Việc người khác ca ngợi bạn quá hơn sự thật tự nó không gây hại, nhưng thường sẽ khiến cho bạn tự nghĩ về mình quá hơn sự thật, và đó là khi tai họa bắt đầu.Rộng Mở Tâm Hồn
Ví như người mù sờ voi, tuy họ mô tả đúng thật như chỗ sờ biết, nhưng ta thật không thể nhờ đó mà biết rõ hình thể con voi.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Dễ thay thấy lỗi người, lỗi mình thấy mới khó.Kinh Pháp cú (Kệ số 252)
Nếu không yêu thương chính mình, bạn không thể yêu thương người khác. Nếu bạn không có từ bi đối với mình, bạn không thể phát triển lòng từ bi đối với người khác.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Chưa từng có ai trở nên nghèo khó vì cho đi những gì mình có. (No-one has ever become poor by giving.)Anne Frank
Chúng ta sống bằng những gì kiếm được nhưng tạo ra cuộc đời bằng những gì cho đi. (We make a living by what we get, we make a life by what we give. )Winston Churchill
Nếu quyết tâm đạt đến thành công đủ mạnh, thất bại sẽ không bao giờ đánh gục được tôi. (Failure will never overtake me if my determination to succeed is strong enough.)Og Mandino
Mục đích cuộc đời ta là sống hạnh phúc. (The purpose of our lives is to be happy.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Hãy học cách vui thích với những gì bạn có trong khi theo đuổi tất cả những gì bạn muốn. (Learn how to be happy with what you have while you pursue all that you want. )Jim Rohn
Nếu bạn muốn những gì tốt đẹp nhất từ cuộc đời, hãy cống hiến cho đời những gì tốt đẹp nhất. (If you want the best the world has to offer, offer the world your best.)Neale Donald Walsch

Trang chủ »» Danh mục »» THUYẾT GIẢNG GIÁO PHÁP »» Thức tỉnh mục đích sống »» Xem đối chiếu Anh Việt: Chương 1: Sự nở hoa của tâm thức nhân loại »»

Thức tỉnh mục đích sống
»» Xem đối chiếu Anh Việt: Chương 1: Sự nở hoa của tâm thức nhân loại

Donate

(Lượt xem: 19.770)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục  Vietnamese || English || Tải về bảng song ngữ


       

Điều chỉnh font chữ:

