Mỗi ngày, hãy mang đến niềm vui cho ít nhất một người. Nếu không thể làm một điều tốt đẹp, hãy nói một lời tử tế. Nếu không nói được một lời tử tế, hãy nghĩ đến một việc tốt lành. (Try to make at least one person happy every day. If you cannot do a kind deed, speak a kind word. If you cannot speak a kind word, think a kind thought.)Lawrence G. Lovasik
Hào phóng đúng nghĩa với tương lai chính là cống hiến tất cả cho hiện tại. (Real generosity toward the future lies in giving all to the present.)Albert Camus
Con người sinh ra trần trụi và chết đi cũng không mang theo được gì. Tất cả những giá trị chân thật mà chúng ta có thể có được luôn nằm ngay trong cách mà chúng ta sử dụng thời gian của đời mình.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Mất lòng trước, được lòng sau. (Better the first quarrel than the last.)Tục ngữ
Muôn việc thiện chưa đủ, một việc ác đã quá thừa.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Cơ hội thành công thực sự nằm ở con người chứ không ở công việc. (The real opportunity for success lies within the person and not in the job. )Zig Ziglar
Chúng ta sống bằng những gì kiếm được nhưng tạo ra cuộc đời bằng những gì cho đi. (We make a living by what we get, we make a life by what we give. )Winston Churchill
Học Phật trước hết phải học làm người. Làm người trước hết phải học làm người tốt. (學佛先要學做人,做人先要學做好人。)Hòa thượng Tinh Không
Yêu thương và từ bi là thiết yếu chứ không phải những điều xa xỉ. Không có những phẩm tính này thì nhân loại không thể nào tồn tại. (Love and compassion are necessities, not luxuries. Without them humanity cannot survive.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Giặc phiền não thường luôn rình rập giết hại người, độc hại hơn kẻ oán thù. Sao còn ham ngủ mà chẳng chịu tỉnh thức?Kinh Lời dạy cuối cùng

Trang chủ »» Danh mục »» SÁCH TẠP BÚT - TRUYỆN KÝ »» Tây Tạng huyền bí »» CHƯƠNG II: LỜI TIÊN TRI »»

Tây Tạng huyền bí
»» CHƯƠNG II: LỜI TIÊN TRI

Donate

(Lượt xem: 7.822)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       

Tây Tạng huyền bí - CHƯƠNG II: LỜI TIÊN TRI

Font chữ:


SÁCH AMAZON



Mua bản sách in

Tôi ngồi dưới đất và một tên gia nhân phũ phàng với hai bàn tay chuối mắn vặn mãi cái bím tóc tôi như người ta quay cái tay quay để khởi động máy! Sau cùng cái bím tóc tôi trở nên cứng đơ như đuôi con bò yak bị rét cóng và sáng bóng lên như ánh trăng rằm trên mặt hồ.

– Ôi, Vân Kỳ! anh bứng hết tóc của tôi rồi! Dừng tay lại ngay, nếu không thì đầu tôi sẽ sói hết tóc như một ông sãi.

– Hãy để yên nào, Lâm Bá! Cái bím tóc của cậu phải được thắt cho ngay và thoa bơ láng bóng, nếu không bà lớn sẽ trừng phạt tôi.

– Thì nhẹ tay một chút, Vân Kỳ! Anh vặn cổ tôi đau quá!

– Không sao đâu! Tôi phải làm gấp lên mới được.

Mẹ tôi bận rộn quay cuồng như một cơn gió lốc, di chuyển trong nhà mau lẹ như người có phép phân thân ở nhiều chỗ cùng một lúc. Có những chỉ thị vào giờ chót, những sự chuẩn bị cuối cùng, và rất nhiều lời bình phẩm lăng xăng, rối rít...

Yaso, chị tôi, chạy tới chạy lui lăng xăng như một mệnh phụ bốn mươi cái xuân! Cha tôi trốn cảnh náo nhiệt ồn ào bằng cách rút vào phòng riêng và đóng cửa...

Mẹ tôi quyết định đưa chúng tôi đến Jo-kang, ngôi đền lớn ở thủ đô Lhasa. Đó hẳn là vì mẹ tôi muốn cho cuộc lễ tiếp tân được diễn ra trong một bầu không khí tôn giáo.

Vào lúc mười giờ sáng, một tiếng cồng với ba âm điệu khác nhau điểm giờ tụ họp. Chúng tôi tất cả đều cưỡi ngựa: cha tôi, mẹ tôi, chị Yaso và tôi cùng vài người trong thân quyến chuẩn bị lên đường.

Chúng tôi noi theo con đường Ling-khor và đi vòng quanh dưới chân điện Potala, một tòa cung điện nguy nga tráng lệ của đức Đạt-lai Lạt-ma, khoảng 130 thước chiều cao và 400 thước chiều dài.

