Người thực hành ít ham muốn thì lòng được thản nhiên, không phải lo sợ chi cả, cho dù gặp việc thế nào cũng tự thấy đầy đủ.Kinh Lời dạy cuối cùng
Những người hay khuyên dạy, ngăn người khác làm ác, được người hiền kính yêu, bị kẻ ác không thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 77)
Người ta vì ái dục sinh ra lo nghĩ; vì lo nghĩ sinh ra sợ sệt. Nếu lìa khỏi ái dục thì còn chi phải lo, còn chi phải sợ?Kinh Bốn mươi hai chương
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 8)
"Nó mắng tôi, đánh tôi, Nó thắng tôi, cướp tôi." Ai ôm hiềm hận ấy, hận thù không thể nguôi.Kinh Pháp cú (Kệ số 3)
Lấy sự nghe biết nhiều, luyến mến nơi đạo, ắt khó mà hiểu đạo. Bền chí phụng sự theo đạo thì mới hiểu thấu đạo rất sâu rộng.Kinh Bốn mươi hai chương
Người hiền lìa bỏ không bàn đến những điều tham dục.Kẻ trí không còn niệm mừng lo, nên chẳng bị lay động vì sự khổ hay vui.Kinh Pháp cú (Kệ số 83)
Người ta trói buộc với vợ con, nhà cửa còn hơn cả sự giam cầm nơi lao ngục. Lao ngục còn có hạn kỳ được thả ra, vợ con chẳng thể có lấy một chốc lát xa lìa.Kinh Bốn mươi hai chương
Ai dùng các hạnh lành, làm xóa mờ nghiệp ác, chói sáng rực đời này, như trăng thoát mây che.Kinh Pháp cú (Kệ số 173)
Ðêm dài cho kẻ thức, đường dài cho kẻ mệt, luân hồi dài, kẻ ngu, không biết chơn diệu pháp.Kinh Pháp cú (Kệ số 60)

Trang chủ »» Kinh Nam truyền »» Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikāya) »» 32. Ðại Kinh Rừng Sừng Bò - 32. The Greater Discourse in Gosinga »»

Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikāya) »» 32. Ðại Kinh Rừng Sừng Bò - 32. The Greater Discourse in Gosinga

Donate

Mahāgosinga sutta

Quay lại bản Việt dịch || Tải về bảng song ngữ

Xem đối chiếu:

Font chữ:
Nghe đọc phần này hoặc tải về.
Listen to this chapter or download.

