Chim
Việt Cành Nam
[ Trở Về
] [ Trang
chủ ]
[ Tác giả ]
|
Biên soạn: Nguyễn Nam Trân PHẦN II : MẠC PHỦ MUROMACHI VÀ EDO |
|
Tiết 1 : Thời kỳ hàng hải viễn dương bắt đầu: |
1.
Khi Âu châu tiến về vùng Đông Á:
Kể từ trang này, chúng ta sẽ bước vào thời cận đại mà người Nhật thường gọi là cận thế, tuy cả hai đều được dịch ra Anh ngữ là modern time hay modern era. Mở màn cho thời cận đại là khoảng thời gian từ hậu bán thế kỷ 15 bước qua buổi sơ đầu thế kỷ 16, một thời kỳ mà Nhật Bản hoàn toàn bị cuốn vào trong cơn lốc chiến tranh. Ngày nay trên màn ảnh truyền hình, những phim dã sử liên quan đén thời đại này vẫn chiếm thời giờ phát sóng nhiều nhất. Thế thì những gì đã xảy ra ở Âu châu trong khi Nhật Bản đang ở vào giữa thời Chiến Quốc? Thực ra, lúc đó Âu Châu vừa chấm dứt thời Phục Hưng (Renaissance) và kết thúc cuộc Cải cách tôn giáo (Reformation) và bắt đầu bước vào giai đoạn xã hội cận đại. Đi tiên phong trên con đường này là Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, hai quốc gia Ki-tô giáo. Cả hai nước này cũng như Âu châu nói chung lúc đó đang hướng cái nhìn ra thế giới bên ngoài. Họ bắt đầu khai thác những con đường mới trên mặt biển cũng như khuếch trương mậu dịch ra hải ngoại. Cùng lúc, họ chủ trương đẩy mạnh việc truyền giáo và đi tìm thuộc địa. Năm 1492, nhà hàng hải người Ý Christopher Columbus được sự hổ trợ của Nữ hoàng Isabel nước Tây Ban Nha đã vượt Đại Tây Dương đến tận các đảo Tây Ấn (West Indies) [1]. Năm 1498 thì người Bồ Đào Nha Vasco de Gama đã đi vòng xuống phía dưới lục địa Phi châu và đặt chân lên bờ biển Calicut (châu Kerala) của Ấn Độ. Đó là chưa nói về việc Magellan đã đi vòng mũi cực nam Châu Mỹ ra được đến Thái Bình Dương, tận Phi Luật tân, rồi lại tiến về hướng Tây và đi hết một vòng trái đất. Những thành tích của các nhà hàng hải ấy vốn không xa lạ gì với chúng ta. Đó là thời đại mà người ta gọi là thời kỳ hàng hải viễn dương hay đại hàng hải (Daikôkai jidai như người Nhật hay gọi). Nó đã ảnh hưởng trực tiếp đến xã hội Nhật Bản thời Chiến Quốc.Thế nhưng chẳng bao lâu, thời Chiến Quốc cũng hạ màn. Hai võ tướng Oda Nobunaga (Chức Điền Tín Trường) và Toyotomi Hideyoshi (Phong Thần Tú Cát) đã xuất hiện để kẻ trước người sau cáng đáng việc thống nhất thiên hạ. Tiếp theo đó, một nhân vật lịch sử thứ ba nhẫn nại và giỏi tính toán hơn cả là Tokugawa Ieyasu (Đức Xuyên Gia Khang) đã hoàn thành ước vọng đó khi lập nên chính quyền quân nhân ở Edo (Tôkyô ngày nay) vào năm 1603. Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha mà ta biết là hai quốc gia ảnh hưởng nhiều nhất đến vùng Đông Á, lúc ấy đã tiến về phía đó và lập ra nhiều cứ điểm quan trọng. Tây Ban Nha chiếm lấy thành phố Manilla ở Phi Luật Tân. Còn Bồ Đào Nha thì khống chế được Goa bên bờ biển miền Tây Ấn Độ và lập thêm căn cứ Macao ở Trung Quốc để xúc tiến việc mậu dịch. Mặt khác, ở Trung Quốc, nhà Minh sau khi kiến quốc vào hậu bán thế kỷ 14 đã áp dụng chính sách cấm cản việc thông thương với các nước (Hải cấm lệnh). Hải cấm nghĩa là đặt tất cả mọi việc giao thiệp với bên ngoài dưới sự quản lý của nhà nước, không cho phép ai buôn bán riêng tây, đặc biệt kiểm soát chặt chẽ Nụy khấu. Tuy nhiên việc cấm đoán của Minh triều dần dà cũng yếu đi. Họ khổ vì cái nạn gọi là Bắc Lỗ Nam Nụy (Oải). Bắc lỗ là tộc Nữ Chân, nam Nụy (Oải) là cướp biển Nhật - Đài Loan) đã làm cho chính sách Hải cấm chỉ còn là cái bóng mờ. Nguyên cả một vùng biển Đông gồm cà hải vực của Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Đài Loan, Lưu Cầu, Việt Nam, Phi Luật Tân, mọi nơi đều bắt đầu phát triển mậu dịch tiếp vận (transit trade) nghĩa là làm bến đỗ để nối đường dây chuyển vận hàng hóa về những thị trường xa hơn. Những nhà buôn Âu châu nhờ thế đã thành công trong vai trò chủ đạo mậu dịch thế giới của họ. 2.Mậu dịch "Nam Man" và đạo Ki-tô: Trên đây, chúng ta đã xét qua tình hình vùng Đông Á trong giai đoạn từ thế kỷ thứ 15 bước qua thế kỷ 16. Điều đáng chú ý hơn cả là giai đoạn đó đã được mệnh danh " thời đại đại hàng hải hải viễn dương". Âu châu biết lợi dụng kỹ thuật hàng hải của mình để tiến ra các nước ngoài. Cùng lúc ấy, nhà Minh ở Trung Quốc cũng suy yếu khiến cho lệnh Hải cấm không còn hiệu lực nữa. Hai yếu tố này giúp cho phương Tây và phương Đông có cơ hội tiếp xúc với nhau. Sau đây, chúng ta hãy đi vào chi tiết cụ thể xem những sự kiện nào đã xảy ra lúc đó. Năm 1543 (Tenbun 12) có một chiếc thuyền buồm chở một người Bồ Đào Nha trôi dạt đến đảo Tanegashima phía nam đảo Kyuushuu. Có lẽ đây là lần đầu tiên một người Âu châu đặt chân lên đất Nhật. Chính ra chiếc thuyền buồm đó thuộc về tay Nụy khấu gốc Trung Quốc tên là Vương Trực, thế nhưng câu chuyện đáng lưu ý ở đây là lãnh chúa trên đảo, Tanegashima Tokitaka, đã mua lại được từ người Bồ trôi dạt đó hai khẩu súng và ra lệnh cho gia thần học cách chế tạo cũng như sử dụng chúng. Về sự kiện này, có thiền tăng tên là Nanpo Bunshi (Nam Phố Văn Chi, 1555-1620) đã chép lại rất rõ trong cuốn Teppôki (Thiết pháo ký, ). Các lãnh chúa Chiến Quốc thấy súng như bắt được vàng vì họ chưa từng biết một vũ khí có thể sát thương ở tầm xa nào mà lợi hại như thế. Và kể từ lúc đó, hình thức chiến trận trong nước Nhật đã hoàn toàn thay đổi. Súng kiểu Âu châu chẳng bao lâu đã phổ cập khắp toàn quốc và được chế tạo tại chỗ. Những thành phố như Kunitomo ở vùng Ômi, Sakai ở Izumi, Negoro ở Kii đều là những địa điểm có nghề đúc súng nổi tiếng. Thế nhưng tại sao những địa điểm trên lại quen thuộc được với nghề đúc súng ? Chính vì những nơi đó đã từng quen với việc chế thép và nghề rèn trước đó rồi. Từ khi súng ống được biết tới ở Nhật, chỉ cần 7 năm sau, trong vùng Kinai, các võ tướng đã biết sử dụng nó trong chiến tranh và hơn 10 năm sau thì súng ống đã đầy dẫy khắp nước. Sự có mặt của nó đã làm cho phương thức chiến đấu và cách kiến trúc thành trì thay đổi theo. Trước khi súng ống
đến Nhật, khi đánh nhau, người ta chủ yếu là dùng kỵ
binh và lấy một chọi một. Tiếng Nhật gọi là ikki-uchi (nhất
kỵ đả). Thế nhưng bây giờ tình hình thay đổi hẳn. Lính
khinh binh (ashigari) trang bị súng sẽ chiến đấu tập đoàn
chứ không đơn lẻ như trước. Thành quách cũng vậy. Xưa
là thành đắp hay sơn thành (yamajiro, thành núi) nhưng nay phải
là thành mặt bằng (hirajiro) hay thành trên vùng đất cao (hirayamajiro).
Thế rồi nhân có vụ người Bồ tình cờ trôi dạt tới Nhật
như đã nói trên, từ đó mỗi năm, đồng bào của ông ta
lại ghé qua các bến cảng ở Kyuushuu và buôn bán với dân
bản xứ.
Vào năm 1584 (Tenshô 12), người Tây Ban Nha lại đến cửa biển Hirado vùng Bizen và bắt đầu giao thương. Người Nhật gọi lối trao đổi buôn bán đó là Nanban bôeki hay Nam Man mậu dịch. Đương thời, người Bồ và người Tây vốn đến từ con đường biển phía Nam (Phi Luật Tân, Trung Quốc) và hình dáng không giống người Nhật nên mới bị họ kỳ thị như thế.Dầu muốn dầu không, nhờ có Nam Man mậu dịch mà những món hàng sau đây đã được buôn qua bán lại: Hàng xuất khẩu: Bạc, đao kiếm, hải sản, đồ sơn. Hàng nhập khẩu: tơ sống (do Trung Quốc chế tạo), lụa là, súng ống, thuốc súng. Như ta thấy, người "Nam Man" đã đem súng ống, thuốc súng và tơ sống Trung Quốc đến. Ngược lại, về phía Nhật Bản thì họ đem bạc ra đổi. Bạc là một kim loại vốn được sản xuất rất nhiều ở Nhật vào giữa thế kỷ 16. Nguyên nhân là chính vào thời điểm đó, có thương nhân người Nhật ở Hakata tên là Kamiya Juutei (Thần Cốc Thọ Trinh) đã học được từ người Triều Tiên phương pháp chế tạo ra bạc có tên là haifukihô (hôi xuy pháp, hay phép thổi tro) cho nên Nhật Bản trở thành một nước ít có trên thế giới có khả năng xuất khẩu thứ quý kim này. Cách chế bạc, nếu tóm tắt một cách đơn giản là gia nhiệt lên quặng bạc hãy còn chất không tinh khiết cùng một lượt với chì và sau đó loại bỏ những thứ không tinh khiết ấy để có một hợp kim chỉ có bạc và chì. Tiếp đến, đặt chúng lên mặt tro và nung nóng lên thì chì sẽ hóa lỏng trước tiên, bị than hút đi để chỉ còn lại bạc nguyên chất. Có thể nói nhờ chế được bạc mà người Nhật ngày đó đã tạo cho mình cơ hội tiếp xúc với thế giới vậy. Đối với những nhà buôn Tây phương trong cuộc mậu dịch Nam Man này thì họ đều ý thức rằng hoạt động thương mại của họ gắn liền với công cuộc truyền giáo của các thừa sai. Đặc biệt tình hình xã hội Âu châu lúc bấy giờ cho thấy giáo hội Ki-tô giáo truyền thống (Cựu giáo) đang chịu áp lực của giáo hội cải cách (Tân giáo). Trong khi Tân giáo mở rộng tại Âu châu, Cựu giáo phải dốc toàn lực đi tìm một lối thoát ở vùng Đông Á. Năm 1549 (Tenbun 18), có nhà truyền giáo giáo hội Gia Tô (Yasokai) là Francesco Xavier (1506-1552) đặt chân đến vùng Kagoshima (trên đảo Kyuushuu). Các lãnh chúa Chiến Quốc vùng đó như Ôuchi Yoshitaka (Đại Nội Nghĩa Long) và Ôtomo Yoshishige (Đại Hữu Nghĩa Trấn) (còn gọi là Sôrin = Tông Lân) đã che chở ông và cho phép giảng đạo. Tiếp theo đó, các nhà truyền giáo lần lượt đến Nhật. Nhiều nơi đã dựng Nanbanji (Nam Man Tự) - tên để gọi các nhà thờ Ki-tô giáo - và những trường học đào tạo các nhà truyền đạo (nơi đây gọi là collegio) cũng như viện thần học (seminario). Sau thời của Xavier thì có Gaspar Vilela (1525-1572) và Luis Frois (1532-1597) là hai tu sĩ nổi tiếng khác đã đến vùng Kinki và Kyuushuu truyền giáo. Tiếp theo đó là Alexandro Valignano (1539-1606), người đem kỹ thuật ấn loát bằng con chữ đến cho dân Nhật. Chính ông đã rửa tội cho các lãnh chúa như Ôtomo Yoshishige, Arima Harunobu, Ômura Sumitada và khuyến khích họ gửi bốn thiếu niên là Itô Manjô, Chijiwa Miguel, Nakaura Julian và Hara Martino sang Âu châu. Đó là đoàn sứ thần đã đi viếng Giáo hoàng Gregorius XIII vào năm Thiên Chính thứ 10 (1582) (Tenshô Ken.Ô shisetsu) và chỉ trở về nước 8 năm sau. Sứ tiết gửi đi Âu châu năm Tenshô
Tem Bồ Đào Nha kỷ niệm giáo sĩ Luis Frois |
Tiết 2 : Hai tướng Oda -Toyotomi và công cuộc thống nhất đất nước: |
2.1
Sự nghiệp thống nhất đất nước của Oda Nobunaga:
Trong số những lãnh chúa thời Chiến Quốc người trước tiên đạt được nguyện vọng thống nhất toàn quốc có lẽ là Oda Nobunaga (Chức Điền Tín Trường, 1534-1582) của vùng Owari. Nobunaga chỉ là người sinh ra trong một gia đình vốn là dòng nhánh của một gia đình đại diện cho shugo ở địa phương Owari miền trung đảo Honshuu. Thế mà từ một địa vị nhỏ nhoi như thế, ông đã tranh đấu để hầu như đạt được giấc mộng gồm thu Nhật Bản về một mối. Trước tiên, ta hãy theo dõi những giai đoạn chính trên bước đường thực hiện sự nghiệp vĩ đại ấy.
1) Trận Okehazama (1560): Trận đánh đã đưa danh tiếng của Nobunaga lên cao là trận Okehazama vào năm 1560 (Eiroku 3). Năm đó ông đánh tan đạo quân của Imagawa Yoshimoto (Kim Xuyên, Nghĩa Nguyên, 1519-1560), lãnh chúa vùng Suruga (miền trung Shizuoka bây giờ). Yoshimoto bại tử. Kể từ ấy ông không còn e sợ dòng họ Imagawa, một lãnh chúa vốn có lãnh địa Suruga nằm ở phía đông lãnh địa Owari của mình. Điều này có nghĩa là Nobunaga từ lúc đó có thể tiến về kinh đô Kyôto (thực hiện được chính sách jôraku hay thượng Lạc) mà không phải sợ ai tập kích từ sau lưng. Danh từ "thượng Lạc" (jôraku) có nghĩa là tiến về thành Lạc Dương, cách nói bóng bẩy của việc "vào kinh đô tham dự quốc chính". Lên Kyôto là có cơ hội tiếp xúc với Thiên Hoàng, mà một khi đã là con nhà samurai thì điều đó được coi như là một vinh dự cùng cực vì biểu dương được thực lực của mình. 2) Tấn công Mino và thượng kinh: Tiếp theo, vào năm 1567
(Eiroku 10), Nobunaga trên thực tế mới bắt đầu tiến về
miền Tây. Trước tiên, ông diệt họ Saitô (Trai Đằng) ở
vùng Mino, đặt vùng đồng bằng Nôbi trù phú dưới quyền
kiểm soát của mình. Chiếm được một vùnh đất đai phì
nhiêu sản xuất nhiều lúa gạo như thế, Nobunaga đã có thể
bảo đảm về mặt kinh tế và đồng thời phát triển thế
lực quân sự. Ông bèn đổi tên ngôi thành Inabayama mà họ
Saitô đã chiếm giữ cho đến lúc ấy thành Gifu, đồng thời
cũng sử dụng quả ấn có mấy chữ Tenka fubu (Thiên hạ bố
vũ) đóng trên các công văn để nói rõ ý chí của mình là
muốn dựa vào vũ lực để thống nhất lãnh thổ.
