Như ngôi nhà khéo lợp, mưa không xâm nhập vào. Cũng vậy tâm khéo tu, tham dục không xâm nhập.Kinh Pháp cú (Kệ số 14)
Cỏ làm hại ruộng vườn, sân làm hại người đời. Bố thí người ly sân, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 357)
Xưa, vị lai, và nay, đâu có sự kiện này: Người hoàn toàn bị chê,người trọn vẹn được khen.Kinh Pháp cú (Kệ số 228)
Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ, ý tạo; nếu với ý ô nhiễm, nói lên hay hành động, khổ não bước theo sau, như xe, chân vật kéo.Kinh Pháp Cú (Kệ số 1)
Người ngu nghĩ mình ngu, nhờ vậy thành có trí. Người ngu tưởng có trí, thật xứng gọi chí ngu.Kinh Pháp cú (Kệ số 63)
Tìm lỗi của người khác rất dễ, tự thấy lỗi của mình rất khó. Kinh Pháp cú
"Nó mắng tôi, đánh tôi, Nó thắng tôi, cướp tôi." Ai ôm hiềm hận ấy, hận thù không thể nguôi.Kinh Pháp cú (Kệ số 3)
Không làm các việc ác, thành tựu các hạnh lành, giữ tâm ý trong sạch, chính lời chư Phật dạy.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Sự nguy hại của nóng giận còn hơn cả lửa dữ. Kinh Lời dạy cuối cùng
Người hiền lìa bỏ không bàn đến những điều tham dục.Kẻ trí không còn niệm mừng lo, nên chẳng bị lay động vì sự khổ hay vui.Kinh Pháp cú (Kệ số 83)

Trang chủ »» Kinh Nam truyền »» Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikāya) »» 24. Kinh Trạm Xe - 24. The Relay Chariots »»

Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikāya) »» 24. Kinh Trạm Xe - 24. The Relay Chariots

Donate

Rathavinīta sutta

Quay lại bản Việt dịch || Tải về bảng song ngữ

Xem đối chiếu:

Font chữ:
Nghe đọc phần này hoặc tải về.
Listen to this chapter or download.