Chương 1: Sự nở hoa của tâm thức nhân loại

Chapter One: The flowering of human consciousness evocation





Hồi tưởng

Địa cầu, cách đây 114 triệu năm, một buổi sáng kia, sau khi mặt trời vừa hé dạng, bỗng nhiên có một bông hoa duy nhất xuất hiện lần đầu tiên trên hành tinh này; những cánh hoa hé nở, đón chào những tia nắng sớm. Đây quả là một sự kiện quan trọng trong quá trình tiến hóa của thực vật, mở đầu cho một thời kỳ chuyển hóa đời sống của những loài cỏ cây vốn đã xuất hiện trên trái đất từ hàng triệu năm trước. Đóa hoa đầu tiên đó hẳn đã không tồn tại được lâu, vì có lẽ đây chỉ là hiện tượng đơn lẻ hiếm hoi và có lẽ vì giai đoạn ấy chưa phải là thời kỳ thuận lợi cho các loài hoa nở rộ. Tuy nhiên, đến một ngày nào đó, bước chuyển hướng quyết định ấy hẳn cũng phải đến, và nếu có ai đó có mặt vào giờ phút đó để chứng kiến, hẳn họ đã nhìn thấy một sự bùng vỡ của hương hoa và sắc màu lan tràn khắp hành tinh.
Earth, 114 million years ago, one morning just after sunrise: The first flower ever to appear on the planet opens up to receive the rays of the sun. Prior to this momentous event that heralds an evolutionary transformation in the life of plants, the planet had already been covered in vegetation for millions of years. The first flower probably did not survive for long, and flowers must have remained rare and isolated phenomena, since conditions were most likely not yet favorable for a widespread flowering to occur. One day, however, a critical threshold was reached, and suddenly there would have been an explosion of color and scent all over the planet - if a perceiving consciousness had been there to witness it.
Mãi về sau này, những sinh thể mong manh đầy hương sắc mà ta gọi là hoa ấy đã đóng một vai trò trọng yếu trong quá trình tiến hóa về mặt nhận thức ở một loài khác: ở con người. Thực vậy, con người ngày càng cảm thấy bị hấp dẫn và thu hút trước hấp lực của những cánh hoa. Khi nhận thức của con người càng trở nên tinh tế hơn, rất có thể bông hoa là thứ đầu tiên mà họ đem lòng quý trọng, mặc dù hoa không phục vụ cho một mục đích thực tiễn nào của họ, tức là không liên quan gì đến chuyện sinh kế, sống còn. Nhưng đóa hoa đã là nguồn cảm hứng cho biết bao nhiêu nghệ sĩ, thi nhân và các nhà huyền học(1). Chúa Jesus đã khuyên chúng ta nên để thì giờ chiêm nghiệm về hoa và học cách sống như một bông hoa(2). Tương truyền rằng Đức Phật cũng đã có một bài thuyết pháp trong im lặng, trong đó Ngài cầm một bông hoa trên tay và ngắm nhìn đóa hoa ấy trong yên lặng. Một lát sau, một trong những tỳ-kheo có mặt hôm đó là Ngài Ma-Ha Ca-Diếp (Mahakasyapa) đã nở trên môi một nụ cười. Có thể ngài Ma-Ha Ca-Diếp là người đệ tử duy nhất hôm ấy hiểu được ngụ ý của bài pháp vô ngôn(3) của Đức Phật. Tương truyền rằng, nụ cười đó (tức là sự trao truyền Tâm ấn giác ngộ) đã được Đức Phật và chư Tổ truyền qua 28 đời liên tiếp và sau này đã trở thành nguồn gốc của Thiền Tông.
Much later, those delicate and fragrant beings we call flowers would come to play an essential part in the evolution of consciousness of another species. Humans would increasingly be drawn to and fascinated by them. As the consciousness of human beings developed, flowers were most likely the first thing they came to value that had no utilitarian purpose for them, that is to say, was not linked in some way to survival. They provided inspiration to countless artists, poets, and mystics. Jesus tells us to contemplate the flowers and learn from then how to live. The Buddha is said to have given a “silent sermon” once during which he held up a flower and gazed at it. After a while, one of those present, a monk called Mahakasyapa, began to smile. He is said to have been the only one who had understood the sermon. According to legend, that smile (that is to say, realization) was handed down by twenty- eight successive masters and much later became the origin of Zen.
Khi ta nhìn ngắm vẻ đẹp của một bông hoa, bông hoa ấy có thể đánh thức, dù chỉ trong thoáng chốc, cảm nhận về cái đẹp ở trong ta, phần hiện hữu sâu xa nhất, và cũng là bản chất thực của chính mình. Giây phút đầu tiên khi cảm nhận cái đẹp là một biến cố có ý nghĩa nhất trong quá trình tiến hóa về nhận thức của loài người. Khi đó ta cũng cảm nhận được tình yêu và sự im lắng ở nội tâm mình. Dù ta không nhận thức được hết tầm quan trọng của biến cố đó, hoa vẫn là một biểu tượng, qua hình tướng(4), những gì thiêng liêng, cao quý nhất(5), dù phần cao quý ấy thực chất là cái không có hình tướng(6). So với những loài cây cỏ đã có mặt trước đó thì hoa có vẻ mong manh, chóng tàn hơn. Nhưng hoa đã trở thành sứ giả từ một cõi khác, như là một chiếc cầu nối liền thế giới của hình hài vật chất với thế giới vô hình. Hoa không chỉ cho ta mùi hương thanh khiết và êm dịu, mà hoa còn mang lại mùi hương của cõi thiêng liêng. Nếu ta có thể dùng từ “tỉnh thức” với nghĩa rộng thì ta có thể ví rằng hoa là sự tỉnh thức của loài cỏ cây.
Seeing beauty in a flower could awaken humans, however briefly, to the beauty that is an essential part of their own innermost being, their true nature. The first recognition of beauty was one of the most significant events in the evolution of human consciousness. The feelings of joy and love are intrinsically connected to that recognition. Without our fully realizing it, flowers would become for us an expression in form of that which is most high, most sacred, and ultimately formless within ourselves. Flowers, more fleeting, more ethereal and more delicate than the plants out of which they emerged, would become like messengers from another realm, like a bridge between the world of physical forms and the formless. They not only had a scent that was delicate and pleasing to humans, but also brought a fragrance from the realm of spirit. Using the word “enlightenment” in a wider sense than the conventionally accepted one, we could look upon flowers as the enlightenment of plants.
Có thể nói là bất cứ dạng vật chất nào ở bất kỳ hình thức nào – như khoáng chất, rau quả, động vật, con người... – đều đang đi qua quá trình “tỉnh thức”. Tuy nhiên, để dạng vật chất ấy thực sự đạt đến trạng thái tỉnh thức là một điều rất hiếm khi xảy ra vì đó không hẳn là một tiến bộ thông thường trong quá trình tiến hóa mà còn là sự gián đoạn trong quá trình phát triển bình thường, và là một bước nhảy vọt lên một cấp độ hoàn toàn khác của Hiện hữu, mà quan trọng hơn hết là một sự giảm bớt về mức độ nặng nề và dày đặc của vật chất.
Any life-form in any realm - mineral, vegetable, animal, or human - can be said to undergo “enlightenment.” It is, however, an extremely rare occurrence since it is more than an evolutionary progression: It also implies a discontinuity in its development, a leap to an entirely different level of Being and, most important, a lessening of materiality.
Còn gì nặng hơn và khó xuyên thủng hơn là một tảng đá, vật thể dày đặc nhất trong các vật thể, thế mà một vài loại đá, khi trải qua một quá trình thay đổi cấu trúc phân tử lại trở thành pha lê, một tinh thể trong suốt mà ánh sáng có thể xuyên qua dễ dàng. Vài loại khoáng chất, dưới áp suất và nhiệt độ cực cao lại biến thành kim cương, trong khi vài loại khoáng chất khác lại trở thành đá quý.
What could be heavier and more impenetrable than a rock, the densest of all forms? And yet some rocks undergo a change in their molecular structure, turn into crystals, and so become transparent to the light. Some carbons, under inconceivable heat and pressure, turn into diamonds, and some heavy minerals into other precious stones.
Hầu hết các loài bò sát vẫn chưa biến đổi nhiều từ hàng triệu năm qua. Trong khi một số loài khác thì lại mọc cánh, có lông vũ và hóa thành chim, từ đó vượt lên khỏi lực hấp dẫn của trái đất đã từng níu chân chúng từ bấy lâu nay. Hóa thành chim chẳng phải để đi hay trườn mình trên mặt đất một cách thành thạo hơn, mà thực ra là để hoàn toàn vượt thoát khỏi chuyện phải đi hay trườn.
Most crawling reptilians, the most earthbound of all creatures, have remained unchanged for millions of years. Some, however, grew feathers and wings and turned into birds, thus defying the force of gravity that had held them for so long. They didn’t become better at crawling or walking, but transcended crawling and walking entirely.
Từ thời xa xưa, hoa, pha lê, đá quý và những loài chim chóc đã mang một ý nghĩa đặc biệt nào đó trong tâm thức của loài người. Cũng như tất cả các thể sống khác, chúng cũng chỉ là sự thể hiện có tính chất tạm thời của Nhất Thể (7), của Tâm (8) luôn tiềm ẩn ở phía sau. Chính những phẩm chất mong manh của hoa giải thích tại sao chúng mang một ý nghĩa đặc biệt và là lý do tại sao con người lại tìm thấy sự tương đồng và sức thu hút ở hoa.
Since time immemorial, flowers, crystals, precious stones, and birds have held special significance for the human spirit. Like all life-forms, they are, of course, temporary manifestations of the underlying one Life, one Consciousness. Their special significance and the reason why humans feel such fascination for and affinity with them can be attributed to their ethereal quality.
Khi ta có một mức độ Có Mặt, im lắng và sự chú tâm tỉnh táo ở bên trong thì ta mới có thể cảm nhận được bản chất siêu nhiên của sự sống, cái thần thái và linh hồn trong mỗi tạo vật, mỗi thể sống, và ta bỗng nhận ra rằng bản chất siêu nhiên trong mỗi tạo vật cũng đã chứa sẵn trong mỗi con người, khiến ta cảm thấy yêu quý tạo vật như yêu quý chính mình. Cho đến khi nhận thức được điều này, đa số chúng ta chỉ nhìn ra được những hình hài cạn cợt ở bên ngoài mà không thấy được bản chất thần thánh ở bên trong, cũng như ta không nhận thức được bản chất siêu nhiên của chính mình, nên ta thường tự đồng nhất mình với hình hài vật chất và những trạng thái tâm lý khổ đau của mình (9).
Once there is a certain degree of presence, of still and alert attention in human beings’ perceptions, they can sense the divine life essence, the one indwelling consciousness or spirit in every creature, every life-form, recognize it as one with their own essence and so love it as themselves. Until this happens, however, most humans see only the outer forms, unaware of the inner essence, just as they are unaware of their own essence and identify only with their own physical and psychological form.
Đôi lúc, một người dù có rất ít hoặc không có khả năng Hiện Diện nào cả cũng có thể nhìn thấy ở một bông hoa, một hòn đá quý, một tinh thể pha lê hay ở một con chim một điều gì đó nằm đằng sau những hình hài vật chất ấy, dù anh ta không biết rằng đó chính là cái đã tạo nên sức hút và làm cho mình cảm thấy có mối liên hệ nào đó với những vật thể ấy. So với các thể sống khác thì một bông hoa có bản chất mong manh hơn và do đó hoa ít che khuất cái tinh túy ở bên trong của chính nó hơn là những sinh thể sống khác. (Ngoại trừ các sinh vật còn sơ sinh, như một em bé, con chó con, hoặc một con cừu non... vì chúng mong manh, dễ bị tổn thương vì chưa phát triển hết tính đông đặc của vật chất). Ở đó, ta vẫn còn thấy vẻ ngây thơ, cái đẹp và vẻ dịu dàng như không thuộc về thế giới này. Chúng làm mềm lòng ngay cả những con người vô cảm.
