MIKE AUSTIN: Xin ngài trình bày về hai loại chân lý: chân lý tuyệt đối
và chân lý quy ước. Chúng là gì, và vận hành như thế nào?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Điều này rất quan trọng. Lấy cái bàn này làm thí dụ. Nếu
người ta tìm kiếm đối tượng thể hiện - tự thân cái bàn - thì không thể
nào tìm ra được. Nếu người ta chia cái bàn ra từng phần theo ý nghĩa
chiều kích vật thể hoặc theo phẩm tính chất lượng, thì không thể nào tìm
ra được tính chất tổng thể cái bàn là gì.
Thực vậy, đối với tâm thức chúng ta, có sự phân biệt rõ ràng giữa toàn
thể và từng phần khi chúng xuất hiện trước chúng ta, dường như cái toàn
thể tách biệt với từng phần - các phần tách biệt với toàn thể.
Tuy nhiên, thực tế lại không phải vậy. Bây giờ, khi khảo sát theo hướng
này, chúng ta sẽ không bao giờ thấy được cái bàn. Dù vậy, sự không tìm
thấy này không có nghĩa là cái bàn không hiện hữu. Chúng ta đang sử dụng
nó, đúng không? Nhưng nếu chúng ta tìm kiếm, thì chúng ta không thấy nó.
Thế nên có hai cách thức tồn tại của cái bàn. Một là sự thừa nhận “cái
bàn” bằng tâm thức mà không cần phải phân tích, và “cái bàn” chỉ hiện
hữu theo quy ước. Loại “cái bàn” ấy chỉ được tìm thấy trong dạng tâm
thức ấy. Tuy nhiên, nếu bạn xem “cái bàn” như là một đối tượng, nếu bạn
không hài lòng với chỉ cái vật thể mà bạn đặt tay lên, mà tìm kiếm để
khám phá xem nó thực sự là gì trong các phần - hoặc phần này là “cái
bàn”, hay phần kia là “cái bàn” - thì sẽ không có bất cứ điều gì có thể
tìm thấy được là “cái bàn”. Tại sao có sự không tìm thấy cái bàn? Vì
“cái bàn” là một cái gì đó mà nếu tìm kiếm bằng phân tích sẽ không thể
thấy được.
Bây giờ tâm thức khám phá được gì qua việc tìm kiếm “cái bàn” trong
những bộ phận của nó? Chỉ tìm thấy được sự không tìm thấy cái bàn. Chính
tự thân sự không tìm thấy này là một tính chất của cái bàn, là tính chất
cơ bản, nền tảng của nó. Sự không tìm thấy này là bản chất tối hậu của
cái bàn. Những gì vi tế hơn không hiện hữu. Do vậy, đây chính là phương
thức tuyệt đối hay tối hậu để thiết lập nên thực thể gọi là “cái bàn”.
Kiểu tồn tại này được tìm thấy trên phương diện đồng nhất “cái bàn” và
tính chất cơ bản, nền tảng của nó. Do vậy, sự không tìm thấy của cái bàn
là kiểu tồn tại thực sự của cái bàn.
Như vậy, dựa trên một cơ sở, cái bàn có hai bản tính: một được tìm thấy
bởi tâm không phân tích, và một được tìm thấy bởi tâm phân tích. Rồi dựa
trên một cơ sở khác, có một đối tượng được tìm thấy bởi tâm thức phân
biệt thực tại tuyệt đối và một đối tượng được tìm thấy bởi tâm thức phân
biệt theo quy ước. Vì thế nên nói rằng: “Sắc tức thị không, không tức
thị sắc.” Hai điều này loại trừ lẫn nhau. Hai sự thực ấy chỉ là một thực
thể nhưng chúng loại trừ lẫn nhau.
MIKE AUSTIN: Loại trừ lẫn nhau như thế nào?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Về mặt hiện tượng, cái gì là chân lý tuyệt đối thì chẳng
phải là chân lý quy ước và ngược lại.