24. Kinh Trạm Xe

24. The Relay Chariots

Dịch từ Pāli sang Việt: Thích Minh Châu
Translated from Pāli to English: Bhikkhu Ñāṇamoli & Bhikkhu Bodhi
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Rājagaha (Vương Xá) tại Veluvana (Trúc Lâm), Kalandakanivapa.
1. THUS HAVE I HEARD. On one occasion the Blessed One was living at Rājagaha in the Bamboo Grove, the Squirrels’ Sanctuary.
Lúc ấy một số đông Tỷ-kheo người địa phương, sau khi an cư mùa mưa tại địa phương xong, liền đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo đang ngồi một bên:
2. Then a number of bhikkhus from [the Blessed One’s] native land,285 who had spent the Rains there, went to the Blessed One, and after paying homage to him, sat down at one side. The Blessed One asked them:
-- Này các Tỷ-kheo, ai ở tại địa phương được các Tỷ-kheo đồng phạm hạnh cùng một địa phương tán thán như sau:
“Bhikkhus, who in [my] native land is esteemed by the bhikkhus there, by his companions in the holy life, in this way:
"Tự mình thiểu dục và giảng về thiểu dục cho các Tỷ-kheo;
‘Having few wishes himself, he talks to the bhikkhus on fewness of wishes;
tự mình tri túc và giảng về tri túc cho các Tỷ-kheo;
content himself, he talks to the bhikkhus on contentment;
tự mình độc cư và giảng về độc cư cho các Tỷ-kheo;
secluded himself, he talks to the bhikkhus on seclusion;
tự mình không ô nhiễm và giảng về không ô nhiễm cho các Tỷ-kheo;
aloof from society himself, he talks to the bhikkhus on aloofness from society;
tự mình tinh cần, tinh tấn và giảng về tinh cần, tinh tấn cho các Tỷ-kheo;
energetic himself, he talks to the bhikkhus on arousing energy;
tự mình thành tựu giới hạnh và giảng về thành tựu giới hạnh cho các Tỷ-kheo;
attained to virtue himself, he talks to the bhikkhus on the attainment of virtue;
tự mình thành tựu Thiền định và giảng về thành tựu Thiền định cho các Tỷ-kheo;
attained to concentration himself, he talks to the bhikkhus on the attainment of concentration;
tự mình thành tựu trí tuệ và nói về thành tựu trí tuệ cho các Tỷ-kheo;
attained to wisdom himself, he talks to the bhikkhus on the attainment of wisdom;
tự mình thành tựu giải thoát và nói về thành tựu giải thoát cho các Tỷ-kheo;
attained to deliverance himself, he talks to the bhikkhus on the attainment of deliverance;
tự mình thành tựu giải thoát tri kiến và nói về thành tựu giải thoát tri kiến cho các Tỷ-kheo;
attained to the knowledge and vision of deliverance himself, he talks to the bhikkhus on the attainment of the knowledge and vision of deliverance;286
vị giáo giới, vị khai thị, vị trình bày, vị khích lệ, vị làm cho phấn khởi, vị làm cho các vị đồng phạm hạnh hoan hỷ?".
he is one who advises, informs, instructs, urges, [146] rouses, and gladdens his companions in the holy life’?”
-- Bạch Thế Tôn, Tôn giả Puṇṇa Mantāṇiputta là Tỷ-kheo địa phương được các Tỷ-kheo đồng phạm hạnh cùng một địa phương tán thán như sau:
“Venerable sir, the venerable Puṇṇa Mantāṇiputta is so esteemed in the [Blessed One’s] native land by the bhikkhus there, by his companions in the holy life.”287
"Tự mình thiểu dục và nói về thiểu dục cho các Tỷ-kheo... (như trên)... vị làm cho các vị đồng phạm hạnh hoan hỷ."
Lúc bấy giờ, Tôn giả Sāriputta ngồi cách Thế Tôn không xa. Tôn giả Sāriputta suy nghĩ như sau: "Hạnh phúc thay Tôn giả Puṇṇa Mantāṇiputta! Chơn hạnh phúc thay Tôn giả Puṇṇa Mantāṇiputta! Tôn giả đã được các vị đồng phạm hạnh có trí tán thán từng điểm một trước mặt bậc Ðạo Sư, và được bậc Ðạo Sư chấp nhận; có thể chúng ta sẽ gặp Tôn giả Puṇṇa Mantāṇiputta, tại một chỗ nào, trong một thời gian nào, có thể sẽ có một cuộc đàm luận với Tôn giả."
3. Now on that occasion the venerable Sāriputta was seated near the Blessed One. Then it occurred to the venerable Sāriputta: “It is a gain for the venerable Puṇṇa Mantāṇiputta, it is a great gain for him that his wise companions in the holy life praise him point by point in the Teacher’s presence. Perhaps sometime or other we might meet the venerable Puṇṇa Mantāṇiputta and have some conversation with him.”
Thế Tôn trú tại Rajagaha (Vương Xá) lâu cho đến khi vừa ý, rồi khởi hành đi Sāvatthī; Ngài tuần tự đi và đến Sāvatthī. Ở đây, Thế Tôn trú ở Sāvatthī, tại Jetavana, vườn ông Anāthapiṇḍika.
4. Then, when the Blessed One had stayed at Rājagaha as long as he chose, he set out to wander by stages to Sāvatthī. Wandering by stages, he eventually arrived at Sāvatthī, and there he lived in Jeta’s Grove, Anāthapiṇḍika’s Park.