Sau khi đi ngang qua làng Sho và đi ngựa mất thêm nửa giờ trên đồng bằng Kyi Chu, chúng tôi đã đến trước cửa đền. Chung quanh đền là những ngôi nhà trọ, cửa tiệm và chuồng ngựa đợi khách hành hương.

Từ ngày được dựng lên cách đây mười ba thế kỷ, ngôi đền Jo-kang vẫn luôn là nơi tiếp đón rất nhiều khách hành hương. Ngôi đền cổ đã biểu lộ những nét tàn phá của thời gian. Các viên đá tảng dưới nền đã lộ ra những đường nứt sâu đến nhiều phân tây do những bước chân giẫm lên của hàng nghìn tín đồ.

Những tượng thần bằng vàng của nền tôn giáo Tây Tạng được xếp thành hàng dài dọc theo các vách tường. Có những lưới sắt dày và kiên cố để bảo vệ các pho tượng này trước những tín đồ mà lòng tham có thể mạnh hơn lòng sùng tín.

Những tượng thần lớn nhất phần nhiều đều ngập lên đến quá nửa thân với hàng đống ngọc quý và châu báu mà những người sùng tín cầu xin ân huệ thiêng liêng đã mang đến đặt vào. Trên những chân đèn bằng vàng khối, những ngọn bạch lạp được thắp sáng thường xuyên, tỏa ra ánh sáng như không bao giờ tắt suốt mười ba thế kỷ qua. Từ những góc âm u của ngôi đền vọng đến tai chúng tôi những tiếng chuông ngân, tiếng cồng và tiếng tù và thổi vang tai.

Chúng tôi noi theo con đường vòng trước chính điện theo như truyền thống bắt buộc, và sau khi đã lễ bái xong, chúng tôi bước lên trên nóc bằng của ngôi đền. Nơi đây chỉ có một số ít người có đặc quyền mới được lên. Cha tôi, với tư cách là Bảo thế của Giáo hội, luôn có mặt tại đây mỗi khi ông đến viếng ngôi đền này.

Tiện đây, tôi xin nói sơ lược về nền chính trị của Tây Tạng. Đứng đầu quốc gia và Giáo hội là đức Đạt-lai Lạt-ma. Ngài vừa là vị nguyên thủ cầm quyền chính trị, vừa là nhà lãnh đạo tôn giáo, vừa là vị Thẩm phán tối cao cầm cán cân công lý của toàn dân Tây Tạng. Mọi người dân bất cứ sang hèn đều có thể đến thỉnh cầu ngài. Nếu một sự khiếu nại hay thỉnh nguyện có lý do chính đáng, hoặc trong trường hợp xét thấy có sự bất công oan ức, đức Đạt-lai Lạt-ma sẽ đứng ra xét xử để thỏa mãn các nguyện vọng và san bằng mọi nỗi bất công. Thật không phải là quá đáng mà nói rằng tất cả mọi người, không trừ một ai, đều yêu mến và kính trọng ngài.

Ngài là vị lãnh đạo có quyền hành tuyệt đối. Ngài sử dụng uy quyền của ngài vì hạnh phúc của dân chúng chứ không bao giờ vì những mục đích ích kỷ. Ngài đã tiên đoán tình hình rối ren của Tây Tạng từ nhiều năm về trước. Ngài cũng biết rằng nền tín ngưỡng của Tây Tạng tạm thời sẽ trải qua một thời kỳ xuống dốc. Vì lý do đó mà ngài đặc biệt yêu cầu một số người trong giới tu sĩ phải nhận được sự thụ huấn đặc biệt, để cho những kiến thức siêu hình được tích lũy từ nhiều thế kỷ qua sẽ không phải mai một và chìm trong quên lãng.

Dưới quyền lãnh đạo của đức Đạt-lai Lạt-ma có hai Hội đồng. Một là Hội đồng Tôn giáo, gồm có bốn vị cao tăng ở cấp Lạt-ma. Những vị này đều chịu trách nhiệm trước đức Đạt-lai Lạt-ma về những vấn đề liên quan đến các tổ chức tu viện Lạt-ma giáo và mọi đạo viện trong nước. Tất cả những vấn đề tâm linh và tôn giáo đều phải thông qua sự xem xét của các vị này.

Kế đó là Hội đồng Nội các, gồm có bốn vị Tổng trưởng, trong số đó có ba vị thuộc thành phần dân chính và một vị là tu sĩ. Các vị này nắm quyền cai trị toàn xứ và đảm trách việc hòa hợp quốc gia với Giáo hội thành một khối thống nhất.