3) Trận Anegawa (1570) - Đốt phá chùa Enryaku (1571): Năm 1570 (Genki nguyên niên), Oda Nobunaga phá tan liên quân hai họ Azai (Thiển Tỉnh) và Asakura (Triêu Thương) trong trận Anegawa, tên một con sông thuộc địa phận Ômi. Năm sau đó (1571), nhân gặp sự phản kháng của các tăng nhân chùa Enryaku (Diên Lịch Tự) trên núi Hieizan (Tỉ Duệ Sơn, ngoại ô Kyôto), ông đốt rụi nó và thành công trong việc khuất phục một tập đoàn truyền thống có sức mạnh tôn giáo, chính trị và kinh tế rất lớn ở Nhật. 4) Phế bỏ và đuổi Shôgun Yoshiaki - Mạc phủ Ashikaga diệt vong (1573): Năm 1573 (Tenshô nguyên niên), nhân vì Yoshiaki muốn hồi phục thế lực của chức Shôgun nên đã xung đột với Nobunaga. Ông bèn trục xuất Shôgun này ra khỏi thành Kyôto. Điều đó có nghĩa là trên thực tế Mạc phủ Ashikaga không tồn tại nữa. 5) Trận Nagashino (1575): Liên quân của ông với họ Tokugawa đã phá tan cường địch Takeda Katsuyori ở Nagashino (tỉnh Aichi, gần Nayoya bây giờ). Đặc biệt trong trận này, Nobunaga sử dụng đội khinh binh pháo thủ (ashigari teppôtai) của mình để giành lấy phần thắng đội trước bộ đội kỵ binh chủ lực của địch. Thế rồi, năm sau, ông đã cho khởi công xây dựng thành Azuchi (An Thổ thành) với năm tầng nhà bảy vòng rào (ngũ tằng thất trùng) rất kiên cố để làm bản doanh và cũng dễ bề kiểm soát sự động tĩnh của chính quyền Kyôto. 6) Chiến tranh Ishiyama kết thúc (1580): Kẻ địch sừng sỏ nhất của Oda Nobunaga không gì khác hơn các chùa chiền phái Tịnh Độ Chân Tông (Jôdô Shinshuu) mà cứ điểm quan trọng nhất của họ là Ishiyama Honganji (Thạch Sơn Bản Nguyện Tự). Nó kiên cố, giống như một pháo đài nằm ở vùng Ishiyama, trong thành phố Ôsaka ngày nay. Ngoài họ ra, còn có các giáo đồ Ikkô (Nhất Hướng), một tên gọi khác của Tịnh Độ Chân Tông, đã trụ lại trong các "xóm chùa" (jinaichô) để khởi loạn ikki chống lại Nobunaga. Nói chung, Tịnh Độ Chân Tông vốn có liên hệ với các lãnh chúa như Takeda và Mori từ trước. Trụ trì đời thứ 11 của chùa Honganji là tăng Kennyo (Hiển Như, 1543-1592) kêu gọi giáo đồ đứng lên chống lại Nobunaga. Cuộc chiến giữa hai bên đã kéo dài dai dẳng đến 11 năm trời. Trả lời sự chống đối của tông Tịnh Độ, năm 1574 (Tenshô 2), Nobunaga đã dẹp loạn Ikkô Ikki ở Ise Nagashima (tỉnh Mie) và năm sau bình định được những người đi theo phái ấy ở vùng Echizen (phiá đông tỉnh Fukui bây giờ). Qua đến năm 1580 chùa Honganji ở Ishiyama mới chịu qui hàng. Như thế, ta đã thấy thế lực tôn giáo của Honganji với mạng lưới trên toàn quốc là một địch thủ gan lì cứng cõi đã cản trở bước tiến của Nobunaga trên con đường thống nhất Nhật Bản. 7) Biến cố chùa Honnôji (1582): Nobunaga chế ngự được kinh đô Kyôto, lại đặt các xứ Kinki, Tôkai, Hokuriku dưới quyền kiểm soát của mình. Sự nghiệp thống nhất hầu như đã ở trong tầm tay. Đến giai đoạn này, ông bèn phái các bộ hạ thân tín về các địa phương để triển khai những cuộc chiến tranh cục bộ nhằm thanh toán nốt vài ổ kháng cự. Trong số những cận thần nói trên có danh tướng Toyotomi Hideyoshi (Phong Thần Tú Cát). Ông này được gửi xuống vùng Chuugoku để giao tranh với họ Môri (Mao Lợi). Tuy nhiên, toán quân của Hideyoshi trên đường viễn chinh đã gặp trở ngại ở khu vực thành Takamatsu xứ Bicchuu khi tướng Shimizu Muneharu (Thanh Thủy Tông Trị, 1537-1582), chủ nhân của thành, thuộc phe Môri, dũng cảm truy cản bước tiến. Trận Hideyoshi dùng thủy công (mizuzeme) [4] để phá thành Takamatsu mà thời sau hay nhắc đến đã xảy ra vào lúc này. Không sao hạ nổi thành Takamatsu, Hideyoshi đành xin Nobunaga phái quân tiếp viện. Do đó Nobunaga mới tự mình xuất quân từ thành Azuchi. Năm 1582, trong khi đang tạm trú tại ngôi chùa Honnôji (Bản Năng Tự) ở Kyôto, Nobunaga đã bị cận thần là Akechi Mitsuhide (Minh Trí Quang Tú, ? - 1582) , người vốn nuôi hiềm khích từ trước với ông - phản bội và tập kích. Nobunaga bại tử. Có thuyết cho rằng ông tự sát. Lý do khiến Akechi Mitsuhide mưu phản có thể có rất nhiều nhưng không lý do nào đủ sức thuyết phục các sử gia. Điều duy nhất được nhận thức rõ ràng là Nobunaga đã "giữa đường đứt gánh, không đạt được chí nguyện bình sinh" (kokorozashi nakaba) là thống nhất nước Nhật. Dù không thực hiện được điều mình mong muốn nhưng trên quá trình ấy, ông đã thành công khi đưa ra nhiều chính sách đặc sắc. Trước khi đi vào chi tiết, thiết tưởng cũng cần đồng ý với nhau về một điểm: Nobunaga là một nhá chính trị có quan điểm cách tân, dám thách thức trật tự và quyền uy chính trị và kinh tế truyền thống. Điểm này có lẽ là sự khác nhau cơ bản giữa Oda Nobunaga và Toyotomi Hideyoshi, người kế nghiệp ông. : Cụ thể mà nói thì về mặt kinh tế, Nobunaga đã đề ra chính sách buôn bán tự do rakuichi rakuza (lạc thị lạc tọa) trứ danh. Nó phủ nhận độc quyền của các Za tức các tổ hợp ngành nghề thời trung cổ, vốn đã gây chướng ngại cho các hoạt động công thương nghiệp. Nobunaga đã ban bố lệnh rakuichi rakuza ở hai vùng Kanô (thuộc Mino) và Azuchi là những cứ điểm của ông. Lý do là ông muốn khuyến khích thương mại ở các jôkamachi (xóm dưới chân thành) và dĩ nhiên nó có mục đích mang thu nhập dồi dào về cho mình. Chính sách thứ hai cũng rất táo bạo. Ông đã phế bỏ những trạm gác để tránh việc ngăn sông cấm chợ. Sở dĩ các trạm gác (sekisho = quan sở) được dựng nên là để cho chính quyền thu thuế thông hành nhưng nó đã gây ra tắt nghẽn giao thương. Dẹp bỏ các trạm gác như thế, Nobunaga đã bài trừ được chướng ngại cho sự giao dịch hàng hóa. Ngoài ra, ông đã dùng
vũ lực để khuất phục thành phố Sakai, vào thời đó là
một trung tâm thương mại tự trị và phồn vinh. Đặt nó
dưới quyền quản hạt của mình, ông đã tập trung được
sức mạnh kinh tế của cả vùng Kinai quanh kinh đô vào trong
tay. Chính là nhờ sức mạnh kinh tế đó mà ông đã có đủ
ngân quĩ để mua được rất nhiều súng ống, giữ thế thượng
phong rồi đi đến thắng lợi trong các cuộc giao tranh với
các lãnh chúa Chiến Quốc khác.
2.2 Toyotomi Hideyoshi gồm thâu thiên hạ: Sau khi Nobunaga chết trẻ vì bị cận thần bội phản, sự nghiệp thống nhất đất nước được chuyển qua tay bộ hạ của ông là Toyotomi Hideyoshi. Sau đây, chúng ta hãy thử tóm tắt hoạt động của Hideyoshi trong quá trình thực hiện ước nguyện đó:
1) Trận Yamazaki (năm 1582, Tenshô 10): Sở dĩ có biến cố ở Honnôji đưa đến cái chết của Nobunaga là vì quân của lãnh chúa Môri đã thành công trong việc cầm chân Hideyoshi khiến cho viên tướng này phải xin Nobunaga cứu viện. Trong khi đang vây thành chợt nghe hung tin của chủ tướng, Hideyoshi bèn giảng hòa với Môri rồi kéo quân về. Sử gọi là "cuộc hồi quân lớn từ vùng Chuugoku" (Chuugoku ôgaeshi). Hideyoshi chuyển quân một cách hết sức thần tốc về phía Kyôto. Kịp khi vừa tới vùng Yamazaki, cửa ngõ của kinh đô, ông đã đụng độ và tiêu diệt đạo binh của Akechi Mitsuhide, kẻ phản chủ. Đó là trận Yamazaki vậy. 2) Trận Shizuka-ga-take (năm 1583, Tenshô 11): Sau trận Yamazaki một năm, ở trận Shizuka-ga-take, Hideyoshi phá quân của Shibata Katsuie (Sài Điền Thắng Gia, 1522-1583), một viên tướng trên danh nghĩa và thực lực có nhiều khả năng kế vị Nobunaga nhất. Nhờ đó, Hideyoshi đã trở thành người có tiềm năng nối nghiệp cố chủ. Vào năm đó, ông hạ lệnh xây thành Ôsaka. Thành này nằm ở một địa điểm xung yếu kể cả hai mặt thủy lục mà cho đến lúc ấy là một dịa điểm buôn bán quan trọng nằm trong vòng ảnh hưởng (jinaichô) của chùa Ishiyama Honganji. Kiến trúc thành quách của thời điểm này tượng trưng cho văn hóa Momoyama (Đào sơn văn hóa) [8] mà những ngôi thành nổi tiếng nhất chính là thành Ôsaka và thành Fushimi. Qua cung cách hùng tráng và hoa lệ của chúng, Hideyoshi muốn biểu dương uy thế của một quốc gia thống nhất. Về nội thất thì các bức tường, cửa kéo, bình phong... đều được các họa sư phái Kanô (Thú Dã) như Kanô Eitoku (Thú Dã Vĩnh Đức, 1543-1590) tô vẽ bằng tranh damie (nồng hội) với màu sắc diêm dúa và nét bút mạnh mẽ, tương xứng với tinh thần của thời đại. 3) Trận Komaki, Nagakute (năm 1584, Tenshô 12): Đến năm 1584, Hideyoshi (lúc đó còn mang tên là Hashiba Hideyoshi) đánh nhau với liên quân Oda Nobukatsu (Chức Điền Tín Hùng, 1558-1630, con thứ của Nobunaga) và Tokugawa Ieyasu (Đức Xuyên Gia Khang, 1542-1616) ở vùng Komaki và Nagakute trong xứ Owari. Đây cũng là một trong những trận đánh tranh dành ngôi kế vị của Nobunaga. Tokugawa mới là người có thực lực trong khi cậu ấm Nobukatsu chỉ là một cái bung xung. Tuy phe Tokugawa được lợi thế lúc đầu nhưng chiến cuộc không ngã ngũ, cuối cùng ông ta buộc lòng giảng hòa và chấp nhận phận thần tử trước Hideyoshi. Dù sao, từ đó về sau, liên hệ giữa hai nhà không ngớt căng thẳng. Sự hòa thuận ngoài mặt chỉ để che dấu những âm mưu hãm hại nhau ngầm bên trong. Tuy nhiên, gỡ được một cái gai lớn như thế bằng phương tiện ngoại giao, công việc thống nhất của Hideyoshi đã có nhiều thuận lợi hơn. 4) Bình định đảo Shikoku (năm 1585, Tenshô 13): Năm 1585, Hideyoshi lại thành công trong việc đánh bại lãnh chúa Chôsokabe Motochika (Trường Tông Ngã, Nguyên Thân, 1538-1599) mà gia đình đã nhiều đời hùng cứ đảo Shikoku. Cũng vào năm ấy, Hideyoshi được triều đình bổ vào chức Kanpaku (Quan bạch), năm sau lại thăng Daijôdaijin (Thái chính đại thần) và ban cho họ mới là Toyotomi (Phong Thần) thay cho họ cũ Hashiba (Vũ Sài). Như thế, Thiên hoàng đã ủy quyền cho ông cai trị nước Nhật. Ông bèn ban bố lệnh Sôbuji (Tổng vô sự) ý nói "cả nước đã có hòa bình". Theo đó, ông bắt buộc ai còn đang đánh nhau phải lập tức đình chiến, kẻ nào ương ngạnh không tuân theo sẽ chịu sự trừng phạt của chính quyền do ông chỉ đạo. Như thế, những cuộc tranh giành đất đai giữa các lãnh chúa Chiến Quốc cho đến lúc đó đã được đặt hoàn toàn dưới quyền tài phán, cắt đặt của Hideyoshi. 5) Bình định đảo Kyuushuu (năm 1587, Tenshô 15): Shimazu Yoshihisa (Đảo Tân, Nghĩa Cửu, 1533-1611), lãnh chúa ở miền nam vì đang lăm le thống nhất đảo Kyuushuu nên không tuân theo lệnh Sôbuji. Do đó, Hideyoshhi bèn phái quân chinh phạt. Yoshihisa thua trận phải cắt tóc đi tu.Cũng vào năm này, ở vùng Kitano (Bắc Dã) thuộc Kyôto, ông đã khai hội thưởng thức trà có tên là Kitano ôcha no yu (Đại trà thang ở Kitano) do các trà sư nổi tiếng đương thời như Sen no Rikyuu (hay Sen Rikyuu, Thiên Lợi Hưu, 1522-1591) , Imai Sôkyuu (Kim tỉnh Tông Cửu, 1520-1593) và Tsuda Sôgyuu (Tân Điền Tông Cập, ? - 1591) đề xướng. Việc hội trà không phân biệt giai cấp giàu nghèo, quí tiện được xem như nét đặc sắc của thời buổi. Hideyoshi cũng là người rất hâm mộ trà đạo. 6) Bình định hai vùng Kantô và Ôshuu (năm 1590, Tenshô 18): Năm 1590, Hideyoshi tiến công và tiêu diệt được Hôjô Ujimasa (Bắc Điều Thị Chính, 1538-1590), lãnh chúa vùng Odawara thuộc Kantô (Quan Đông) và thần phục được Data Masamune (Y Đạt Chính Tông, 1567-1636) vùng Tôhoku (Đông bắc Honshuu). Như thế, xem như ông đã hoàn thành công cuộc thống nhất Nhật Bản. |
Tiết 3 : Chính sách của chính quyền Toyotomi: |
3.1
Cơ cấu của chính quyền Toyotomi:
Thể chế Toyotomi Hideyoshi là một thể chế độc tài mà trung tâm mọi quyết định là chính Hideyoshi cho nên tổ chức chính quyền thời ông khó thể nói là được mười phần chỉnh đốn. Vì lý do ấy mà nó đã yểu mệnh, không kéo dài trên 10 năm. Nói về chính sách do ông đề ra, trước hết phải đề cập đến lệnh kiểm soát đất đai và lệnh thu hồi võ khí. Cơ sở công việc cai trị của Toyotomi Hideyoshi là lợi dụng triệt để quyền uy của triều đình, một điều ông khác với Nobunaga (ông này chỉ đứng bên lề mà khống chế triều đình). Như đã trình bày bên trên, năm 1585, Hideyoshi đã tìm cách để được thiên hoàng bổ nhiệm vào vai trò Kanpaku rồi sau đó là Daijôdaijin, hai chức vụ quan trọng hàng đầu. Tên họ mới của ông ông cũng do triều đình ban cho. Lại nữa, vào năm 1588, khi khánh thành ngôi biệt điện Juurakutei (Tụ Lạc Đệ), ông đã cho mời Thiên hoàng Gô Yôzei (Hậu Dương Thành) đến khoản đãi và nhân lúc ấy, đòi hỏi các lãnh chúa địa phương tuyên thệ trung thành với cả mình lẫn Thiên hoàng. Bằng cớ rõ nhất của sự độc tài là Hideyoshi đã ban bố lệnh Sôbuji, ngăn cấm những cuộc chiến tranh riêng lẻ, ra lệnh cho các lãnh chúa phải đình chiến và cưỡng chế họ điều đình với nhau dưới áp lực của mình. Trung tâm tổ chức chính quyền của Hideyoshi là Gotairô (Ngũ đại lão) và Gobugyô (Ngũ phụng công). Và chỉ có thế thôi. Ông chia năm chức vụ thi hành (phụng công) cho năm bầy tôi thân tín nhất của mình, ngoài ra, ông dùng năm đồng minh chiến lược làm cố vấn (đại lão) để bàn luận về những chính sách trọng yếu. Tóm lại, với 10 nhân vật đó ông nghĩ rằng đã có thể xây dựng một chính quyền vững như bàn thạch! Ít nhất đó là điều ông đã cho thi hành vào lúc cuối đời. Khi còn khỏe mạnh minh mẫn, ông có thể thực hiện chính sách độc tài ấy được nhưng đến lúc xế chiều, có vẻ ông bị ám ảnh nhiều hơn về việc làm sao duy trì chính quyền nhắm để lại cho Toyotomi Hideyori (Phong Thần Tú Lại, 1593-1615), cậu đích tử hãy còn ít tuổi. Sau đây là thành phần của "hội đồng chính phủ" 10 người do ông chỉ định: Năm bugyô (phụng công, như tổng trưởng chính phủ): Asano Nagamasa, Mashita Nagamori, Ishida Mitsunari, Maeda Gen.i, Natsuka Masaie. Năm tairô (đại lão, như thượng nghị sĩ hay thủ tướng): Tokugawa Ieyasu, Maeda Toshiie, Môri Terumoto, Kobayakawa Takakage (sau khi ông chết, Uesugi Kagekatsu thế chân), Ukita Hideie.