MIKE AUSTIN: Vậy sẽ là sai lầm khi nói rằng chúng khẳng định lẫn nhau?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Cái này không khẳng định cái kia. Dù vậy, nếu bạn dựa
vào thực tại tuyệt đối hoặc tánh không của cái bàn như là nền tảng và
tìm kiếm xem nó có thể tìm được không, thì nó sẽ trở thành chân lý quy
ước theo nghĩa chính nó là nền tảng đó. Trong mối tương quan với cái
bàn, tánh không của nó là một chân lý tuyệt đối, nhưng trong tương quan
với thực tại của chính nó, có nghĩa là thực tại của thực tại, thì đó là
chân lý quy ước.
Nếu có cái gì đó là phương thức hiện hữu của chính nó thì thật mâu
thuẫn! Do vậy, thực tại của một cái gì đó không phải là thực tại của
chính nó. Điều này là bởi vì khi thực tại được tìm kiếm, khi bản chất
của sự vật được tìm kiếm, thì cũng đều không thể tìm được.
MIKE AUSTIN: Khi tánh không lần đầu tiên trình hiện trong tâm, nó như
thế nào?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Cho dù thuật ngữ pháp tánh không có ý phủ định chút nào
trong đó, nhưng khi điều đó - thể tính hay thực tại của hiện tượng -
trình hiện trong tâm, thì nó phải trình hiện qua cội nguồn của sự phủ
định. Sự phân biệt này rất quan trọng.
Tôi sẽ trình bày trong ngữ cảnh về Nhị đế được đề ra trong tác phẩm Căn
bản Trung quán luận tụng của ngài Long Thụ. Phải chăng khi tồn tại trên
cơ sở tự tính được tìm ra, nó chẳng được lập thành bởi vì nó không tồn
tại, hoặc dù nó tồn tại, nó cũng không được tìm thấy bởi vì nó không thể
nào có được dưới sự phân tích? Chính là điều thứ nhất. Khi bạn quán sát
cách thức sự vật trình hiện trong tâm thức mình, thấy chúng xuất hiện
như thể chúng được tìm thấy bằng sự phân tích. Do vậy, nếu hiện tượng
tồn tại như cách chúng trình hiện trong tâm chúng ta, thì khi bạn quán
sát chúng, chúng sẽ càng trở nên rõ ràng hơn. Thực tế là chúng không như
vậy, mà là một dấu hiệu rằng chúng không tồn tại như cách chúng trình
hiện. Nói tóm tắt, dù chúng trình hiện như chúng tồn tại trên cơ sở tự
tính, chúng vẫn không hiện hữu theo phương thức ấy.
Trong tâm bạn ban đầu đã có cảm giác rằng đối tượng không hiện hữu theo
cách nó đang trình hiện. Khi bạn quen với suy nghĩ này rồi, cuối cùng
bạn sẽ có sự khẳng định rằng đối tượng không tồn tại chút nào theo cách
chúng đang trình hiện. Ngay lúc đó, cảm nhận riêng của bạn về sự trình
hiện là một kinh nghiệm về sự trống rỗng, vốn chỉ đơn giản là không có
sự tồn tại trên cơ sở tự tính.
Ngay khởi đầu của tiến trình này, đối tượng - cái này vốn là không - có
thể vẫn trình hiện. Theo cách dễ hiểu, như khi xem phim, bạn có thể phân
biệt hai thời gian khác nhau. Trong cả hai trường hợp, hình ảnh đều xuất
hiện qua nhãn thức bạn. Nhưng trong trường hợp thứ nhất, người ta chỉ
quan sát hình ảnh, trong khi với trường hợp thứ hai, bạn luôn có suy
tưởng chắc chắn rằng điều này không hề tồn tại như một sự kiện có thực.