Có hai viên chức Chính phủ mà người ta có thể xem như các vị Thủ tướng. Họ làm nhiệm vụ giữ “liên lạc” với hai Hội đồng trên và đệ trình những ý kiến của hai Hội đồng này lên đức Đạt-lai Lạt-ma. Hai vị này đóng vai trò quan trọng trong những phiên họp – rất hiếm có – của Quốc hội, gồm năm mươi nghị viên đại diện cho các gia đình quý tộc và những tu viện lớn nhất ở thủ đô Lhasa. Quốc hội chỉ nhóm họp trong những trường hợp rất khẩn cấp, như hồi năm 1904 khi đức Đạt-lai Lạt-ma phải lưu vong tị nạn sang Mông Cổ trước sự xâm lăng của quân đội Anh.

Nhân đây cũng nên giải thích rõ rằng sự lưu vong của đức Đạt-lai Lạt-ma không có nghĩa là một sự chạy trốn. Người Tây Tạng quan niệm về chiến tranh như một ván cờ, và phe nào để tướng bị bắt thì phải thua. Đức Đạt-lai Lạt-ma là vị Quốc vương của Tây Tạng. Không có ngài thì mọi sự chiến đấu đều trở nên vô nghĩa. Vì thế, ngài cần phải ẩn trú an toàn để bảo vệ sự hợp nhất của đất nước.

Số nghị sĩ Quốc hội có thể lên đến bốn trăm người khi những thân hào nhân sĩ ở các tỉnh về tham dự đông đủ. Với thời gian qua, đức Đạt-lai Lạt-ma càng gia tăng quyền hành của ngài và thường không cần đến sự giúp ý kiến của các Hội đồng hay của Quốc hội nữa. Xứ Tây Tạng chưa bao giờ có được một sự lãnh đạo anh minh và sáng suốt đến như thế.

Từ trên nóc đền nhìn ra xa là một phong cảnh vô cùng ngoạn mục. Nằm về phía đông là vùng đồng bằng Lhasa xanh tươi, rải rác có những cụm rừng nhỏ với những lùm cây sầm uất. Xuyên qua những lùm cây là những con rạch nhỏ uốn khúc phản chiếu ánh nắng mặt trời như những con rắn bạc, trước khi chảy vào sông Tsang-Po ở cách đó sáu mươi cây số.

Ở phía bắc và phía nam, những dãy núi cao dựng lên chơm chởm như thành quách bao bọc chung quanh các vùng thung lũng và cao nguyên Tây Tạng, làm cho dân tộc xứ này sống biệt lập hoàn toàn với thế giới bên ngoài.

Nhiều tu viện Lạt-ma giáo được dựng lên trên các triền núi. Trên những ngọn núi cao hơn có những đạo viện nhỏ nhô lên một cách nguy hiểm trên những sườn núi cheo leo bên bờ vực thẳm.

Về phía tây, hai ngọn núi sóng đôi của điện Potala và tu viện Chakpori nhô lên từ đằng xa. Giữa hai ngọn núi này, cánh cửa Tây môn chiếu sáng ngời trong ánh bình minh còn sương mờ lạnh lẽo. Màu đỏ sậm của nền trời càng nổi bật lên một cách dị thường, tương phản với màu tuyết trắng tinh bao phủ các dãy núi nhô lên ở phía chân trời.

Trên đầu chúng tôi, những đám mây trắng nhạt lướt nhẹ trong không gian. Nhìn về thành phố, gần đó là Tòa Thị sảnh quay lưng vào mặt bắc của ngôi đền. Sở Ngân khố nằm sát bên cạnh, cùng với những gian hàng, cửa tiệm và chợ búa mà người ta có thể mua sắm đủ mọi thứ lớn nhỏ, thượng vàng hạ cám. Cách đó không xa, về phía đông là một tu viện của nữ giới và vùng cư trú của giới âm công.

Khách hành hương đã tấp nập trước cửa đền. Đây là một trong những thánh địa lớn của Phật giáo tại Tây Tạng. Chúng tôi nghe tiếng nói chuyện không ngớt và những tiếng động ồn ào của các tín đồ hành hương đến từ những vùng xa xôi với những lễ vật mà họ mang theo dâng cúng với hy vọng được ơn trên ban cho ân huệ. Có người mang theo những con thú mua lại ở lò sát sinh với những số tiền nhỏ nhoi khiêm tốn của họ. Cứu sống một sinh vật, cho dù là thú vật hay con người, đều được xem là tạo nghiệp lành rất lớn.

Trong khi nhìn xem những quang cảnh quen thuộc truyền thống đó, chúng tôi nghe tiếng kinh kệ ngân nga của các nhà sư, có giọng trầm trầm của các vị sư già chen lẫn với giọng thanh nhẹ vút cao của những chú tiểu. Tiếng trống và tiếng kèn cũng trỗi dậy vang tai.