Tuy vậy, nỗ lực của Hideyoshi không đem lại kết quả như ý sau khi ông mất. Chẳng bao lâu tổ chức 10 người này bị giải thể. Ngày 8 tháng 3 năm 1598 (Keichô 3), Hideyoshi trút hơi thở cuối cùng và chỉ 2 năm sau mà thôi, đã xảy ra cuộc sống mái một mất một còn trên cánh đồng Sekigahara (mà Mitsunari và Ieyasu, hai người có tên được in đậm, cầm đầu 2 đạo quân đông tây, đã đóng vai trò chủ chốt). Kết quả trận đánh đó như thế nào, chúng ta sẽ có dịp bàn rõ hơn. 3.2 Chính sách đối nội của chính quyền Toyotomi: Sau khi thống nhất thiên hạ rồi, Hideyoshi đã đề ra những chính sách đối nội như thế nào? Trước tiên, để đặt cơ sở tài chính cho chính quyền mới, ông đã lập ra ở các địa phương những lãnh địa mà trung ương cai quản trực tiếp gọi là kura.iri.chi (tàng nhập địa) hay "lãnh địa nhà nước" để gây công quĩ mà khả năng thu nhập mỗi nơi lên đến 2 triệu thạch thóc. Ngoài ra còn có các mỏ vàng trên đảo Sado, mỏ bạc Iwami Ômori, mỏ bạc Tajima Ikuno, những cơ sở kinh tài mà chính phủ trông coi và thu huê lợi lấy. Ông cũng cho đúc hóa tệ mang tên là Tenshô ôban (Thiên Chính đại phán) tức " thỏi tiền vàng cỡ lớn năm Thiên chính" để lưu hành. Ngoài ra ông còn đặt các nhà buôn giàu có của những khu vực đô thị phồn thịnh như Ôsaka, Sakai, Fushimi, Nagasaki dưới sự kiểm soát trực tiếp, dùng sức mạnh kinh tế của họ để phục vụ cho mục tiêu chính trị và quân sự của mình. Tiếp đến, về những chính sách cụ thể, chắc cần đề cập đến Taikô kenchi (Thái cáp kiểm địa) trước đã. Taikô (Thái cáp) [9] là một lối xưng hô đặc biệt để chỉ Kanpaku hay Daijôdaijin, có thể hiểu là Tể Tướng đầu triều. Sau khi đã dẹp được Akechi Mitsuhide trong trận Yamazaki (1582), ông bèn cho kiểm kê đất đai (kiểm địa = kenchi) vùng Yamazaki ấy. Thế rồi từ ấy ông tiếp tục cho kiểm kê những lãnh địa mới vừa thu lấy được. Việc kiểm kê đất đai của ông được gọi là Taikô kenchi (Việc kiểm kê đất đai của Tể tướng Hideyoshi). Về mặt cơ bản, nó khác với cách thức kiểm kê đất đai có trước đây của các lãnh chúa Chiến Quốc đối với gia thần và địa chủ. Kiểm kê là cách thức để ấn định mức độ tuế cống cho nên có khi một miếng đất cách vài năm lại bị kiểm kê một lần. Các lãnh chúa Chiến Quốc dưới thời Nobunaga theo chế độ sashidashi kenchi nghĩa là họ "tự kiểm kê và trình báo lên trên" (jiko shinkokusei = tự kỷ thân cáo chế). Hideyoshi áp dụng lối khác. Ông gửi các viên chức kiểm kê (kenchi bugyô) về tận nơi và đo đạc tính toán rất nghiêm nhặt. Đại khái Hideyoshi đòi hỏi các viên chức phải làm những chuyện như sau: 1) Đo đạc đất đai, xác định sở hữu chủ (nguyên tắc icchi issakunin tức nhất địa nhất tác nhân, một khoảnh đất dành cho một người canh tác). 2) Định mức ruộng tốt ruộng xấu (thượng, trung, hạ, hạ hạ điền vv..theo chất đất và khả năng tưới tiêu) để xem sức sản xuất của một đơn vị (tan = đoạn, phản, tương đương 391,7 m2) được bao nhiêu thạch (hộc, 180 lít) thóc. Sức sản xuất của mỗi "tan" gọi là kokumori (thạch (hộc) thịnh). 3) Tính sức sản xuất trên diện tích chung của miếng đất ấy bằng cách nhân đơn vị diện tích với sức sản xuất của một đơn vị. Sức sản xuất ấy gọi là kokudaka (thạch (hộc) cao). 4) Phân chia kokudaka làm 3 phần: hai phần là của công, một phần dành cho dân. Hai phần ba tức là tuế cống. 5) Định chế độ tuế cống (Nhật gọi là nengu = niên cống nhưng cả hai từ đều có thể hiểu chung là thuế má) theo đơn vị làng xã (mura.ukesei =thôn thỉnh chế) chứ không theo sức nộp thuế của cá nhân. Điều quan trọng nhất của lệnh kiểm kê đất đai gọi là Taikô kenchi này trước tiên là việc thống nhất các đơn vị đo lường: diện tích, dung tích và trọng lượng. Ba thứ gộp chung được gọi là dôryôkô (độ lượng hành). Những tiêu chuẩn được đặt ở cấp quốc gia ấy ngày trước chỉ giới hạn trong từng lãnh địa và không đồng nhất. Nếu Hideyoshi muốn kiểm kê đồng loạt đất đai khắp nước thì việc thống nhất tiêu chuẩn đo lường nói trên là điều tất yếu. Ông đã thống nhất trước tiên đơn vị đo diện tích đất đai theo cấp bậc từ lớn xuống nhỏ: chô (đinh), tan (đoạn), se (mẫu), bu (bộ). Một bu (bộ) là diện tích của một khoảnh đất vuông vức mà mỗi bề là 6 shaku (xích) 3 sun (thốn) tương đương với 191cm và được gọi là ken (gian). Cứ 30 bộ thì thành một se (mẫu), 10 se thành 1 tan (đoạn), 10 tan thành 1 chô (đinh). (Chính ra mẫu còn được đọc là mo hay bô. Như ở đây, mẫu với cách gọi là se hay une thì chỉ có khoảng 0,992 sào tây (are)). Đơn vị đo lường (dung lượng, thể tích) dành cho gạo thì trước đó, các lãnh địa tính theo masu (thăng, thưng) và không đồng đều. Chúng chỉ được áp dụng ở đâu theo đó. Hideyoshi dùng đơn vị masu của vùng Kyôto gọi là Kyômasu (Kinh thăng) làm đơn vị chung cho cả nước. Về dung tích thì ông lấy qui chuẩn là gô (hợp) tương đương với 180ml. Cứ 10 gô thì được một shô (tức masu tức thăng hay thưng), 10 shô thành 1 to (đấu), và 10 to thành một koku (thạch, hộc). Chữ thạch và hộc trên tự dạng chữ Hán vốn khác nhau. Tuy nhiên, người Nhật viết là thạch nhưng lại đọc là koku như hộc và cả hai đều có nghĩa là 10 đấu. Sau khi đã thống nhất các đơn vị đo lường gọi là doryôkô (độ lượng hành) [10] trên toàn quốc, bấy giờ chính quyền Hideyoshi mới có thể tính toán được lượng sinh sản tiêu chuẩn cho mỗi "tan" đất, Trước thời Hideyoshi, nó là 360 bu (bộ) nhưng theo lệnh Taikô kenchi, một "tan" chỉ tương đương với 300 bu, cho nên xin hiểu rằng diện tích một "tan" là 991,7 m2.Từ cơ sở đó, ngay cả nương rẫy (hatake) lẫn đất xây dựng (yashikichi) đều qui được ra thóc gạo để tính kokumori hay sức sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên sức sản xuất đó sẽ được chia theo đẳng cấp tùy phẩm chất của miếng đất ấy (thượng điền, trung điền, hạ điền, hạ hạ điền). Ví dụ miếng ruộng tốt (thượng điền) thì mỗi "tan" có thể thu một thạch năm đấu thóc, ruộng tốt vừa (trung điền) 1 thạch 3 đấu, nương rẫy và đất xây dựng 1 thạch 2 đấu chẳng hạn. Như thế, tất cả sức sinh sản của đất đai đều lấy thóc gạo làm tiêu chuẩn. Cách tính sức sản xuất nông nghiệp theo kokumori để qui định kokudaka, cơ sở tuế cống của diện tích đất đai đã được báo cáo rõ ràng trong một văn thư gọi là Kenchi jômoku (Kiểm địa điều mục) của Toyotomi Hidetsugu (Phong Thần Tú Thứ, 1568-1595) [11] trong lần ông phụ trách việc kiểm kê năm 1591 (Tenshô 19). Theo đó thì ông đã cho nhân lên sức sản xuất của mỗi "tan" (kokumori) với số và loại "tan" làm nên tổng diện tích (tanbetsu) để tính được thu nhập của hoa màu (kokudaka). Công cuộc kiểm kê đất đai của Tể tướng Hideyoshi (Taikô kenchi) còn có cái tên khác là Tenshô no kokunaoshi (Việc tính lại số thạch thóc vào năm Thiên Chính) để đánh dấu thời điểm khi chế độ này được tiến hành lần đầu tiên. Công cuộc kiểm kê này thực ra có ý nghĩa rất lớn: Một là nó gạt bỏ được sự hủ bại của các trang viên. Ngày xưa, một trang viên có khi thuộc quyền sở hữu "chồng chất" (trùng phức) của nhiều người và sinh ra biết bao nhiêu phức tạp từ việc tranh chấp quyền lợi. Nay thì chỉ có một sở hữu chủ. Hai là nó ghi nhận trên pháp lý quyền sở hữu đất canh tác và đất cư trú của người nông dân, những kẻ thực sự đứng ra canh tác ruộng đất, vì tên tuổi và các cách tính toán kokumori và kokudaka phần họ đều được đăng ký trong sổ sách của nhà nước gọi là kenchichô (kiểm địa trương). Ba là nó buộc người
nông dân phải thi hành nghĩa vụ nộp tuế cống phù hợp với
số lượng đã định rõ bằng con toán của nhà chức trách
trên phần đất thuộc về họ. Điều này vừa khuyến khích
những tiểu nông tự lập vừa nắm được trực tiếp việc
thu thập tuế cống cho nhà nước.
Việc kiểm kê đất đai của tể tướng cũng dẫn đến chế độ chia cắt và ban phát các chigyôkoku (tri hành quốc) tức "phần đất đặc biệt phong tặng cho những người ra làm việc nước", được trao từ tay Hideyoshi đến các lãnh chúa. Chế độ này mang tên daimyô chigyôsei (đại danh tri hành chế). Các lãnh chúa (daimyô = đại danh) tùy theo diện tích và sức sản xuất của địa phương mình, đã phải phụng sự việc binh (gunyaku = quân dịch) cho chính quyền trung ương. Để trả lễ cái công gọi là chigyô (tri hành = chấp hành chức vụ), trung ương mới ban thưởng cho họ như thế. Tiếp đến, xin được trình bày về chính sách thu hồi vũ khí của Hideyoshi. Cụ thể nó đã được thực hiện bằng cái lệnh katana.gari (đao thú = săn lùng đao kiếm) ban hành vào năm 1588 (Tenshô 16). Nó không đến nổi phức tạp như lệnh kiểm kê đất đai. Mục đích chính không gì khác hơn là phòng ngừa những cuộc nổi loạn tsuchi-ikki dưới thời Chiến Quốc mà ta đã bao lần nhắc tới. Hồi đó, nông dân đều vũ trang nên mỗi khi uất ức hay bất mãn về việc phải thu nạp tuế cống là họ có thể hội họp làm ikki, nhất tề nổi dậy, dùng vũ lực chống lại chủ nhân lãnh địa một cách dễ dàng. Nói cách khác, gặp lúc hữu sự thì nông dân sẽ có thể tức khắc trở thành một lực lượng vũ trang. Thành thử giữa anh nông dân tầm thường và người vũ sĩ thuộc giai cấp cao hơn không còn có khoảng cách gì nữa. Nó chẳng khác tình trạng của thời trung cổ lúc mà "binh nông là một". Như vậy, ta hiểu chính sách thu hồi lại vũ khí của nông dân có mục đích ngăn chia hai giai cấp này ra (binh nông phân ly), sau nữa là không cho nông dân (và cả ngư dân) có phương tiện đối kháng lại quyền uy các lãnh chúa. Dù vậy, không cứ hể là mệnh lệnh của Hideyoshi thì phải được thi hành. Nông dân cả nước đang nắm khi giới dễ gì nộp lại ngay cho nhà nước! Do đó, Hideyoshi mới đề ra chuyện "đại nghĩa danh phận" nghĩa là đưa chiêu bài hoa mỹ để thuyết phục (hay dụ dỗ) nông dân. Văn từ của katana.gari hay lệnh săn lùng đao kiếm đã được ghi lại trong một sử liệu gọi là Kobayakawake bunsho tập hợp giấy tờ, tư liệu của gia đình Kobayakawa, một lãnh chúa thời Chiến Quốc, nay hãy còn được truyền lại. Điều khi 2 có chép đại ý "Những võ khí cần tịch thu đó quyết không phải là vật vô dụng. Sắp đến đây, khi đúc tượng Đại Phật chùa Hôkôji (Phương Quảng Tự), nhà nước sẽ dùng nó làm nguyên liệu cho nên tất cả phải nghĩ đến lợi ích tương lai chung mà hiệp lực thì mới được".Thêm vào đó, trong điều thứ 3, còn thấy viết: "Nếu nhà nông chỉ sử dụng nông cụ để chuyên tâm lo cày cấy nông tang thì không có điều gì đáng vui hơn (cho nhà nước)". Như vậy, nhà nước đã khéo léo đưa những chiêu bài để kéo dân chúng làm theo ý mình. Vì không có thống kê chính thức nên không hiểu nhà nước đã thu hồi được bao nhiêu đao kiếm nhưng theo tư liệu ở một số địa phương thì số đao kiếm thu vào rất đáng kể. Những địa phương còn giữ lại vài sử liệu liên quan đến việc thu hồi đao kiếm là Yamashiro, Yamato, Kaga, Noto, Wakasa, Izumo, Shinano, Bizen, Chikugo, Satsuma, Dewa. Qua đó, người ta được biết chẳng hạn viên thủ thành họ Mizoguchi ở khu vực Daishôji thuộc tiểu quốc Kaga chỉ trong vòng một tháng đã thu được từ hai quận Enuma và Mino (lãnh địa 4 vạn 4 nghìn thạch thóc do ông cai quản) tổng cộng 3.973 dụng cụ chiến đấu, và gửi tất cả về trung ương. Trong số vật thu hồi thì 96% thuộc loại gươm giáo, còn 4% còn lại thuộc về cung tên hay súng ống. Như thế mà chức quan trông coi việc săn lùng đao kiếm, Natsuka Masaie, vẫn không bằng lòng vì cho là số nộp sao mà quá ít. Vùng Izumo, lãnh địa của họ Môri thì trong 12 xóm làng (gô) đã thu được vụ khí trang bị được cho 99 người, tổng cộng 195 món. Có thể tính ra là mỗi một người trang bị một kiếm dài và một kiếm ngắn vậy. Vào năm 1590 (Tenshô 18) tức thời điểm mà vùng Mutsu ở Đông Bắc đã được bình định và cuộc thống nhất đi đến giai đoạn cuối cùng, ở quận Senboku, quan chức sở tại đã thu hồi được tổng cộng 4.472 dụng cụ chiến đấu như kiếm kích đao thương, áo giáp, trong đó có cả 26 khẩu súng.Vì đây là cuộc giải giới ở một vùng đất địch, phân nữa số binh khí đã bị phá hỏng rồi. Dầu vậy con số còn lại đó đã phản ảnh trung thực tình trạng tàng trữ binh khí ở địa phương. Chỉ cần nhân ví dụ vừa kể lên với số địa phương bị kiểm soát thì ta sẽ hình dung ra được con số và các loại đao kiếm đối tượng của cuộc săn lùng trên toàn quốc. Riêng về pháp lệnh liên quan đến việc ấn định giai cấp xã hội thì được biết năm 1591 (Tenshô 199, Hideyoshi đã ban hành thêm một lệnh mới gọi là Hitobarai.rei (Nhân tảo lệnh = Lệnh dọn dẹp người). Nội dung của nó nhằm cấm những người theo việc binh (buke hôkônin) dưới trướng các võ sĩ trở thành dân kẻ chợ (thương) hoặc làm ruộng (nông). Lệnh cũng không cho phép người làm nông (hakushô) trở thành nhà buôn (thương). Như thế, Hideyoshi muốn ai ở địa vị nào vẫn phải ở đấy nghĩa là kiểm soát chặt chẽ hơn trong sự ngăn cách các giai cấp xã hội. Vào năm sau, chức kanpaku Hidetsugu (và là cháu, dưỡng tử của Hideyoshi) nhân vì muốn có đủ con số phu phen và lính để cử binh sang đánh Triều Tiên, đã dựa theo sắc lệnh Hitobarai này để mở cuộc điều ta dân số (hộ khẩu = koguchi) trên toàn quốc, sắp hạng dân chúng theo tiêu chuẩn hôkônin (binh), chônin (thương) và hakushô (nông). Lệnh mới này có tên Mibun tôseirei (Thân phận thống chế lệnh = Lệnh quản lý các giai cấp). Tóm lại, trước sau chính quyền Hideyoshi đã sử dụng 3 pháp lệnh là lệnh kiểm địa, lệnh lùng đao kiếm và lệnh ngăn cấm việc chuyển đổi giai cấp để củng cố việc phân chia thứ bậc xã hội giữa binh - thương - nông và hoàn thành một chính sách "binh nông phân ly". 3.3 Chính sách đối ngoại của chính quyền Toyotomi: Sau đây xin trình bày chính sách đối ngoại của Hideyoshi cũng như cuộc cử binh xâm lăng Triều Tiên của ông. Trước tiên hãy đề cập đến cách xử lý của ông đối với đạo Ki-tô. Lúc đầu, cũng giống như Nobunaga, Hideyoshi cho phép đạo Ki-tô được truyền giáo. Dần dà, ông thay đổi ý kiến khi nhận thấy ảnh hưởng của đạo Ki-tô có thể phương hại đến việc củng cố một thể chế quốc gia như ông mong muốn. Chuyện đó đã bộc lộ cụ thể vào năm 1587 (Tenshô 15). Số là sau khi Hideyoshi bình định xong đảo Kyuushuu thì một lãnh chúa đi đạo là Ômura Sumitada (Đại Thôn Thuần Trung, 1553-1587) ở Nagasaki đã đem đất đai tiến cúng cho Hội Jesuit. Ngoài ra còn có tin đến tai Hideyoshi là tín đồ đạo Ki-tô đã phá hoại chùa chiền và đền thần. Lúc đó ông mới đặt ra nguyên tắc là các lãnh chúa nếu ai muốn vào đạo phải được phép của ông cái đã (nhập tín hứa khả chế). Do đó, một lãnh chúa là Takayama Ukon (Cao Sơn Hữu Cận, 1552-1615), chủ nhân thành Akashi ở Harima (tây nam Hyôgo bây giờ) vì không chịu bỏ đạo nên lãnh địa bị tịch biên. Ngược lại, đối với thường dân thì Hideyoshi cho phép tùy tâm tùy hỷ nghĩa là không đặc biệt ngăn cấm.
Thế nhưng chẳng bao lâu Hideyoshi lại đổi phương châm. Trong điều lệ đầu tiên của lệnh phóng trục (đuổi) các bateren (từ tiếng Bồ padre có nghĩa là "các cha cố"), ông cho rằng "Nhật Bản là đất nước của chư thần, nay nếu đi theo tà giáo của các nước Ki-tô thì kỳ cục quá thể". Như thế, các giáo sĩ ngoại quốc bị ông bắt buộc đi ra khỏi nước và việc truyền giáo triệt để cấm chỉ.Nhưng ngược lại, ông vẫn bảo vệ và khuyến khích mậu dịch Nam Man thành thử thái độ của ông hãy còn có điểm mơ hồ. Ông vẫn bảo vệ các phú thương vùng Kyôto, Sakai, Nagasaki, Hakata ...khi họ chở hàng đi buôn bán trong vùng Đông Á và giao thương với người ngoại quốc trong phạm vi Nam Man mậu dịch. Vì vậy mà dù có lệnh cấm, đạo Ki-tô sau đó vẫn được truyền bá rộng rãi. Cho đến thời Mạc Phủ Tôkyô, chính sách đối ngoại nhập nhằng này vẫn tiếp diễn và tạo nên vấn đề.