In the case of a flower, a crystal, precious stone, or bird, however, even someone with little or no Presence can occasionally sense that there is more than the mere physical existence of that form, without knowing that this is the reason why he or she is drawn toward it, feels an affinity with it. Because of its ethereal nature, its form obscures the indwelling spirit to a lesser degree than is the case with other life-forms. The exception to this are all newborn life-forms - babies, puppies, kittens, lambs, and so on. They are fragile, delicate, not yet firmly established in materiality. An innocence, a sweetness and beauty that are not of this world still shine through them. They delight even relatively insensitive humans.
Cho nên khi nào bạn đang tỉnh táo và nhìn ngắm một bông hoa, một tinh thể pha lê hay một con chim mà đầu óc bạn không bận rộn muốn gọi tên những vật ấy, thì những vật đó sẽ mở ra một cánh cửa đưa bạn vào cõi Vô Tướng. Có một sự khai mở ở bên trong, dù rất bé, để đưa bạn đi vào cõi tâm linh. Điều này giải thích tại sao ba vật thể đã “giác ngộ” này đóng một vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển tâm thức của con người từ thuở xa xưa; đó cũng là lý do tại sao đài sen là biểu tượng của Phật giáo, còn chim bồ câu trắng tượng trưng cho Đức Chúa Thánh Thần (Holy Spirit) trong đạo Cơ đốc. Chính ba vật quý này đã và đang tạo cơ sở cho một sự chuyển hướng sâu sắc trong tâm thức của hành tinh, sự chuyển hướng này nhất định sẽ xảy ra với tâm thức của loài người. Đây là quá trình tỉnh thức tâm linh mà chúng ta đang bắt đầu chứng kiến.
So when you are alert and contemplate a flower, crystal, or bird without naming it mentally, it becomes a window for you into the formless. There is an inner opening, however slight, into the realm of spirit. This is why these three “en-lightened” life-forms have played such an important part in the evolution of human consciousness since ancient times; why, for example, the jewel in the lotus flower is a central symbol of Buddhism and a white bird, the dove, signifies the Holy Spirit in Christianity. They have been preparing the ground for a more profound shift in planetary consciousness that is destined to take place in the human species. This is the spiritual awakening that we are beginning to witness now.
Mục đích của cuốn sách này
THE PURPOSE OF THIS BOOK
Nhân loại đã thật sự sẵn sàng cho một quá trình chuyển biến nhận thức, một quá trình nở hoa sâu sắc và triệt để của tâm thức đến độ, so với quá trình này thì việc cây cỏ nở hoa 114 triệu năm trước đây, dầu cho đẹp đến mấy thì đấy cũng chỉ là một sự phản ánh nhạt nhòa? Liệu con người có thể từ bỏ tầng tầng lớp lớp những cách nghĩ bị bó buộc cũ để trở nên những tinh thể pha lê đối với ánh sáng của nhận thức? Liệu con người có thể thoát ra khỏi trường hấp dẫn của chủ nghĩa vật chất, thoát ra khỏi tình trạng tự đồng nhất mình với hình tướng (10)
Is humanity ready for a transformation of consciousness, an inner flowering so radical and profound that compared to it the flowering of plants, no matter how beautiful, is only a pale reflection? Can human beings lose the density of their conditioned mind structures and become like crystals or precious stones, so to speak, transparent to the light of consciousness? Can they defy the gravitational pull of materialism and materiality and rise above identification with form that keeps the ego in place and condemns them to imprisonment within their own personality?
Khả năng chuyển hóa này cũng là thông điệp chính của những giáo lý sâu sắc để khai thị cho con người. Những người phát đi thông điệp này – như Đức Phật, Chúa Jesus và nhiều người khác – là những bông hoa đầu tiên của nhân loại. Họ là những vị thầy tiên phong, rất hiếm hoi và quý giá vô ngần. Tuy vậy, một sự chuyển hóa rộng khắp chưa thể xảy ra vào thời đó được, nên thông điệp của họ thường bị hiểu sai và bị bóp méo đi rất nhiều. Ngoại trừ ở một số ít người, tâm thức của con người thời ấy nói chung chưa được chuyển hóa nhiều.
The possibility of such a transformation has been the central message of the great wisdom teachings of humankind. The messengers - Buddha, Jesus, and others, not all of them known - were humanity’s early flowers. They were precursors, rare and precious beings. A widespread flowering was not yet possible at that time, and their message became largely misunderstood and often greatly distorted. It certainly did not transform human behavior, except in a small minority of people.
Bây giờ thì nhân loại đã sẵn sàng để chuyển hóa chưa? Tại sao lúc này mới thực là thời cơ? Bạn có thể làm gì để thúc đẩy quá trình chuyển hóa nội tại này? Đặc điểm của nhận thức cũ đầy tính bản ngã là gì và đâu là dấu hiệu của một tâm thức mới đang trỗi dậy? Những câu hỏi này và một số câu hỏi khác sẽ được đề cập đến trong cuốn sách này. Quan trọng hơn, cuốn sách cũng chính là một công cụ có tính chuyển hóa xuất phát từ một nhận thức mới đang trỗi dậy. Những ý tưởng và khái niệm ở đây tuy quan trọng, nhưng đó cũng chỉ là thứ yếu. Chúng như những tấm bảng chỉ đường giúp bạn đi đến trạng thái tỉnh thức. Trong lúc đọc cuốn sách này, một sự chuyển hóa sẽ xảy ra trong bạn.
Is humanity more ready now than at the time of those early teachers? Why should this be so? What can you do, if anything, to bring about or accelerate this inner shift? What is it that characterizes the old egoic state of consciousness, and by what signs is the new emerging consciousness recognized? These and other essential questions will be addressed in this book. More important, this book itself is a transformational device that has come out of the arising new consciousness. The ideas and concepts presented here may be important, but they are secondary. They are no more than signposts pointing toward awakening. As you read, a shift takes place within you.
Mục đích chính của cuốn sách không phải là để cung cấp thêm thông tin hay những niềm tin mù quáng cho trí năng của bạn, hay cố thuyết phục bạn về một điều gì, mà nó mang đến cho bạn một sự chuyển hóa trong nhận thức, tức là thức tỉnh bạn ra khỏi những dòng suy nghĩ miên man ở trong đầu. Nếu được như vậy thì bạn sẽ không chỉ thấy cuốn sách là “thú vị”. Vì thú vị có nghĩa là bạn còn đứng ở bên ngoài, tìm vui với những ý nghĩ, và khái niệm ở trong đầu bạn để tư duy rằng mình đồng ý hay không nên đồng ý với cuốn sách. Vì cuốn sách này được viết cho bạn, do đó cuốn sách hoặc rất vô nghĩa đối với bạn, hoặc nó làm cho nhận thức của bạn có sự thay đổi lớn. Tuy nhiên cuốn sách này chỉ có thể thức tỉnh những người đã sẵn sàng để tỉnh thức. Mà không phải ai cũng sẵn sàng để tỉnh thức. Tuy nhiên, khi có một người vừa tỉnh thức thì biến cố này sẽ tạo nên một quán tính trong tâm thức của tập thể, giúp cho sự tỉnh thức xảy ra dễ dàng hơn ở những người khác. Nếu trong lúc này bạn chưa rõ tỉnh thức có nghĩa là gì, thì bạn cũng không cần bận tâm nhiều về nghĩa của từ ấy, hãy cứ tiếp tục đọc và khi nào trong bạn có sự tỉnh thức, thì bạn sẽ hiểu “tỉnh thức” có nghĩa là gì. Quá trình tỉnh thức một khi đã bắt đầu ở trong bạn rồi thì không thể đảo ngược lại; và để cho quá trình này được bắt đầu, bạn chỉ cần trải qua trạng thái tỉnh thức - dù chỉ trong một thoáng chốc. Đối với một số người thì một thoáng chốc của trạng thái tỉnh thức đó sẽ xảy đến khi họ đọc cuốn sách này. Còn đối với những người khác thì cuốn sách sẽ giúp cho họ nhận ra rằng quá trình tỉnh thức đã xảy ra ở trong họ rồi, nhưng bây giờ họ mới nhận ra. Ở một số người thì quá trình tỉnh thức chỉ xảy ra khi họ gặp phải những mất mát hay khổ đau lớn. Trong khi ở những người khác, là khi họ tiếp xúc với những bậc thầy hay những giáo lý về tâm linh, hay do đọc cuốn “Sức Mạnh của Hiện Tại” hay những cuốn sách có giá trị tâm linh sống động khác. Hoặc có thể là sự tổng hợp của tất cả những điều ấy. Tuy nhiên, một khi sự tỉnh thức đã bắt đầu ở trong bạn thì cuốn sách này sẽ giúp cho bạn đẩy nhanh và gia tăng cường độ tỉnh thức.
This book’s main purpose is not to add new information or beliefs to your mind or to try to convince you of anything, but to bring about a shift in consciousness; that is to say, to awaken. In that sense, this book is not “interesting”. Interesting means you can keep your distance, play around with ideas and concepts in your mind, agree or disagree. This book is about you. It will change your state of consciousness or it will be meaningless. It can only awaken those who are ready. Not everyone is ready yet, but many are, and with each person who awakens, the momentum in the collective consciousness grows, and it becomes easier for others. If you don’t know what awakening means, read on. Only by awakening can you know the true meaning of that word. A glimpse is enough to initiate the awakening process, which is irreversible. For some, that glimpse will come while reading this book. For many others who may not even have realized it, the process has already begun. This book will help them recognize it. For some, it may have begun through loss or suffering; for others, through coming into contact with a spiritual teacher or teaching, through reading The Power of Now or some other spiritually alive and therefore transformational book - or any combination of the above. If the awakening process has begun in you , the reading of this book will accelerate and intensify it.
Điều căn bản nhất của quá trình tỉnh thức là:
Nhận ra sự mê mờ đang có mặt ở trong bạn,
Nhận diện bản ngã(11) của bạn khi nó đang nói, đang nghĩ, đang làm một việc nào đó,
Nhận ra thói quen suy tư đầy tính băng hoại trong tâm thức của tập thể đang thẩm thấu vào mọi khía cạnh của đời sống, kéo dài thêm tình trạng chưa thức tỉnh.
An essential part of the awakening is the recognition of the unawakened you, the ego as it thinks, speaks and acts, as well as the recognition of the collectively conditioned mental processes that perpetuate the unawakened state.
Đó là lý do tôi viết cuốn sách này: để nêu lên những khía cạnh chính của bản ngã và cách bản ngã hoạt động trong bạn cũng như trong tâm thức tập thể. Điều này có ý nghĩa quan trọng, vì hai lý do chính. Trước hết, nếu bạn không nhận ra được những cơ cấu hoạt động của bản ngã, bạn sẽ không nhận diện được nó, và sẽ nhầm lẫn mà liên tục tự đồng nhất mình với bản ngã, tức là vô tình bạn để cho bản ngã chế ngự lấy bạn, mạo danh là bạn. Thứ hai, tự thân việc nhận diện bản ngã ở trong bạn chính là một trong những phương cách giúp cho sự tỉnh thức ở trong bạn được xảy ra. Khi bạn nhận ra sự mê lầm của mình, thì cái làm cho sự nhận biết ấy có thể xảy ra chính là thứ nhận thức mới đang trỗi dậy, đó cũng chính là tỉnh thức. Tuy nhiên, ta không nên có thái độ đấu tranh, hay kình chống với bản ngã cũng như ta không thể đấu tranh chống lại bóng tối, hay chống lại sự mê mờ. Điều mà ta cần làm là mang ánh sáng của nhận thức vào những nơi tối tăm này. Và bạn chính là ánh sáng đó.