Nếu bạn duy trì và phát huy ý tưởng rằng chúng không hiện hữu - nếu bạn
tập trung vào tính phi hiện hữu của nó - thì dần dần sự trình hiện sẽ tự
biến mất. Điều này là do nơi điều kiện tiên khởi tức thì của nhãn thức
sẽ bắt đầu giảm trừ đi. Do vậy, khi bạn bắt đầu khẳng định tánh không,
đó chỉ đơn thuần là sự phủ định hay vắng bặt của đối tượng phủ định - sự
tồn tại trên cơ sở tự tính được khẳng định. Ngay cả cho dù ban đầu đối
tượng vẫn xuất hiện, thì dần dần với sự tập trung vào tánh không, đối
tượng sẽ biến mất. Rồi nhờ vào sự quán sát tánh không của đối tượng, nên
khi đối tượng tái trình hiện thì bạn sẽ sinh khởi ý tưởng là nó không
tồn tại theo như vẻ ngoài của nó.
Đây được gọi là trình hiện như huyễn. Đến mức này bạn có thể chế ngự
được phiền não của mình. Những tâm thức mê lầm này không còn cách nào để
hiện hành vì không còn sự hỗ trợ của ý niệm tồn tại trên cơ sở tự tính.
Dù đối với người sơ cơ, còn có những trường hợp khi ý niệm tồn tại trên
cơ sở tự tính hoạt động như một trợ thủ cho tâm thức đúng đắn, nói
chung, không cần thiết một tâm thức như vậy phải có sự giúp sức của sự
nhầm lẫn về bản tính của sự hiện hữu.
Do vậy, một tâm thức nhận ra rằng đối tượng không tồn tại theo cách
riêng của nó sẽ rất có ích để ngăn ngừa sự phát triển phiền não, trong
khi đó không làm chướng ngại một tâm thức tốt lành.
MIKE AUSTIN: Trong khoảnh khắc nhận thức được tánh không - khi đối tượng
biến mất - cảm giác đó như thế nào?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Tôi chỉ nêu ra một ví dụ truyền thống. Chẳng hạn, hình
chiếu trong gương của một khuôn mặt là tánh không của cái đang là khuôn
mặt, nhưng tánh không của cái đang là khuôn mặt đó thì không có thực;
tánh không của nó tồn tại trên cơ sở tự tính của đối tượng thì có thực.
Khi từ trong sâu thẳm của tâm nhận ra sự vắng bặt dạng tồn tại của đối
tượng, thì đến mức đó, các thức khác không còn được phát huy nữa. Ngay
cả ý niệm “đây là tánh không” cũng không được tạo ra. Nếu bạn có ý tưởng
“đây là tánh không”, thì tánh không ấy sẽ xa lìa ngay. Cũng giống như
một đối tượng dưới sự quán sát. Nó sẽ không đạt đến mức hiện hữu như một
đối tượng có thực của sự lĩnh hội bởi tâm thức.
MIKE AUSTIN: Thế là có sự biến mất ý niệm nhị nguyên?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Không, ngay cả ở đây vẫn còn ý niệm nhị nguyên. Có ý
niệm nhị nguyên của trình hiện từ đối tượng quy ước cũng như của trình
hiện từ ý niệm về tánh không.
MIKE AUSTIN: Nếu ngài muốn mô tả chính ý niệm về mặt quy ước, ngài có
cho rằng nó trong sáng, rỗng không, sống động và toả chiếu hay không?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Điều ấy rất khó mô tả. Để giải thích điều này chính xác
thì rất khó. Có nhiều dạng trình hiện nhị nguyên khác nhau. Một là trình
hiện theo quy ước - đối tượng như chúng ta thường thấy. Rồi có trình
hiện của tồn tại trên cơ sở tự tính; cũng có trình hiện của chủ thể và
đối tượng như thể khác biệt nhau và trình hiện của một hình tượng chung
- hình tượng bao trùm mọi đối tượng trong một nhóm đặc thù. Khi người ta
đã quen với tâm trực nhận tánh không - tu tập và thậm chí đi xa hơn và
vượt lên trên định đẳng trì - và điều đó trở thành trực giác; thì đối
với tâm thức ấy các dạng trình hiện nhị nguyên đều mất sạch.