Thứ đến, từ năm 1588 (Tenshô 16), Hideyoshi đã phát lệnh Kaizoku torishimari-rei (Lệnh xử lý hải tặc) cấm đoán các hành vi cướp bóc của Wakô (Nụy khấu) nhằm kiểm soát hải phận triệt để. Đó một phần cũng bởi vì từ hậu bán thế kỷ 16, tình hình giao thông đã xấu đi, các thế lực truyền thống vùng Đông Á bắt đầu là nhà Minh bên Trung Quốc không còn đủ mạnh để giữ gìn trật tự trên mặt biển nữa. Khi đã thống nhất toàn quốc, Hideyoshi thừa cơ nhà Minh suy yếu, mưu đồ lập một trật tự mới ở vùng biển Đông mà Nhật Bản sẽ đóng vai trò chủ chốt. Nếu dùng chữ văn vẻ bóng bẩy một chút thì nó là "trật tự hoa di kiểu Nhật". Lúc đó, Nhật Bản đóng vai "hoa" thay cho Trung Quốc và các nước chung quanh ("di") sẽ phải phục tùng nó. Nói cách khác, Nhật Bản sẽ trở thành "trung" tâm thay cho Trung Quốc của nhà Minh. Cụ thể là Nhật Bản đòi chính quyền các vùng như Goa của Bồ Đào Nha, Manilla của Tây Ban Nha, Cao Sơn Quốc của Đài Loan phục tùng và triều cống mình. Bởi vì tư thế mà Nhật Bản của Hideyoshi mong đợi là mình sẽ thay mặt hoàng đế Trung Quốc bắt mọi người phải vào chầu. Tinh thần dân tộc quá khích đó rốt cục dẫn đến những hậu quả bi đát. Để thực hiện giấc mộng bá quyền, Nhật Bản đã hai lần xuất quân xâm lấn đất nước Triều Tiên. Sử Nhật gọi đó là Chiến dịch năm Bunroku (Bunroku no eki, 1592, năm Văn Lộc nguyên niên) và Chiến dịch năm Keichô (Keichô no eki, 1597, Khánh Trường thứ 2). Năm Bunroku, trong đợt tiến quân lần thứ nhất, Hideyoshi đặt mục tiêu tấn công nhà Minh. Vào năm 1587 (Tenshô 15), sau khi Triều Tiên từ chối đóng vai trò "tiên phong" đi đánh nhà Minh, sự cố đã bộc phát. Trước tiên, Hideyoshi qua trung gian của họ Sô (Tông) cai trị đảo Tsushima (Đối Mã, nằm trên đường đi) bắn tin nhờ Triều Tiên nhưng bị Triều Tiên từ khước. Lúc ấy, Hideyoshi bắt đầu chuẩn bị chiến tranh bằng cách mở hành doanh tại thị trấn Nagoya (Danh Hộ Ốc) trong vùng Hizen (Phì Tiền, tên cũ của Saga-Nagasaki) trên đảo Kyuushuu.Xin đừng nhầm với thị trấn Nagoya (Danh Cổ Ốc) ở vùng Aichi trên đảo Honshuu. Thế rồi bước qua năm 1592 (Văn Lộc, Bunroku nguyên niên), đạo quân trên 15 vạn của Hideyoshi đã vượt biển sang đánh Triều Tiên. Sau khi đổ bộ lên Pusan (hay Busan, Phủ Sơn) ở cực nam, đại quân của Hideyoshi đã sử dụng súng hỏa mai là vũ khí tối tân thời ấy để chiếm thượng phong và chẳng bao lâu đã hạ được Seoul (lúc đó mang tên Hanseong, Hán Thành) rồi đến lượt Pyongyang (Bình Nhưỡng).
Thế nhưng thủy quân Triều Tiên dưới sự chỉ đạo của danh tướng I Sun-Sin (Lý Thuấn Thần) đã chiến đấu dũng cảm [12]. Người ta vẫn còn nhắc đến chiến thuật của ông sử dụng các geobukseon hay "qui giáp thuyền" là các thuyền hình mu rùa có vỏ bọc kim loại rất chắc chắn để chống các đợt xung kích cận chiến và hỏa pháo của quân Nhật. Nghĩa binh của Triều Tiên cũng tham chiến với sự chi viện của quân Minh do tướng Lý Như Tùng thống suất. Quân Nhật vì đường vận lương bị gián đoạn nên dần dần bị du vào thế bất lợi. Rốt cuôc, Nhật phải tính chuyện giảng hòa với nhà Minh. Lúc thương lượng thì người trách nhiệm phía Nhật là tướng Konishi Yukinaga (Tiểu Tây Hành Trường, ? -1600) và phía Triều Tiên là Thẩm Duy Kính. Thế nhưng điều kiện giảng hòa giữa Hideyoshi và phía nhà Minh quá khác xa cho nên hiệp ước không đươc ký kết. Lý do là Hideyoshi đòi 1) quân Minh phải hàng phục, 2) phải nhượng phần đất phía nam Triều Tiên cho Nhật. Thế nhưng hai bên ăn nói qua lại mù mờ làm sao mà sinh ra sự hiểu lầm, khiến cho vào năm 1596 (Khánh Trường, Keichô nguyên niên), khi nhà Minh gửi sứ sang Nhật thì chỉ đề cập với Hideyoshi "Nay phong ngươi làm Nhật Bản quốc vương" với ngụ ý cho phép Nhật được... triều cống. Kết quả là cuộc thương thuyết Minh - Nhật hoàn toàn đổ vỡ. Năm 1597 (Keichô 2), Hideyoshi một lần nữa lại gửi hơn 14 vạn quân sang đánh Triều Tiên. Đó là Chiến dịch năm Keichô (Keichô no eki). Tuy nhiên lần này vừa mới tiến binh, quân Nhật đã bị Triều Tiên đón đánh và cầm chân. Sang năm sau, khi có tin Hideyoshi chết thì toàn thể binh đoàn bắt buộc phải triệt thoái. Hai cuộc xuất quân xảy
ra trong vòng 7 năm. Nhật Bản đã kéo nước Triều Tiên vào
vòng khói lửa và gây nhiều tang tóc.Trong khi đó, tại quốc
nội, hai cuộc xâm lấn nước người đã gây nên cảnh khổ
cho cả thường dân Nhật Bản vì họ phải chịu một gánh
nặng khủng khiếp về tài lực và nhân lực. Dĩ nhiên đó
cũng là nguyên nhân xa sự suy vong của chính quyền Hideyoshi.
|
Tiết 4 : Sự hình thành và tổ chức Mạc phủ Edo. |
4.1
Trận đụng độ ở Sekigahara và trận đánh thành Ôsaka:
Năm 1590 (Tenshô 18), sau khi họ Hôjô bị diệt vong, vùng Kantô (Quan Đông, chung quanh Tôkyô) được đặt dưới quyền kiểm soát của Tokugawa Ieyasu, một lãnh chúa cỡ lớn với đất phong 250 vạn thạch thóc. Ông còn đứng hàng đầu trong năm đại lão cố vấn việc vận hành chính quyền buổi vãn niên của Hideyoshi. Thế nhưng sau khi Hideyoshi qua đời thì sự đối lập tiềm ẩn giữa Tokugawa Ieyasu và một trong năm bugyô đầy thế lực là Ishida Mitsunari (Thạch Điền Tam Thành, 1560-1600) đã bộc lộ ra trước mắt mọi người. Năm 1600, hai bên đã chọn cánh đồng Sekigahara làm chỗ thư hùng một mất một còn. Kẻ chiến thắng là Tokugawa, người đã khai sáng một triều đại mới. Thế thì tại sao họ lại phải đi đến một cuộc chiến như vậy? Lý do là Ieyasu với tham vọng và thực lực sẳn có, đã không tuân theo qui định (okite) hay nói cách khác đi là không giữ lời giao ước với gia đình Toyotomi nên gặp phải sự chống đối của Mitsunari. Chính quyền Toyotomi trước kia vốn nằm trong bàn tay độc đoán của Hideyoshi, do đó bộ máy hành chánh cũng như hệ thống pháp luật bị xem như là chưa hề được tổ chức hoàn chỉnh. Họ chỉ có một qui định (okite) thành văn là cơ sở để làm việc chung. Văn bản này đã được soạn ra vào năm 1595 (Bunroku 4) như một bộ luật cơ bản trong nội bộ và 5 vị đại lão đã cùng ký tên chấp nhận là sẽ không ai có quyền đi ngược lại nó. Văn bản ấy thành lập vào thời điểm Hideyoshi có nhiều hiềm nghi, khi chức kanpaku (cũng là cháu ruột và con nuôi của Hideyoshi) là Toyotomi Hidetsugu (Phong Thần, Tú Thứ) bị cáo buộc mưu phản và đuổi lên núi Kôyasan để rồi nhận lệnh phải tự mổ bụng. Đấy cũng là lúc tình hình chiến cuộc bên Triều Tiên đang gây khốn đốn cho ông. Nói chung, nó đã ra đời vào thời điểm rất bất lợi và u ám của chính quyền Hideyoshi. Trong qui định ấy có một điều khoản then chốt là Hideyoshi "không cho phép các lãnh chúa gã con cho nhau" (để tránh việc đồng minh bằng hôn nhân vốn gây khó khăn cho người thừa kế còn trẻ dại là Hideyori). Thế nhưng, đến lúc Hideyoshi không còn nữa, Ieyasu là nggười đầu tiên phá ngay qui định đó, nhằm kết bè kết đảng cho mình.Những viên tướng chủ lực trên chiến trường Sekigahara và đứng trong đạo quân chiến thắng của miền Đông (Tôgun) như Date Masamune và Fukushima Masanori đều đã được Ieyasu thu phục và trở thành đồng minh của ông nhờ thủ đoạn này. Khi bị trách móc vì một loạt hành vi như vậy, Ieyasu chỉ điềm nhiên trả lời kiểu nói đỡ: "Ối, ta quên khuấy đi mất!". Điều đó đã làm cho sự bất bình của Mitsunari càng sâu sắc và cuộc sống mái chỉ còn là vấn đề thời gian. Năm 1600 (Keichô 5), Mitsunari
khởi binh cùng với một trong năm tairô (đại lão) là Môri
Terumoto (Mao Lợi Huy Nguyên) trong vai minh chủ. Như thế, cuộc
đụng độ trên cánh đồng Sekigahara (phía tây nam Gifu) đã
mở màn. Ieyasu, người chiến thắng trong cuộc giành lấy thiên
hạ, đã trừng phạt các lãnh chúa thuộc đạo quân miền
tây. Riêng Ishida Mitsunari và Konishi Yukinaga (viên tướng chỉ
huy đánh Triều Tiên trở về) thì cho giải về xử tử ở
Kyôto. Các lãnh chúa thuộc Seigun (Tây quân) gồm 99 người
và lãnh địa 440 vạn thạch thóc bị "cải dịch" (kaieki),
đổi công việc, nghĩa là bị tịch thu dất đai. Minh chủ
của quân miền Tây là Môri Terumoto (già yếu và chỉ là lãnh
đạo bù nhìn) bị giảm lộc từ 120 vạn thạch xuống 37,
Uesugi Kagekatsu cũng vậy, từ 120 vạn thạch chỉ còn 30. Tiếng
chuyên môn gọi là genpô (giảm phong).
Thế
rồi đến năm 1603 (Keichô 8), để được danh chính ngôn thuận
trong việc thống lĩnh các lãnh chúa, Ieyasu đã nhận chức
Sei.i Daishôgun (Chinh di Đại tướng quân) từ Thiên hoàng
Go-Yôzei (Hậu Dương Thành). Như thế, ông trở thành Shôgun
và mở mạc phủ mới ở Edo.
Từ khi Ieyasu được
chuyển đất phong làm lãnh chúa vùng Edo, ông đã cho xây thành
Edo (Edojô) và tiếp tục từng bước một thiết kế các xóm
cư dân thương mại chạy vòng quanh nó theo hình trôn ốc mà
người Nhật gọi là theo hình chữ の(no
trong hệ thống chữ hiragana) theo nguyên tắc lãnh địa của
thân thích thì gần, lãnh địa của bộ hạ thời xa. Nay thì
sau khi thành Shôgun rồi, ông bắt tất cả các lãnh chúa (daimyô)
trên toàn quốc phải đóng góp công của vào công trình đó.
Việc này ông xem như là việc kêu gọi xây chùa lấy công
đức nên gọi nó là tetsudaibushin. Tetsudai nghĩa là tiếp tay,
còn fushin (phổ thỉnh) là một danh từ Phật giáo chỉ việc
quyên góp tài vật và sức lực để làm công đức. Ngoài
ra ông bắt các lãnh chúa phải soạn kuniezu (quốc hội đồ)
tức là địa đồ của tiểu quốc họ cai quản và gôchô
(hương trương) hay sổ sách làng xã. Tuy dã có tiền lệ dưới
thời chính quyền Toyotomi nhưng những địa đồ và sổ sách
này giúp Ieyasu có đủ thông tin các địa phương. Nó chứng
tỏ được rằng ông là chủ nhân ông của đất nước. Trong
gôchô (hương trương) chức trách sở tại phải ghi rõ số
thóc gạo vốn là cơ sở đánh thuế (kokudaka) của từng thôn
một, rồi thu thập những con số đó lại mà lập thành sổ
sách ở cấp bậc tiểu quốc. Cùng với kuniezu, gôchô là tư
liệu tham khảo để nắm được sức sản xuất của từng
tiểu quốc, giúp cho Ieyasu đánh giá được các chigyôkoku (tri
hành quốc = nước để phong) cho bộ hạ. Trong suốt thời
Edo, việc lập sổ sách như thế đã được tiến hành không
những vào giữa niên hiệu Keichô (Khánh Trường, 1596-1615)
mà sau đó còn xảy ra vào các thời điểm khác như các niên
hiệu Shôhô (Chính Bảo 1645-1648), Genroku (Nguyên Lộc, 1688-1704),
Tenpô (Thiên Bảo, 1831-1845 ) nữa.
Nhân đây xin nhắc lại là trước khi Tokugawa Ieyasu được chuyển phong về Edo, từ cuối thời Heian trải qua thời Kamakura, đất này là nơi cư ngụ của dòng họ hào tộc tên là Edo (Giang Hộ). Năm 1457 (Chôroku nguyên niên), người tên Ôta Dôkan (Thái Điền Đạo Quán), gia thần của dòng họ Ôgigayatsu Uesugi (một trong 2 nhánh của đại tộc Uesugi vùng Kantô) lần đầu tiên đã xây dựng thành Edo vốn được biết đến như một khu vực buôn bán sầm uất suốt thời trung cổ. Sau đó, dưới thời họ Hôjô cai trị thì thị trấn đó được biết với tên là Edo minato (minato có nghĩa là bến cảng) cũng có thời kỳ đóng vai trò quan trọng trên trục giao thông. Tuy nhiên phải nói ngay rằng chỉ từ khi Ieyasu đến lập thành quách cho mình ở đấy thì Edo mới bắt đầu phát triển thực sự. . Trở lại chuyện tranh phong giành thiên hạ thì tuy Tokugawa đã thu được thắng lợi quyết định trong trận Sekigahara nhưng Toyotomi Hideyori (Phong Thần Tú Lại), con trai Hideyoshi, tuy còn ít tuổi nhưng trên danh nghĩa là kẻ thừa kế chính thức, vẫn không chịu phục tùng và cố thủ trong thành Ôsaka. Chính vì vậy mà vào năm 1605 (Keichô 10) để chứng minh cho các lãnh chúa trên toàn quốc rằng họ Tokugawa mới là người đáng mặt cha truyền con nối chức Shôgun, Ieyasu đã nhượng vị cho con trai mình là Hidetada (Tú Trung) làm Shôgun đời thứ hai rồi ra ở Sunpu (Tuấn phủ) và điều khiển chính trị sau lưng. Sunpu là thủ phủ của vùng Suruga (Tuấn Hà) nay thuộc tỉnh Shizuoka. Việc dù đã nhương vị và hưu trí rồi mà vẫn nắm quyền chính trị thực sự bên trong được gọi là Ôgosho seji (Đại ngự sở chính trị).
Thế rồi trong hai năm 1614 (Keichô 19) và 1615 (Genna nguyên niên), sau hai chiến dịch tấn công thành Ôsaka vào mùa đông (Ôsaka fuyu no jin) và mủa hè (Ôsaka natsu no jin) kế tiếp, họ Toyotomi hoàn toàn bị diệt vong. Kể từ lúc đó, cả danh lẫn thực, dòng họ Tokugawa chính thức trở thành người chủ mới của nước Nhật. Cái cớ để gây ra hai trận đánh vừa kể đến từ một vài chữ Hán khắc trên quả chuông mà họ Toyotomi đã cúng cho chùa Hôkôji (Phương Quảng Tự) ở Kyôto.Một cận thần và cũng là cố vấn về tôn giáo, học vấn và chính trị của Ieyasu là nhà sư Suuden (Tông Truyền) ở Konchi.in (Kim Địa Viện) (còn gọi là Dĩ Tâm Tông Truyền đã gieo vào đầu Ieyasu ý tưởng đó. Ông bảo 8 chữ Hán "Quốc gia an khang, quân thần giai lạc" khắc trên chuông có dụng ý chẻ đôi tên Ieyasu (Gia Khang) làm hai để trù ẻo ông.Một quân sư khác, Hayashi Razan (Lâm La Sơn) lại ban thêm: Câu "Quân thầnphong lạc tử tôn ân xương" trong bài minh muốn nói "Phong" (Phong Thần Tú Cát) với tư cách một vị quân chủ (quân) vui sướng (lạc) được thấy con cháu hưng thịnh (ân xương). Danh xưng Hữu bộc xạ Nguyên Triều Thần cũng ghi trên đó được họ giải thích là dùng để ám chỉ Tokugawa Ieyasu (vì ông tự xưng là dòng dõi đại tộc Minamoto (Nguyên). Tất cả những điều hai học giả "ngự dụng" này trình bày chỉ là lời biện luận với ác ý chung quanh câu chữ để hãm hại họ Toyotomi nhưng đã đánh trúng phóc tim đen Ieyasu. Sau thời chiến loạn, Nhật Bản bước vào kỷ nguyên thái bình. Niên hiệu Genna được thêm hai chữ "yểm vũ" đằng sau để sinh ra một cách nói mới Genna enbu (Nguyên Hòa yểm vũ) vì yểm vũ nghĩa là phế bỏ, cất giấu võ khí, tái lập hòa bình. Hai chữ "yểm vũ" được biết lấy từ chữ trong Kinh Thư: yểm vũ tu văn. 4.2 Cơ cấu cai trị của Mạc phủ: Năm 1615 (Genna nguyên niên), chiến dịch Ôsaka kết thúc, Mạc phủ Tokugawa ra lệnh mỗi lãnh chúa ở tiểu quốc chỉ có quyền xây một cái thành cho mình mà thôi. Đó là lkkoku ichijô.rei (Nhất quốc nhất thành lệnh).Sau đó, nhà chúa còn ban hành bộ luật dành cho giới samurai có tên là Buke shohatto (Vũ gia chư pháp độ). Cả hai đều có mục đích kiểm soát nghiêm ngặt các lãnh chúa địa phương. Ban đầu pháp lệnh dành cho giới samurai được đặt theo niên hiệu của Thiên hoàng nên có tên là Genna.rei (Nguyên Hòa lệnh) nhưng về sau, Ieyasu đã ủy thác cho tăng Suuden biên soạn và nó được ban bố trong thiên hạ dưới danh nghĩa của Shôgun đời thứ hai, Hidetada. Văn bản này khi biên tập đã dựa trên Kenmu shikimoku (Kiến Vũ thức mục) và các bunkokuhô (phân quốc pháp) tức luật lệ riêng của từng tiểu quốc. Từ đời Shôgun thứ 3 là Idemitsu (Gia Quang) trở về sau, mỗi lần Shôgun mới lên ngôi, nó vẫn thường được tu chính đôi chút và cho ban bố lại. Đó cũng vì các Shôgun khi vừa mới nhậm chức thường muốn bày tỏ quyền uy của mình đối với các lãnh chúa nên lúc nào cũng ban hành một Buke shohatto mới. Lại nữa, sau khi Ieyasu mất rồi, vào năm 1617 (Genna 3), Shôgun đời thứ 2 là Hidetada đã nhất tề cấp phát những văn thư chứng nhận quyền sở hữu đất đai cho các lãnh chúa, công khanh và tự xã. Như thế, địa vị của các nhân vật sở hữu lãnh địa trên toàn quốc được xác định rõ ràng. Văn thư này được mệnh danh là Ryôchi ategai.jô (Lãnh địa oản hành [22] trạng). Qua hành động cấp phát chứng minh thư nói trên, Shôgun đã thiết lập được một quan hệ chủ tớ, thầy trò với các lãnh chúa có đất phong ở địa phương.