Tôn giả Puṇṇa Mantāṇiputta được nghe: "Thế Tôn đã đến Sāvatthī, trú ở Sāvatthī, tại Jetavana, vườn ông Anāthapiṇḍika". Rồi Tôn giả Puṇṇa Mantāṇiputta thâu dọn lại sàng tọa, cầm y bát, khởi hành đi Sāvatthī. Tôn giả tuần tự đi đến Sāvatthī, Jetavana, vườn ông Anāthapiṇḍika, đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên.
5. The venerable Puṇṇa Mantāṇiputta heard: “The Blessed One has arrived at Sāvatthī and is living in Jeta’s Grove, Anāthapiṇḍika’s Park.” Then the venerable Puṇṇa Mantāṇiputta set his resting place in order, and taking his outer robe and bowl, set out to wander by stages to Sāvatthī. Wandering by stages, he eventually arrived at Sāvatthī and went to Jeta’s Grove, Anāthapiṇḍika’s Park, to see the Blessed One. After paying homage to the Blessed One, he sat down at one side and
Thế Tôn thuyết pháp cho Tôn giả Puṇṇa Mantāṇiputta đang ngồi một bên, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ. Tôn giả Puṇṇa Mantāṇiputta, sau khi được Thế Tôn thuyết pháp, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài, từ tạ đi Andhavana để nghỉ trưa.
the Blessed One instructed, urged, roused, and gladdened him with talk on the Dhamma. Then the venerable Puṇṇa Mantāṇiputta, instructed, urged, roused, and gladdened by the Blessed One’s talk on the Dhamma, delighting and rejoicing in the Blessed One’s words, rose from his seat, and after paying homage to the Blessed One, keeping him on his right, he went to the Blind Men’s Grove for the day’s abiding.
Rồi một Tỷ-kheo khác đến chỗ Tôn giả Sāriputta ở, sau khi đến, thưa với Tôn giả Sāriputta: "Hiền giả Sāriputta, Hiền giả luôn luôn tán dương Tỷ-kheo Puṇṇa Mantāṇiputta; vị này được Thế Tôn thuyết pháp, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài, từ tạ đi đến Andhavana để nghỉ trưa".
6. Then a certain bhikkhu went to the venerable Sāriputta and said to him: “Friend Sāriputta, the bhikkhu Puṇṇa Mantāṇiputta of whom you have always spoken highly [147] has just been instructed, urged, roused, and gladdened by the Blessed One with talk on the Dhamma; after delighting and rejoicing in the Blessed One’s words, he rose from his seat, and after paying homage to the Blessed One, keeping him on his right, he has gone to the Blind Men’s Grove for the day’s abiding.”
Rồi Tôn giả Sāriputta vội vã đem theo tọa cụ, đi theo sau lưng Tôn giả Puṇṇa Mantāṇiputta, đầu hướng về trước mặt (để theo dõi). Rồi Tôn giả Puṇṇa Mantāṇiputta đi sâu vào rừng Andhavana, và ngồi nghỉ trưa dưới một gốc cây. Tôn giả Sāriputta, sau khi đi sâu vào rừng Andhavana, ngồi nghỉ trưa dưới một gốc cây.
7. Then the venerable Sāriputta hurriedly took his sitting cloth and followed close behind the venerable Puṇṇa Mantāṇiputta, keeping his head in sight. Then the venerable Puṇṇa Mantāṇiputta entered the Blind Men’s Grove and sat down for the day’s abiding at the root of a tree. The venerable Sāriputta also entered the Blind Men’s Grove and sat down for the day’s abiding at the root of a tree.
Rồi vào buổi chiều, Tôn giả Sāriputta từ Thiền định độc cư đứng dậy, đến tại chỗ Tôn giả Puṇṇa Mantāṇiputta, sau khi đến nói lên với Tôn giả Puṇṇa Mantāṇiputta những lời chào đón, hỏi thăm, xã giao rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Sāriputta thưa với Tôn giả Puṇṇa Mantāṇiputta:
8. Then, when it was evening, the venerable Sāriputta rose from meditation, went to the venerable Puṇṇa Mantāṇiputta, and exchanged greetings with him. When this courteous and amiable talk was finished, he sat down at one side and said to the venerable Puṇṇa Mantāṇiputta:
-- Hiền giả, có phải chúng ta sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn?
9. “Is the holy life lived under our Blessed One, friend?
-- Thật như vậy, Hiền giả.
— “Yes, friend.”
-- Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích giới thanh tịnh?
— “But, friend, is it for the sake of purification of virtue that the holy life is lived under the Blessed One?”
-- Không phải vậy, Hiền giả.
— “No, friend.”
-- Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích tâm thanh tịnh?
— “Then is it for the sake of purification of mind that the holy life is lived under the Blessed One?”
-- Không phải vậy, Hiền giả.
— “No, friend.”
-- Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là mục đích kiến thanh tịnh?
— “Then is it for the sake of purification of view that the holy life is lived under the Blessed One?”
-- Không phải vậy, Hiền giả.
— “No, friend.”
-- Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích đoạn nghi thanh tịnh?
— “Then is it for the sake of purification by overcoming doubt that the holy life is lived under the Blessed One?”
-- Không phải vậy, Hiền giả.
— “No, friend.”
-- Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh?
— “Then is it for the sake of purification by knowledge and vision of what is the path and what is not the path that the holy life is lived under the Blessed One?”
-- Không phải vậy, Hiền giả.
— “No, friend.”
-- Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích đạo tri kiến thanh tịnh?
— “Then is it for the sake of purification by knowledge and vision of the way that the holy life is lived under the Blessed One?”
-- Không phải vậy, Hiền giả.
— “No, friend.”
-- Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích tri kiến thanh tịnh?
— “Then is it for the sake of purification by knowledge and vision that the holy life is lived under the Blessed One?”
-- Không phải vậy, Hiền giả.
— “No, friend.”288
-- Hiền giả, khi hỏi "có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích giới thanh tịnh?" Hiền giả trả lời "Không phải vậy".
10. “Friend, when asked: ‘But, friend, is it for the sake of purification of virtue that the holy life is lived under the Blessed One?’ you replied: ‘No, friend.’
Khi hỏi ... tâm thanh tịnh? ... kiến thanh tịnh?... đoạn nghi thanh tịnh? ... đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh? ... đạo tri kiến thanh tịnh? ... Khi hỏi "có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích tri kiến thanh tịnh?" Hiền giả trả lời "Không phải vậy".
When asked: ‘Then is it for the sake of purification of mind… purification of view… purification by overcoming doubt… purification by knowledge and vision of what is the path and what is not the path… purification by knowledge and vision of the way… purification by knowledge and vision that the holy life is lived under the Blessed One?’ you replied: ‘No, friend.’
Như vậy, Hiền giả, với mục đích gì, sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn?
For the sake of what then, friend, [148] is the holy life lived under the Blessed One?”
-- Hiền giả, với mục đích vô thủ trước Bát-niết-bàn, nên sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn.
“Friend, it is for the sake of final Nibbāna without clinging that the holy life is lived under the Blessed One.”289
-- Hiền giả, có phải giới thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
11. “But, friend, is purification of virtue final Nibbāna without clinging?”
-- Hiền giả, không phải vậy.
— “No, friend.”
-- Hiền giả, có phải tâm thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
— “Then is purification of mind final Nibbāna without clinging?”
-- Hiền giả, không phải vậy.
— “No, friend.”
-- Hiền giả, có phải kiến thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
— “Then is purification of view final Nibbāna without clinging?”
-- Hiền giả, không phải vậy.
— “No, friend.”
-- Hiền giả, có phải đoạn nghi thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
— “Then is purification by overcoming doubt final Nibbāna without clinging?”
-- Hiền giả, không phải vậy.
— “No, friend.”
-- Hiền giả, có phải đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
— “Then is purification by knowledge and vision of what is the path and what is not the path final Nibbāna without clinging?”
-- Hiền giả, không phải vậy.
— “No, friend.”
-- Hiền giả, có phải đạo tri kiến thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
— “Then is purification by knowledge and vision of the way final Nibbāna without clinging?”
-- Hiền giả, không phải vậy.
— “No, friend.”
-- Hiền giả, có phải tri kiến thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
— “Then is purification by knowledge and vision final Nibbāna without clinging?”
-- Hiền giả, không phải vậy.
— “No, friend.”
-- Hiền giả, có phải cái gì ngoài các pháp này là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
— “But, friend, is final Nibbāna without clinging to be attained without these states?”
-- Hiền giả, không phải vậy.
— “No, friend.”