32. Ðại Kinh Rừng Sừng Bò

32. The Greater Discourse in Gosinga

Dịch từ Pāli sang Việt: Thích Minh Châu
Translated from Pāli to English: Bhikkhu Ñāṇamoli & Bhikkhu Bodhi
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở tại khu vườn trong rừng Gosinga có nhiều cây sa-la cùng với một số đông Thượng Tọa đệ tử nổi tiếng như Tôn giả Sāriputta (Xá-lợi-phất) Tôn giả Mahā Moggallāna (Ðại Mục-kiền-liên), Tôn giả Mahā Kassapa (Ðại Ca-diếp), Tôn giả Anuruddha (A-na-luật-đà), Tôn giả Revata (Ly-bà-đa), Tôn giả Ānanda (A-nan) cùng với một số Thượng Tọa đệ tử nổi tiếng khác.
[212] 1. THUS HAVE I HEARD. On one occasion the Blessed One was living in the Park of the Gosinga Sāla-tree Wood together with a number of very well-known elder disciples — the venerable Sāriputta, the venerable Mahā Moggallāna, the venerable Mahā Kassapa, the venerable Anuruddha, the venerable Revata, the venerable Ānanda, and other very well known elder disciples.
Rồi Tôn giả Mahā Moggallāna vào buổi chiều, sau khi tham thiền đứng dậy, đi đến chỗ Tôn giả Mahā Kassapa ở, sau khi đến bèn nói với Tôn giả Mahā Kassapa:
2. Then, when it was evening, the venerable Mahā Moggallāna rose from meditation, went to the venerable Mahā Kassapa, and said to him:
-- Hiền giả Kassapa, chúng ta hãy đến chỗ Tôn giả Sāriputta để nghe pháp.
“Friend Kassapa, let us go to the venerable Sāriputta to listen to the Dhamma.”
-- Thưa vâng, Hiền giả.
Tôn giả Mahā Kassapa vâng đáp Tôn giả Mahā Moggallāna. Rồi Tôn giả Mahā Moggallāna, Tôn giả Mahā Kassapa và Tôn giả Anuruddha đi đến chỗ Tôn giả Sāriputta để nghe pháp.
— “Yes, friend,” the venerable Mahā Kassapa replied. Then the venerable Mahā Moggallāna, the venerable Mahā Kassapa, and the venerable Anuruddha went to the venerable Sāriputta to listen to the Dhamma.
Tôn giả Ānanda thấy Tôn giả Mahā Moggallāna, Tôn giả Mahā Kassapa và Tôn giả Anuruddha đi đến chỗ Tôn giả Sāriputta để nghe pháp, sau khi thấy vậy liền đi đến chỗ Tôn giả Revata và nói với Tôn giả Revata:
3. The venerable Ānanda saw them going to the venerable Sāriputta to listen to the Dhamma. Thereupon he went to the venerable Revata and said to him:
-- Này Hiền giả Revata, các bậc Thượng nhân như vậy đã đến chỗ Tôn giả Sāriputta để nghe pháp. Này Hiền giả Revata, chúng ta hãy đi đến chỗ Tôn giả Sāriputta để nghe pháp.
“Friend Revata, those true men are going to the venerable Sāriputta to listen to the Dhamma. Let us also go to the venerable Sāriputta to listen to the Dhamma.”
-- Thưa vâng, Hiền giả.
Tôn giả Revata vâng đáp Tôn giả Ānanda. Rồi Tôn giả Revata và Tôn giả Ānanda đi đến chỗ Tôn giả Sāriputta để nghe pháp.
— “Yes, friend,” the venerable Revata replied. Then the venerable Revata and the venerable Ānanda went to the venerable Sāriputta to listen to the Dhamma.
Tôn giả Sāriputta thấy Tôn giả Revata, Tôn giả Ānanda từ xa đi đến, sau khi thấy bèn nói với Tôn giả Ānanda:
4. The venerable Sāriputta saw the venerable Revata and the venerable Ānanda coming in the distance and said to the venerable Ānanda:
-- Tôn giả Ānanda hãy đến đây, thiện lai, Tôn giả Ānanda, vị thị giả Thế Tôn, vị hầu cận Thế Tôn. Này Hiền giả Ānanda, khả ái thay khu rừng Gosinga! Ðêm rằm sáng trăng, cây sa-la trổ hoa cùng khắp, hương trời như được tỏa rộng khắp nơi.
“Let the venerable Ānanda come, welcome to the venerable Ānanda, the Blessed One’s attendant, who is always in the Blessed One’s presence. Friend Ānanda, the Gosinga Sāla-tree Wood is delightful, the night is moonlit, the sāla trees are all in blossom, and heavenly scents seem to be floating in the air.
Này Hiền giả Ānanda, hạng Tỷ-kheo nào có thể làm chói sáng khu rừng Gosinga?
What kind of bhikkhu, friend Ānanda, could illuminate the Gosinga Sāla-tree Wood?”
-- Ở đây, này Hiền giả Sāriputta, Tỷ-kheo nghe nhiều, gìn giữ điều đã nghe, tích tụ điều đã nghe. Những pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, văn nghĩa cụ túc, nói lên phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh, những pháp ấy được vị ấy nghe nhiều và gìn giữ kỹ, được lập lại lớn tiếng, được ý tư duy, được tri kiến khéo quán sát;
“Here, friend [213] Sāriputta, a bhikkhu has learned much, remembers what he has learned, and consolidates what he has learned. Such teachings as are good in the beginning, good in the middle, and good in the end, with the right meaning and phrasing, and which affirm a holy life that is utterly perfect and pure — such teachings as these he has learned much of, remembered, mastered verbally, investigated with the mind, and penetrated well by view.
vị ấy thuyết pháp cho bốn hội chúng với văn cú viên dung, lưu loát, với mục đích đoạn trừ mọi tùy miên. Này Hiền giả Sāriputta, hạng Tỷ-kheo này có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga.
And he teaches the Dhamma to the four assemblies with well-rounded and coherent statements and phrases for the eradication of the underlying tendencies.357 That kind of bhikkhu could illuminate this Gosinga Sāla-tree Wood.”
Khi nghe nói vậy, Tôn giả Sāriputta nói với Tôn giả Revata:
5. When this was said, the venerable Sāriputta addressed the venerable Revata thus:
-- Này Hiền giả Revata, Tôn giả Ānanda đã trả lời theo sự giải thích của mình. Ở đây, nay chúng tôi hỏi Tôn giả Revata: Này Hiền giả Revata, khả ái thay ngôi rừng Gosinga... (như trên)...
“Friend Revata, the venerable Ānanda has spoken according to his own inspiration.358 Now we ask the venerable Revata: Friend Revata, the Gosinga Sāla-tree Wood is delightful, the night is moonlit, the sāla trees are all in blossom, and heavenly scents seem to be floating in the air.
Này Hiền giả Revata, hạng Tỷ-kheo nào làm sáng chói khu rừng Gosinga?
What kind of bhikkhu, friend Revata, could illuminate this Gosinga Sāla-tree Wood?”
-- Ở đây, này Hiền giả Sāriputta, Tỷ-kheo ưa thích đời sống tịnh cư, vui thú đời sống tịnh cư, nội tâm tu pháp, tịnh chỉ, không gián đoạn thiền định, thành tựu quán hạnh, luôn luôn lui tới các chỗ không tịch. Này Hiền giả Sāriputta, hạng Tỷ-kheo này có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga.
“Here, friend Sāriputta, a bhikkhu delights in solitary meditation and takes delight in solitary meditation; he is devoted to internal serenity of mind, does not neglect meditation, possesses insight, and dwells in empty huts.359 That kind of bhikkhu could illuminate this Gosinga Sāla-tree Wood.”
Khi nghe nói vậy, Tôn giả Sāriputta nói với Tôn giả Anuruddha:
6. When this was said, the venerable Sāriputta addressed the venerable Anuruddha thus:
-- Này Hiền giả Anuruddha, Tôn giả Revata đã trả lời theo sự giải thích của mình. Ở đây, nay chúng tôi hỏi Tôn giả Anuruddha: Này Hiền giả Anuruddha, khả ái thay ngôi rừng Gosinga... (như trên)...
“Friend Anuruddha, the venerable Revata has spoken according to his own inspiration. Now we ask the venerable Anuruddha: Friend Anuruddha, the Gosinga Sāla-tree Wood is delightful…
Này Hiền giả Anuruddha, hạng Tỷ-kheo nào làm sáng chói khu rừng Gosinga?
What kind of bhikkhu, friend Anuruddha, could illuminate this Gosinga Sāla-tree Wood?”
-- Ở đây, này Hiền giả Sāriputta, Tỷ-kheo, với thiên nhãn thanh tịnh, siêu nhiên, quán sát ngàn thế giới.
“Here, friend Sāriputta, with the divine eye, which is purified and surpasses the human, a bhikkhu surveys a thousand worlds.
Này Hiền giả Sāriputta, ví như một người có mắt lên trên đỉnh một ngôi lầu tốt đẹp, quán sát một ngàn đường vòng xung quanh. Cũng vậy, này Hiền giả Sāriputta, Tỷ-kheo, với thiên nhãn thanh tịnh, siêu nhiên, quán sát ngàn thế giới. Này Hiền giả Sāriputta, hạng Tỷ-kheo như vậy có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga.
Just as a man with good sight, when he has ascended to the upper palace chamber, might survey a thousand wheel-rims, so too, with the divine eye, which is purified and surpasses the human, a bhikkhu surveys a thousand worlds.360 That kind of bhikkhu could illuminate this Gosinga Sāla-tree Wood.”
Khi nghe nói vậy, Tôn giả Sāriputta nói với Tôn giả Mahā Kassapa:
7. When this was said, the venerable Sāriputta addressed the venerable Mahā Kassapa thus:
-- Này Hiền giả Kassapa, Tôn giả Anuruddha đã trả lời theo sự giải thích của mình. Ở đây, nay chúng tôi hỏi Tôn giả Kassapa: Này Hiền giả Kassapa, khả ái thay ngôi rừng Gosinga... (như trên)...
“Friend Kassapa, the venerable Anuruddha has spoken according to his own inspiration. Now we ask the venerable Mahā Kassapa: Friend Kassapa, the Gosinga Sāla-tree Wood is delightful…
Này Hiền giả Kassapa, hạng Tỷ-kheo nào làm sáng chói khu rừng Gosinga?
What kind of bhikkhu, friend Kassapa, [214] could illuminate this Gosinga Sāla-tree Wood?”
-- Ở đây, này Hiền giả Sāriputta, Tỷ-kheo, tự mình sống ở rừng núi và tán thán đời sống ở rừng núi,
“Here, friend Sāriputta, a bhikkhu is a forest dweller himself and speaks in praise of forest dwelling;
tự mình sống khất thực, và tán thán đời sống khất thực,
he is an almsfood eater himself and speaks in praise of eating almsfood;
tự mình mặc y phấn tảo và tán thán hạnh mặc y phấn tảo, tự mình sống với ba y và tán thán hạnh ba y,
he is a refuse-rag wearer himself and speaks in praise of wearing refuse-rag robes; he is a triple-robe wearer himself and speaks in praise of wearing the triple robe;361
tự mình sống thiểu dục và tán thán hạnh thiểu dục,
he has few wishes himself and speaks in praise of fewness of wishes;
tự mình sống biết đủ và tán thán hạnh biết đủ,
he is content himself and speaks in praise of contentment;
tự mình sống độc cư và tán thán hạnh sống độc cư,
he is secluded himself and speaks in praise of seclusion;
tự mình sống không nhiễm thế tục và tán thán hạnh không nhiễm thế tục,
he is aloof from society himself and speaks in praise of aloofness from society;
tự mình tinh cần, tinh tấn và tán thán hạn tinh cần, tinh tấn,
he is energetic himself and speaks in praise of arousing energy;
tự mình thành tựu giới hạnh và tán thán sự thành tựu giới hạnh,
he has attained to virtue himself and speaks in praise of the attainment of virtue;
tự mình thành tựu Thiền định và tán thán sự thành tựu thiền định,
he has attained to concentration himself and speaks in praise of the attainment of concentration;
tự mình thành tựu trí tuệ và tán thán sự thành tựu trí tuệ,