Mặt khác, vào đầu thời Edo, người ta cũng chứng kiến việc mạc phủ trừng phạt một số lãnh chúa. Ví dụ vào năm 1619 (Genna 5), nhà chúa đã cho đổi đất phong (kaieki =cải dịch, nói chung là hạ tầng công tác) của một công thần khai quốc là Fukushima Masanori (Phúc Đảo, Chính Tắc, 1561-1624), một người có công lớn trong trận thư hùng ở Sekigahara. Lý do là Fukushima đã làm trái Buke shohatto khi sửa sang thành quách của mình mà không xin phép trước. Shôgun đã cho mọi người thấy rằng, nếu không tuân theo pháp độ (hatto) thì cho dù có công lớn đến mức nào chăng nữa, cũng sẽ chẳng được dung tha. Hidetada cũng đi theo con đường của cha mình. Ông nhượng vị cho con trai là Iemitsu và rút lui về Ôgosho (Đại ngự sở) để củng cố cơ sở cho mạc phủ từ vị thế bên trong. Shôgun đời thứ 3 là Idemitsu khi nhậm chức cũng ban bố Buke shohatto mới vào năm 1635 (Kan.ei 12). Trong đó, ông có một điều khoản mới là chế độ hoá tập tục Sankin kôtai (Tham cần giao đại) nôm na là "thay phiên lên chầu". Mỗi lãnh chúa địa phương phải rời đất phong (kunimoto) để lên hầu việc ở Edo một năm và về lại đất phong sống một năm. Không những họ phải thay phiên đi đi về về như vậy và họ còn bị cưỡng chế để vợ con sinh sống ở Edo. Mục đích chế độ này là cụ thể hóa quan hệ chủ tớ giữa Shôgun và các lãnh chúa địa phương, bắt vợ con họ làm một thứ con tin, đồng thời buộc họ phải bỏ tiền ra để chi tiêu cho cuộc sống một chỗ đôi nơi tốn kém, tiêu hao. Như vậy chế độ này còn mục đích khác là ém sức mạnh kinh tế của các lãnh chúa nữa. Người gọi là lãnh
chúa (daimyô) như thế thường phải có đất phong kể từ
1 vạn thạch thóc trở lên. Trong mối quan hệ chủ tớ của
họ đối với Shôgun, có người thân thì cũng có người sơ
(shinso = thân sơ). Thân bắt đầu từ các shinpan (thân phiên)
thân thích, fudai (phổ đại) vòng trong, tozama (ngoại dạng)
vòng ngoài. Trong số các shinpan thì có sanke (tam gia) tức ba
thế tử [23]-
con yêu của Ieyasu - mở đầu cho ba chi Owari, Kii và Mito đóng
ở 3 địa phương phên giậu gần Edo che chở cho Shôgun, ngoài
họ ra là các con cháu khác thuộc dòng họ Tokugawa. Fudai gồm
những gia thần tùy tủng Ieyasu từ thuở hàn vi, còn tozama
là gia thần của họ Toyotomi nhưng đã ý thức thời cuộc
mà hùa theo họ Tokugawa kể từ trận Sekigahara. Cách bố trí
các lãnh chúa nói trên được thực hiện như sau: shinpan, fudai
sẽ trấn giữ những nơi hiểm yếu, tozama nếu có thực lực
thì phải e dè mà phong cho những vùng càng xa Edo càng tốt.
4.3 Hệ thống Mạc phủ và chư phiên: Mạc phủ Tokugawa kéo dài được gần 270 năm. Để được bền vững như vậy, nó phải có một tổ chức hữu hiệu và điều đó không thể thực hiện trong một sớm một chiều. Thời Ieyasu mới nắm chức Shôgun thì tổ chức ấy hãy còn đơn sơ, giản dị như việc nhà làng nhưng đến đời Shôgun thứ 3 là Iemitsu thì từ từ có kỷ cương. Sử sách về sau vẫn nhắc lại tổ chức chính quyền thời Kan.ei (niên hiệu Khoan Vĩnh, 1624-1645) mà thời Kan.ei đó chính là thời Edo tiền kỳ, tương ứng với lúc Idemitsu đang cầm quyền (1623-1651). Trước hết thử bàn về hệ thống tài chính. Thời điểm cuối thế kỷ 17, Mạc phủ có huê lợi khoảng 400 vạn thạch thóc thu từ tuế cống (nengu) của các lãnh địa mà nhà chúa trực tiếp quản hạt cũng như huê lợi đến từ các mỏ quặng (kôsan) như mỏ Sado Aikawa, Izu, Tajima Ikuno, Iwami Ômori vv...Thêm vào đó, nhờ quản lý trực tiếp các đô thị thương mại như Edo, Kyôto, Ôsaka, Nagasaki, Sakai, nhà chúa lại có thêm một nguồn tài chánh khác là thuế đánh trên hoạt động mậu dịch. Nói về mặt quân sự
thì nhà chúa có một lực lượng quân sự đứng bên trên
các lãnh chúa. Shôgun trực tiếp điều khiển những nhóm gia
thần gọi là hatamoto (kỳ bản) và go kenin (ngự gia nhân).
Bởi vì họ trực thuộc shôgun nên đều có danh hiệu là jikikin
(trực cần) hay nhóm tay chân trực tiếp. Thế nhưng họ cũng
được đối xử theo 2 cách khác nhau. Nhóm hatamoto hay "dưới
cờ" thì được diện kiến Shôgun nhưng go kenin " người làm
trong nhà" thì không được đặc quyền đó. Hai nhóm thân cận
này đảm đương về võ bị hơặc hành chánh. Về võ bị,
đó là những người thuộc bankata (ban phương). Bankata lại
chia làm ôban (đại ban) cao cấp, hộ vệ cho Shôgun, hay shôinban
(thư viện ban) chỉ lo việc an ninh trật tự các dinh thự.
Về hành chánh, họ làm những chức vụ khác nhau như văn thư,
tài chánh và tố tụng trong yakukata (dịch ban). Vào những lúc
có tình huống đặc biệt, ngoài các ban, những lãnh chúa cũng
có thể bị đòi hỏi phải gánh vác quân dịch (gun.yaku) như
việc điều binh đi trấn áp cuộc nổi dậy ở Shimabara ở
Kyuushuu vào năm 1792 chẳng hạn.
Trên thực tế, hệ thống quan lại còn phức tạp hơn bảng tóm lược bên trên nhiều, không thể trình bày tất cả. Chỉ xin nói lên đôi nét chính. Chức Rôjuu (Lão trung) ở vị thế thống suất toàn bộ chính quyền mạc phủ, dưới tay ông có các Wakadoshiyori (Nhược nam ký) phụ tá. "Lão" là người già và "nhược nam" là người trẻ có thể giúp việc được. Thế nhưng già trẻ chỉ có ý nói đến vai vế, kinh nghiệm và quyền hành hơn là tuổi tác. (Huống chi chữ Lang cũng có thể đọc là rô nhuu Lão). Chức Tairô (Đại lão) chẳng mấy khi được bố trí, trừ phi thật cần thiết. Cả thời Edo chỉ có 13 vị mà nổi tiếng hơn cả là ông Ii Naosuke (Tỉnh Y Trực Bật, 1815-60), chức Tairô cuối thời mạc phủ. Lúc ấy, người Tây phương đến đòi mở cửa và chính quyền Nhật Bản đang trong cơn bối rối, phải mời ông ra chấp chánh. Do đó, chức vụ hành chánh cao cấp nhất như thủ tướng chính thường do ông Rôjuu (Lão trung) nắm. Thế nhưng, chức Rôjuu không chỉ có một viên mà là nhiều người. Họ thường được tuyển chọn từ hàng các lãnh chúa fudai (phổ đại) vốn được xem như bà con gần với nhà chúa. Ngoài ra, đáng để ý là chức Ômetsuke (Đại mục phụ), đặt ra để giám sát hành vi của các lãnh chúa. Là gia thần thân tín như loại hatamoto chăng nữa cũng bị chức Metsuke (Mục phụ) kiểm soát. Mạc phủ lại đặt các chức Bugyô (phụng hành) như Jisha bugyô, Machi bugyô, Kanjô bugyô tục gọi là Sanbugyô (Tam phụng hành) để quản lý các lãnh vực then chốt như hành chánh, tư pháp và tài chánh, trông coi chùa chiền, thành phố và lãnh địa. Machi bugyô giữ việc cai trị Edo, Kangyô bugyô chủ yếu quản hạt các lãnh địa trực thuộc mạc phủ. Có hai đặc trưng là chỉ có các gia thần thân tín hatamoto mới được bổ dụng vào các chức ấy và họ làm việc theo chế độ tsukiban kôtai (nguyệt ban giao đại) tức luân phiên trực hàng tháng. Nếu có tranh chấp dễ phân xử, các bugyô có thể tự quyết định, thế nhưng gặp việc khó khăn hơn thì phải họp Hyôjôsho (Bình định sở) gồm có Rôjuu và 3 ông Sanbugyô để trao đổi trước khi đi đến phán quyết. Trong ba chức bugyô làm thành Sanbugyô thì người được coi là cao nhất lại là kẻ lo về tôn giáo: Jisha bugyô. Trong khi hai ông bugyô kia (Machi và Kanjô bugyô) ở dưới quyền Rôjuu thì ông Jisha lại được đặt trực tiếp dưới quyền Shôgun. Về tổ chức địa phương, ta biết chức Kyôto shoshidai (Kinh đô sở ty đại) rất quan trọng vì đại diện nhà chúa đến đó để khống chế triều đình, kiểm soát kinh đô và các vùng phụ cận cũng như trông chừng các lãnh chúa miền Tây (Saigoku).Ngoài ra, những thành phố lớn như Kyôto, Ôsaka, Sunpu (ở Shizuoka) đều có các Jôdai (thành đại) và Machi bugyô, còn vùng nhỏ hay xa xôi hơn như Fushimi (cảng nam Kyôto), Nagasaki, Sado, Nikkô...thì có các vị bugyô khác (tức ongoku bugyô = viễn quốc phụng hành). Đất do mạc phủ trực tiếp quản hạt như Kantô, Hida (phiá bắc Gifu), Mino (nam Gifu) đều được đặt gundai (quận đại), còn như các vùng trực quản khác thì mạc phủ lại gửi daikan (đại quan) - một chức quan dưới quyền Kanjô bugyô - đến tận nơi để trông coi việc cai trị. Mặt khác, các tiểu quốc của lãnh chúa địa phương và hệ thống quản lý nó được gọi là han (phiên). Lúc đầu thời Mạc phủ Tokugawa, khi quyền lực của "han" chưa được mạnh thì lãnh chúa (daimyô) phải cấp đất đai cho lực lượng võ sĩ có thế lực để họ trông coi mọi việc giúp mình. Có thể hiểu như hành động này là sự nhìn nhận quyền tự trị của người địa phương. Chế độ trực tiếp quản lý dân trong lãnh địa được gọi là jikata chigyôsei (địa phương tri hành chế). "Tri hành" hay chigyô, trong tiếng Nhật có nghĩa là chấp hành chức vụ, nói khác đi, cai trị (nhưng trong một văn mạch khác, cũng có nghĩa là ân thưởng). Thế nhưng sau khi được phong, các lãnh chúa đã củng cố được quyền lực trên toàn lãnh thổ thuộc về mình. Khi quyền lực của lãnh chúa bủa rộng ra khắp nơi rồi, họ mới "bứng" các võ sĩ có thế lực trong "han" khỏi đất đai, tụ tập họ sống trong các xóm dưới chân thành (jôkamachi), đặt họ vào các chức karô (gia lão) và bugyô để phân chia trách nhiệm chỉ đạo việc hành chính cho "han". Cứ như thế cho đến giữa thế kỷ 17, ở hầu hết các "han", hành chính kiểu người địa phương tự quản lý (jikata chigyôsei) dần dần biến mất. Thay vào đó là chế độ bổng lộc (hôroku seido) nghĩa là lấy gạo (kuramai = tàng mễ), tuế cống nhận được từ các kura.iri.chi (tàng nhập địa) hay khu vực mà các chức quan như kôri bugyô (quận phụng hành) và daikan (đại quan) cai trị, làm lương tiền nuôi người cai trị mới. Nói một cách giản dị hơn, đó là chế độ dùng thóc gạo để trả lương nhân viên và công chức hóa các võ sĩ có thế lực. Như thế, các lãnh chúa đã củng cố được quyền cai trị của mình trên lãnh quốc, thiết lập xong chế độ quan chức cho "han" và xác định thế lực của "han" . Trên đây là thể chế hành chánh có hình thức phong kiến tên là thể chế mạc phiên (bakuhan taisei) mà nhà nước thời Tokugawa đặt ra để cai trị dân chúng. |
Tiết 5 : Chế độ cai trị của Mạc phủ và sinh hoạt dân chúng. |
5.1
Thiên hoàng và công khanh:
Với thế mạnh hầu như tuyệt đối của mình, mạc phủ muốn thống trị mọi tầng lớp trong xã hội. Cho dầu thiên hoàng hay công khanh cũng không thể đi ra ngoài khuôn phép họ muốn đặt ra. Thời Edo là lúc mà chế độ giai cấp (thân phận chế đô = mibun seido) được ấn định một cách nghiêm ngặt. Chính ra ngôi thiên hoàng phải đưọc đặt cao hơn tất cả mọi thành phần khác nhưng một khi giới samurai mới là tầng lớp nắm sức mạnh chính trị lẫn quân sự thì trên thực chất, họ mới là giai cấp có đặc quyền. Sau đây, chúng ta hãy thử xem Mạc phủ đã khuynh loát thiên hoàng lẫn công khanh như thế nào. Năm 1611 (Keichô 16), kể từ khi Ieyasu lập Thiên hoàng Go Mizuo (Hậu Thủy Vỹ, 1596-1680) lên làm vua thì chính quyền vũ gia tha hồ thao túng, khi thì bắt thiên hoàng nhượng vị, khi thì cho tức vị mặc tình. Tư thế trên trước của họ đã được trình bày trong văn bản Kinchuu narabi Kuge shohatto ( Cấm trung tịnh công khanh chư pháp độ = Phép tắc áp dụng cho hoàng gia lẫn công khanh) soạn ra vào năm 1615 (Genna nguyên niên). Nói cách khác, đạo luật này đã cụ thể hóa và minh bạch hóa tương quan của phủ chúa đối với nhà vua. Điều thứ nhất minh định: "Đối với Thiên hoàng, điều thiết yếu của ngài là trau dồi học vấn." Nó chứng tỏ rằng mạc phủ muốn cả thiên hoàng lẫn hoàng tộc phải rời xa sân khấu chính trị. Người thảo ra bộ luật đối với hoàng gia và công khanh cũng là người đã soạn thảo bộ luật áp dụng cho vũ gia (Genna.rei, Lệnh năm Nguyên Hòa) tức là Konchi.in Suuden (nhà sư Kim Địa Viện Tông Truyền). Nội dung đạo luật cho thấy tuy ngoài mặt, mạc phủ tỏ ra cung kính đối với thiên hoàng và triều đình nhưng bên trong họ khá nghiêm khắc. Lãnh địa của thiên hoàng (có tên là Kinri goryô = Cấm lý ngự liệu) chỉ có được 3 vạn thạch thóc, cho dù đem nó so sánh với một lãnh chúa nho nhỏ thì cũng chả thấm vào đâu. Liên lạc giữa mạc phủ và triều đình được thực hiện qua hai người gọi là Buke densô (Vũ gia truyền tấu) tuyển ra từ hàng công khanh. Họ có nhiệm vụ làm gạch nối giữa hai bên thông qua cánh cửa ngỏ của mạc phủ là Kyôto shoshidai (Kinh đô sở ty đại),.Viên chức này là người có nhiệm vụ thông báo những quyết định của mạc phủ cho triều đình. Về những thí dụ chứng
tỏ việc mạc phủ đoạt quyền triều đình thì ta có dẫn
ra chuyện xảy ra vào năm 1620 (Genna 6), lúc công nương Kazuko
(có nơi đọc là Masako, Hòa tử, sau có hiệu là Tôfukumon.in,
Đông Phúc Môn Viện, 1607-78), con gái út của Shôgun đời thứ
2 Hidetaka nhập cung làm hoàng hậu cho Thiên hoàng Go Mizuo. Khi
ấy, mạc phủ đã bắt triều đình phải có sự đồng ý
của họ mỗi khi muốn cải nguyên, cải lịch ( thay đổi niên
hiệu). Những nghi thức này là một số quyền tượng trưng
còn sót lại của thiên hoàng. Ngoài ra, lại còn có sự cố
"áo tía" (Shie, Murasaki no sôi) liên quan đến điều 16 của
bộ luật Hatto. Số là tử y hay tấm cà sa màu tím là vật
mà các thiên hoàng có quyền ân tứ cho các cao tăng để nhìn
nhận phẩm chất đạo đức của người ấy. Truyền thống
này đã có từ năm 1249 (Kenchô 1). Viện cớ gần đây thiên
hoàng đã ban tử y một cách bừa bãi gây hỗn loạn trong nội
bộ các chùa, kể từ năm 1627 (Kan.ei 4), mạc phủ cho biết
không nhìn nhận việc triều đình cấp tử y nếu không thưa
gửi họ trước. Đó là ý nghĩa của "sự cố áo tía" (shie
no jiken). Tăng Takuan (Trạch Am) chùa Daitokuji (Đại Đức Tự)
vì tham gia vào việc chống đối lệnh này mà bị mạc phủ
xử phạt. Kết luận là trong mối tương quan giữa hai bên,
hatto (pháp độ) của mạc phủ chiếm thượng phong và có thể
phủ nhận cả sắc chỉ (sắc hứa = chokkyo) của thiên hoàng.