Những nhà sư bận rộn công việc, chạy tới lui lăng xăng không ngớt. Vài vị mặc áo màu vàng, những vị khác mặc màu tía, nhưng phần đông mặc áo tràng màu đỏ nhạt dành cho những nhà sư bình thường. Màu hoàng kim (vàng sáng) và màu đỏ sậm chỉ dành cho các nhà sư trong điện Potala. Những chú tiểu và các nhà sư bảo vệ mặc áo màu nâu sậm cũng qua lại lăng xăng. Hầu hết đều có một điểm chung: áo cà-sa của họ, dầu cũ hay mới, đều được chắp từ nhiều miếng nhỏ như của Đức Phật ngày xưa.

Những nhà sư có phận sự trong điện Potala khoác thêm một chiếc áo vàng ngắn không tay bên ngoài áo dài. Màu hoàng kim là một màu linh thiêng ở Tây Tạng, không bao giờ phai, nên được xem là một màu tinh khiết, và cũng là màu sắc chính thức của đức Đạt-lai Lạt-ma. Những nhà sư hay các vị Lạt-ma cao cấp hầu cận bên ngài có quyền khoác thêm áo ngắn màu vàng bên ngoài áo của họ.

Từ trên nóc đền Jo-kang chúng tôi nhìn về phía điện Potala thì thấy có nhiều vị sư áo vàng đi qua lại. Chúng tôi ngước mắt nhìn lên thì thấy những ngọn cờ phất phới trước gió và những mái bầu của ngôi đền chiếu sáng lấp lánh dưới ánh mặt trời. Nền trời đỏ thắm trông tuyệt đẹp với những làn mây nhẹ và dài, trông như một bức tranh vẽ.

Chúng tôi đang ngắm cảnh đẹp với tâm trạng say sưa ngây ngất thì mẹ tôi đã làm gián đoạn giây phút huyền diệu đó:

– Thôi ta đi kẻo mất thời giờ. Phải về xem chừng kẻo bọn gia nhân làm hỏng việc cả.

Chúng tôi lên ngựa trở về nhà theo đường Ling-khor. Mỗi bước chân ngựa nện vang trên mặt đường lộ càng đưa tôi đến gần điều mà tôi gọi là một cuộc “thử thách”, nhưng mẹ tôi thì coi như là ngày “đại nhật” của mình.

Về đến nhà, mẹ tôi xem qua tất cả mọi việc một lần cuối cùng, và chúng tôi ăn uống một bữa no bụng để chuẩn bị chờ đợi những gì sắp đến. Thật vậy, chúng tôi biết rằng trong những dịp như thế, quan khách được thết đãi ăn uống no say, còn những người nhà thì chỉ lo việc tiếp đãi mà thôi chứ hầu như không ăn uống gì được cả.

Tiếng nhạc trống vang rền báo hiệu các nhà sư nhạc công đã đến. Họ được đưa vào khu vườn phía sau nhà. Họ mang theo những kèn loa, kèn ống, trống, tù và, và đeo chập chõa trên cổ. Họ vừa bước vào khu vườn vừa trò chuyện huyên thiên và gọi rượu uống cho thấm giọng để lấy hứng. Những tiếng rít chát chúa và tiếng thổi điếc tai của kèn loa chiếm trọn mất khoảng nửa giờ, các nhà sư đang “lên dây” và thử lại những nhạc khí của họ.

Vị khách đầu tiên đã đến, với một đoàn tùy tùng cưỡi ngựa theo hầu và cầm những ngọn cờ hiệu bay phất phới trong gió, gây nên những tiếng động ồn ào ngoài sân. Những cổng sắt mở toang và các gia nhân nhà tôi đứng sắp hàng hai bên cửa ra vào để nghinh tiếp những người mới đến.

Vị quản gia cùng với hai người phụ tá đứng kèm hai bên, mỗi người cầm nơi tay hàng tá những khăn quàng cổ bằng lụa mà người Tây Tạng dùng để dâng cho khách như một cách chào hỏi theo phong tục bản xứ.

Có tất cả tám loại khăn quàng để dâng cho các vị khách, tùy theo chức vụ hay cấp bậc cao thấp, phải biết dâng loại nào cho thích hợp kẻo mang tội bất kính. Đức Đạt-lai Lạt-ma chỉ ban tặng và thu nhận những khăn quàng loại thượng hảo hạng gọi là khata.

Nghi thức dâng biếu khăn quàng như sau: Nếu người gia trưởng có cấp bậc ngang hàng với khách, thì ông ta sẽ đứng lùi lại phía sau và đưa hai tay thẳng tới trước. Người khách cũng làm giống như vậy. Kế đó, người gia trưởng vái chào và đặt cái khăn quàng lên hai cổ tay của khách. Người này cũng đáp lễ, rồi dang tay ra và cầm lấy cái khăn quàng trở qua trở lại nơi tay để tỏ ý chấp nhận món quà biếu, và sau đó đưa sang cho một người hầu cận.