MIKE AUSTIN: Không có sự chiếu soi tự nhiên hoặc toả sáng đối với trình
hiện tánh không hay sao?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Không, nhưng về phương diện thực hành Tan-tra thừa lại
là chuyện khác. Đó không phải là từ quan niệm về tánh không, mà từ ý
thức. Nhờ vào sự chuyển hóa các thức thô động hơn mà có nhiều dạng trình
hiện khác nhau. Những trình hiện này là kết quả từ tâm thức vi tế hơn
cũng như sự liên hệ với thân được cấu tạo bởi những thành phần trắng,
đỏ, v.v...
MIKE AUSTIN: Xin ngài có thể mô tả tâm của một đức Phật?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Những điều gì ngăn trở tâm đạt đến nhất thiết trí được
gọi là sở tri chướng. Về mặt sở tri chướng, còn có những tiềm năng được
an lập bằng ý niệm tồn tại trên cơ sở tự tính, và nguyên nhân khiến đối
tượng hiện ra như thể chúng tồn tại trên cơ sở tự tính hoặc hiện hữu một
cách cụ thể. Cho dù hiện hữu hư vọng của đối tượng chủ yếu là sai lầm
của chủ thể - thức nhận biết đối tượng ấy - nhưng cũng có thể có một số
hiện tượng hư vọng của đối tượng là do tự chúng bị nhiễm ô bởi vô minh
hoặc những tiềm thể của vô minh. Từ trình hiện này - thuộc đối tượng tồn
tại trên cơ sở tự tính - có sự nhiễm ô khiến nhận thức về nhị đế là hai
thực thể khác biệt. Do sự nhiễm ô này, khi hiện tượng sinh khởi, chúng
dường như hiện hữu theo cách riêng của chúng, vì thế nên ngăn cản sự
trình hiện thực tại của chúng.
Tương tự, trong khi thực tại của đối tượng trình hiện thì chính đối
tượng lại không thể hiện ra. Chúng ta đang nói về sự trực nhận. Tuy
nhiên, một khi sở tri chướng này được loại trừ thì trong lúc nhận biết
một đối tượng người ta có thể biết được bản chất của chúng, và khi nhận
biết được bản chất người ta có thể biết được đối tượng. Khi ấy, tâm thức
con người có thể trực nhận tức thời cả đối tượng và bản chất của chúng.
Thế nên nhất thiết trí - từ quan niệm nhận biết đối tượng quy ước - là
tâm thức nhận ra được sự đa dạng của mọi hiện tượng. Từ quan niệm cái
biết của thức về bản chất của đối tượng, nó là tâm thức nhận biết phương
diện thức hiện hữu của các đối tượng, có nghĩa là tánh không. Nhưng đó
chỉ là một tâm thức mà biết được cả hai phương diện. Đây là khía cạnh
đặc biệt về nhất thiết trí của đức Phật.
MIKE AUSTIN: Tại sao nhất thiết trí tùy thuộc vào sự giải trừ câu sanh
phiền não thông qua tâm từ?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Động cơ để mong cầu nhất thiết trí là để cứu giúp người
khác. Để làm được như vậy, chúng ta phải biết cách cứu giúp người khác.
Thế nên, không được để cho bất cứ điều gì ngăn trở. Những sự nhiễm ô làm
chướng ngại tri kiến về những địa vị tu chứng khác nhau, những điều quan
tâm, v.v... của hành giả, đều là trở ngại chính của một vị Bồ Tát. Dù
trong bất cứ trường hợp nào thì sở tri chướng cũng không bao giờ có ích
cho vị Bồ Tát. Trong khi đó, những trở ngại cho sự giải thoát, tức là
những phiền não, đôi khi lại có ích trong việc lợi lạc cho kẻ khác (như
khi người lãnh đạo có nhiều con cái để giúp cho ông ta trong việc cai
trị).