5.2 Qui chế đền chùa: Chính sách kiểm soát các chùa chiền và đền thần là hệ quả không tránh được của chính sách cấm đạo Ki-tô.Năm 1637 (Kan.ei 14), hai lãnh chúa họ Matsukura (Tùng Thương) ở Shimabara thuộc Nagasaki và họ Terasawa (Tự Trạch) ở Amakusa thuộc Kumamoto cực nam đảo Kyuushuu đã nổi loạn (gọi là Shimabara no ran) để chống chính sách đàn áp tôn giáo của phủ chúa. Nhân vì cuộc biến loạn này xảy ra trên đất xưa kia hai lãnh chúa đi đạo là Arima Harunobu (Hữu Mã Tình Tín) và Konishi Yukinaga (Tiểu Tây Hành Trường) cai quản, cho nên trong đám người nổi dậy làm ikki, những samurai của hai ông nay sống đời rônin (lãng nhân = võ sĩ vô chủ) [26] và giáo dân không phải là ít. Phải dẹp hơn 3 vạn người do Amakusa Shirô Tokisada (Thiên Thảo Tứ Lang Thì Trinh) lãnh đạo đang cố thủ trong ngôi thành hoang Hara no jô, mạc phủ không biết xử trí thế nào cho ổn. Rốt cuộc, họ đã lệnh cho các lãnh chúa vùng Kyuushuu điều động đến 12 vạn quân và lúc đó mới trấn áp nổi. Sau cuộc loạn Shimabara thì mạc phủ không còn ngần ngại khi phải dùng mọi phương tiện để đàn áp đạo Ki-tô. Đặc biệt vùng Kyuushuu có nhiều giáo dân nên là nơi chịu nhiều cảnh khổ hơn cả.Trong đó có đòi hỏi họ phải "dẫm lên ảnh Chúa", tiếng Nhật gọi là efumi (hội đạp). Mạc phủ còn bắt thường dân đăng ký như đàn việt ở các chùa để chứng tỏ mình không đi đạo. Đó là chế độ terauke (tự thỉnh) tức là việc mỗi người dân phải gắn bó với một ngôi chùa nào đó. Mạc phủ cũng thực thi chính sách shumon.aratame (tông môn cải) tức cưỡng chế giáo dân phải chuyển từ đạo Ki-tô sang đạo Phật. Như thế ta đủ thấy việc giám sát của mạc phủ đối với đạo Ki-tô rất chặt chẽ và không khoan nhượng. Dẫm lên thánh giá (efumi) Không những cấm đạo Ki-tô, mạc phủ còn cấm cả phái Fujufuse (Bất thụ bất thí , Không nhận không cho) của tông Nichiren (Nhật Liên). Sở dĩ có chuyện đó vì mạc phủ xem sự tồn tại của giáo phái Phật giáo này cũng có thể gây nguy hiểm cho họ như đạo Ki-tô vậy. "Bất thụ bất thí" nếu dịch theo nghĩa bóng thì nó muốn nói là "đối với kẻ không tin vào kinh Pháp Hoa thì ta đừng có nhận ơn và cũng không cần phải thi ơn cho họ". Trong khi các phái chấp nhận nhận ơn huệ (thụ phái) chủ trương rằng người đi tu có thể nhận ơn của nhà nước như một ngoại lệ vì Phật pháp tức là vương pháp, tin Phật thì phải vâng phục chính quyền. Nhưng nay người "bất thụ bất thí" lại xem quốc thổ không phải là vương thổ mà là đất của Phật thì đã đặt Phật pháp lên trên vương pháp. Nhìn theo quan điểm của mạc phủ thì tín đồ phái ấy đã quay lưng lại với chính quyền và việc bất phục tùng nhà nước đó không thể nào chấp nhận được. Tuy vậy, mạc phủ không cấm hết tất cả các đạo.Thần đạo, tu nghiệm đạo (tăng sĩ vân du, trừ tà bắt quỉ) và âm dương đạo (bùa chú bói toán) được xem như hình thức tôn giáo phụ thuộc Phật giáo nên mạc phủ dung nhận. Có lẽ vì đối với các hình thức tôn giáo này, mạc phủ không cảm thấy nguy hiểm. Thế rồi, mạc phủ đã lập ra chế độ honmatsu (bản mạt) tức chế độ chùa gốc chùa ngọn (bản tự mạt tự) nhìn nhận các bản sơn, bản tự (chùa gốc), cho phép chúng tổ chức thành hệ thống với các chi nhánh gọi là mạt tự (chùa ngọn). Năm 1655 (Kanbun 5), nhà chúa lại công bố Shoshuu Jiin Hatto (Chư tông tự viện pháp độ), một văn bản vượt lên các tông phái, nhằm kiểm soát chung toàn thể tăng lữ và đền chùa. Đối với các đền thần và thần chức cũng vậy, mạc phủ đặt họ dưới đạo luật Shosha Negi Kannushi Hattô (Chư xã nể nghi quan chủ pháp độ) Negi (Ne = nể, có nghĩa là miếu thờ) và kannushi chẳng qua là tên những chức vụ trong đền Thần đạo. Như thế ta thấy mạc phủ đã tìm cách quản lý mọi tôn giáo vì biết rõ vai trò xã hội quan trọng của chúng. 5.3 Sự cai trị của Mạc phủ và cuộc sống dân chúng: Chúng ta hãy thử bàn về quan hệ giữa mạc phủ và người dân thành thị cũng như nông thôn thời ấy. Đó là một mối quan hệ rất quan trọng mà người đọc sử không thể bỏ qua. Thành thị cũng như thôn quê thời Edo đều là những tụ điểm sinh hoạt đáng lưu ý. Ở nông thôn thì nhà nông (hakushô) họp thành nhóm, sống chủ yếu trong thôn làng gồm có nhà và ruộng đất canh tác (ieyashiki) bao quanh. Ngoài vườn tược và đất cày cấy, môi trường sinh hoạt của họ trải rộng ra các cánh đồng không, núi non và bến bãi. Họ biết tổ chức tự trị để giúp nhau sinh sống. Trên phương diện sản xuất nông nghiệp, họ là đơn vị cơ sở trọng yếu đối với chính quyền của phiên (han) và mạc phủ. Thời trước, vì chính quyền Hideyoshi thực hiện chính sách "kiểm địa" và "binh nông phân ly" cho nên hệ thống sôson (tổng thôn) và gôson (hương thôn) vốn có từ đời trung cổ đả bị phân chia. Thêm vào đó, một số ruộng đất mới khai khẩn cũng đã tạo thêm một số thôn làng mới. Tính đến cuối thế kỷ 17, con số thôn (mura) đã lên tới hơn 6 vạn. Trong nội bộ các thôn thì người có quyền chỉ đạo được gọi là nanushi (danh chủ). Họ còn có tên là shôya (trang ốc) hay kimoiri (can tiễn) nữa. Kimoiri có nghĩa là "nướng gan", một chữ dùng mà gốc gác không biết từ đâu ra những được hiểu là kẻ giúp đỡ, tác thành một việc gì. Bên cạnh nhân vật đó, có một người phụ tá gọi là kumigashira (tổ đầu) hay trưởng nhóm và người đại diện cho nông dân (hyakushô) có tên là hyakushodai (bách tính đại, đại là đại diện ). Ba người này gọi là murakata san.yaku hay "ba nhà chức trách lo việc làng". Nanushi và 3 người đó cùng nhau họp sức với tầng lớp nông dân cơ sở (honhyakushô = bản bách tính) quản trị mọi thủ tục hành chánh trong thôn, trông coi việc sử dụng chung những miếng đất đã "vào hợp tác" (gọi là iriai.chi = đất của cộng đồng) cũng như việc chia nhau nguồn nước tưới và các vùng đồng hoang, núi rừng. Họ còn tổ chức tự trị việc canh phòng và cứu hỏa. Những khoản chi phí cho việc đó gọi là muranyuuyô (thôn nhập dụng) và họ sẽ chia nhau phụ đảm. Việc vận hành trong thôn theo pháp luật nội bộ gọi lá sonpô (thôn pháp) (hay mura-okite = qui định của thôn). Mọi vi phạm sẽ bị trừng trị theo murahachibu (thôn bát phân). Từ này cũng không biết đích xác đã phát xuất từ đâu, chỉ biết nó là một hình thức tẩy chay hay cô lập (octracism) người có tội đối với cộng đồng thể. Có thuyết cho rằng "bát phân" (tám phần mười) nghĩa là trừ việc tang ma hay hỏa hoạn thì làng nước sẽ tuyệt giao với người có tội. Thế nhưng thuyết ấy cũng không có căn cứ chắc chắn. Từ những ví dụ này, ta nhìn thấy tính cách tự trị của đời sống nông thôn Nhật Bản thời Edo, nhưng ngược lại, mạc phủ, các phiên và những hatamoto cũng biết lợi dụng tinh thần tự trị đó để xúc tiến việc thu nạp các khoản tuế cống và tạp dịch bằng cách khoán cho người dân trong thôn phải tự lo liệu để hoàn thành nghĩa vụ đối với nhà nước. Chế độ quản lý này gọi là murauke.sei (thôn thỉnh chế). Mặt khác, cá lãnh chúa cũng tổ chức dân chúng theo số hộ thành goningumi (ngũ nhân tổ, tổ năm người). Như vậy, mỗi khi có kẻ nào không nạp tuế cống hay nạp chậm trễ thì cả bọn phải liên đới chịu trách nhiệm. Thế mới thấy sự kềm kẹp của lãnh chúa đối với dân thôn rất là chặt chẽ và nghiêm khắc. Trong đám thôn dân, thật ra cũng có sự phân chia giai cấp.Trước tiên, những ai có nhà cửa ruộng đất, tên tuổi được đăng ký trong sổ bộ kiểm địa của nhà nước thì được gọi là honhakushô (bản bách tính) hay takamochi (cao trì) ý nói người nắm trong tay (trì) huê lợi. Họ là những thành viên chính thức trong thôn. Ngoài họ ra, hãy còn có hạng nông dân không sở hữu ruộng đất, phải đi làm công cho địa chủ. Đó là hạng người làm việc được trả theo công nhật. Họ được gọi là mizunomi (thủy thôn húp nước) hay mudaka (vô cao = ý nói là những kẻ không làm ra của cải để theo đó mà tính thuế). Dưới họ còn có những hạng người như nago (danh tử), hikan (bị quan) hay fudai (phổ đại) bị coi như tôi tớ lệ thuộc các địa chủ. Tất cả bọn họ đều không được quyền dự phần vào việc tham gia công việc của thôn. Ngoài ra, dân thôn còn bị chia ra làm honke (bản gia) và bunke (phân gia) theo thứ bậc huyết thống. Ở các làng chài thì chia làm hai hạng người: amimoto (võng nguyên) và amiko (võng tử) tức tay lưới chính và tay lưới phụ.. Trong thôn có cất chùa và đền thần. Nơi đây dân thôn có thể tụ họp để bàn chuyện làng nước và cũng để hành lễ tôn giáo, một điều vốn rất cần thiết cho đời sống tinh thần cua họ. Nông dân cấp cơ sở (hyakushô) phải đóng tuế cống nghĩa là thuế hàng năm tính từ giá trị ruộng vườn nhà cửa họ có. Thuế chính ấy gọi là honto mononari (bản đồ vật thành) tương đương với từ 40% đến 50% thu nhập lý thuyết sẽ được nộp bằng luá gạo hay tiền mặt. Lối đóng thuế như thế được gọi là "ngũ công ngũ dân" (nếu đóng 50%) hay "tứ công lục dân" (nếu đóng 40%) cho nhà nước (công). Ngoài tuế cống, những ai sống nhờ núi đồng sông biển hay những kẻ làm những nghề phụ ngoài nông nghiệp lạì phải đóng một thứ thuế nhỏ gọi là komononari (tiểu vật thành). Thuế này trả bằng lao động phu dịch (bu.yaku) cho các công sự thổ mộc đường sông trong phạm vi một tiểu quốc nên được gọi là koku.yaku (quốc dịch). Nếu người trả thuế sống trong thôn làng ven đường cái thì phải giúp sức người và sức ngựa cho các trạm giao thông công cộng. Đấy là tenmayaku (truyền mã dịch) hay sukegôyaku (trợ hương dịch). Tuy được gọi là thuế nhỏ hay thuế phụ nhưng đối với đám bần dân không nhà cửa ruộng đất thì quả một món phụ đảm nặng nề. Câu hỏi có thể đặt ra ở đây là tại sao mạc phủ lại đánh thuế nặng nề như thế đối với nông dân? Lý do chỉ vì mạc phủ coi nông dân như căn bản hệ thống kinh tế của họ. Làm như thế họ muốn sao cho công ăn việc làm của nông dân được ổn định, trong cái nghĩa là không để nông dân bị lôi cuốn vào trong vòng kinh tế hóa tệ. Để việc thu nạp tuế cống hay lao dịch được qui định rõ ràng, họ đã đề ra nhiều chính sách rất triệt để. Trước tiên, Mạc phủ Edo đã công bố pháp lệnh Denbata eitai baibai no kinrei (Lệnh vĩnh viễn cấm buôn qua bán lại ruộng rẫy) vào năm 1643 (Kan.ei 20). Qua năm 1673 (Enpô nguyên niên), họ lại ban hành Bunchi seigen.rei (Phân địa chế hạn lệnh = Lệnh giới hạn việc cắt đất thành mảnh nhỏ) nhằm ngăn ngừa việc phân chia ruộng càng ngày càng nhỏ mỗi lần con cái lãnh đất thừa kế của cha mẹ theo cách thức bunkatsu sôzoku (phân cát tương tục --> chia cho nhiều người thay vì cho mỗi gia trưởng). Lại thêm đạo luật Denbata katte tsukuri no kin (Lệnh cấm tự tiện trồng trọt) không cho phép người nông dân trồng những loại cây như thuốc lá, bông vải, rau quả theo ý thích. Tại sao lại cấm trồng các loại này? Lý do là mạc phủ nghĩ rằng nhà nông có thể biến chúng thành thương phẩm đem bán lấy tiền làm của cải và kết cuộc bị lôi cuốn vào trong vòng kinh tế hóa tệ. Cách nhìn của mạc phủ đối với nông dân đã được ghi chép lại rất rõ ràng trong Keian no furegaki (Khánh An ngự xúc thư), một tác phẩm ra đời vào năm Keian thứ 2 (1649) gòm có 32 điều. Furegaki (xúc thư) có nghĩa là "bố cáo cho mọi người biết". Qua bản bố cáo, ta được biết cuộc sống của dân lao động bị hạn thế từng ly từng tý, kể từ cái ăn, cái mặc, công việc trong nhà của một anh nông dân bình thường. Tuy nhiên, dù nó mang tên là Keian no furegaki nhưng không ai tìm ra nguyên văn viết vào thời (Keian) ấy. Tại sao một sử liệu có tiếng tăm như thế mà chảng ai tìm lại được. Thực ra thì vào tiền bán thế kỷ thứ 19, sau cuộc cải cách có tên là cuộc cải cách năm Bunsei (Văn Chính, 1818-1831), vì chịu ảnh hưởng của nó mà vào năm 1830 (Tenpô nguyên niên) ở phiên (han) Mino Iwamura, người ta đã in ra một văn bản như thế và phát cho dân chúng. Sự thực thì chưa chắc nó đã tồn tại từ thời Keian (1649). Trong bản bố cáo ấy có thấy ghi những lời khuyến khích việc lao động cật lực như sau: "Đàn ông phải ra công cày cấy, đàn bà lo canh cửi. Tối về cơm nước hai vợ chồng còn phải cùng nhau tiếp tục làm việc". Trong giai đoạn này, không riêng gì một phiên trấn như Iwamura mà tất cả các nơi đều được bố cáo như vậy. Nó cho ta thấy cái nhìn của mạc phủ đối với nông dân. Chính quyền không muốn dân chúng tham gia hyakushô ikki bạo động chống chính quyền nên khuyến dụ họ phải ra sức làm việc để khỏi rơi vào cảnh đói kém. Văn bản ấy có tác dụng khuyến cáo người nông dân và đôn đốc họ lao động. Tranh hí họa cảnh hàng quán trên tuyến đường Tôkaidô Riêng về cuộc sống nơi đô thị thì quả là so với thời trung cổ, con số các đô thị mới thành lập có thêm nhiều. Nơi đô thị thì cuộc sống tập trung ở khu vực trung tâm tên là shukubamachi (túc trường đinh) "xóm nhà trọ", thành lập nhờ có sự phát triển của trục giao thông gọi là gokaidô (ngũ nhai đạo = năm trục đường lớn). Những đô thị tôn giáo thì có jinai-chô (tự nội đinh) xóm chùa tức "xóm trong khuôn viên nhà chùa" hay monzen-machi (môn tiền đinh) "xóm trước cửa đền thần". Tuy nhiên, dù nói gì đi nữa, khu vực quan trọng nhất bao giờ cũng là jôka-machi "xóm dưới chân thành". Xóm này là nơi các võ sĩ với tư cách là chủ đất tại chỗ (tại địa lãnh chủ) cho đến lúc đó sống chung với nông dân, đã phải chuyển nơi cư trú về đây theo chính sách "binh nông phân ly" được mạc phủ áp dụng triệt để. Đồng thời, các jôka-machi còn là nơi thương nhân và thợ thủ công (shukôgyôsha = thủ công nghiệp giả) cư trú. Ở đấy, họ tự do buôn bán sản xuất, ngoài ra còn được hưởng đặc quyền không phải đóng thuế thuê đất (jishi = địa tử) hằng năm, một hình thức tuế cống. Trong xóm dưới chân thành thì thành quách của Shôgun và các lãnh chúa là trung tâm điểm, chung quanh bao bọc bởi các khu vực nhà cửa chia ra thành khu của các võ sĩ, khu đất thuộc các chùa chiền và đền thần, rồi đến các xóm dân hàng phố (chônin). Diện tích lớn nhất là thành quách và xóm của võ sĩ, gồm có các dinh thự có tính cách chính trị, quân sự và tư thất của các gia thần. Đất dành cho tự viện và thần xã qui tụ các đền chùa có thế lực, đóng vai trò trung tâm điều hành các hoạt động tín ngưỡng. Mặt khác, những khu phố dành cho dân chúng được gọi là machikata (đinh phương). Nơi đây, thương nhân, thợ thủ công...sinh sống và làm ăn. Tuy diện tích của các khu vực này bị coi là chật hẹp nhưng chúng lại là những trung tâm thương mại có sức mạnh kinh tế kết hợp được các lãnh địa với toàn quốc. Khu dân phố như thế tạo thành một tiểu xã hội (cộng đồng thể) có tên là chô (đinh) và đã mọc ra nhan nhản khắp nơi. Chô cũng biết xây dựng tổ chức tự quản trị giống như cung cách của thôn xã và tổ chức này có nhiệm vụ giúp đỡ người dân hàng phố trong sinh hoạt, trong sản xuất cũng như trong việc buôn bán của họ. Những người có nhà cửa và sinh sống trong chô có tên là chônin (đinh nhân). Đại diện cho các chônin là những nanushi (danh chủ), chô-doshiyori (đinh niên ký), gatsugyôji (nguyệt hành sự) Họ là những nhân viên dân chính được tuyển chọn để vận hành công việc của chô đúng theo luật lệ của chô (gọi là chô-okite) vv...Như vậy, chức năng của họ cũng chẳng khác gì chức năng hành chính ở cấp thôn xã. Về thuế má, nhân vì người chônin không có vườn tược đất đai, họ được miễn các thứ tuế cống nặng nề mà nhà nông phải gánh vác. Bù lại, họ bị phụ đảm công việc phu dịch liên quan đến hệ thống nước uống và nước thoát, phòng hỏa cũng như dọn dẹp sạch hào rãnh thành quách để duy trì các chức năng của thành phố.Lao dịch ấy có tên là chônin sokuyaku (đinh nhân túc dịch) nhưng họ có thể nộp bằng tiền để khỏi phải làm. Trong các chô còn có những người mướn đất để cất nhà gọi là jigari (địa tá), mướn nhà gọi là shakuya (tá gia), mướn cửa tiệm gọi là tanagari (điếm tá) hoặc người đi làm công có các nhà buôn gọi là hôkônin (phụng-công nhân)...Như vậy trong chô, người ta làm đủ mọi ngành nghề sinh sống. Những người mướn đất, mướn nhà hoặc tiệm quán thì ngoài tiền mướn đất, thuê tiệm trả cho chủ đất chủ tiệm, hầu như chẳng phải chi cho một kinh phí nào khác. Vì cớ đó, họ không được phép tham gia vào việc quản lý của chô. Các đô thị không chỉ
thành hình từ những xóm dân phố dưới chân thành (jôka-machi)
mà còn từ các xỏm cảng (minato-machi), xóm trước cửa đền
(monzen-machi), xóm nhà trọ (shukuba-machi), xóm hầm mỏ (kôzan-machi).