he has attained to wisdom himself and speaks in praise of the attainment of wisdom;
tự mình thành tựu giải thoát và tán thán sự thành tựu giải thoát,
he has attained to deliverance himself and speaks in praise of the attainment of deliverance;
tự mình thành tựu giải thoát tri kiến và tán thán sự thành tựu giải thoát tri kiến.
he has attained to the knowledge and vision of deliverance himself and speaks in praise of the attainment of the knowledge and vision of deliverance.
Này Hiền giả Sāriputta, hạng Tỷ-kheo như vậy có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga.
That kind of bhikkhu could illuminate this Gosinga Sāla-tree Wood.”
Khi nghe nói vậy, Tôn giả Sāriputta nói Tôn giả Mahā Moggallāna:
8. When this was said, the venerable Sāriputta addressed the venerable Mahā Moggallāna thus:
-- Hiền giả Moggallāna, Tôn giả Mahā Kassapa đã trả lời theo sự giải thích của mình. Ở đây, nay chúng tôi hỏi Tôn giả MahāMoggallāna: Này Hiền giả Moggallāna, khả ái thay khu rừng Gosinga!... Này Hiền giả Moggallāna, hạng Tỷ-kheo nào có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga?
“Friend Moggallāna, the venerable Mahā Kassapa has spoken according to his own inspiration. Now we ask the venerable Mahā Moggallāna: Friend Moggallāna, the Gosinga Sāla-tree Wood is delightful… What kind of bhikkhu, friend Moggallāna, could illuminate this Gosinga Sāla-tree Wood?”
-- Ở đây, này Hiền giả Sāriputta, hai Tỷ-kheo đàm luận về Abhidhamma (A-tỳ-đàm). Các vị ấy hỏi nhau câu hỏi, và khi được hỏi, các vị trả lời được với nhau chớ không dừng lại vì không trả lời được, và cuộc đàm luận về pháp được tiếp tục. Này Hiền giả Sāriputta, hạng Tỷ-kheo như vậy có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga?"
“Here, friend Sāriputta, two bhikkhus engage in a talk on the higher Dhamma362 and they question each other, and each being questioned by the other answers without foundering, and their talk rolls on in accordance with the Dhamma. That kind of bhikkhu could illuminate this Gosinga Sāla-tree Wood.”
Rồi Tôn giả MahāMoggallāna nói với Tôn giả Sāriputta: -- Hiền giả Sāriputta, chúng tôi đã trả lời theo sự giải thích của chúng tôi. Ở đây, nay chúng tôi hỏi Tôn giả Sāriputta: Này Hiền giả Sāriputta, khả ái thay, khu rừng Gosinga! Ðêm rằm sáng trăng, cây sa-la trổ hoa cùng khắp, hương trời như được tỏa rộng khắp nơi.
9. When this was said, the venerable Mahā Moggallāna addressed the venerable Sāriputta thus: “Friend Sāriputta, we have all spoken according to our own inspiration. Now we ask the venerable Sāriputta: Friend Sāriputta, the Gosinga Sāla-tree Wood is delightful, the night is moonlit, the sāla trees are all in blossom, and heavenly scents seem to be floating in the air.
Này Hiền giả Sāriputta, hạng Tỷ-kheo nào có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga?"
What kind of bhikkhu, friend Sāriputta, could illuminate this Gosinga Sāla-tree Wood?”
-- Ở đây, này Hiền giả Moggallāna, Tỷ-kheo điều phục được tâm, không phải Tỷ-kheo không điều phục được tâm. An trú quả nào vị ấy muốn an trú vào buổi sáng, vị ấy an trú quả ấy vào buổi sáng; an trú quả nào vị ấy muốn an trú vào buổi trưa, vị ấy an trú quả ấy buổi trưa; an trú quả nào vị ấy muốn an trú vào buổi chiều, vị ấy an trú quả ấy vào buổi chiều.
“Here, friend Moggallāna, a bhikkhu wields mastery over his mind, he does not let the mind wield mastery over him. In the morning he abides in whatever abiding or attainment he wants [215] to abide in during the morning; at midday he abides in whatever abiding or attainment he wants to abide in at midday; in the evening he abides in whatever abiding or attainment he wants to abide in during the evening.
Hiền giả Moggallāna, ví như một vị vua hay vị đại thần của vua có một tủ áo đựng đầy những áo có nhiều màu sắc khác nhau. Cặp áo nào nhà vua muốn mặc vào buổi sáng, nhà vua mặc cặp áo ấy vào buổi sáng; cặp áo nào nhà vua muốn mặc vào buổi trưa, nhà vua mặc cặp áo ấy vào buổi trưa; cặp áo nào nhà vua muốn mặc vào buổi chiều, nhà vua mặc cặp áo ấy vào buổi chiều.
Suppose a king or a king’s minister had a chest full of variously coloured garments. In the morning he could put on whatever pair of garments he wanted to put on in the morning; at midday he could put on whatever pair of garments he wanted to put on at midday; in the evening he could put on whatever pair of garments he wanted to put on in the evening.
Cũng vậy, này Hiền giả Moggallāna, Tỷ-kheo điều phục được tâm, không phải Tỷ-kheo không điều phục được tâm. An trú quả nào Tỷ-kheo ấy muốn an trú vào buổi sáng, vị ấy an trú quả ấy vào buổi sáng; an trú quả nào Tỷ-kheo ấy muốn an trú vào buổi trưa, vị ấy an trú quả ấy vào buổi trưa; an trú quả nào vị Tỷ-kheo ấy muốn an trú vào buổi chiều, vị ấy an trú quả ấy vào buổi chiều. Này Hiền giả Moggallāna, hạng Tỷ-kheo như vậy có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga.
So too, a bhikkhu wields mastery over his mind, he does not let the mind wield mastery over him. In the morning… at midday… in the evening he abides in whatever abiding or attainment he wants to abide in during the evening. That kind of bhikkhu could illuminate this Gosinga Sāla-tree Wood.”