-- Hiền giả, khi hỏi "có phải giới thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?" Hiền giả trả lời: "Không phải vậy.
12. “When asked: ‘But, friend, is purification of virtue final Nibbāna without clinging?’ you replied: ‘No, friend.’
Khi hỏi "có phải tâm thanh tịnh ...?
When asked: ‘Then is purification of mind…
... có phải kiến thanh tịnh ...?
purification of view…
... có phải đoạn nghi thanh tịnh ...?
purification by overcoming doubt…
... có phải đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh ...? ... có phải đạo tri kiến thanh tịnh là ...?
purification by knowledge and vision of what is the path and what is not the path…
... có phải tri kiến thanh tịnh ...?
purification by knowledge and vision of the way…
... có phải cái gì ngoài các pháp này là vô thủ trước Bát-niết-bàn?", Hiền giả trả lời: "Không phải vậy."
purification by knowledge and vision final Nibbāna without clinging?’ you replied: ‘No, friend.’
Hiền giả, vậy ý nghĩa lời nói này cần phải được hiểu như thế nào?
And when asked: ‘But, friend, is final Nibbāna without clinging to be attained without these states?’ you replied: ‘No, friend.’ But how, friend, should the meaning of these statements be regarded?”
-- Hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố giới thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn thì Ngài cũng tuyên bố vô thủ trước Bát-niết-bàn là đồng đẳng với hữu thủ trước Bát-niết-bàn.
13. “Friend, if the Blessed One had described purification of virtue as final Nibbāna without clinging, he would have described what is still accompanied by clinging as final Nibbāna without clinging.
Hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố tâm thanh tịnh... Hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố kiến thanh tịnh... Hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố đoạn nghi thanh tịnh... Hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh... Hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố đạo tri kiến thanh tịnh... Hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố tri kiến thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn thì Ngài cũng tuyên bố vô thủ trước Bát-niết-bàn là đồng đẳng với hữu thủ trước Bát-niết-bàn.
If the Blessed One had described purification of mind… purification of view… purification by overcoming doubt… purification by knowledge and vision of what is the path and what is not the path… purification by knowledge and vision of the way… purification by knowledge and vision as final Nibbāna without clinging, he would have described what is still accompanied by clinging as final Nibbāna without clinging.290
Hiền giả, và nếu Thế Tôn tuyên bố cái gì ngoài các pháp ấy là vô thủ trước Bát-niết-bàn, thì kẻ phàm phu có thể Bát-niết-bàn, vì này Hiền giả, phàm phu là ngoài các pháp ấy.
And if final Nibbāna without clinging were to be attained without these states, then an ordinary person would have attained final Nibbāna, for an ordinary person is without these states.
Hiền giả, tôi sẽ cho Hiền giả một ví dụ, ở đây, một số kẻ có trí, nhờ ví dụ để hiểu ý nghĩa của lời nói.
14. “As to that, friend, I shall give you a simile, for some wise men understand the meaning of a statement by means of a simile.
Hiền giả, như vua Pasenadi xứ Kosala trong khi ở tại Sāvatthī, có công việc khẩn cấp khởi lên ở Sāketa, và bảy trạm xe được sắp đặt cho vua giữa Sāvatthī và Sāketa.
Suppose that King Pasenadi of Kosala while living at Sāvatthī [149] had some urgent business to settle at Sāketa, and that between Sāvatthī and Sāketa seven relay chariots were kept ready for him.
Hiền giả, rồi vua Pasenadi xứ Kosala, từ cửa nội thành ra khỏi Sāvatthī, leo lên trạm xe thứ nhất, và nhờ trạm thứ nhất đến được trạm xe thứ hai; từ bỏ trạm xe thứ nhất, leo lên trạm xe thứ hai, nhờ trạm xe thứ hai đến được trạm xe thứ ba; từ bỏ trạm xe thứ hai... đến được trạm xe thứ tư; từ bỏ trạm xe thứ ba... đến được trạm xe thứ năm, từ bỏ trạm xe thứ tư, leo lên trạm xe thứ năm, nhờ trạm xe thứ năm đến được trạm xe thứ sáu; từ bỏ trạm thứ năm, leo lên trạm xe thứ sáu, nhờ trạm xe thứ sáu, đến được trạm xe thứ bảy; từ bỏ trạm xe thứ sáu, leo lên trạm xe thứ bảy, nhờ trạm xe thứ bảy đến được Sāketa, tại cửa nội thành.