Trong số ấy, những đô thị trực tiếp cai quản bởi mạc
phủ là những trung tâm kinh tế quan trọng nhất. Ta có thể
kể đến santo (tam đô) tức là ba đô thị chính yếu: Edo,
Ôsaka và Kyôto. Vào giữa thế kỷ 17, chúng đã được xem
như những thành phố phồn vinh tầm cỡ thế giới.
Cũng vào thời Edo này,
trong chế độ gia tộc, quyền của người gia trưởng (kachô)
hay chủ hộ (koshu = hộ chủ) rất lớn. Ngược lại, phụ
nữ bị khinh rẽ vô cùng.
|
Tiết 6 : Từ mậu dịch bằng thuyền Shuin đến việc bế quan tỏa cảng. |
6.1
Ngoại giao hòa bình vào buổi đầu Mạc phủ Edo:
Trong phần này, chúng ta đề cập đến chính sách ngoại giao của Mạc phủ Edo.Nếu muốn tóm tắt nó trong một câu thì có thể nói rằng kể từ khi quyền lực của Mạc phủ đã bám rễ và chế độ thống trị được thiết lập vững chãi, nhà nước đã cho thi hành chính sách bế quan tỏa cảng với lệnh "hải cấm" (kaikin) nghĩa là lập một quan hệ đối ngoại rất là hạn hẹp với các nước. Năm 1600 (Keichô 5), con tàu Hà Lan tên De Liefde đã trôi dạt đến vùng biển Bungo (nay thuộc tỉnh Oita ở Kyuushuu). Thuyền trưởng là Jan Joosten van Lodensteyn (1557?-1623) (tên Nhật là Da Dương Tử =Yayôsu) và viên hoa tiêu của ông, người Anh William Adams (sau có tên Nhật là Miura Anjin = Tam Phố Án Châm, 1564-1620) được cứu thoát. Sau đó, Ieyasu mời họ lên Tôkyô và hai người trở thành cố vấn cho mạc phủ về các vấn đề ngoại giao và mậu dịch.
Đương thời, ở Âu châu thì Anh, nơi rất phát triển về ngành công nghiệp dệt len (woolen fabric), và Hà Lan từ thế kỷ thứ 16 giành được độc lập từ tay người Tây Ban Nha là hai nước đang tiến lên hàng đầu. Hai quốc gia Anh-Hà Lan này đã lập dưới quyền bảo hộ của mình Công Ty thương mại Đông Ấn Độ (The East India Company, 1600-1874), dùng nó như mũi nhọn để tiến về Châu Á. Nhân vì Ieyasu cũng muốn buôn bán với họ nên đã mở cửa biển Hirado (Bình Hộ, phiá bắc Nagasaki) cho phép hai nước mở thương quán để giao dịch. Hà Lan đã thực hiện việc đó vào năm 1609 (Keichô 14) và Anh vào năm 1613 (Keichô 18). Từ đó người Anh và Hà Lan thường xuyên đi lại Nhật Bản. Để phân biệt với người Nam Man (Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha) mà họ từng biết, người Nhật gọi những ông khách mới này là dân Hồng Mao. Khác với người Bồ và Tây theo đạo Ki-tô, người Anh và Hà Lan theo Tân giáo, có tên khác là Thệ Phản giáo (Protestant). Một sự kiện khác đã xảy ra vào năm 1609 (Keichô 14) khi một người Tây Ban Nha là Don Rodrigo (tức Rodrigo de Vivero y Velasco, 1564-1636) trôi dạt tới vùng biển Kazusa (trung bộ Chiba). Nhân việc này, Ieyasu cũng cho phép người Tây Ban Nha được phép buôn bán. Để xúc tiến việc giao thương với Mexico ( thuở còn gọi là Nueva Espana), thuộc địa của Tây Ban Nha, Ieyasu đã gửi Tanaka Shôsuke (Điền Trung, Thắng Trợ) người Kyôto đi tìm hiểu và thương lượng. Về quan hệ đối với Tây Ban Nha thì cũng nên nhắc đến việc lãnh chúa Date Masamune (Y Đạt Chính Tông) vào năm 1613 (Keichô 18) đã gửi gia thần của mình là Hasekura Tsunenaga (Chi Thương Thường Trường) sang Tây Ban Nha để xin phép buôn bán trực tiếp với Mexico.Chuyến đi này có tên là Keichô ken.Ô shisetsu (Sứ bộ gửi sang Âu châu vào năm Khánh Trường). Tuy nhiên họ không đạt được mục đích trong việc xin thông thương. Riêng đối với người Bồ đào nha mà Nhật Bản từng có mối liên hệ trong quá khứ thì câu chuyện có hơi khác. Số là thương nhân người Bồ thời ấy đóng căn cứ ở Macao, vẫn thường chở tơ sống (sinh ti = ki-ito hay shiraito) của Trung Quốc đến Nagasaki bán lại, nhờ đó thu nhập ức vạn. Để phá vỡ hệ thống độc chiếm của họ, vào năm 1604 (Keichô 9), mạc phủ đã bắt đầu đề ra chế độ Ito-wappu (Ti Cát Phù) mà wappu có nghĩa là thẻ (phù) chứng minh giấp phép của nhà đương cục làm bằng hai mảnh cắt ra (cát) (thường là gỗ, tre hay giấy) ghép lại (warifu). Chính phủ để cho một số các thương nhân giờ đặc biệt và những đồng nghiệp chuyên ngành tơ của 3 vùng Kyôto, Sakai, Nagasaki kết thành tổ hợp, mỗi mùa xuân họp nhau lại để ấn định giá tơ. Những đồng nghiệp trong tổ hợp (nakama) [30] chuyên ngành tơ sẽ thu mua một lượt tất cả tơ với giá đã ấn định chung rồi phân phối số hàng cho nhau. Làm như thế, Nhật mới loại được độc quyền của các con buôn người Bồ. Những thành viên tổ hợp của 3 thành phố nói trên sẽ có sự tham gia của các người thuộc hai thành phố khác là Edo và Ôsaka để trở thành Gokasho shônin (Ngũ cá sở thương nhân). Thế nhưng tình trạng êm thắm này không kéo được lâu dài vì từ năm 1612 (Keichô 17) trở đi, cùng với lệnh cấm đạo Ki-tô, mạc phủ đã thay đổi thái độ và siết chặt kiểm soát sự thông thương. Lại nữa, ta biết rằng
việc người Nhật tiến ra hải ngoại vốn đã tiếp tục
duy trì suốt thời Tể tướng Hideyoshi: thuyền Nhật đi Luxon
(đảo Lữ Tống, Phi luật tân), Tonkin (Đàng Ngoài của Việt
Nam), Cam-phu-chia, Xiêm La (Thái Lan bây giờ) rất nhiều. Mạc
phủ Edo hồi đầu cũng cho phép họ tiếp tục làm như vậy
bằng cách cấp các giấy phép có triện son, gọi là shuinjô
(châu ấn trạng). Những lãnh chúa điều động thuyền triện
son (shuinsen = châu ấn thuyền) để thông thương là Shimazu
Iehisa (1576-1638, phiên Satsuma và Ryuukyuu, vùng Kagoshima bây giờ),
Matsuura Shigenobu (còn đọc là Matsura, 1549-1614, phiên Hirado ở
vùng Nagasaki bây giờ), Arima Harunobu (1567?-1612, vùng Bizen, thuộc
Saga bây giờ). Còn về những nhà buôn danh tiếng thì phải
nhắc đến Suetsugu Heizô ( ? -1630?) ở Nagasaki, Sueyoshi Magozaemon
(1570-1617) ở Settsu cũng như Suminokura Ryôi 1554-1614 và Chaya
Shirôjirô (tên thật là Nakajima, không rõ năm sinh năm mất)
ở Kyôto. Đó là những nhân vật được gọi là gôshô (hào
thương), không những giàu có của cải mà thôi nhưng còn có
thế lực bởi lẽ đã gián tiếp làm kinh tài cho các nhân
vật trong chính quyền.
Mậu dịch do thuyền châu ấn (shuinsen) đã mang về cho Nhật Bản những món hàng nhập khẩu như tơ sống, lụa là, đường, da hươu nai và da cá mập vv...vốn là sản phẩm của Á châu.Còn như sản phẩm đến từ Âu châu thì ít hơn nhưng có thể kể đến vài mặt hàng ví dụ la sa (raxa), một loại thảm nhung dệt từ lông dê hay cừu (thick close-woven wool cloth). Nhờ thuyền buôn đó, Nhật Bản cũng đã có thể xuất khẩu các kim loại như bạc, đồng, và sắt. Nên nhớ là lúc đó, số bạc mà Nhật Bản xuất khẩu chiếm đến 1/3 tổng số của quí kim ấy trên thế giới. Đó là một sự thực đáng làm cho chúng ta kinh ngạc. Khi thuyền châu ấn đi
nhiều ra nước ngoài rồi thì đến một lúc, khi con số thương
nhân xuất ngoại tăng lên nhiều, đã đưa đến việc thành
lập các Nihon-machi (phố người Nhật) ở các quốc gia họ
trú ngụ. Ở Ayutaya (thủ đô vương triều Ayutaya, Xiêm La)
chẳng hạn, cũng có Nihon-machi. Một người xuất thân từ
thành Sunpu (Tuấn phủ), lưu lạc qua Xiêm La và đứng đầu
cư dân ở Nihon-machi - Yamada Nagamasa (Sơn Điền Trường Chính,
1590-1630) - đã được triều đình Ayutaya trọng dụng. Ông
làm đến chức Thái thú ở địa phương Rigol (Lục Côn).
Dần dần khi lúc mậu dịch với nước ngoài và thể chế mạc phiên đặt xong cơ sở vững vàng thì lại xảy ra việc cấm đoán người trong nước xuất ngoại và hạn chế cả hoạt động mậu dịch vốn đang phồn thịnh. Nguyên nhân thứ nhất của sự bế quan tỏa cảng này đến từ chính sách cấm đạo Ki-tô, nguyên nhân thứ hai là vì mạc phủ muốn độc chiếm mọi lợi ích đến từ mậu dịch. Mạc phủ chắc nghĩ rằng nếu như cứ cho phép thuyền châu ấn làm ăn mãi thì các lãnh chúa miền Tây (có cả những lãnh chúa đi đạo như Arima Harunobu) là những người thường điều động thuyền buôn, sẽ giàu to, và với thế lực kinh tế như thế, họ có thể uy hiếp cả mạc phủ. Cho nên bấy giờ, mạc phủ mới thi hành chính sách cấm đạo theo từng giai đoạn một. Trước tiên, vào năm 1616 (Genna 2), mạc phủ đưa ra sách lược mới là hạn chế số tàu bè các nước Âu châu được ghé hải cảng Hirado và Nagasaki Đến năm 1624 (Kan.ei nguyên niên) thì họ cấm hẳn tàu buôn Tây Ban Nha. Thế rồi lúc đó, người Anh vì không cạnh tranh nổi với Hà Lan, đã đóng cửa thương quán vào năm 1623 (Gen.na 9) và triệt thoái khỏi Nhật Bản. . Mạc phủ cùng lúc cũng kiểm soát gắt gao hơn các thuyền buôn Nhật Bản đi ra nước ngoài.Không những bắt buộc có shuinjô (châu ấn trạng) để trở thành shuinsen (châu ấn thuyền), các thuyền buôn phải được chức rôjuu (lão trung) cấp cho rôjuu hôsho (Lão trung phụng thư), một loại giấy phép thứ hai. Đó là chế độ hôshobune (phụng thư thuyền). Thế rồi năm 1635 (Kan.ei 12), có lệnh của mạc phủ không cho phép người Nhật Bản ra nước ngoài cư trú được phép trở về nước, lại giới hạn thuyền nhà Minh chỉ được cập bến một cảng là Nagasaki mà thôi. Sau đó, khi cuộc nổi loạn ở Shimabara (1637-38) có giáo dân dính líu xảy ra thì - như đã có dịp trình bày bên trên - chính quyền đã mạnh tay đàn áp người đi đạo. Năm 1639 (Kan.ei 16), mạc phủ không cho thuyền Bồ Đào Nha vào Nhật nữa, sang năm 1641 (Kan.ei 18), họ lại bắt thương nhân Hà Lan bỏ Hirado và dọn thương quán qua Dejima (Xuất Đảo) ở Nagasaki. Đây là một hòn đảo nhỏ với một khu vực nhà kho có tường che, hình nan quạt, muốn vào phải đi qua hào, trên là cầu với trạm gác. Chức bugyô (phụng hành) như đại diện chính phủ ở Nagasaki được lệnh canh chừng nghiêm ngặt không cho người Nhật tự do giao thiệp với người ngoại quốc trên đảo. Đó là mô hình gốc (prototype) tượng trưng cho thể chế đối ngoại của chính quyền mạc phủ mà viên y sĩ người Đức Engelbert Kaempfer (1651-1716) đến Nhật năm 1690 đã viết trong tập hồi ký "Nhật Bản Chí" của ông. Sách ấy đã được viên thông ngôn ở Nagasaki là Shizuki Tadao (Chí Trúc Trung Hùng) dịch ra tiếng Nhật với nhan đề Sakoku (Tỏa Quốc) vào năm 1801 (Kyôwa nguyên niên). Như ta có thể hình dung, tên sách nói đến chính sách "hải cấm" (kaikin seisaku) hay khóa cửa biển của mạc phủ vậy.