Việc sử dụng nhận thức về tánh không như sự đối trị sở tri chướng phụ
thuộc rất nhiều vào nguyện lực. Ngay cả sự nhận biết về tánh không trong
tiến trình tương tục của một vị Thanh văn hay Độc giác cũng không khác
với sự nhận biết trong tiến trình tương tục của một Bồ Tát Đại sĩ, nhưng
vị Bồ Tát có khả năng đối trị được sở tri chướng là nhờ vào nguyện lực
và cũng nhờ vào công đức lớn lao.
Không có cách nào để sự tích tập trí tuệ dẫn đến thành tựu vị mà không
có sự tích tập công đức. Giống như khi bạn muốn đỡ một cây xà nhà, bạn
cần phải dựng lên hai cây cột. Dù bạn không cần cây cột này để dựng lên
cây cột kia, nhưng để đỡ cây xà lên thì nhất thiết phải dùng đến cả hai
cây cột. Cũng vậy, để cho nhận thức về tánh không trở thành Pháp thân
Phật, nhất thiết phải có đủ những nguyên nhân thiết yếu để phát sinh một
Sắc thân.
MIKE AUSTIN: Làm thế nào để phương tiện từ bi và trí tuệ tánh không được
hoàn toàn đồng nhất với nhau?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Trong Viên mãn thừa, có sự mô tả về trí tuệ và phương
pháp kết hợp. Ví dụ, trước khi hành giả đi vào tu tập định lực đẳng trì
về tánh không, hành giả phải phát nguyện tu tập đạt đến giác ngộ vì tâm
nguyện muốn cứu vớt mọi chúng sinh. Thế nên tu tập định lực đẳng trì sẽ
được kết hợp với nguyện lực là tâm từ bi. Cũng vậy, khi hành giả tu tập
hạnh từ bi - như bố thí, trì giới.v.v... - thì những điều này phải được
kết hợp với động lực của tâm trực nhận tánh không. Thế nên trong phương
pháp này, có sự hợp nhất của trí tuệ và phương tiện, phương diện này ảnh
hưởng đến phương diện kia.
Trong Man-tra thừa, có sự hợp nhất giữa phương tiện và trí tuệ trong tâm
thức, và còn là khía cạnh sâu thẳm hơn về sự hợp nhất trong Vô thượng
Du-già Tan-tra.
MIKE AUSTIN: Trong tâm chư Phật, tính diệu lạc được hợp nhất với điều
này như thế nào?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Vâng, có cảm nhận về diệu lạc. Trong tâm niệm của chư
Phật, mọi hiện tượng đều là trình hiện thanh tịnh, và là trình hiện diệu
lạc.
MIKE AUSTIN: Từ nhận thức riêng của một vị Phật, liệu hiện nay đau khổ
có tồn tại trong ngài hay không?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Có, nhưng không phải từ nhận thức riêng của đức Phật, mà
là do sự hiện hữu của đau khổ ở những người chịu đựng khổ đau.
MIKE AUSTIN: Trình hiện tồn tại trên cơ sở tự tính có diễn ra trong đức
Phật không?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Có, nhưng không phải từ nhận thức riêng của ngài, mà qua
cách trình hiện đối với một người chưa từ bỏ được sở tri chướng. Sự
trình hiện tồn tại trên cơ sở tự tính, nói chung là có hiện hữu. Nếu một
sự kiện nào đó hiện hữu và nó lại không hiện hữu đối với đức Phật thì sẽ
là một sự mâu thuẫn. Do vậy, bất kỳ sự hiện hữu nào cũng đều có hiện hữu
đối với đức Phật, nhưng không nhất thiết phải là từ nhận thức riêng của
ngài. Chính là thông qua năng lực trình hiện của nó đối với người khác
và chỉ qua đó mà nó thực sự trình hiện.