Nếu người biếu khăn là người ở đẳng cấp rất thấp thì phải quì xuống, thè lưỡi ra chào. Nghi thức này tương đương với cử chỉ ngả nón chào của người phương Tây. Rồi ông ta đặt cái khăn quàng dưới chân khách. Kế đó, khách đáp lễ bằng cách đặt một cái khăn quàng riêng của mình quanh cổ người gia trưởng.

Ở Tây Tạng, mọi quà biếu đều có kèm theo một cái khăn quàng loại thích hợp, hoặc những thư khen tặng hay văn bằng tưởng thưởng cũng vậy. Khăn quàng của chính phủ màu vàng, còn những khăn quàng khác màu trắng.

Nếu đức Đạt-lai Lạt-ma muốn ban một danh dự lớn lao cho một người nào, ngài đặt nơi cổ người ấy cái khăn quàng cột bằng một sợi chỉ tơ đỏ có ba vòng. Và nếu trong khi đó ngài đưa hai bàn tay ra, lòng bàn tay ngửa lên trời, thì đó là một danh dự rất đặc biệt! Thật vậy, người Tây Tạng tin chắc rằng quá khứ và tương lai đều có ghi trên những đường chỉ trong lòng bàn tay. Đức Đạt-lai Lạt-ma, bằng cách lật ngửa hai bàn tay của ngài, tỏ lòng ưu ái và thiện cảm sâu đậm nhất. Về sau, tôi được ngài ban cho cái danh dự đó hai lần.

Đây nói về người quản gia đứng đón khách trước cửa với hai người phụ tá hai bên. Y chào khách và nhận khăn quàng của khách rồi đưa sang cho người phụ tá đứng bên trái. Trong khi đó, người phụ tá đứng bên phải đưa cho ông ta một khăn quàng loại thích hợp, rồi ông đặt lên cổ tay hay quàng lên cổ người khách, tùy theo đẳng cấp xã hội. Tất cả những khăn quàng này đều được sử dụng lại nhiều lần.

Vị quản gia và hai người phụ tá càng lúc càng thêm bận rộn vì quan khách đến mỗi lúc một đông. Dầu cho họ đến từ những trang trại láng giềng, từ thành phố Lhasa hay từ những vùng ngoại ô, những đoàn kỵ mã tùy tùng của họ luôn đến bằng con đường Ling-khor, rồi đi vào con đường nhỏ thuộc địa phận của gia tộc chúng tôi, nằm dưới bóng mát của điện Potala.

Những bà mệnh phụ phu nhân phải đi bằng ngựa trong nhiều giờ, dùng một cái mặt nạ bằng da để che mặt cho khỏi bẩn vì những ngọn gió lốc đầy cát bụi. Trên các mặt nạ ấy thường có phác họa những nét chân dung của chủ nhân. Khi đến nơi, các bà mới gỡ mặt nạ ra và đồng thời cởi luôn áo khoác ngoài bằng da bò yak. Những mặt nạ có vẽ chân dung ấy luôn làm tôi thích thú, vì các bà càng già và xấu thì những nét vẽ trên mặt nạ lại càng trẻ và đẹp!

Một sự hoạt động tấp nập diễn ra trong nhà tôi. Những gia nhân liên tục mang ra những tấm nệm cho khách ngồi. Ở Tây Tạng, người ta không ngồi trên ghế mà ngồi trên những tấm nệm độ một thước vuông và dày chừng hai mươi phân. Ban đêm, người ta ghép nhiều tấm nệm lại để làm chỗ ngủ, và chúng tôi thấy nằm hay ngồi trên nệm ấy thật thoải mái, dễ chịu hơn là ngồi trên ghế bành hay nằm trên giường.

Khi khách vừa đến, họ được mời dùng trà pha bơ, và kế đó được đưa vào phòng ăn. Tại đây, các loại thức ăn đã dọn sẵn và khách có thể ăn uống tùy thích trong khi chờ đợi cuộc tiếp tân thật sự bắt đầu.

Bốn mươi vị phu nhân thuộc những gia đình quyền quý đã đến cùng với quý bà tâm phúc của họ. Trong khi mẹ tôi đang tiếp đón một nhóm các bà mệnh phụ này, thì một nhóm các bà khác đi dạo khắp nơi trong nhà, ngắm nhìn bàn ghế và thưởng thức trị giá các đồ vật trang hoàng. Thật chẳng khác nào một cuộc “xâm lăng” vĩ đại, vì các bà khách có mặt ở khắp nơi, đủ các hình dáng, đủ các màu sắc, đủ mọi độ tuổi... Có vài bà xuất hiện ở những chỗ bất ngờ nhất và không chút do dự cất tiếng hỏi bọn gia nhân về trị giá của món đồ này hay món vật khác. Nói tóm lại, các bà xử sự như tất cả những người đàn bà khác trên thế giới. Âu đó cũng là một sự thường tình.