Then King Pasenadi of Kosala, leaving Sāvatthī through the inner palace door, would mount the first relay chariot, and by means of the first relay chariot he would arrive at the second relay chariot; then he would dismount from the first chariot and mount the second chariot, and by means of the second chariot, he would arrive at the third chariot… by means of the third chariot, he would arrive at the fourth chariot… by means of the fourth chariot, he would arrive at the fifth chariot… by means of the fifth chariot, he would arrive at the sixth chariot… by means of the sixth chariot, he would arrive at the seventh chariot, and by means of the seventh chariot he would arrive at the inner palace door in Sāketa.
Khi vua đến tại cửa nội thành, các bộ trưởng cận thần, các thân thích cùng huyết thống hỏi như sau:"-- Tâu Ðại vương có phải với trạm xe này, Bệ hạ đi từ Sāvatthī đến Sāketa tại cửa nội thành?" Hiền giả, vua Pasenadi nước Kosala phải trả lời như thế nào mới gọi là trả lời đúng đắn?
Then, when he had come to the inner palace door, his friends and acquaintances, his kinsmen and relatives, would ask him: ‘Sire, did you come from Sāvatthī to the inner palace door in Sāketa by means of this relay chariot?’ How then should King Pasenadi of Kosala answer in order to answer correctly?”
-- Hiền giả, vua Pasenadi nước Kosala phải trả lời như thế này mới trả lời đúng đắn:
“In order to answer correctly, friend, he should answer thus:
"-- Ở đây, trong khi ta ở Sāvatthī, có công việc khẩn cấp khởi lên ở Sāketa, và bảy trạm xe được sắp đặt cho ta, giữa Sāvatthī và Sāketa.
‘Here, while living at Sāvatthī I had some urgent business to settle at Sāketa, and between Sāvatthī and Sāketa seven relay chariots were kept ready for me.
Ta từ cửa nội thành ra khỏi Sāvatthī, leo lên trạm xe thứ nhất, và nhờ trạm xe thứ nhất, ta đến được trạm xe thứ hai; từ bỏ trạm xe thứ nhất, ta leo lên trạm xe thứ hai; và nhờ trạm xe thứ hai, ta đến được trạm xe thứ ba; từ bỏ trạm xe thứ hai... đến được trạm xe thứ tư; từ bỏ trạm xe thứ ba... đến được trạm xe thứ năm; từ bỏ trạm xe thứ tư... đến được trạm xe thứ sáu; từ bỏ trạm xe thứ năm, leo lên trạm xe thứ sáu, nhờ trạm xe thứ sáu, đến được trạm xe thứ bảy; từ bỏ trạm xe thứ sáu... leo lên trạm xe thứ bảy, nhờ trạm xe thứ bảy, Ta đến được Sāketa, tại cửa nội thành". Hiền giả, vua Pasenadi nước Kosala trả lời như vậy mới trả lời một cách đúng đắn.
Then, leaving Sāvatthī through the inner palace door, I mounted the first relay chariot, and by means of the first relay chariot I arrived at the second relay chariot; then I dismounted from the first chariot and mounted the second chariot, and by means of the second chariot I arrived at the third… fourth… fifth… sixth… seventh chariot, and by means of the seventh chariot I arrived at the inner palace door in Sāketa.’ In order to answer correctly he should answer thus.”
-- Cũng vậy, này Hiền giả, giới thanh tịnh chỉ có mục đích (đạt cho được) tâm thanh tịnh;
15. “So too, friend, purification of virtue is for the sake of reaching purification of mind;
tâm thanh tịnh chỉ có mục đích (đạt cho được) kiến thanh tịnh;
purification of mind is for the sake of reaching purification of view;
kiến thanh tịnh chỉ có mục đích (đạt cho được) đoạn nghi thanh tịnh;
purification of view is for the sake of reaching purification by overcoming doubt;
đoạn nghi thanh tịnh chỉ có mục đích (đạt cho được) đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh;
purification by overcoming doubt [150] is for the sake of reaching purification by knowledge and vision of what is the path and what is not the path;
đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh chỉ có mục đích (đạt cho được) đạo tri kiến thanh tịnh;
purification by knowledge and vision of what is the path and what is not the path is for the sake of reaching purification by knowledge and vision of the way;
đạo tri kiến thanh tịnh chỉ có mục đích (đạt cho được) tri kiến thanh tịnh;
purification by knowledge and vision of the way is for the sake of reaching purification by knowledge and vision;
tri kiến thanh tịnh chỉ có mục đích (đạt cho được) vô thủ trước Bát-niết-bàn.
purification by knowledge and vision is for the sake of reaching final Nibbāna without clinging.
Này Hiền giả, sống phạm hạnh dưới sự chỉ dẫn của Thế Tôn là với mục đích vô thủ trước Bát-niết-bàn.
It is for the sake of final Nibbāna without clinging that the holy life is lived under the Blessed One.”
Khi được nói vậy, Tôn giả Sāriputta nói với Tôn giả Puṇṇa Mantāṇiputta:
16. When this was said, the venerable Sāriputta asked the venerable Puṇṇa Mantāṇiputta:
-- Tôn giả tên là gì? Và các vị đồng phạm hạnh biết Tôn giả như thế nào?
“What is the venerable one’s name, and how do his companions in the holy life know the venerable one?”291
-- Hiền giả, tên tôi là Puṇṇa và các vị đồng phạm hạnh biết tôi là Mantāṇiputta.
“My name is Puṇṇa, friend, and my companions in the holy life know me as Mantāṇiputta.”
-- Thật hy hữu thay, Hiền giả! Thật kỳ diệu thay, Hiền giả! Những câu hỏi sâu kín đã được trả lời từng điểm một bởi một đệ tử nghe nhiều, đã biết rõ giáo lý của bậc Ðạo Sư, và vị đệ tử ấy là Tôn giả Puṇṇa Mantāṇiputta. Thật hạnh phúc thay cho các vị đồng phạm hạnh! Thật chơn hạnh phúc thay cho các vị đồng phạm hạnh được thăm viếng, được thân cận Tôn giả Puṇṇa Mantāṇiputta!
“It is wonderful, friend, it is marvellous! Each profound question has been answered, point by point, by the venerable Puṇṇa Mantāṇiputta as a learned disciple who understands the Teacher’s Dispensation correctly. It is a gain for his companions in the holy life, it is a great gain for them that they have the opportunity to see and honour the venerable Puṇṇa Mantāṇiputta.
Nếu các vị đồng phạm hạnh đội Tôn giả Puṇṇa Mantāṇiputta trên đầu với một cuộn vải làm khăn để được thăm viếng, để được thân cận, thì thật là hạnh phúc cho các vị ấy, thật là chơn hạnh phúc cho các vị ấy! Thật hạnh phúc cho chúng tôi, thật chơn hạnh phúc cho chúng tôi được thăm viếng, được thân cận Tôn giả Puṇṇa Mantāṇiputta!
Even if it were by carrying the venerable Puṇṇa Mantāṇiputta about on a cushion on their heads that his companions in the holy life would get the opportunity to see and honour him, it would be a gain for them, a great gain for them. And it is a gain for us, a great gain for us that we have the opportunity to see and honour the venerable Puṇṇa Mantāṇiputta.”
Khi được nói vậy, Tôn giả Puṇṇa Mantāṇiputta nói với Tôn giả Sāriputta:
17. When this was said, the venerable Puṇṇa Mantāṇiputta asked the venerable Sāriputta:
-- Tôn giả tên là gì, và các vị đồng phạm hạnh biết Tôn giả như thế nào?
“What is the venerable one’s name, and how do his companions in the holy life know the venerable one?”
-- Hiền giả, tôi tên là Upatissa, và các vị đồng phạm hạnh biết tôi là Sāriputta.
“My name is Upatissa, friend, and my companions in the holy life know me as Sāriputta.”
-- Tôi đang luận bàn với bậc đệ tử được xem là ngang hàng với bậc Ðạo Sư mà không được biết là Tôn giả Sāriputta. Nếu chúng tôi được biết là Tôn giả Sāriputta, thì chúng tôi đã không nói nhiều như vậy.
“Indeed, friend, we did not know that we were talking with the venerable Sāriputta, the disciple who is like the Teacher himself.292 If we had known that this was the venerable Sāriputta, we should not have said so much.
Thật hy hữu thay, Hiền giả! Thật kỳ diệu thay, Hiền giả! Những câu hỏi sâu kín đã được trả lời từng điểm một, bởi một đệ tử nghe nhiều, đã biết rõ giáo lý của bậc Ðạo Sư. Và vị đệ tử ấy là Tôn giả Sāriputta. Thật hạnh phúc thay cho các vị đồng phạm hạnh! Thật chơn hạnh phúc thay cho các vị đồng phạm hạnh... được thăm viếng, được thân cận Tôn giả Sāriputta!
It is wonderful, friend, it is marvellous! Each profound question has been posed, point by point, by the venerable Sāriputta as a learned disciple who understands the Teacher’s Dispensation correctly. It is a gain for his companions in the holy life, it is a great gain for them that they have the opportunity to see and honour the venerable Sāriputta.
Nếu các vị đồng phạm hạnh đội Tôn giả Sāriputta trên đầu với một cuộn vải làm khăn để được thăm viếng, được thân cận, thì thật hạnh phúc cho các vị ấy, thật chơn hạnh phúc cho các vị ấy! Thật hạnh phúc cho chúng tôi, thật chơn hạnh phúc cho chúng tôi được thăm viếng, được thân cận Tôn giả Sāriputta!
Even if it were by carrying the venerable Sāriputta about on a cushion on their heads that his companions in the holy life would get the opportunity to see and honour him, [151] it would be a gain for them, a great gain for them. And it is a gain for us, a great gain for us that we have the opportunity to see and honour the venerable Sāriputta.”
Như vậy, hai bậc cao đức ấy cùng nhau thiện thuyết, cùng nhau tùy hỷ.
Thus it was that these two great beings rejoiced in each other’s good words.



