E ngài sẽ xẻ thịt
lưng vầy!
10. (35) Chuyện Khinh
Khi Xá Lợi (Dhàtuvivanna)
Khi đức Thế Tôn diệt độ
tại Kusinara (Câu-thi-na), ở Lâm Viên
Upavattana trong rừng Sàla song thọ, và
sau khi việc phân chia xá lợi đã hoàn
thành, vua Ajàtasattu (A-xà-thế) nhận
phần của mình xong, liền làm lễ cúng
dường suốt bảy năm bảy tháng bảy
ngày.
Nhưng có tám vạn sáu
ngàn người, vì không có lòng
tin và đầy tà kiến từ lâu, đã
mê lầm và có nhiều vọng tưởng điên
đảo, cho nên dù đã sống trong
một hoàn cảnh an lành, cũng tái sanh
vào loài ngạ quỷ.
Chính trong thành Vương
Xá này, có bà vợ, con gái, con dâu
của một phú gia kia với tâm thành tín
đem hương liệu, vòng hoa và nhiều lễ
vật khác khởi hành đi đến bảo
Tháp xá-lợi, bảo nhau:
- Chúng ta muốn đi cúng
dường xá-lợi.
Người gia chủ phỉ báng
việc cúng dường này với những lời
mạ lỵ:
- Cúng dường đống
xương thì có ý nghĩa gì chứ?
Song họ không quan tâm đến
lời nói của kẻ ấy và ra đi.
Khi từ trần họ tái sanh lên thiên giới,
còn kẻ ấy tái sanh làm ngạ quỷ.
Thế rồi một hôm, Tôn
giả Mahà-Kassapa vì lòng bi mẫn
đứng tại khuôn viên bảo Tháp,
ngâm ba vần kệ hỏi ngạ quỷ đã khinh
thường xá-lợi:
1. Ngươi đang lơ
lững giữa hư không,
Ngươi thở mùi hôi
thối nặc nồng,
Sâu bọ đang đua nhau
cấu xé
Mặt người rách nát
thối vô cùng.
2. Ngày xưa ngươi phạm
ác hành nào,
Nay chúng cầm gươm
mãi chém vào,
Chúng rảy cường toan
khắp cả mặt,
Thân ngươi, rồi cắt
mãi, vì sao?
3. Ngươi đã làm
nên ác nghiệp gì
Do từ thân, khẩu, ý tư
duy?
Hành vi nào kiếp xưa gây
tạo,
Nay phải chịu đau khổ
cực kỳ?
Ngạ quỷ đáp lại như
sau:
4. Trong thành Vương
Xá thật xinh tươi,
Cổ lũy Ða Sơn, cảnh
tuyệt vời,
Tôn giả, tôi là người
đại phú
Bạc vàng thóc lúa
khắp nơi nơi.
5. Vợ tôi, con gái, vợ
con trai
Ðem đủ sen xanh, các
đóa lài,
Cùng với dầu thơm
dâng bảo Tháp,
Tôi ngăn cản họ mãi
không thôi.
Ðó là ác nghiệp
ngày xưa ấy
Ðã được tạo
ra bởi chính tôi.
6. Tám vạn sáu ngàn
bọn chúng tôi
Chịu bao đau khổ chẳng
riêng ai,
Vì tôi khinh việc người
dâng cúng
Bảo Tháp, nay tôi chịu
khổ hoài.
7. Vậy người nào lộ
vẻ hung tàn,
Khi Thánh lễ đang được
cúng dường
Lên bảo Tháp tôn
vinh xá-lợi,
Xin Tôn giả cất tiếng khuyên
can.
8. Tôn giả nhìn kìa
đám mỹ nương
Ðeo vòng hoa đẹp
khéo trang hoàng,
Hưởng nhiều phước báo
vì dâng lễ,
Phú quý vinh hoa thật rỡ
ràng.
9. Khi các trí nhân thấy
việc này
Gây niềm cảm xúc, diệu
kỳ thay,
Họ liền sùng bái và
tôn kính
Bậc đại hiền nhân
ấy chính ngài.
10. Khi tôi rời cảnh ngộ
thương đau,
Và được làm
người ở kiếp sau,
Tôi sẽ tinh cần dâng
lễ bái
Cúng dường Tháp xá-lợi
dài lâu.
[Phẩm trước][Mục
lục][Phẩm kế][
^ ]
|