Chị Yaso của tôi đủng đỉnh trong một bộ lễ phục mới toanh và bới đầu theo kiểu mới nhất, hay ít ra là chị nghĩ như vậy. Tôi thì cho rằng kiểu tóc của chị thật lố lăng. Tôi vẫn luôn có óc chỉ trích những việc làm của nữ giới. Dầu sao, có điều chắc chắn là ngày hôm đó tôi thấy các bà có vẻ tự do “xâm lăng” một cách độc đáo.

Để làm cho cuộc tiếp tân sôi nổi hơn nữa, những cô gái “người mẫu” cũng có mặt trong hàng quan khách. Ở Tây Tạng, một vị phu nhân thuộc dòng sang cả phải có rất nhiều y phục sang trọng và đồ nữ trang quý giá. Những y phục này cần phải được “triển lãm” vào những dịp giao tế, nhưng vì người ta không thể làm như vậy nếu không thay đổi y phục thường xuyên, nên có những cô gái được huấn luyện đặc biệt, gọi là “chủng nữ”, có nhiệm vụ như các “người mẫu”. Những cô “chủng nữ” này khoác vào những bộ y phục rồi mang đồ nữ trang của mẹ tôi, và vừa ngồi len lỏi trong đám quan khách vừa nhâm nhi hàng tá đếm không hết những chén trà pha bơ, trước khi đi thay bộ y phục khác và mang vào những đồ nữ trang khác. Lẫn lộn trong đám quan khách, các cô ấy cũng giúp đỡ mẹ tôi trong vai trò nữ chủ nhân. Trong một ngày, các cô “chủng nữ” đó có thể thay đổi y phục và nữ trang đến năm, sáu lần.

Các quý khách nam giới thì chú ý nhiều hơn đến những trò chơi tiêu khiển trong vườn. Người ta đã cho mời một đoàn xiếc đến để giúp vui. Ba người trong đoàn cầm dựng đứng một cây sào cao năm thước, trên chót hết có một người nữa chổng ngược đầu và giữ thăng bằng trên đỉnh cây sào. Khi đó, cây sào bị giật ra thình lình và người làm xiếc nhẹ mình rơi xuống đất trên hai chân như một con mèo.

Những trẻ con xem trò xiếc này bèn rủ nhau ra một chỗ vắng để bắt chước. Chúng tìm được một cây sào cao độ hai, ba thước và cầm dựng đứng lên. Một đứa gan lì nhất trèo lên. Nhưng khi cố chổng ngược đầu lên cây sào, nó mất thăng bằng và rơi xuống như một tảng đá lên đầu những đứa khác. May thay, bọn chúng đều có những cái sọ khá cứng, nên ngoài vài cục u to bằng những quả trứng vịt ra thì cũng không đứa nào bị thương nặng.

Mẹ tôi cũng xuất hiện trong khu vườn. Bà hướng dẫn một nhóm các phu nhân muốn xem các trò biểu diễn và nghe nhạc. Điều này không khó, vì các nhà sư nhạc công đã có đủ thời gian để sưởi ấm lòng bằng những chầu rượu dồi dào thỏa thích.

Mẹ tôi ăn mặc một cách trang trọng đặc biệt, áo kỵ mã “bolero” ngắn màu vàng tím, trên một cái “juýp” bằng nỉ màu đỏ sậm dài đến gót chân. Đôi ủng rất cao bằng nỉ trắng tinh với gót đỏ thắm và những sợi dây ủng rất đẹp làm nổi bật màu y phục một cách rất mỹ thuật. Bên trong chiếc áo kỵ mã, mẹ tôi mặc một áo lót bằng lụa đỏ. Khoác ngoài là một cái khăn quàng bằng lụa thêu vắt ngang trước ngực từ vai bên mặt qua hông bên trái và cột lại ở bên hông với một cái khoen bằng vàng khối. Cái khăn quàng này thòng xuống đến tận lưng, có màu đỏ thắm ở phía trên dây lưng, và chuyển dần sang màu vàng nhạt cho đến vàng nghệ rất đậm.

Mẹ tôi đeo trên cổ ba gói bùa cột bằng một sợi dây vàng mà mẹ tôi không lúc nào rời. Ba gói bùa này là những món quà cưới của mẹ tôi, hai gói là quà tặng của gia đình, và gói thứ ba, một danh dự đặc biệt, là quà tặng của đức Đạt-lai Lạt-ma.

Mẹ tôi cũng mang những đồ nữ trang rất quý giá, vì ở Tây Tạng, những đồ nữ trang của một vị phu nhân nhiều hay ít tùy theo đẳng cấp của họ trong xã hội. Bởi thế, người chồng phải tặng đồ vàng ngọc cho vợ mỗi khi được thăng quan tiến chức.