Rồi Tôn giả Sāriputta nói với các Tôn giả ấy:
10. Then the venerable Sāriputta addressed those venerable ones thus:
-- Này chư Hiền, chúng ta đã trả lời theo sự giải thích của chúng ta. Chư Hiền, chúng ta hãy đi đến chỗ Thế Tôn ở và thuật lại vấn đề này cho Thế Tôn rõ. Thế Tôn trả lời chúng ta như thế nào, chúng ta sẽ như vậy thọ trì.
“Friends, we have all spoken according to our own inspiration. Let us go to the Blessed One and report this matter to him. As the Blessed One answers, so let us remember it.”
- Thưa vâng, Hiền giả.
Các Tôn giả ấy vâng đáp Tôn giả Sāriputta. Rồi những Tôn giả ấy đi đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Tôn giả Sāriputta bạch Thế Tôn:
— “Yes, friend,” they replied. Then those venerable ones went to the Blessed One, and after paying homage to him, they sat down at one side. The venerable Sāriputta said to the Blessed One:
-- Ở đây, bạch Thế Tôn, Tôn giả Revata và Tôn giả Ānanda đến tại chỗ con ở để nghe pháp. Bạch Thế Tôn, con thấy Tôn giả Revata và Tôn giả Ānanda từ xa đi đến; thấy vậy, con nói với Tôn giả Ānanda:
11. “Venerable sir, the venerable Revata and the venerable Ānanda came to me to listen to the Dhamma. I saw them coming in the distance and [216] said to the venerable Ānanda:
"-- Tôn giả Ānanda, hãy đến đây, thiện lai Tôn giả Ānanda, vị thị giả Thế Tôn, vị hầu cận Thế Tôn. Này Hiền giả Ānanda, khả ái thay khu rừng Gosinga! Ðếm rằm sáng trăng, cây sa-la trổ hoa cùng khắp, hương trời như được tỏa rộng khắp nơi.
‘Let the venerable Ānanda come, welcome to the venerable Ānanda… Friend Ānanda, the Gosinga Sāla-tree Wood is delightful…
Này Hiền giả Ānanda, hạng Tỷ-kheo nào có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga? ’’
What kind of bhikkhu, friend Ānanda, could illuminate this Gosinga Sāla-tree Wood?’
Bạch Thế Tôn, được hỏi vậy, Tôn giả Ānanda trả lời với con như sau:
When asked, venerable sir, the venerable Ānanda replied:
"-- Ở đây, Hiền giả Sāriputta, Tỷ-kheo nghe nhiều, gìn giữ điều đã nghe, tích tụ điều đã nghe. Những pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, văn nghĩa cụ túc, nói lên phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh, những pháp ấy được vị ấy nghe nhiều và giữ gìn kỹ, được lập lại lớn tiếng, được ý tư duy, được tri kiến khéo quán sát. Vị ấy thuyết pháp cho bốn hội chúng với văn cú viên dung, lưu loát, với mục đích đoạn trừ mọi tùy miên. Này Hiền giả Sāriputta, hạng Tỷ-kheo này có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga."
‘Here, friend Sāriputta, a bhikkhu has learned much… (as in §4)… That kind of bhikkhu could illuminate this Gosinga Sāla-tree Wood.’”
-- Lành thay, lành thay, Sāriputta! Nếu trả lời cho được chân chánh, Ānanda phải trả lời như vậy. Này Sāriputta, Ānanda là bậc đa văn, gìn giữ điều đã nghe, tích tụ điều đã nghe. Những pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, văn nghĩa cụ túc, nói lên phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh, những pháp ấy được vị ấy nghe nhiều và gìn giữ kỹ, được lập lại lớn tiếng, được ý tư duy, được tri kiến khéo quán sát.
“Good, good, Sāriputta. Ānanda, speaking rightly, should speak just as he did. For Ānanda has learned much, remembers what he has learned, and consolidates what he has learned. Such teachings as are good in the beginning, good in the middle, and good in the end, with the right meaning and phrasing, and which affirm a holy life that is utterly perfect and pure — such teachings as these he has learned much of, remembered, mastered verbally, investigated with the mind, and penetrated well by view.
Vị ấy thuyết pháp cho bốn hội chúng, với văn cú viên dung lưu loát, với mục đích đoạn trừ mọi tùy miên.
And he teaches the Dhamma to the four assemblies with well-rounded and coherent statements and phrases for the eradication of the underlying tendencies.”
-- Bạch Thế Tôn khi nghe nói vậy, con nói với Tôn giả Revata:
12. “When this was said, venerable sir, I addressed the venerable Revata thus:
"-- Này Hiền giả Revata, Tôn giả Ānanda, đã trả lời theo sự giải thích của mình. Ở đây, nay chúng tôi hỏi Tôn giả Revata:
"-- Này Hiền giả Revata, khả ái thay ngôi rừng Gosinga... (như trên)... Này Hiền giả Revata, hạng Tỷ-kheo nào có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga? ’’
‘Friend Revata… What kind of bhikkhu could illuminate this Gosinga Sāla-tree Wood?’ And the venerable Revata replied:
"-- Ở đây, này Hiền giả Sāriputta, Tỷ-kheo ưa thích đời sống tịnh cư, vui thú đời sống tịnh cư, nội tâm tu tập tịnh chỉ, không gián đoạn thiền định, thành tựu quán hạnh, luôn luôn lui tới các chỗ không tịch. Này Hiền giả Sāriputta, hạng Tỷ-kheo này có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga".
‘Here, friend Sāriputta, a bhikkhu delights in solitary meditation… (as in §5)… That kind of bhikkhu could illuminate this Gosinga Sāla-tree Wood.’”
-- Lành thay, lành thay, Sāriputta! Nếu trả lời cho được chân chánh, Revata phải trả lời như vậy. Này Sāriputta, Revata ưa thích đời sống tịnh cư, vui thú đời sống tịnh cư, nội tâm tu tập tịnh chỉ, không gián đoạn thiền định, thành tựu quán hạnh, luôn luôn lui tới các chỗ không tịch.