That is why this book shows the main aspects of the ego and how they operate in the individual as well as in the collective. This is important for two related reasons: The first is that unless you know the basic mechanics behind the workings of the ego, you won’t recognize it, and it will trick you into identifying with it again and again. This means it takes you over, an impostor pretending to be you. The second reason is that the act of recognition itself is one of the ways in which awakening happens. When you recognize the unconsciousness in you, that which makes the recognition possible is the arising consciousness, is awakening. You cannot fight against the ego and win, just as you cannot fight against darkness. The light of consciousness is all that is necessary. You are that light.
Sự băng hoại bẩm sinh ở trong ta
OUR INHERITED DYSFUNCTION
Nếu nghiên cứu kỹ về các tôn giáo và các trường phái tâm linh cổ xưa, ta thấy rằng dù cho bên ngoài có nhiều điểm khác biệt, nhưng hầu hết đều thống nhất ở hai điểm mấu chốt. Mỗi tôn giáo có cách dùng những ngôn từ tuy khác nhau nhưng tất thảy đều hướng đến một chân lý căn bản rằng trạng thái tâm lý “bình thường” ở hầu hết mọi người đều chứa đựng một yếu tố mạnh mẽ của một cái gì đó mà ta có thể gọi là sự tha hóa hay thậm chí có thể gọi là sự điên loạn. Một số điều răn dạy căn bản trong đạo Hindu ở Ấn Độ thậm chí đã xem sự băng hoại này là một dạng của căn bệnh tâm thần tập thể. Họ gọi đó là “Maya”, tấm màn của mê lầm, vô minh. Ramana Maharshi(12), một trong những nhà hiền triết Ấn Độ vĩ đại nhất đã từng thẳng thắn tuyên bố: “Trầm luân là khi bạn cả tin vào một ý nghĩ”(13).
If we look more deeply into humanity’s ancient religions and spiritual traditions, we will find that underneath the many surface differences there are two core insights that most of them agree on. The words they use to describe those insights differ, yet they all point to a twofold fundamental truth. The first part of this truth is the realization that the “normal” state of mind of most human beings contains a strong element of what we might call dysfunction or even madness. Certain teachings at the heart of Hinduism perhaps come closest to seeing this dysfunction as a form of collective mental illness. They call it maya, the veil of delusion. Ramana Maharshi, one of the greatest Indian sages, bluntly states: “The mind is maya.”
Phật giáo thì đã sử dụng nhiều thuật ngữ khác nhau để nêu ra vấn đề này. Đức Phật cho là tâm trí con người thường tự tạo ra nỗi khổ đau bất hạnh triền miên mà Ngài gọi là dukkha (khổ đế). Ngài xem đó là tính chất đặc trưng trong thân phận của con người và cho rằng dù ở đâu hay làm gì, cuối cùng rồi ta cũng phải đối diện với khổ đau, vì sớm muộn gì rồi khổ đau cũng thể hiện ra trong mọi tình huống.
Buddhism uses different terms. According to the Buddha, the human mind in its normal state generates dukkha, which can be translated as suffering, unsatisfactoriness, or just plain misery. He sees it as a characteristic of the human condition. Wherever you go, whatever you do, says the Buddha, you will encounter dukkha, and it will manifest in every situation sooner or later.
Còn đạo Cơ đốc thì cho rằng trạng thái tâm lý bình thường của đa số con người là một trạng thái “tội lỗi nguyên thủy” – original sin. Tuy nhiên, trong kinh Tân Ước, viết bằng tiếng Hy Lạp cổ, chữ “sin” chỉ có nghĩa là “đi sai mục tiêu”, như một người bắn cung đã nhắm sai mục tiêu, nên “sin” có thể hiểu là “sai lầm” hay “không đi đúng con đường” của một kiếp người. Điều này có nghĩa là ta đã sống mù quáng, thiếu khôn ngoan, do đó phải gánh chịu khổ đau và gây khổ đau cho kẻ khác. Như vậy thì “sin” cũng hàm ý về sự tha hóa, vô minh cố hữu(14) trong thân phận con người.
According to Christian teachings, the normal collective state of humanity is one of “original sin.” Sin is a word that has been greatly misunderstood and misinterpreted. Literally translated from the ancient Greek in which the New Testament was written, to sin means to miss the mark, as an archer who misses the target, so to sin means to miss the point of human existence. It means to live unskillfully, blindly, and thus to suffer and cause suffering. Again, the term, stripped of its cultural baggage and misinterpretations, points to the dysfunction inherent in the human condition.
Những thành tựu của loài người quả rất là lớn lao và không ai có thể chối cãi được. Chúng ta đã sáng tạo nên những tuyệt tác về âm nhạc, văn học, hội họa, kiến trúc và điêu khắc. Gần đây khoa học và kỹ thuật hiện đại đã mang lại ra những thay đổi tận gốc rễ cách chúng ta sinh hoạt, cho phép ta tạo ra những thứ mà cách đây chừng 200 năm hẳn người ta đã cho là những phép màu. Không sai, trí năng của con người rất thông minh. Tuy nhiên chính sự thông minh này đã bị ô nhiễm bởi sự điên loạn. Chính khoa học và kỹ thuật đã phóng đại thêm ảnh hưởng của khả năng hủy diệt – biểu hiện qua sự băng hoại trong cách suy nghĩ của con người trên hành tinh này – cho các thể sống và ngay cả cho chính con người. Điều đó giải thích tại sao thế kỷ 20 là lúc mà ta có thể nhận thấy rõ nhất sự tha hóa đó, như một sự mất trí có tính tập thể. Quả thực sự băng hoại này đang gia tăng tốc độ và cường độ.
The achievements of humanity are impressive and undeniable. We have created sublime works of music, literature, painting, architecture, and sculpture. More recently, science and technology have brought about radical changes in the way we live and have enabled us to do and create things that would have been considered miraculous even two hundred years ago. No doubt: The human mind is highly intelligent. Yet its very intelligence is tainted by madness. Science and technology have magnified the destructive impact that the dysfunction of the human mind has upon the planet, other life-forms, and upon humans themselves. That is why the history of the twentieth century is where that dysfunction, that collective insanity, can be most clearly recognized. A further factor is that this dysfunction is actually intensifying and accelerating.
The First World War broke out in 1914. Destructive and cruel wars, motivated by fear, greed, and the desire for power, had been common occurrences throughout human history, as had slavery, torture, and widespread violence inflicted for religious and ideological reasons. Humans suffered more at the hands of each other than through natural disasters. By the year 1914, however, the highly intelligent human mind had invented not only the internal combustion engine, but also bombs, machine guns, submarines, flame throwers, and poison gas. Intelligence in the service of madness! In static trench warfare in France and Belgium, millions of men perished to gain a few miles of mud. When the war was over in 1918, the survivors look in horror and incomprehension upon the devastation left behind: ten million human beings killed and many more maimed or disfigured. Never before had human madness been so destructive in its effect, so clearly visible. Little did they know that this was only the beginning.
By the end of the century, the number of people who died a violent death at the hand of their fellow humans would rise to more than one hundred million. They died not only through wars between nations, but also through mass exterminations and genocide, such as the murder of twenty million “class enemies, spies, and traitors” in the Soviet Union under Stalin or the unspeakable horrors of the Holocaust in Nazi Germany. They also died in countless smaller internal conflicts, such as the Spanish civil war or during the Khmer Rouge regime in Cambodia when a quarter of that country’s population was murdered.
Chỉ cần xem tin tức hằng ngày trên truyền hình là ta có thể thấy cơn điên thật sự chưa lắng xuống và nó còn đang tiếp diễn ở thế kỷ 21. Một khía cạnh khác của sự tha hóa tập thể do cách suy nghĩ sai lầm của con người là ở chỗ nhân loại đã và đang tiếp tục gây ra những tàn phá chưa từng có đối với các sinh vật khác và trên chính hành tinh mà chúng ta đang sống. Những cánh rừng, nơi cung cấp dưỡng khí đang bị hủy hoại cùng các loài động thực vật ở đó; các loài thú bị giam hãm và sống khốn khổ trong các nông trại; sự ô nhiễm của sông ngòi, đại dương và bầu khí quyển. Do lòng tham, do không nhận thức được mối liên quan giữa mình với vũ trụ nên con người cứ đeo đuổi những hành vi, mà nếu không kiểm soát được, sẽ dẫn đến sự diệt vong của chính chúng ta.
We only need to watch the daily news on television to realize that the madness has not abated, that is continuing into the twenty-first century. Another aspect of the collective dysfunction of the human mind is the unprecedented violence that humans are inflicting on other life-forms and the planet itself - the destruction of oxygen-producing forests and other plant and animal life; ill-treatment of animals in factory farms; and poisoning of rivers, oceans, and air. Driven by greed, ignorant of their connectedness to the whole, humans persist in behavior that, if continued unchecked, can only result in their own destruction.
Phần lớn lịch sử loài người là lịch sử của sự điên cuồng, biểu hiện ngay trong tâm điểm của nó là thân phận con người. Nếu lịch sử loài người được biểu hiện qua bệnh sử của một cá nhân thì bệnh lý là: chứng mê lầm kinh niên, xu hướng bệnh hoạn dẫn đến chuyện giết người hay hành động một cách tàn bạo chống lại những gì họ cho là “kẻ thù” – do sự mê mờ của họ đã được phóng chiếu ra bên ngoài. Đó là một sự mất trí, xen vào đó chỉ vài giây ngắn ngủi là có sự tỉnh táo, sáng suốt.
The collective manifestations of the insanity that lies at the heart of the human condition constitute the greater part of human history. It is to a large extent a history of madness. If the history of humanity were the clinical case history of a single human being, the diagnosis would have to be: chronic paranoid delusions, a pathological propensity to commit murder and acts of extreme violence and cruelty against his perceived “enemies” - his own unconsciousness projected outward. Criminally insane, with a few brief lucid intervals.