_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Mục lục Đại Tạng Kinh Tiếng Việt


Tự lực và tha lực trong Phật giáo


Gõ cửa thiền


Bát-nhã Tâm kinh Khảo luận

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 3.15.214.244 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

Việt Nam (161 lượt xem) - Senegal (13 lượt xem) - Hoa Kỳ (12 lượt xem) - ... ...


Copyright © Liên Phật Hội 2020 - United Buddhist Foundation - Rộng Mở Tâm Hồn
Hoan nghênh mọi hình thức góp sức phổ biến rộng rãi thông tin trên trang này, nhưng vui lòng ghi rõ xuất xứ và không tùy tiện thêm bớt.

Sách được đăng tải trên trang này là do chúng tôi giữ bản quyền hoặc được sự ủy nhiệm hợp pháp của người giữ bản quyền.
We are the copyright holder of all books published here or have the rights to publish them on behalf of the authors / translators.

Website này có sử dụng cookie để hiển thị nội dung phù hợp với từng người xem. Quý độc giả nên bật cookie (enable) để có thể xem được những nội dung tốt nhất.
Phiên bản cập nhật năm 2016, đã thử nghiệm hoạt động tốt trên nhiều trình duyệt và hệ điều hành khác nhau.
Để tận dụng tốt nhất mọi ưu điểm của website, chúng tôi khuyến nghị sử dụng Google Chrome - phiên bản mới nhất.


Rộng Mở Tâm Hồn Liên hệ thỉnh Kinh sách Phật học