“Good, good, Sāriputta. Revata, speaking rightly, should speak just as he did. For Revata delights in solitary meditation, takes delight in solitary meditation, is devoted to internal serenity of mind, does not neglect meditation, possesses insight, and dwells in empty huts.” [217]
-- Bạch Thế Tôn, khi được nói vậy, con nói với Tôn giả Anuruddha như sau:
13. “When that was said, venerable sir, I addressed the venerable Anuruddha thus:
"-- Này Hiền giả Anuruddha, Tôn giả Revata đã trả lời theo sự giải thích của mình. Ở đây, nay chúng tôi hỏi Tôn giả Anuruddha:
"-- Này Hiền giả Anuruddha, khả ái thay ngôi rừng Gosinga... (như trên)... Này Hiền giả Anuruddha, hạng Tỷ-kheo nào làm sáng chói khu rừng Gosinga?"
‘Friend Anuruddha… What kind of bhikkhu could illuminate this Gosinga Sāla-tree Wood?’
Bạch Thế Tôn, được nói vậy, Tôn giả Anuruddha nói với con: "-- Này Hiền giả Sāriputta, ở đây, Tỷ-kheo với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhiên, quán sát ngàn thế giới. Này Hiền giả Sāriputta, ví như một người có mắt, lên trên đỉnh một ngôi lầu tốt đẹp rồi quán sát một ngàn đường vòng xung quanh. Cũng vậy, này Hiền giả Sāriputta, Tỷ-Kheo với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhiên quán sát ngàn thế giới. Này Hiền giả Sāriputta, hạng Tỷ-kheo như vậy có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga".
And the venerable Anuruddha replied: ‘Here, friend Sāriputta, with the divine eye… (as in §6)… That kind of bhikkhu could illuminate this Gosinga Sāla-tree Wood.’”
-- Lành thay, lành thay, Sāriputta! Nếu trả lời cho được chân chánh, Anuruddha phải trả lời như vậy. Này Sāriputta, chính Anuruddha với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhiên quán sát ngàn thế giới.
“Good, good, Sāriputta. Anuruddha, speaking rightly, should speak just as he did. For with the divine eye, which is purified and surpasses the human, Anuruddha surveys a thousand worlds.”
-- Bạch Thế Tôn, được nói vậy, con nói với Tôn giả Mahā Kassapa:
14. “When this was said, venerable sir, I addressed the venerable Mahā Kassapa thus:
"-- Này Hiền giả Kassapa, Tôn giả Anuruddha đã trả lời theo sự giải thích của mình. Ở đây, nay chúng tôi hỏi Tôn giả Kassapa:
"-- Khả ái thay ngôi rừng Gosinga!... (như trên)... Này Hiền giả Kassapa, hạng Tỷ-kheo nào làm sáng chói khu rừng Gosinga?"
‘Friend Kassapa… What kind of bhikkhu could illuminate this Gosinga Sāla-tree Wood?’
Bạch Thế Tôn, được nói vậy, Tôn giả Mahākassapa nói với con:
And the venerable Mahā Kassapa replied:
"-- Ở đây, này Hiền giả Sāriputta, Tỷ-kheo tự mình sống ở rừng núi và tán thán đời sống ở rừng núi, tự mình sống khất thực và tán thán đời sống khất thực, tự mình mặc y phấn tảo và tán thán hạnh mặc y phấn tảo, tự mình sống với ba y và tán thán hạnh ba y, tự mình sống thiểu dục và tán thán hạnh thiểu dục, tự mình sống biết đủ và tán thán hạnh biết đủ, tự mình sống độc cư và tán thán hạnh độc cư, tự mình sống không nhiễm thế tục và tán thán hạnh không nhiễm thế tục, tự mình tinh cần, tinh tấn và tán thán hạnh tinh cần, tinh tấn, tự mình thành tựu giới hạnh và tán thán sự thành tựu giới hạnh, tự mình thành tựu thiền định và tán thán sự thành tựu thiền định, tự mình thành tựu trí tuệ và tán thán sự thành tựu trí tuệ, tự mình giải thoát và tán thán sự thành tựu giải thoát, tự mình thành tựu giải thoát tri kiến và tán thán sự thành tựu giải thoát tri kiến. Này Hiền giả Sāriputta, hạng Tỷ-kheo ấy có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga."
‘Here, friend Sāriputta, a bhikkhu is a forest-dweller himself… (as in §7)… That kind of bhikkhu could illuminate this Gosinga Sāla-tree Wood.’” [218]
-- Lành thay Sāriputta! Nếu trả lời cho được chân chánh, Kassapa phải trả lời như vậy. Này Sāriputta, Kassapa tự mình sống ở rừng núi và tán thán đời sống ở rừng núi... tự mình thành tựu giải thoát tri kiến và tán thán sự thành tựu giải thoát tri kiến.
“Good, good, Sāriputta. Kassapa, speaking rightly, should speak just as he did. For Kassapa is a forest-dweller himself and speaks in praise of forest dwelling… he has attained to the knowledge and vision of deliverance himself and speaks in praise of the attainment of the knowledge and vision of deliverance.”
-- Bạch Thế Tôn, được nói vậy, con nói với Tôn giả Mahā Moggallāna:
15. “When this was said, venerable sir, I addressed the venerable Mahā Moggallāna thus:
"-- Hiền giả Moggallāna, Tôn giả Mahā Kassapa đã trả lời theo sự giải thích của mình. Ở đây, nay chúng tôi hỏi Tôn giả Mahā Moggallāna:
"-- Này Hiền giả Moggallāna, khả ái thay khu rừng Gosinga!... Này Hiền giả Moggallāna, hạng Tỷ-kheo nào có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga?"
‘Friend Moggallāna… What kind of bhikkhu could illuminate this Gosinga Sāla-tree Wood?’
Bạch Thế Tôn, được nói vậy, Tôn giả Mahā Moggallāna nói với con:
And the venerable Mahā Moggallāna replied:
"-- Ở đây, này Hiền giả Sāriputta, hai Tỷ-kheo đàm luận về Abhidhamma (A-tỳ-đàm). Họ hỏi nhau câu hỏi, và khi được hỏi, họ trả lời được với nhau, chớ không dừng lại vì không trả lời được, và cuộc đàm luận về pháp của họ được tiếp tục. Này Hiền giả Sāriputta, hạng Tỷ-kheo như vậy có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga. "