Nỗi sợ hãi, lòng tham và khát vọng quyền lực là động lực tâm lý nằm phía sau của không chỉ các cuộc chiến tranh và bạo lực giữa các nước, các bộ tộc, các tôn giáo, các ý thức hệ mà còn là nguyên nhân của những xung đột không ngừng trong các quan hệ cá nhân. Chúng tạo nên sự méo mó trong cách bạn nghĩ về người khác và về chính mình. Những động lực tâm lý đó làm cho bạn có khuynh hướng suy diễn sai lầm về mọi tình huống, dẫn đến những hành động rất sai lạc, cốt chỉ để giúp bạn thoát khỏi cảm giác sợ hãi thường trực và tiếp tay cho nhu yếu muốn tích lũy của cải ở trong bạn. Nhưng nhu yếu tích lũy của cải này là một cái hố không đáy mà bạn không bao giờ có thể lấp đầy hay thỏa mãn được.
Fear, greed, and the desire for power are the psychological motivating forces not only behind warfare and violence between nations, tribes, religions, and ideologies, but also the cause of incessant conflict in personal relationships. They bring about a distortion in your perception of other people and yourself. Through them, you misinterpret every situation, leading to misguided action designed to rid you of fear and satisfy your need for more, a bottomless hole that can never be filled.
Điều quan trọng mà bạn cần nhận ra là nỗi sợ hãi thường trực, lòng tham lam và khát vọng tranh giành quyền lực ở trong bạn không phải là sự tha hóa mà chúng ta đang đề cập ở đây, vì những thứ này chỉ là hệ quả được tạo ra từ sự tha hóa – đó là sự mê mờ sâu đậm trong tâm thức mê lầm của tập thể, được tiềm ẩn trong cách nghĩ của mỗi con người(15). Nhiều tôn giáo đã khuyên chúng ta nên từ bỏ lòng ham muốn và sợ hãi. Nhưng những lời khuyên ấy thường không mấy thành công vì chúng chưa đụng được đến gốc rễ của sự băng hoại. Nỗi sợ hãi, lòng tham và khát vọng tranh giành quyền lực chưa phải là nguyên nhân cơ bản gây ra vấn đề. Vì nếu không có sự chuyển hóa tận gốc trong chính tâm thức bạn về cách bạn nhìn đời sống(16) thì những cố gắng như để trở thành một người tốt hơn chung quy cũng chỉ là một mong muốn bất thành, dù đây có vẻ như là một điều cao thượng, hay đáng làm. Dù bạn có trở thành một người tốt thì đây cũng chỉ là một phần của cùng một sự tha hóa, một trạng thái tự tôn rất tinh vi, vì lòng ham muốn có nhiều hơn chỉ để củng cố thêm cho cá nhân mình. Bạn chỉ có thể trở thành tốt hơn bằng cách nhận ra sự tinh khiết, những gì cao thượng đã có sẵn ở trong mình và làm cho những phẩm chất thánh thiện ấy được biểu lộ ra. Điều này chỉ xảy ra khi bạn có sự chuyển hóa cơ bản trong nhận thức của mình(17).
It is important to realize, however, that fear, greed, and the desire for power are not the dysfunction that we are speaking of but are themselves created by the dysfunction which is a deep-seated collective delusion that lies within the mind of each human being. A number of spiritual teachings tell us to let go of fear and desire. But those spiritual practices are usually unsuccessful. They haven’t gone to the root of the dysfunction. Fear, greed, and desire for power are not the ultimate causal factors. Trying to become a good or better human being sounds like a commendable and high-minded thing to do, yet it is an endeavor you cannot ultimately succeed in unless there is a shift in consciousness. This is because it is still part of the same dysfunction, a more subtle and rarefied form of self-enhancement, of desire for more and a strengthening of one’s conceptual identity, one’s self-image. You do not become good by trying to be good, but by finding the goodness that is already within you, and allowing that goodness to emerge. But it can only emerge if something fundamental changes in your state of consciousness.
The history of Communism, originally inspired by noble ideals, clearly illustrates what happens when people attempt to change external reality - create a new earth - without any prior change in their inner reality, their state of consciousness. They make plans without taking into account the blueprint for dysfunction that every human being carries within: the ego.
Sự trỗi dậy của nhận thức mới
THE ARISING NEW CONSCIOUSNESS
Hầu hết các tôn giáo và các trường phái duy linh cổ xưa đều cho rằng trong trạng thái “bình thường” trí năng của ta thường mang sẵn một sự mê mờ bẩm sinh. Tuy nhiên sự mê mờ ấy là cái mà ta có thể vượt qua, đó là khả năng chuyển hóa sâu sắc những mê mờ này trong tâm thức của con người. Ấn Độ giáo và Phật giáo gọi đó là sự tỉnh thức , Chúa Jesus gọi là sự cứu rỗi.
Most ancient religions and spiritual traditions share the common insight - that our “normal” state of mind is marred by a fundamental defect. However, out of this insight into the nature of the human condition - we may call it the bad news - arises a second insight: the good news of the possibility of a radical transformation of human consciousness. In Hindu teachings (and sometimes in Buddhism also), this transformation is called enlightenment. In the teachings of Jesus, it is salvation, and in Buddhism, it is the end of suffering. Liberation and awakening are other terms used to describe this transformation.
Thành tựu vĩ đại nhất của nhân loại không phải là các tác phẩm nghệ thuật hay các công trình khoa học hay công nghệ mà là nhận ra tính tha hóa, sự điên rồ trong chính bản thân mình. Một vài người đã nhận ra được điều này và Đức Thích Ca, sống ở Ấn Độ cách đây gần 2.600 năm, có lẽ là người đầu tiên hoàn toàn nhận thức được điều này. Sau này người ta tôn ngài là Phật (Buddha). Buddha có nghĩa là Bậc tỉnh thức. Cùng thời gian đó, ở Trung Hoa có một bậc thầy giác ngộ khác là Lão Tử. Những lời giáo huấn thâm thúy và sâu sắc nhất của Ngài đã được ghi chép lại trong cuốn Đạo Đức Kinh.
The greatest achievement of humanity is not its works of art, science, or technology, but the recognition of its own dysfunction, its own madness. In the distant past, this recognition already came to a few individuals. A man called Gautama Siddhartha, who lived 2,600 years ago in India, was perhaps the first who saw it with absolute clarity. Later the title Buddha was conferred upon him. Buddha means “the awakened one.” At abut the same time, another of humanity’s early awakened teachers emerged in China. His name was Lao Tzu. He left a record of his teaching in the form of one of the most profound spiritual books ever written, the Tao Te Ching.
Dĩ nhiên nếu ta nhận ra sự mất trí trong ta thì đó cũng là khởi đầu của quá trình tỉnh thức, chữa lành và vượt thoát. Do đó trên hành tinh này đã khởi đầu cho một chiều nhận thức mới, một quá trình nở hoa trong tâm thức của nhân loại. Những vị thầy ấy đã dạy chúng ta về những lầm lạc, khổ đau và mê mờ. Họ chỉ ra hậu quả của cách sống vô minh, cách suy nghĩ và hành động lầm lạc của con người thời đó và những thống khổ họ đã tạo ra cho nhau. Những bậc thầy thời ấy cũng chỉ ra khả năng tỉnh thức từ cách sống lầm lạc cũ mà mọi người đều cho là rất “bình thường”. Họ đã vạch ra một con đường tâm linh để chúng ta có thể đi theo.
To recognize one’s own insanity, is of course, the arising of sanity, the beginning of healing and transcendence. A new dimension of consciousness had begun to emerge on the planet, a first tentative flowering. Those rare individuals then spoke to their contemporaries. They spoke of sin, of suffering, of delusion. They said, “Look how you live. See what you are doing, the suffering you create.” They then pointed to the possibility of awakening from the collective nightmare of “normal” human existence. They showed the way.
Thế nhưng thế gian lúc đó chưa sẵn sàng để nghe những lời dạy đó và vào thời điểm đó, quá trình tỉnh thức cũng chỉ mới ở giai đoạn ban đầu. Kết quả là những người thời đó và ngay cả sau này thường hiểu họ một cách sai lạc. Sau bao nhiêu thế kỷ, càng có nhiều thứ được thêm vào để phản ảnh những suy diễn lệch lạc đó, mà những thứ này chẳng ăn nhập gì với những lời dạy lúc ban đầu. Những lời dạy – để chỉ cho ta một con đường thoát ra khỏi sự tha hóa của trí năng(18), khỏi tính chất điên rồ của tập thể – đã bị xuyên tạc và trở thành một bộ phận của cơn mất trí.
The world was not yet ready for them, and yet they were a vital and necessary part of human awakening. Inevitably, they were mostly misunderstood by their contemporaries, as well as by subsequent generations. Their teachings, although both simple and powerful, became distorted and misinterpreted, in some cases even as they were recorded in writing by their disciples. Over the centuries, many things were added that had nothing to do with the original teachings, but were reflections of a fundamental misunderstanding. Some of the teachers were ridiculed, reviled, or killed; others came to be worshipped as gods. Teachings that pointed the way beyond the dysfunction o the human mind, the way out of the collective insanity, were distorted and became themselves part of the insanity.
Vì thế tôn giáo phần nhiều có tính chất chia rẽ hơn là hòa hợp. Thay vì mang lại nhận thức về tính Nhất Thể căn bản của mọi loài, để chấm dứt bạo động và oán thù, thì họ lại gây thêm oán thù và bạo động, gây thêm chia rẽ giữa các dân tộc cũng như giữa các tôn giáo và ngay cả trong cùng một tôn giáo. Chúng trở thành các hệ tư tưởng, hệ đức tin để người ta đồng nhất với họ, hoặc dùng nó để củng cố cảm nhận sai lầm về bản ngã. Vì vậy người ta cho rằng mình luôn “đúng” và những người khác là “sai”. Con người đã sáng tạo ra hình ảnh của “Thượng Đế” qua trí óc tưởng tượng hạn hẹp của chính mình. Một biểu tượng không-thể-diễn-bày đã bị quy thành một vị thần linh mà ta phải tin và tôn thờ.
And so religions, to a large extent, became divisive rather than unifying forces. Instead of bringing about an ending of violence and hatred through a realization of the fundamental oneness of all life, they brought more violence and hatred, more divisions between people as well as between different religions and even withing the same religion. They became ideologies, belief systems people could identify with and so use them to enhance their false sense of self. Through them, they could make themselves “right” and others “wrong” and thus define their identity through their enemies, the “others,” the “nonbelievers” or “wrong believers” who not infrequently they saw themselves justified in killing. Man made “God” in his own image. The eternal, the infinite, and unnameable was reduced to a mental idol that you had to believe in and worship as “my god” or “our god.”
Cho dù đã có biết bao nhiêu hành vi điên rồ nhân danh tôn giáo thì ở gốc rễ của những lời giảng này vẫn là ánh sáng của chân lý. đã chiếu qua tầng tầng lớp lớp những hiểu lầm và sự bóp méo . Để cảm nhận được nguồn ánh sáng này, ta phải chứng nghiệm được ánh sáng chân lý ấy trong chính mình. Và lịch sử lúc nào cũng có một số người đã chứng nghiệm được sự chuyển hóa trong nhận thức và nhận diện được trong mình những gì mà tất cả tôn giáo đều nói đến. Để mô tả cái chân lý không-thể-diễn-bày đó, họ đã dùng các khái niệm của chính tôn giáo mình.