Phải mất nhiều ngày để sửa soạn đầu tóc của mẹ tôi, với tất cả 108 lọn tóc. Số 108 là con số linh thiêng, và những phụ nữ có nhiều tóc đủ để kết thành bấy nhiêu lọn sẽ rất được hâm mộ. Đầu tóc của mẹ tôi chia làm hai phần có một đường chẻ ở giữa, được kết lại bởi một cái mão bằng cây đặt trên đỉnh đầu như một cái nón. Mão này sơn màu đỏ thắm, có đính kim cương chiếu sáng lấp lánh và cẩn vàng, ngọc thạch. Mẹ tôi đeo một đôi hoa tai bằng san hô rất lớn và nặng đến nỗi để cho trái tai khỏi bị quá căng và có thể đứt ra, người phải giữ nó lại bằng một sợi chỉ đỏ quấn chung quanh vành tai, và đầu sợi chỉ thòng xuống gần đụng tới dây lưng.

Tôi ngắm nhìn mẹ tôi và phải nhận rằng mẹ tôi rất đẹp. Tuy nhiên, với đôi bông tai nặng như thế, mẹ tôi làm sao quay đầu lại phía sau?

Những quan khách đi bách bộ dạo chơi, vừa ngắm cảnh trong vườn vừa trầm trồ khen ngợi. Những vị khác ngồi riêng từng nhóm để trao đổi những câu chuyện vặt. Nhất là các bà thì không để lỡ mất một phút nào mà không nói chuyện về những người láng giềng.

Nhưng thật sự, tất cả đều đợi chờ đến phần chính của buổi tiếp tân, kỳ dư các mục khác trong chương trình chỉ là một sự chuẩn bị tinh thần để đưa họ đến cái giây phút quan trọng khi các nhà chiêm tinh sẽ tiên tri về tương lai của tôi. Cuộc đời tôi sau này sẽ tùy thuộc nơi quyết định của họ.

Ngày đã sắp tàn, khi ánh tà dương kéo dài những bóng đen của vạn vật và cây cỏ trên mặt đất, quan khách đều tỏ ra uể oải đối với các trò giúp vui tiêu khiển. Bữa tiệc no say đã đưa họ vào một trạng thái thụ động. Những gia nhân mệt mỏi vẫn phải tiếp tục mang thêm thức ăn lên bàn khi những bát đĩa đã hết sạch, nhưng sau cùng thì mọi người đều ăn uống no đủ.

Những người làm trò xiếc giúp vui cũng bắt đầu mệt mỏi. Hết người nọ đến người kia, họ lần lượt rút lui vào nhà bếp nghỉ ngơi và gọi thêm một chầu rượu cuối cùng. Các nhạc công vẫn còn sắc diện tươi tắn, thổi kèn loa, đánh chập chõa và gõ trống một cách đầy hứng khởi.

Trên những tàn cây to, loài chim sợ hãi vì tiếng động ồn ào đã rời khỏi những tổ quen thuộc của chúng. Không phải chỉ có chim là biết sợ sệt. Những con mèo cũng đã biến mất dạng và ẩn núp trong những chỗ kín đáo từ khi những quan khách đầu tiên cùng các đoàn tùy tùng rầm rộ đến nhà. Những con chó ngao đen lớn của nhà tôi cũng im hơi lặng tiếng, giấc ngủ như đã khớp miệng chúng. Chúng ăn uống no bụng đến mức không thể nào ăn thêm được nữa.

Trong vườn trời càng tối dần. Mùi hương thơm ngát xông lên từ những lư hương khói trầm nghi ngút. Khu vườn của cha tôi nổi tiếng khắp xứ Tây Tạng vì những kỳ hoa dị thảo và những hòn non bộ vĩ đại nhập cảng từ Trung Hoa. Có những cây lê, cây táo, cây mơ lùn thấp bên cạnh những cây cổ thụ cao lớn, trên tàn cây có cắm cờ bay phất phới trong ngọn gió nhẹ ban chiều.

Sau cùng, vầng hồng đã khuất dạng sau dãy Tuyết Sơn xa tít, một ngày đã chấm dứt. Từ những tu viện Lạt-ma vọng đến tiếng kèn điểm giờ khắc trôi qua; hàng trăm ngọn đèn bơ đã được thắp sáng khắp trên các cành cây, dưới những mái nhà, và có những ngọn đèn khác thả lướt nhẹ trên mặt nước êm đềm của ao sen trong vườn. Chỗ này, có ngọn đèn bị kẹt trong các lá sen chẳng khác nào chiếc tàu bị mắc cạn trên bãi cát, và chỗ kia vài ngọn đèn trôi lênh đênh phiêu dạt về cái cù lao nơi những con hạc sẽ trú ngụ lúc về đêm.