‘Here, friend Sāriputta, two bhikkhus engage in a talk on the higher Dhamma… (as in §8)… That kind of bhikkhu could illuminate this Gosinga Sāla-tree Wood.’”
-- Lành thay Sāriputta! Nếu trả lời cho được chân chánh, Moggallāna phải trả lời như vậy. Này Sāriputta, Moggallāna là bậc thuyết về Chánh pháp.
“Good, good, Sāriputta. Moggallāna, speaking rightly, should speak just as he did. For Moggallāna is one who talks on the Dhamma.”
Ðược nói vậy, Tôn giả Mahā Moggallāna bạch Thế Tôn:
16. When that was said, the venerable Mahā Moggallāna told the Blessed One:
-- Bạch Thế Tôn, con nói với Tôn giả Sāriputta, như sau:
“Then, venerable sir, I addressed the venerable Sāriputta thus:
"-- Hiền giả Sāriputta, chúng tôi đã trả lời theo sự giải thích của chúng tôi. Ở đây, nay chúng tôi hỏi Tôn giả Sāriputta:
"-- Này Hiền giả Sāriputta, khả ái thay khu rừng Gosinga! Ðêm rằm sáng trăng, cây sa-la trổ hoa cùng khắp, hương trời như tỏa rộng khắp nơi. Này Hiền giả Sāriputta, hạng Tỷ-kheo nào có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga?"
‘Friend Sāriputta… What kind of bhikkhu could illuminate this Gosinga Sāla-tree Wood?’
-- Bạch Thế Tôn, được nói vậy, Tôn giả Sāriputta nói với con:
And the venerable Sāriputta replied:
"-- Ở đây, này Hiền giả Moggallāna, Tỷ-kheo điều phục được tâm, không phải Tỷ-kheo không điều phục được tâm. An trú quả nào vị ấy muốn an trú vào buổi sáng, vị ấy an trú quả ấy vào buổi sáng; an trú quả nào vị ấy an trú vào buổi trưa, vị ấy an trú quả ấy vào buổi trưa; an trú quả nào vị ấy muốn an trú vào buổi chiều, vị ấy an trú quả ấy vào buổi chiều.
‘Here, friend Moggallāna, a bhikkhu wields mastery over his mind… [219] (as in §9)… That kind of bhikkhu could illuminate this Gosinga Sāla-tree Wood.’”
Hiền giả Moggallāna, ví như một vị vua hay vị đại thần của vua có một tủ áo đựng đầy những áo có nhiều màu sắc khác nhau. Cặp áo nào nhà vua muốn mặc vào buổi sáng, nhà vua mặc cặp áo ấy vào buổi sáng; cặp áo nào nhà vua muốn mặc vào buổi trưa, nhà vua mặc cặp áo ấy vào buổi trưa; cặp áo nào nhà vua muốn mặc vào buổi chiều, nhà vua mặc cặp áo ấy vào buổi chiều.
Cũng vậy, này Hiền giả Moggallāna, Tỷ-kheo điều phục được tâm, không phải Tỷ-kheo không điều phục được tâm. An trú quả nào Tỷ-kheo ấy muốn an trú vào buổi sáng, Tỷ-kheo ấy an trú quả ấy vào buổi sáng; an trú quả nào vị ấy muốn an trú vào buổi trưa, vị ấy an trú quả ấy vào buổi trưa; an trú quả nào vị ấy muốn an trú vào buổi chiều, vị ấy an trú quả ấy vào buổi chiều. Này Hiền giả Moggallāna, hạng Tỷ-kheo như vậy có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga?."
-- Lành thay, lành thay, Moggallāna! Nếu trả lời cho được chân chánh, Sāriputta phải trả lời như vậy. Này Moggallāna, Sāriputta điều phục được tâm, không phải Sāriputta không điều phục được tâm. An trú quả nào vị ấy muốn an trú vào buổi sáng, vị ấy an trú quả ấy vào buổi sáng; an trú quả nào vị ấy muốn an trú vào buổi trưa, vị ấy an trú quả ấy vào buổi trưa; an trú quả nào vị ấy muốn an trú vào buổi chiều, vị ấy an trú quả ấy vào buổi chiều.
“Good, good, Moggallāna. Sāriputta, speaking rightly, should speak just as he did. For Sāriputta wields mastery over his mind, he does not let the mind wield mastery over him. In the morning he abides in whatever abiding or attainment he wants to abide in during the morning; at midday he abides in whatever abiding or attainment he wants to abide in at midday; in the evening he abides in whatever abiding or attainment he wants to abide in during the evening.”
Khi được nói vậy, Tôn giả Sāriputta bạch Thế Tôn: -- Bạch Thế Tôn, vị nào đã khéo trả lời (câu hỏi được đặt ra)?
17. When this was said, the venerable Sāriputta asked the Blessed One: “Venerable sir, which of us has spoken well?”
-- Này Sāriputta, tất cả đều lần lượt khéo trả lời. Và này các Ông hãy nghe Ta nói hạng Tỷ-kheo nào có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga?
“You have all spoken well, Sāriputta, each in his own way. Hear also from me what kind of bhikkhu could illuminate this Gosinga Sāla-tree Wood.
Ở đây, này Sāriputta, Tỷ-kheo, sau buổi ăn, sau khi đi khất thực về, ngồi kiết-già, lưng thẳng, đặt niệm trước mặt, và nghĩ rằng: "Ta sẽ không bỏ ngồi kiết-già này cho đến khi tâm của ta được khéo giải thoát các lậu hoặc, không có chấp thủ". Này Sāriputta, hạng Tỷ-kheo như vậy có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga.
Here, Sāriputta, when a bhikkhu has returned from his almsround, after his meal, he sits down, folds his legs crosswise, sets his body erect, and establishing mindfulness in front of him, resolves: ‘I shall not break this sitting position until through not clinging my mind is liberated from the taints.’ That kind of bhikkhu could illuminate this Gosinga Sāla-tree Wood.”363
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tôn giả ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.
That is what the Blessed One said. Those venerable ones were satisfied and delighted in the Blessed One’s words.