And yet... and yet... in spite of all the insane deeds perpetrated in the name of religion, the Truth to which they point still shines at their core. It still shines, however dimly, through layers upon layers of distortion and misinterpretation. It is unlikely, however, that you will be able to perceive it there unless you have at least already had glimpse of that Truth within yourself. Throughout history, there have always been rare individuals who experienced a shift in consciousness and so realized within themselves that toward which all religions point. To describe that non-conceptual Truth, they then used the conceptual framework of their own religions.
Qua các vị đó, các trường phái hay các trào lưu phát triển ngay trong chính nội bộ của các tôn giáo lớn và đây không những là một sự phục sinh, mà trong vài trường hợp, còn làm sáng tỏ hơn những chân lý trong các lời răn dạy cổ xưa. Hầu hết các trường phái này đều có tính chất phản kháng. Họ bác bỏ, đả phá tầng tầng lớp lớp những khái niệm chết cứng và các cơ chế đã củng cố những tư tưởng sai lạc, và vì vậy mà các hàng giáo phẩm đều nhìn họ với cặp mắt nghi ngờ và thù nghịch. Khác với các tôn giáo chính thống, những giáo lý của họ nhấn mạnh đến sự tỉnh thức và những chuyển hóa tự thân. Chính qua những trường phái hay trào lưu âm thầm này mà các tôn giáo lớn có thêm sức mạnh chuyển hóa, bắt nguồn từ những lời răn dạy cổ xưa, dù trong hầu hết các trường hợp, có rất ít người tiếp cận được những giáo lý chân chính này. Do đó, số lượng người tiếp thu chưa bao giờ đủ lớn để tạo nên một tác động có ý nghĩa lên sự mê mờ sâu đậm của tập thể. Trong khi đó, qua thời gian, một số trường phái đã không còn hữu ích nữa vì đã trở nên quá hình thức và đi theo những giáo điều quá cứng nhắc.
Through some of those men and women, “schools” or movements developed within all major religions that represented not only a rediscovery, but in some cases an intensification of the light of the original teaching. This is how Gnosticism and mysticism came into existence in early and medieval Christianity, Sufism in the Islamic religion, Hasidism and Kabbala in Judaism, Advaita Vedanta in Hinduism, Zen and Dzogchen in Buddhism. Most of these schools were iconoclastic. They did away with layers upon layers of deadening conceptualization and mental belief structures, and for this reason most of them were viewed with suspicion and often hostility by the established religious hierarchies. Unlike mainstream religion, their teachings emphasized realization and inner transformation. It is through those esoteric schools or movements that the major religions regained the transformative power of the original teachings, although in most cases, only a small minority of people had access to them. Their numbers were never large enough to have any significant impact on the deep collective unconsciousness of the majority. Over time, some of those schools themselves became too rigidly formalized or conceptualized to remain effective.
Tâm linh và tôn giáo
SPIRITUALITY AND RELIGION
Vậy thì vai trò của các tôn giáo chính thống trong việc hình thành ý thức mới là gì? Nhiều người đã nhận thức được sự khác biệt giữa tâm linh và tôn giáo. Họ đã nhận thấy rằng có được một hệ tín ngưỡng – tập hợp của những tư tưởng mà ta xem là tuyệt đối đúng – sẽ không làm cho bạn có nhiều chất tâm linh hơn người khác, dù đó là tín ngưỡng gì. Thật ra thì khi bạn càng khép mình vào một hệ tư tưởng, vào một tôn giáo thì bạn càng tách rời với chiều không gian tâm linh ở trong bạn. Chúng ta thường dễ bị vướng mắc vào cạm bẫy này khi cho rằng chân lý chỉ là suy tư, nhất là khi bạn hoàn toàn tự đồng nhất mình với những suy tư ở trong đầu mình, hoặc thích tuyên bố rằng “tôi đã nắm được chân lý” khi không ý thức được rằng mình chỉ đang bảo vệ cho một hình ảnh của cá nhân mình. Họ không nhận ra những giới hạn của suy tư(19). Dưới con mắt họ thì nếu bạn không tin theo hoặc suy nghĩ giống hệt như họ thì phần sai đã nằm về phía bạn và trong quá khứ, cách đây không lâu, họ hẳn sẽ giết bạn mà chẳng thấy có gì sai trái cả. Ngay cả trong thời đại này, vẫn còn rất nhiều người suy nghĩ và hành xử như thế.
What is the role o the established religions in the arising of the new consciousness? Many people are already aware of the difference between spirituality and religion. They realize that having a belief system- a set of thoughts that you regard as the absolute truth - does not make you spiritual no matter what the nature of those beliefs is. In fact, the more you make your thoughts (beliefs) into your identity, the more cut off you are from the spiritual dimension within yourself. Many “religious” people are stuck at that level. They equate truth with thought, and as they are completely identified with thought (their mind), they claim to be in sole possession of the truth in a n unconscious attempt to protect their identity. They don’t realize the limitations of thought. Unless you believe (think) exactly as they do, you are wrong in their eyes, and in the not-too-distant past, they would have felt justified in killing you for that. And some still do, even now.
Một chiều hướng tâm linh mới, tức là sự cải biến nhận thức, đang phát triển trên một quy mô rộng lớn, nằm ngoài cơ cấu của những tôn giáo đã được thể chế hóa hiện nay. Ngay trong các tôn giáo bị lý luận và suy tư chi phối thì vẫn có những nhóm thiên về tâm linh mặc dù hệ thống thứ bậc đã được thể chế hóa luôn cảm thấy bị đe dọa bởi những nhóm này và luôn tìm cách trấn áp. Như vậy, sự khai mở ra một chiều tâm linh có quy mô rộng lớn, thoát ra khỏi những cơ chế tôn giáo là một phát triển hoàn toàn mới. Điều này trước đây có thể là điều không tưởng tượng được, đặc biệt ở phương Tây, nơi trí năng chi phối nhiều nhất, nơi mà giáo hội Cơ đốc có uy quyền rất lớn đối với các trào lưu tâm linh. Ví dụ, bạn không thể tự dưng đứng lên nói chuyện về một đề tài tâm linh mà không có sự thỏa thuận trước với nhà thờ. Họ sẽ làm cho bạn im ngay. Còn giờ đây thì đã có những dấu hiệu thay đổi lớn ngay trong các nhà thờ và các tôn giáo. Đây là điều làm chúng ta rất ấm lòng và cảm thấy tri ân mặc dù đó mới chỉ là chút dấu hiệu cởi mở ban đầu.
The new spirituality, the transformation of consciousness, is arising to a large extent outside of the structures of the existing institutionalized religions. There were always pockets of spirituality even in mind-dominated religions, although the institutionalized hierarchies felt threatened by them and often tried to suppress them. A large-scale opening of spirituality outside of the religious structures is an entirely new development. In the past, this would have been inconceivable, especially in the West, the most mind-dominated of all cultures, where the Christian church had a virtual franchise on spirituality. You couldn’t just stand up and give a spiritual talk or publish a spiritual book unless you were sanctioned by the church, and if you were not, they would quickly silence you. But now, even within certain churches and religions, there are signs of change. It is heartwarming, and one is grateful for even the slightest signs of openness, such as Pope John Paul II visiting a mosque as well as a synagogue.
Phần thì do những giáo huấn phát sinh bên ngoài các tôn giáo hiện thời, phần thì do sự xâm nhập của những giáo huấn cổ từ phương Đông, ngày càng có nhiều tín đồ các tôn giáo truyền thống ở Tây phương cởi bỏ được thái độ tự đồng nhất mình với hình tướng, với những giáo điều và những hệ tín ngưỡng khắt khe và khám phá ra được chiều sâu nguyên thủy trong chính truyền thống tâm linh của họ cũng như trong chính họ. Họ nhận ra rằng sự “giác ngộ về tâm linh” của họ chẳng liên quan gì đến những điều họ cần phải tin mà liên quan lớn đến cách sống của họ. Ngược lại, mức độ chín chắn về tâm linh của bạn sẽ hướng dẫn cách bạn hành xử và giao tiếp với người khác.
Partly as a result of the spiritual teachings that have arisen outside the established religions, but also due to an influx of the ancient Eastern wisdom teachings, a growing number of followers of traditional religions are able to let go of identification with form, dogma, and rigid belief systems and discover the original depth that is hidden within their own spiritual tradition at the same time as they discover the depth within themselves. They realize that how “spiritual” you are has nothing to do with what you believe but everything to do with your state of consciousness. This, in turn, determines how you act in the world and interact with others.
Những ai không thể vượt qua những hình thức bên ngoài của truyền thống tâm linh của mình thì họ ngày càng lún sâu vào các tín điều, tức là lún sâu vào thói quen suy tư. Giờ đây chúng ta đang chứng kiến không những một sự thâm nhập chưa từng thấy của một tâm thức mới mà còn là sự cố thủ và chống trả của bản ngã, tức là thứ tâm thức cũ ở trong ta. Một số tôn giáo sẽ mở rộng cửa để chào đón nhận thức mới này, một số khác thì sẽ khép kín để củng cố thêm vị thế suy tư của mình(20) và trở thành một bộ phận của những cơ cấu chống đối còn sót lại, qua đó bản ngã có tính tập thể sẽ tự bảo vệ cho nó, chống lại những gì có vẻ đe dọa cho bản ngã của tập thể ấy. Có những giáo phái tín ngưỡng về căn bản chỉ là những thực thể đầy tính chấp ngã, tự đồng nhất mình một cách cứng nhắc với những vị thế, quan điểm trong cách suy tư của họ, không cho phép những cách suy nghĩ mới đi vào.
Those unable to look beyond form become even more deeply entrenched in their beliefs, that is to say, in their mind. We are witnessing not only an unprecedented influx of consciousness at this time but also an entrenchment and intensification of the ego. Some religious institutions will be open to the new consciousness; others will harden their doctrinal positions and become part of all those other man-made structures through which the collective ego will defend itself and “fight back.” Some churches, sects, cults, or religious movements are basically collective egoic entities, as rigidly identified with their mental positions as the followers of any political ideology that is closed to any alternative interpretation of reality.
Nhưng trước sau gì thì bản ngã cũ ở trong ta rồi cùng sẽ tự phân rã và tất cả những cơ chế đã được thiết lập vững chắc, cho dù đó là các cơ chế tôn giáo, tổ chức… cũng sẽ tự phân rã từ bên trong, dù hiện tại những nền móng ấy có vững chắc đến đâu.
But the ego is destined to dissolve, and all its ossified structures, whether they be religious or other institutions, corporations, or governments, will disintegrate from within, no matter how deeply entrenched they appear to be. The most rigid structures, the most impervious to change, will collapse first. This has already happened in the case of Soviet Communism. How deeply entrenched, how solid and monolithic it appeared, and yet within a few years, it disintegrated from within. No one foresaw this. All were taken by surprise. There are many more such surprises in store for us.