Một tiếng cồng vừa điểm, mọi người quay đầu nhìn lại, một cuộc diễu hành từ đằng xa đang tiến đến gần. Trong vườn đã dựng sẵn một cái lều rất lớn, có màn che trướng rũ. Cửa lều mở rộng, bên trong đặt một sàn gỗ và bốn cái đôn Tây Tạng làm chỗ ngồi. Đoàn người diễu hành bước đến trước lều, do bốn gia nhân nhà tôi cầm đuốc dẫn đường. Theo sau là bốn nhạc công thổi kèn loa bằng bạc. Kế đó, cha tôi, mẹ tôi, bước lên sàn gỗ cùng với hai vị trưởng lão, là những bậc giáo phẩm kiêm chức Thiên giám quan, đảm nhiệm việc tiên tri các điều họa phước của quốc gia.

Những vị trưởng lão này, xuất thân từ vùng Nechung và là những nhà chiêm tinh giỏi nhất Tây Tạng. Những lời tiên tri của các vị nhiều lần đã tỏ ra chính xác và đúng với các sự việc đã xảy ra về sau. Một tuần lễ trước đó, đức Đạt-lai Lạt-ma đã mời các vị đến để đoán tương lai của ngài. Lần này thì lại là tương lai của một đứa trẻ lên bảy tuổi.

Hai vị ấy đã lấy lá số của tôi và nghiên cứu cặn kẽ từng ly từng tí trong nhiều ngày những ảnh hưởng của các vì tinh tú. Hai vị lạt-ma đem theo lá số chiêm tinh và những bản đoán số. Hai vị khác tiến đến và đỡ hai vị Thiên giám quan già bước lên sàn gỗ, trên đó hai vị này ngồi sát cạnh nhau như hai pho tượng bằng ngà. Những chiếc áo rộng bằng lụa Trung Hoa màu vàng lại càng làm nổi bật tuổi tác cao niên của họ.

Họ đội trên đầu chiếc mão lớn của các tu sĩ mà trọng lượng có vẻ quá nặng đối với những cái cổ nhăn nheo của họ. Các quan khách đều vây quanh sàn gỗ và ngồi trên những tấm nệm trải dưới đất. Những câu chuyện đều ngưng bặt, mọi người đều lắng tai nghe lời phán quyết của vị niên trưởng trong hai vị Thiên giám quan lão thành. Vị niên trưởng bắt đầu nói bằng một giọng nhẹ nhàng:

Lha dre mig cho-nang-chig. (Quỷ thần và nhân gian cùng bị chi phối như nhau bởi những định luật huyền bí trong vũ trụ.)

Ý nói là người ta có thể tiên đoán việc tương lai dựa theo những định luật huyền bí.

Vị Thiên giám quan cao niên nói tiên tri suốt một giờ đồng hồ. Kế đó, người nghỉ ngơi trong mười phút, và lại nói thêm một giờ nữa. Khi đó, người tiếp tục vạch rõ tương lai của tôi bằng những nét phác họa đại cương.

– Lạ quá, thật là kỳ diệu!

Toàn thể cử tọa bất giác thốt lên trong khi họ đang đắm chìm trong một cơn thích thú mê ly. Như thế, người ta đã nói cho tôi biết trước tương lai của tôi:

– Sau một giai đoạn thử thách cam go gian khổ, khi đương sự lên bảy tuổi sẽ bước chân vào tu viện để được thụ huấn như một tu sĩ kiêm y sĩ giải phẫu. Đương sự sẽ gặp nhiều nghịch cảnh gian lao, sẽ rời khỏi xứ sở và sống ở nước ngoài. Rồi đương sự sẽ mất hết tất cả, phải làm lại cuộc đời từ số không nhưng sau cùng sẽ thành công.

Cuộc tiên tri đã bế mạc, quan khách cũng giải tán dần dần. Những vị khách ở xa còn ở nán lại nhà tôi một đêm để sáng hôm sau mới lên đường. Một số khác trở về ngay đêm đó cùng với những gia nhân tùy tùng của họ, dưới ánh sáng của những ngọn đuốc. Họ tụ họp ngoài sân, giữa những tiếng ngựa khua móng sắt trên nền đá và tiếng người gọi nhau.

Một lần nữa, cái cổng sắt nặng nề lại mở toang để cho đoàn người ngựa đi qua. Tiếng chân ngựa khua vang và những giọng chuyện trò đã thưa dần, và sau cùng chỉ còn lại cái im lặng muôn thuở của màn đêm.

    « Xem chương trước «      « Sách này có 15 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Bức Thành Biên Giới


Chớ quên mình là nước


Kinh nghiệm tu tập trong đời thường


Về mái chùa xưa

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 3.23.101.52 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

Việt Nam (228 lượt xem) - Hoa Kỳ (16 lượt xem) - Senegal (13 lượt xem) - Đức quốc (3 lượt xem) - Saudi Arabia (2 lượt xem) - Hungary (1 lượt xem) - ... ...