Như thế, từng bước một, mạc phủ đã siết vòng vây trong lãnh vực đối ngoại. Lệnh gọi là Sakokurei (Tỏa quốc lệnh) được ban hành vào năm 1639 (Kan.ei 16). Khi người Bồ không còn được buôn bán nữa thì trong số các nước Âu châu từng giao thương với Nhật Bản, chỉ còn mỗi Hà Lan. Đó là năm đánh dấu một mốc quan trọng trong lịch sử Nhật Bản. Sử liệu ghi rằng : "Kể từ đây về sau, sẽ không cho phép một galeuta nào cập bến". Galeuta là tên một loại thuyền cở nhỏ (khoảng 300 tấn) của người Bồ. Ngày trước, người Bồ có những chiếc thuyền lớn chạy đường biển gọi là galleon, trọng tải đến 1.000 tấn, được sử dụng trong việc mậu dịch với Nhật Bản. Thế nhưng họ thường bị tàu Hà Lan tập kích nên kể từ năm 1618 (Genna 4) đã sử dụng những chiếc thuyền nhỏ, nhẹ và nhanh gọi là galeuta. Do đó, khi nói đến galeuta thì ta có thể hiểu đây là thuyền buôn của người Bồ. Kết quả là từ đó đến trên 200 năm sau, Nhật Bản chỉ giao thương với Hà Lan, Trung Quốc, Triều Tiên và Lưu Cầu mà thôi. Con đường du nhập văn hóa từ hải ngoại thành ra bị thu hẹp lại. Thế nhưng thu hẹp không có nghĩa là đoạn tuyệt với tất cả người ngoại quốc như danh từ "tỏa quốc" có thể gợi ra cho ta trong đầu. Chỉ xin hiểu là từ đó cho đến 150 năm sau, nhà nước Nhật Bản đã tỏ ra không tích cực trong quan hệ ngoại giao mà thôi. Một lý do khác có thể giải thích việc làm của mạc phủ là vì lúc ấy, kinh tế Nhật Bản hãy còn ở trong tình trạng "tự cấp tự túc", làm bao nhiêu ăn bấy nhiêu, giống như một chu trình kín, nên cho dù không giao thương với nước ngoài thì họ vẫn có thể sống còn. 6.2 Bốn cánh cửa nhìn ra bên ngoài: Vì chính sách đối ngoại
của Mạc phủ Edo là như thể nên địa điểm gặp gỡ của
Nhật Bản và ngoại quốc trong nước Nhật chỉ còn thành
phố Nagasaki, nơi tàu buôn Hà Lan và Trung Quốc của nhà Thanh
(từ 1616) qua lại. Ngoài ra, có thể là quần đảo Lưu Cầu
mà lãnh chúa phiên Satsuma là họ Shimazu lập được quan hệ,
đảo Tsushima cửa ngõ tiếp người Triều Tiên đến
thông sứ, cũng như Ezochi (đất của người Ezo, Hà Di địa)
là nơi phiên Matsumae vẫn giao dịch. Bốn nơi ấy, xin tạm
gọi là bốn "lỗ thông hơi" của Nhật đối với bên ngoài
(yotsu no kuchi = tứ khẩu). Chữ này đã được dùng trong kiến
nghị của nhà thám hiểm Kondô Juuzô (Cận Đằng Trọng Tàng,
1771-1829) [33]
dâng lên mạc phủ vào năm 1797 (Kansei 9):
Trước tiên, Shôgun Tokugawa Ieyasu muốn hồi phục sự giao thương với bán đảo Triều Tiên vốn đã bị thương tổn và trở nên phức tạp từ hai lần xuất binh xâm lấn của Hideyoshi. Năm 1609 (Keichô 14), hai bên đã ký Hòa ước Kỉ Dậu (Kiyuu yakujô = Kỉ Dậu ước điều). Về sau, phía Triều Tiên cho phép Nhật Bản mở Nụy quán (Wakan) ở Pusan (Busan, Phủ Sơn), còn Nhật Bản cũng để họ Sô (Tông) kẻ có thực lực trên đảo Tsushima (Đối Mã, nằm giữa hai nước) được một mình một chợ buôn bán với người Triều Tiên và chủ trì mọi quan hệ Nhật Triều.Họ Sô nhờ sinh lợi với những hoạt động mậu dịch này đã có thể ban ơn huệ cho gia thần của mình và tạo được mối quan hệ chủ tớ với họ. Triều Tiên với danh nghĩa mừng các Shôgun mới nhậm chức cũng đã gửi phái đoàn sang chào mừng (gọi là Keigashi hay Khánh hạ sứ) cả thảy 12 lần. Kể từ lần thứ 4 trở đi thì sứ thần được gọi là Tsuushinshi (Thông tín sứ). Thông tín ở đây không có nghĩa là thông báo tin tức mà là thông cảm, tin cậy. Cửa ngõ thứ hai: Satsuma: Nói về sự tình ở vùng biển nam thì năm 1609 (Keichô 14), vương quốc Lưu Cầu đã bị lãnh chúa Satsuma là Shimadzu Iehisa (Tân Đảo, Gia Cửu, 1576-1638) chinh phục và đặt nó dưới sự cai trị của phiên mình. Satsuma tiến hành chính sách đo đạc đất đai (kenchi), thu hồi binh khí (katanagari) và tách rời binh nông (heinô bunri) trên quần đảo. Như thế họ cũng chi phối các vùng nông thôn. Satsuma đã tổ chức giao thương giữa phiên và Lưu Cầu (bây giờ gọi theo âm Nhật là Ryuukyuu). Satsuma dành cho vua nước Lưu Cầu cũ (họ Thướng) một đất phong có giá trị 8 vạn 9.000 thạch thóc và ngoài mặt vẫn giữ cho họ cái vỏ một ông vua, khiến họ tiếp tục triều cống Trung Quốc. Những hàng mua được từ Trung Quốc trong những chuỳến đi ấy dĩ nhiên sẽ đưa về Satsuma. Vua nước Lưu Cầu mỗi lần lên ngôi, để cảm ơn Nhật Bản đã giữ mình tại vị, thường gửi những đoàn sứ thần gọi là Shaonshi (Tạ ân sứ) sang mạc phủ. Lại nữa, mỗi lần Shôgun mới nhậm chức, quốc vương cũng cho sứ thần sang chào mừng, gọi là Keigashi (Khánh hạ sứ). Cửa ngõ thứ 3: Matsumae: Xưa kia, ở Ezogashima (đảo của người Ezo) - tên cũ của Hokkaidô (Bắc hải đạo) - có vùng người Wa (Nhật Bản cổ) đến lập nghiệp gọi là Dônanbu (Đạo nam bộ) vì nằm ở phiá nam đảo. Trong bọn, họ Kakizaki (Lệ Kỳ, mũi đất con hàu) là dòng họ có thế lực hơn cả.Sau họ Kakizaki đổi tên thành Matsumae (Tùng Tiền, trước cây tùng). Ieyasu từng bảo đảm cho dòng họ này được độc quyền buôn bán với người Ainu và cho họ được xem như là một phiên trấn. Nơi mà các thương nhân người Nhật buôn bán với người Ainu - vốn sống rải rác khắp vùng Ezochi bao la - được gọi là akinaiba (thương trường) hoặc basho (trường sở) nếu không phải là trong vùng chính người Wa cư trú. Ezochi khác với vùng từ Honshuu trở xuống phía nam ở chỗ là nó có rất ít đất canh tác. Do đó họ Matsumae không thể tạo được mối quan hệ chủ tớ với các gia thần bằng cách cấp đất đai làm vật ân thưởng. Họ phải dùng các trung tâm giao dịch (akinaiba, basho nói trên) làm món thế chân. Thay vì đất phong, gia thần được lãnh quyền kiểm soát quyền giao dịch. Chế độ ấy gọi là aikinaiba.chigyô.sei (thương trường tri hành chế). Vào năm 1669 (Kanbun 9), sau cái chết của tù trưởng người Ainu là Shakushain [34] và việc người Wa của phiên Matsumae muốn chiếm đóng căn cứ của họ, giữa người Wa và Ainu đã xảy ra một cuộc giao tranh. Matsumae với sự trợ giúp của phiên Tsugaru (bắc Honshuu) đã trấn áp được người Ainu. Cuộc chiến đấu của Shakushain này được xem như cơ hội vùng lên cuối cùng của người Ainu. Từ đó, xem như họ không còn có sức đề kháng nữa, đành phải hoàn toàn phục tùng phiên Matsumae. Về sau, vào giữa thế kỷ 18, mỗi khi có sự thay đổi chủ quyền kiểm soát các khu vực giao dịch (akinaiba, basho) thì việc buôn bán ở nhiều nơi lại lọt vào tay các thương nhân người Wa. Những người này lên Ezochi mỗi ngày mỗi đông. Vì bảo chứng cho các thương nhân người Wa quyền buôn bán, gia thần các phiên có thêm huê lợi. Thế rồi cung cách làm ăn như vậy đã dần dần bắt rễ. Nó được gọi là basho.ukeoi.seido (chế độ bảo đảm quyền buôn bán ở các khu vực giao dịch). Cửa ngõ thứ tư: Nagasaki: Được xem như là hải cảng dành riêng cho việc mậu dịch, có lẽ chỉ có thành phố Nagasaki.Trên đảo Dejima thuộc Nagasaki đã có thương quán của người Hà Lan. Đối với mạc phủ, Nagasaki là cửa ngỏ duy nhất để tiếp thu văn vật (văn hoá và phẩm vật) đến từ Âu châu. Mỗi lần thuyền nước họ tới nơi thì thương quán trưởng người Hà Lan phải đệ trình cho chính quyền Nhật Bản tư liệu gọi là Oranda fuusetsugaki (Hà Lan phong thuyết thư). Fuusetsu nguyên lai có nghĩa là lời đồn đại (rumor) nhưng xin hãy hiểu là "tin tức cập nhật nhất" đến từ hải ngoại. Mặt khác, bên Trung Quốc, khi nhà Thanh (1616-1912) lên thay nhà Minh thì Minh thuyền đến Nagasaki được gọi là Thanh thuyền vì Thanh là quốc hiệu mới của chính quyền tộc Mãn châu. Kim ngạch mậu dịch của thuyền nhà Thanh mỗi năm mỗi tăng. Từ Hà Lan đến Nhật, có các mặt hàng như tơ sống của Trung Quốc, đồ lụa, đồ len, đồ gấm nghĩa là các loại đồ dệt, thuốc men, đường, sách vở... được nhập khẩu. Từ Âu châu đến thì có đồ vải, đồ len, đường sản xuất từ vùng biển nam, gỗ thơm, hương liệu, da và sừng thú. Nhật lại xuất khẩu các mặt hàng như bạc, đồng, hải sản (phơi khô hay nấu chín, gọi chung là tawaramono vì gói trong rơm bện tức tawara) khô cá (iriko), vây cá (fukahire), thịt sò hình quạt khô (hoshi no kaibashira, dried scallops) mà giới đầu bếp Trung Quốc rất yêu chuộng. Đến đây, Nhật Bản
thấy cần phải hạn chế sự tăng gia quá mức của hàng nhập
khẩu nên kể từ năm 1685 (Jôkyô 2), mạc phủ đã ra lệnh
giới hạn kim ngạch nhập khẩu của các thuyền Hà Lan và
thuyền nhà Thanh, khôi phục chế độ itowappu (việc cho phép
tổ hợp tơ sợi Nhật Bản có quyền mua sỉ tơ sống theo
một giá ấn định rồi chia cho các thành viên) vốn đã để
cho tự do từ nhiều năm. Đồng thời, mạc phủ cũng qui định
kim ngạch mậu dịch của thuyền Hà Lan trong vòng một năm
không được vượt quá 3.000 kan (quán hay quan, đơn vị tiền
tệ xâu bằng giây, 1 quan là 1.000 mon = văn hay tiền), thuyền
nhà Thanh thì được đến 6.000 kan. Tư liệu về năm 1688 (Genroku
nguyên niên) cho biết năm đó có 70 chiếc thuyền nhà Thanh
đến Nhật. Người Trung Quốc ở Nagasaki trước kia sống tạp
cư với người Nhật nay phải dọn về một khu riêng có tên
là Tôjin yashiki (Đường nhân ốc phu) có nghĩa là khu nhà ở
của người Trung Quốc (Tôjin có khi còn được đọc là karabito,
bao hàm cả người nước ngoài mọi quốc tịch).
|
|
[1]-
Chùm đảo nằm trên Đại Tây Dương gần quần đào Caribbean,
bao gồm cả các đảo Antilles và Bahamas.
[2]- Nguồn: Utagawa Takehisa trong Teppô denrai (Chuô kôron) và Okumura Shôji trong Hinawaju u kara kurobune made (Iwanami shinsho). [3]- Nguồn: Nihonshi Zuroku (trang 136) [4]- Thủy công đánh thành thường có 2 cách: chận đường nước cho địch chết khát hoặc chắn đập ngăn sông điều nước vào thành cho địch khổ vì lụt. [5]- Nguồn: Oda Nobunaga của Fujimoto Hisashi (Shôgakkan) và Wakita Shuu (Chuô Shinsho) [6]- Lý do Mitsuhide nổi loạn và giết Nobunaga đến nay vẫn không ai rõ. Có người cho rằng Mitsuhide muốn có một đường lối chính trị khác, có người (như Danielle Elisseff ) chủ trương là do tư thù .Theo bà, Mitsuhide hay bị chủ sĩ nhục và mẹ ông, một con tin, đã chết dưới bàn tay của Nobunaga) [7]- Nguồn: Mori Tatsukichi trong Ren.nyo (Kôdansha Gendai shin sho) [8]- Đào sơn nghĩa là núi nhiều đào (peach). Nguyên do khu vực đồi núi quanh thành Fushimi có nhiều đào nên mới có dị danh như vậy. Văn hoá Momoyama ám chỉ văn hóa của thời kỳ Hideyoshi làm chủ nước Nhật. Đặc tính của nó là hoành tráng, lộng lẫy (của một anh nhà nghèo mới nổi, đó là Hideyoshi, người vốn xuất thân nông dân võ biền). [9]- Trong tiếng Hán, cáp còn có thể đọc là hạp với nghĩa là cánh cửa nhưng cũng đồng nghĩa với chữ các là gác. Nói chung nó ám chỉ nơi cư ngụ của một nhân vật đóng vai trò quan trọng. [10]- "Độ lượng" đọc theo âm Hán Việt là "đo lường", còn "hành" cũng là đo nhưng đo sức nặng. [11]- Toyotomi Hidetsugu là cháu gọi Hideyoshi bằng cậu ruột. Trước được cậu sủng ái, giao cho nhiều trách vụ quan trọng như Kanpaku (Quan bạch) và dự định chọn làm kẻ nối nghiệp. Khi Hideyori là con ruột ra đời, Hideyoshi lại đổi ý . Từ đó, có ý nghi ngờ và ghét bỏ.Chẳng bao lâu, Hidetsugu bị cậu mình kết tội mưu phản, bắt tự sát trên núi Kôyasan. Toàn gia hơn 30 người đều bị tru diệt. [12]- Tướng I Sun Sin đã tử trận trong trận hải chiến quyết định cuối cùng mà quân Triều Tiên dành được thắng lợi. [13]- Nguồn: Suzuki Ryôichi trong Toyotomi Hideyoshi (Iwanami Shinsho) Wakita Ôsamu trong Ôsakajô jidai to Hideyoshi (Shôgakukan). [14]- Nguồn: Nihonshi Zuroku (trang 141 đến 144) [15]- Nguồn: Kuwata Tadachika trong Sen no Rikyu u (Chuô Kôron) và Kumakura Hisao trong Cha no Yu (Kyôikusha Rekishi Shinsho) [16]- Nitobe Inazo, Bushidô (Võ Sĩ Đạo, linh hồn củaq Nhật Bản), Lê Ngọc Thảo dịch, Quảng Văn, 2011. [17]- Nguồn: Kitashima Masamoto trong Tokugawa Ieyasu (Chuô shinsho) và Futagi Ken.ichi trong Sekigahara gassen (Chuô shinsho) trang 173-174) [18]- Nguồn: Kitahara Masamoto trong Tokugawa Ieyasu và Tsuji Tatsuya trong Edo kaifu (cả hai đều do Chuô Kôron xuất bản) [19]- Ieyasu đã từng cắn răng chấp nhận lệnh của Nobunaga bắt một người vợ của mình ( gốc gác thân tộc nhà Imagawa, kẻ thù của Nobunaga) và con trai riêng của bà phải chết. Tất cả chỉ vì ông nghĩ thời cơ chưa đến. [20]- Dù không hề thua kém Hideyoshi về mặt quân sự, ông chịu giảng hòa, nhún nhường đến độ đi từ lãnh địa đến Ôsaka chầu Hideyoshi và thường là đối tượng của những cuộc mưu sát tổ chức bởi những bề tôi thân tín của ông này. [21]- Kobayakawa Hideaki (Tiểu Tảo Xuyên, Tú Thu, 1582-1602), cháu gọi vợ cả của Hideyoshi tức bà Kita Mandokoro là cô ruột, và từng là con nuôi của ông. Tổng chỉ huy cuộc chinh phạt Triều Tiên năm Keichô. [22]- Oản hành = ategai có nghĩa là cấp phát, trao tay. [23]- Yoshinao (Nghĩa Trực), con trai thứ 9 của Ieyasu là tổ của chi Owari (vùng Nayoga bây giờ), 61 vạn 9500 thạch thóc. Yorinobu (Lại Tuyên), con trai thứ 10, tổ chi Kii (Wakayama), 55 vạn 5000 thạch. Yorifusa (Lại Phòng), con trai thứ 11, tổ chi Mito (Hitachi), 35 vạn thạch. [24]- Nguồn: Nihonshi Zuroku (trang 146) và Yamamoto Hirobumi trong Sankinkôtai (Kôdansha Gendaishô), Okano Yoshihiko trong Nihon shakai no rekishi (Iwanami Shinsho), Fukaya Katsumi trong Edo Jidai (Iwanami Junior Shinsho), Takao Kazuhiko trong Kindai no Nihon (Kôdansha Gendai shinsho). [25]- Nguồn: Imaya Akira trong Buke to Tennô (Iwanami Shinsho) và Tokugawa Shô gun to Tennô (Chuô Kô ron Shinsha) (trang 179-180) [26] Ngày xưa, những người nông dân lưu lạc, không hộ tịch được gọi là "phù lãng nhân" hay "phù nhân" (ukarebito) để phân biệt với điền đố (tato) là kẻ có cơ sở ruộng đất nên ở một chỗ. Sau đó, nó trở thành "lãng nhân" (rônin) và với sự xuất hiện của xã hội quân nhân thì nó mới mang một ý nghĩa khác. Rônin còn có thể viết là lao nhân (người đi tù, bị giam). [27]- Nguồn: Nakazawa Nobuhiro trong Nihon no bunka (Natsume-sha, trang 214-215) [28]- Nguồn: Andrew Gordon, A Modern History of Japan, dẫn Sekiyama Naotarô (1969) [29]- Nguồn: Takagi Tadashi trong Mikudarihan to Engiridera (Kôdansha gendai bunko) (trang 252-254). [30]- Nakama (trọng gian) vào thời cận đại có nghĩa là những người làm cùng nghề, họp nhau thành hiệp hội dể chống độc quyền, bây giờ trở thành tiếng gọi những người cùng làm một việc gì chung hoặc có cùng chí hướng. [31]- Nguồn: Phạm Hoàng Quân trong Chúa Nguyễn và công cuộc hải thương với Nhật Bản (Quốc Sử Hàn Lâm Viện trên Internet) , Luc Thuan trong Japan early trade coin and the commercial trade between Vietnam and Japan in the 17th century (Internet) và Okura Sadao trong Shuinsen jidai no Nihonjin (Chuô shinsho) (trang 185-186). [32]- Nguồn Nihon no rekishi II (trang 181-182) [33]- Kondô Juuzô (Cận Đằng, Trọng Tàng, 1771-1829) là nhà thám hiểm Nhật Bản cuối đời Edo. Trước từng giúp việc cho chức bugyô nghĩa là quan cai trị ở Nagasaki (1795), nơi có nhiều người nước ngoài. Từ 1798, bắt đầu thám hiểm vùng Ezochi, đảo Chishima và để lại nhiều sách về địa chí và dân tộc chí về các vùng đất, các sắc dân thiểu số trên miền bắc. [34]- Shakushain ( ? - 1669) là tù trưởng ngườiAinu vùng Shibichaly thuộc Hidaka (phía nam Hokkaidô) vào đầu thời Edo. Năm 1669 (Kanbun 9) vì chống đối các hành động lấn lướt để giữ độc quyền mậu dịch của phiên Matsumae nên ông đã kêu gọi người Ainu tấn công vào các đoàn thuyền buôn trên khắp khu vực Ezochi. Giữa lúc sửa soạn tấn công Matsumae thì bị đánh thuốc độc chết. [35]-
Nguồn: Toyama Mikio trong Nagasaki bugyô - Edo baku no mimi to me (Chuô
kôron) trang 189-190).
|
|
[
trang
trước ] / [ trang sau
]
|