Sự cấp bách của việc chuyển hóa tâm thức
THE URGENCY OF TRANSFORMATION
Khi gặp sự khủng hoảng đến tận gốc, khi những lề thói xưa cũ trong cách giao tiếp với nhau và với thiên nhiên không còn tác dụng, khi mà sự tồn vong bị đe dọa bởi những thử thách tưởng chừng không vượt qua được, thì một cá thể hay một loài sinh vật hoặc là bị diệt vong hoặc vượt qua được những giới hạn của điều kiện sống của mình bằng một bước nhảy vọt trong quá trình tiến hóa(21).
When faced with a radical crisis, when the old way of being in the world, of interacting with each other and with the realm of nature doesn’t work anymore, when survival is threatened by seemingly insurmountable problems, an individual life-form - or a species - will either die or become extinct or rise above the limitations of its condition through an evolutionary leap.
Người ta cho rằng sự sống trên hành tinh này phát xuất từ biển. Khi trên mặt đất chưa có sự sống thì biển khơi đã tràn ngập các giống loài. Một lúc nào đó một số sinh vật ở ngoài biển đã mạo hiểm tràn lên bờ. Sau khi bò lên bờ được vài mét, chúng quá kiệt sức và phải trở lại với mặt nước. Sau bao nhiêu cố gắng liên tục, cuối cùng rồi chúng cũng bắt đầu thích nghi với đời sống trên mặt đất, chân mọc ra thay cho vây để di chuyển và phổi hình thành để thở, thay thế cho mang của loài cá. Sở dĩ chúng dám mạo hiểm tiến vào một môi trường lạ lẫm như thế và phải trải qua những biến đổi sâu sắc như thế có lẽ vì phải đối diện với một tình huống rất cấp bách. Chẳng hạn như nước biển ở nhiều nơi có thể rút cạn đi qua hàng ngàn năm, buộc tôm cá phải rời nơi cư trú và tiến hóa.
It is believed that the life-forms on this planet first evolved in the sea. When there were no animals yet to be found on land, the sea was already teeming with life. Then at some point, one of the sea creatures must have started to venture onto dry land. It would perhaps crawl a few inches at first, then exhausted by the enormous gravitational pull of the planet, it would return to the water, where gravity is almost nonexistent and where it could live with much greater ease. And then it tried again and again and again, and much later would adapt to life on land, grow feet instead of fins, develop lungs instead of gills. It seems unlikely that a species would venture into such an alien environment and undergo an evolutionary transformation unless it was compelled to do so by some crisis situation. There may have been a large sea area that got cut off from the main ocean where the water gradually receded over thousands of years, forcing fish to leave their habitat and evolve.
Làm sao để thích nghi với một cuộc khủng hoảng tận gốc rễ đang xảy ra và đe dọa chính sự tồn vong của chúng ta? Đây cũng là thách thức của nhân loại ngày nay. Lần đầu tiên sự sinh tồn của chính hành tinh này đang bị đe dọa bởi sự băng hoại của thứ lý luận và tư duy mang đầy tính chấp ngã(22). Sự tha hóa này, dù đã được Đức Phật nêu lên cách đây gần 2600 năm, ngày nay đang được nền khoa học kỹ thuật hiện đại làm cho trầm trọng thêm. Mãi cho đến gần đây thì những chuyển hóa về nhận thức chỉ xảy ra ở một thiểu số người thuộc nhiều tôn giáo hay văn hóa khác nhau. Tuy nhiên sự phát triển toàn diện và rộng khắp của tâm thức mới chưa xảy ra vì tình thế chưa bắt buộc.
Responding to a radical crisis that threatens our very survival - this is humanity’s challenge now. The dysfunction of the egoic human mind, recognized already more than 2,500 years ago by the ancient wisdom teachers and now magnified through science and technology, is for the first time threatening the survival of the planet. Until very recently, the transformation of human consciousness - also pointed to by the ancient teachers - was no more than a possibility, realized by a few rare individuals here and there, irrespective of cultural or religious background. A widespread flowering of human consciousness did not happen because it was not yet imperative.
Nhưng rồi sẽ đến lúc rất nhiều người sẽ nhận ra - nếu họ chưa nhận ra - rằng nhân loại đang đứng trước một chọn lựa nghiệt ngã: tiến hóa hay diệt vong. Sự cáo chung của những mô thức trí năng xưa cũ và sự trỗi dậy của một chiều nhận thức mới đã và đang xảy ra trong đại đa số, càng ngày càng đông hơn.
A significant portion of the earth’s population will soon recognize, if they haven’t already done so, that humanity is now faced with a stark choice: Evolve or die. A still relatively small but rapidly growing percentage of humanity is already experiencing within themselves the breakup of the old egoic mind patterns and the emergence of a new dimension of consciousness.
Giờ đây những gì đang trỗi dậy không phải là một cơ chế tín ngưỡng mới, một tôn giáo mới, hay một câu chuyện thần thoại mới... mà chính là sự chấm dứt các thứ đó. Sự chuyển hóa này sâu sắc hơn những gì đang nằm ở trong đầu bạn, sâu sắc hơn những suy nghĩ của bạn. Thực vậy, ngay tâm điểm của thứ nhận thức mới là sự vượt thoát lên những suy tư nhằm nhận ra một chiều không gian sâu lắng ở trong bạn mà chắc chắn là rộng lớn, bao la hơn là suy tưởng. Từ đó bạn không còn cố đi tìm nhân cách hay cảm nhận về chính mình qua những dòng suy nghĩ miên man, mà khi còn ở trong vòng kiềm tỏa của thứ nhận thức cũ, bạn cứ luôn lầm tưởng rằng bạn chỉ là những suy nghĩ miên man đó. Quả là một sự giải thoát khi bạn nhận ra rằng “Ồ, tiếng nói luôn vang vọng, ồn ào ấy ở trong đầu không phải là Tôi”. Vậy thì Bạn là gì? Là phần nhận ra tiếng nói ấy. Bạn chính là nhận thức nằm đằng sau những ý nghĩ; bạn chính là không gian trong đó những ý nghĩ hay cảm xúc được biểu hiện.
What is arising now is not a new belief system, a new religion, spiritual ideology, or mythology. We are coming to the end not only of mythologies but also of ideologies and belief systems. The change goes deeper than the content of your mind, deeper than your thoughts. In fact, at the heart of the new consciousness is the transcendence of thought, the newfound ability of rising above thought, of realizing a dimension within yourself that is infinitely more vast than thought. You then no longer derive your identity, your sense of who you are, from the incessant stream of thinking that in the old consciousness you take to be yourself. What a liberation to realize that the “voice in my head” is not who I am. Who am I then? The one who sees that. The awareness that is prior to thought, the space in which the thought - or the emotion or sense perception - happens.
Bản ngã chẳng qua chỉ là sự tự đồng nhất mình với hình tướng, chủ yếu là với những dòng suy tư ở trong bạn. Nếu quả điều Ác là một cái gì có thật thì định nghĩa của nó là: hoàn toàn tự đồng nhất với hình tướng: với vật chất, với cách suy nghĩ sai lầm, và với những cảm xúc tiêu cực ở trong mình. Điều này dẫn đến sự hoàn toàn mất nhận thức về khả năng tiếp cận của chính mình với mọi thứ chung quanh, cũng như với Cội Nguồn. Chính sự lãng quên này là khổ đau và mê mờ, là tội lỗi nguyên thủy mà Thánh kinh đã ám chỉ. Khi sự mê mờ này chi phối những gì bạn nói, nghĩ và làm thì thế giới mà bạn tạo ra sẽ là một thế giới gì? Để trả lời câu hỏi này, bạn hãy nhìn xem mọi người đã đối xử với nhau như thế nào, hoặc đọc thêm về lịch sử, hay xem tin tức trên truyền hình.
Ego is no more than this: identification with form, which primarily means thought forms. If evil has any reality - and it has a relative, not an absolute, reality - this is also its definition: complete identification with form - physical forms, thought forms, emotional forms. This results in a total unawareness of my connectedness with the whole, my intrinsic oneness with every “other” as well as with the Source. This forgetfulness is original sin, suffering, delusion. When this delusion of utter separateness underlies and governs whatever I think, say, and do, what kind of world do I create? To find the answer to this, observe how humans relate to each other, read a history book, or watch the news on television tonight.
Nếu cách suy nghĩ cũ của bạn không thay đổi, thì cho dù bạn có làm gì đi nữa thì bạn cũng chỉ luôn tái tạo lại cùng một thế giới cũ, cùng những thói xấu và những tha hóa mới mà về căn bản là giống với thế giới trước đây.
If the structures of the human mind remain unchanged, we will always end up re-creating fundamentally the same world, the same evils, the same dysfunction.
Một thế giới mới và một cõi trời mới
A NEW HEAVEN AND A NEW EARTH
Tên cuốn sách này xuất phát từ một lời tiên tri trong Thánh kinh mà giờ đây có vẻ phù hợp hơn bao giờ hết. Lời tiên tri có ghi ở kinh Tân Ước và Cựu Ước nói về sự sụp đổ của trật tự thế giới cũ đồng thời với sự trỗi dậy của một thế giới mới và một cõi trời mới. Cõi trời mới ở đây không phải là một địa điểm mà thực ra đó là một cách nhận thức mới trong tâm thức của con người. Đây là ẩn nghĩa của danh từ này, và đây cũng là điều mà Chúa Jesus muốn nói. Còn thế giới chỉ là sự biểu hiện bên ngoài, dưới muôn vàn hình tướng, và luôn là những phản ánh bên trong của tâm thức bạn. Tâm thức của con người và sự sống trên hành tinh này có liên quan nội tại với nhau. “Cõi trời mới” chính là sự xuất hiện của một thứ tâm thức mới và “thế giới mới” chính là sự phản ánh của tâm thức mới này qua thế giới vật chất. Vì cuộc sống của con người và nhận thức của con người thật ra là một, là Nhất thể với sự sống trên hành tinh này, nên khi thứ nhận thức cũ đã biến mất thì sẽ có những biến đổi đồng bộ về mặt địa lý và khí hậu ở nhiều nơi trên thế giới như những gì chúng ta đang chứng kiến.
The inspiration for the title of this book came from a Bible prophecy that seems more applicable now than at any other time in human history. It occurs in both the Old and the New Testament and speaks of the collapse of the existing world order and the arising of “a new heaven and a new earth.”1 We need to understand here that heaven is not a location but refers to the inner realm of consciousness. This is the esoteric meaning of the word, and this is also its meaning in the teachings of Jesus. Earth, on the other hand, is the outer manifestation in form, which is always a reflection of the inner. Collective human consciousness and life on our planet are intrinsically connected. “A new heaven” is the emergence of a transformed state of human consciousness, and “a new earth” is its reflection in the physical realm. Since human life and human consciousness are intrinsically one with the life of the planet, as the old consciousness dissolves, there are bound to be synchronistic geographic and climatic natural upheavals in many parts of the planet, some of which we are already witnessing now.