_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Vào thiền


Gió Bấc


Kinh Duy-ma-cật (Việt dịch)


Kinh Đại Bát Niết-bàn

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 3.23.101.241 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

Việt Nam (161 lượt xem) - Senegal (13 lượt xem) - Hoa Kỳ (12 lượt xem) - ... ...


Copyright © Liên Phật Hội 2020 - United Buddhist Foundation - Rộng Mở Tâm Hồn
Hoan nghênh mọi hình thức góp sức phổ biến rộng rãi thông tin trên trang này, nhưng vui lòng ghi rõ xuất xứ và không tùy tiện thêm bớt.

Sách được đăng tải trên trang này là do chúng tôi giữ bản quyền hoặc được sự ủy nhiệm hợp pháp của người giữ bản quyền.
We are the copyright holder of all books published here or have the rights to publish them on behalf of the authors / translators.

Website này có sử dụng cookie để hiển thị nội dung phù hợp với từng người xem. Quý độc giả nên bật cookie (enable) để có thể xem được những nội dung tốt nhất.
Phiên bản cập nhật năm 2016, đã thử nghiệm hoạt động tốt trên nhiều trình duyệt và hệ điều hành khác nhau.
Để tận dụng tốt nhất mọi ưu điểm của website, chúng tôi khuyến nghị sử dụng Google Chrome - phiên bản mới nhất.


Rộng Mở Tâm Hồn Liên hệ thỉnh Kinh sách Phật học