CHÚ THÍCH


1. Nhà huyền học (mystic): Những người thực tập tâm linh chuyên chú trọng đến một khía cạnh chuyên biệt như: kinh nghiệm trực tiếp về Thực Tại Tối Hậu, hoặc hợp nhất với Thượng Đế. Thực Tại Tối Hậu là thứ thực tại mà ta thường không thể tiếp xúc bằng suy tư, lý luận hay qua các giác quan thông thường. Phương pháp thực tập của nhà huyền học là một phương pháp tự thể nghiệm thực tại một cách sinh động bằng trực giác để đạt đến sự cảm thông với sự vật, hoặc một đối tượng của công trình quán chiếu tâm linh mà không qua quá trình lý luận hay phân tích của trí năng.
2. Học cách sống như một bông hoa: Đó là sống an nhiên, không đắn đo, suy tính. Là hiến dâng mùi thơm, vẻ đẹp, sự mong manh và trong trắng của một bông hoa, đồng thời bạn cũng hiến tặng những thiên khiếu sẵn có mà bạn có thể chưa nhận ra ở mình. Chúa Jesus cũng thường nói với học trò của ngài: "Các con hãy nhìn những bông hoa huệ ở ngoài cánh đồng kia. Chúng chẳng loay hoay, mà cũng chẳng nhọc nhằn”.
3. Bài pháp vô ngôn: Tức là bài thuyết pháp trong im lặng của Đức Phật trên hội Linh Sơn khi Ngài im lặng đưa một bông hoa lên nhìn và mỉm cười đưa mắt nhìn khắp thính chúng mà không thuyết giảng gì cả. Chỉ khi ánh mắt của Đức Phật nhìn đến ngài Ca Diếp thì ngài Ca Diếp liền mỉm cười hiểu ý của Đức Phật, vì ý của Đức Phật hôm đó là chỉ muốn nhắc học trò của mình về cái “tánh thấy” luôn hiện hữu ở trong mình qua nhãn thức. Do đó Đức Phật liền công bố trước đại chúng: “Ta có chánh pháp nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm nay trao truyền cho Ma Ha Ca Diếp”! Đa số chúng ta không nhận ra tự “tánh thấy”, một trong những biểu hiện của Phật Tánh, nên tâm ta thường bị cuốn theo trần cảnh, chạy theo những đường nét, hình dáng, khuôn mặt... mà chúng ta nhìn thấy trong đời sống. Đây là trạng thái “quên mình, chạy theo vật”, đánh mất “tánh thấy” chân thật ở trong mình.
4. Hình tướng: Một thuật ngữ trong Thiền có thể tương đương với danh từ hình thức hoặc hình thái, tức là sự biểu hiện một cái gì đó thành một cái gì mà ta có thể hình dung, nhìn thấy, hoặc khái niệm được. Một đóa hoa, một ý nghĩ, một con người... là những hình tướng mà ta có thể nhìn thấy, hoặc khái niệm được.
5. Hoa vẫn là một biểu tượng, qua hình tướng, những gì thiêng liêng, cao quý nhất: Có lẽ Quách Thoại (1930-1957) đã cảm nhận được điều này khi viết bài thơ:
Thược Dược
Đứng im bên hàng dậu
Em mỉm nụ nhiệm mầu
Lặng nhìn em kinh ngạc
Vừa thoáng nghe em hát
Lời ca em thiên thâu
Ta sụp lạy cúi đầu.
6. Cái không có hình tướng: Hình tướng là những gì biểu hiện ra thành một vật (một cánh hoa, một ý nghĩ, cảm xúc, con người…) mà ta có thể tạo thành một khái niệm ở trong ta. Cái không có hình tướng tức là Vô Tướng, tức là bản chất sâu lắng, không hình tướng của ta; cội nguồn của tất cả mọi vật.
7. Nhất thể: Tính đồng nhất, không thể chia cắt của mọi vật.
8. Tâm: Theo Phật giáo, Tâm là gốc của mọi vật.
9. Tự đồng nhất mình với hình hài vật chất và những trạng thái tâm lý khổ đau của mình: Vì không biết bản chất không hình tướng, vô sinh, bất diệt ở trong ta, do đó chúng ta có thói quen rất sai lầm khi ta cho rằng “Tôi chính là cơ thể này”, hay cho rằng mình là những ý nghĩ tiêu cực, những biểu hiện tình cảm nhất thời như sợ hãi, khổ đau, giận dữ, buồn bã... thường phát sinh ở trong mình. Câu 'Nhận giặc làm con' của Hòa thượng Thích Thanh Từ thường dạy cũng là có ý như vậy. Chúng ta tưởng lầm những suy nghĩ lăng xăng ở trong đầu là mình và bị chúng lôi kéo phải làm theo, tạo nên những hậu quả tiêu cực, những nghiệp báo xấu.
10. Thoát ra khỏi tình trạng tự đồng nhất mình với hình tướng: Hình tướng có thể là những thứ bên ngoài như tài sản, địa vị trong xã hội, tiếng tăm, thân thể của mình,… Vì không tự biết bản chất vô hình tướng, không sinh, không diệt ở trong mình, chúng ta thường có thói quen vô thức tự đồng hóa mình với những hình tướng không bền vững đó.
11. Bản ngã: Tức là ấn tượng sai lầm của bạn về tính xác thực của một cá thể, một con người biệt lập ở trong bạn; “con người” không hề có thực này luôn cảm thấy sợ hãi, xa lạ, tách biệt với mọi người và với thế giới chung quanh. Bản ngã chỉ biết lo toan cho riêng mình. Bản ngã chỉ xuất hiện khi đầu óc bạn bận rộn chạy theo những suy tư, lo lắng xảy ra liên miên ở trong lòng mình. Nhưng khi bạn im lắng lại và tâm không vướng chút suy tư nào thì bản ngã ấy cũng không còn hiện hữu ở trong bạn nữa.
12. Ramana Maharshi (1879-1950): Một trong những phương pháp mà Ramana thường thực tập và dạy học trò của ngài là phương pháp tự vấn, tức là tự đặt câu hỏi cho mình mỗi khi ta có sự vướng mắc hay khó khăn với một vấn đề gì. Ví dụ bạn rơi vào một trạng thái mê đắm (hay giận dữ, khổ đau) về một điều gì, thì bạn thường có ấn tượng rằng có bản ngã, có “một con người” ở trong bạn đang cảm thấy mê đắm “cái này” và bạn cảm thấy bị cuốn hút, muốn đồng hóa mình với cảm xúc mê đắm đó và bạn thường không thể cưỡng lại được, phải làm theo những gì cảm xúc đó sai khiến. Những lúc như thế, bạn thử tập để cho tâm mình yên lắng lại và tự quan sát cảm xúc đó và đặt một câu hỏi cho mình: “Ai đang cảm thấy mê đắm?”. Rồi bạn tiếp tục lần theo ấn tượng về Cái Tôi này để đi vào sâu bên trong tâm thức của mình, đi mãi vào trong cho đến khi nào bạn không còn chỗ để đi nữa thì bạn sẽ thấy rằng « Ồ, không có ai ở trong này cả! ». Cái Tôi ấy, con người mà bạn tưởng là có thực đó chỉ là một ấn tượng, không hề có thật! Lúc đó bạn sẽ tỉnh thức Vô Ngã là gì.
13. “Trầm luân là khi bạn cả tin vào một ý nghĩ”: Câu nói của ngài Ramana quả là một tiếng sấm lớn thức tỉnh bạn ra khỏi thế giới của suy tư và mê mờ. Một ý nghĩ tự nó không phải là một vấn đề, vì ý nghĩ chỉ là một biểu hiện, một cái gì xảy ra ở trong tâm thức của con người, như một đợt sóng vừa gợn lên trên bề mặt của đại dương; khổ đau và trầm luân là khi bạn cả tin vào ý nghĩ ấy, nhất là một ý nghĩ: “Tôi chỉ là một cá thể, một con người biệt lập với mọi người và với mọi thứ chung quanh tôi”. Đó là lý do Thiền dạy ta hãy có ý thức những gì đang xảy ra ở trong đầu mình, để không cả tin vào những ý nghĩ tiêu cực, những cảm xúc lo sợ miên man, không có chủ đích thường nảy sinh ở trong đầu mình.
14. Sự tha hóa, vô minh cố hữu: Mỗi người trong chúng ta bẩm sinh thường cảm thấy xa lạ, cách biệt với Thượng đế, với cội nguồn. Đó là sự tha hóa cố hữu ở trong ta. Nhưng đó chỉ là cảm giác mê mờ của bản ngã, là sai lầm đầu tiên, và từ sai lầm nguyên thủy đó, nó là nghiệp căn chính đưa chúng ta đi vào những sai lầm và khổ đau khác.
15. Cách suy tư của mỗi con người: Bẩm sinh trong mỗi người chúng ta là lối suy tư dựa trên những kinh nghiệm mà bạn đã biết trong quá khứ. Khi nghe một điều gì, bạn không thực sự lắng nghe hay cho phép điều mình đang nghe thấm vào trong mình, mà bạn bận rộn đi tìm câu trả lời, hoặc lo đối chiếu với những điều mà bạn đã biết trong quá khứ. Nếu điều bạn nghe phù hợp và quen thuộc với những gì bạn đã biết thì bạn chấp nhận “Ồ, điều này đúng!”. Ngược lại, nếu đây là một điều gì bạn chưa từng nghe thì bạn sẽ nhanh chóng bác bỏ: “Không” và bạn cho đó là một điều sai, một cái gì mà bạn không thể chấp nhận được. Có thể bạn không nhận ra rằng: “Ồ, điều này mình không biết là thực hay không”, hoặc “Mình chưa từng nghe ai nói như vậy từ trước đến giờ!”. Do đó, bạn ít có cơ hội để học thêm được điều gì mới lạ. Chân lý có đến “gõ cửa” với bạn thì bạn cũng không thể cửa mở lòng mình để chào đón chân lý, vì bạn luôn bị sai khiến bởi thói quen suy tư so sánh, phân biệt sai lầm như trên. Hơn nữa, những điều mà bạn “biết” trong quá khứ lại là những điều hầu như là luôn luôn sai lầm vì những hiểu biết đó thường đi qua lăng kính lệch lạc của bản ngã ở trong bạn. Do đó tiêu chuẩn ước định của bạn về một điều gì bạn vừa nghe là đúng hay sai được đo lường với một cái gì mà bạn đã biết trong quá khứ, và thước đo ấy là công cụ vốn đã sai lầm từ căn bản.
16. Cách bạn nhìn đời sống: Trong chiều sâu tâm thức, mỗi người chúng ta có một cảm giác xa lạ, tách biệt với đời sống và với môi trường chung quanh. Đây là cách nhìn sai lệch của bản ngã, là gốc rễ của mọi vấn đề.
17. Sự chuyển hóa cơ bản trong nhận thức của mình: Là cảm nhận một cách sâu xa rằng “Ồ, thế giới này và tất cả mọi thứ chính là tôi; không thể tách rời nhau”. Dĩ nhiên điều này phải là một thực chứng về tâm linh, chứ không thể là điều mà bạn đạt được bằng suy tư hay lý luận suông.
18. Sự tha hóa của trí năng: Một trong những biểu hiện của sự tha hóa và khổ đau này là không muốn có mặt với những gì đang xảy ra trong phút giây này. Mặc dù bạn đang trong giờ đi làm ở công ty, nhưng bạn thực không cảm thấy hứng thú gì trong những công việc mà bạn phải làm. Bạn tránh né công việc hoặc chỉ trông đến giờ tan sở. Nhưng thái độ làm việc này làm cho công việc mỗi ngày của bạn trở thành một cái gì bất đắc dĩ, một sự lưu đày. Cho đến khi bạn có thể tìm được một công việc gì khác thú vị hơn, thì đây là công việc mà bạn đang làm, và trong lúc này, công việc này là công việc đang giúp bạn và gia đình bạn có lợi tức để sinh sống. Do đó, bạn muốn vượt qua sự tha hóa này và thực tập để buông bỏ thái độ chống đối ở trong mình vì đó chỉ là biểu hiện của bản ngã: Luôn chống đối những gì đang xảy ra trong phút giây hiện tại. Khi đang ở công ty, bạn tập chú tâm vào những việc mình đang làm; khi ở nhà, bạn chú tâm vào những việc bạn cần làm ở nhà; được như thế, bạn sẽ tiếp xúc được với niềm vui khi bạn làm những công việc đó.
19. Những giới hạn của suy tư: Vì bản ngã là một lăng kính lệch lạc về cách chúng ta nhìn đời sống nên suy tư của chúng ta qua bản ngã thường phiến diện và đầy sai lầm. Bạn thử kiểm chứng lại mỗi ngày những ý kiến của mình về những điều mình nghĩ về chuyện này, chuyện nọ, hoặc người này, người nọ,... thì bạn sẽ thấy những tri giác ấy thường méo mó và đầy sai lầm. Và vì hiểu sai vấn đề, bạn thường tự làm khổ mình, làm khổ những người chung quanh.
20. Củng cố thêm vị thế suy tư của mình: Là xây dựng và bảo vệ cho vị thế suy tư, tức là quan điểm và cách tư duy của bạn, cách bạn nhìn cuộc đời.
21. Hoặc là bị diệt vong hoặc vượt qua được những giới hạn của điều kiện sống của mình bằng một bước nhảy vọt lớn trong quá trình tiến hóa: Tức nguyên lý “Cùng tắc biến, biến tắc thông” của Dịch học. Nếu nhân loại vẫn không ý thức được tính băng hoại trong cách chúng ta nhìn đời sống, cách chúng ta đối xử với nhau, trong cách chúng ta khai thác và hủy hoại thiên nhiên,... thì chúng ta không thể tránh được viễn cảnh rằng địa cầu có nguy cơ bị hủy diệt.
22. Thứ lý trí mang đầy tính chấp ngã: Tức lối suy tư, cư xử từ chỗ sai lầm khi cả tin rằng “Có bản ngã, có một con người, một cái “Tôi” riêng rẽ, tách biệt, không dính gì đến người khác và thế giới chung quanh”.

    « Xem chương trước «      « Sách này có 11 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Học đạo trong đời


Sống thiền


Những tâm tình cô đơn


Các tông phái đạo Phật

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 3.129.253.214 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

Việt Nam (161 lượt xem) - Senegal (13 lượt xem) - Hoa Kỳ (12 lượt xem) - ... ...