Bây giờ đây, ta đang ngồi thiền thật đẹp. Thân ta bất động và vững chãi,  tâm ta an vui và tĩnh lặng. Chúng ta nhẹ nhàng chú tâm theo dõi hơi thở  của mình, ra, vào, ra, vào... Tĩnh lặng và an định. Mọi việc đều thật  hoàn hảo. 
  Bỗng dưng có một tư tưởng không biết từ đâu đột ngột khởi lên trong đầu:  “Phải chi bây giờ mình có được một cây kem thì tuyệt biết mấy!” Đó rõ  ràng là một sự xao lãng. Ta ghi nhận nó, và đem mình trở lại chú tâm vào  hơi thở, nhẹ nhàng theo dõi, ra, vào... và rồi: “Mình đã trả tiền nước tháng này chưa nhỉ?” Lại là một sự xao  lãng. Ta lại ghi nhận nó, và mang sự chú ý trở về với hơi thở. Ra, vào,  ra, vào... “Cuốn phim mà mình chờ đợi sẽ ra ngày hôm nay. Chắc là mình  sẽ đi coi tối thứ Ba này. Không, thứ Ba không được, nhưng mà thứ Tư cũng  bận lắm. Chắc là phải thứ Năm...” Lại thêm một sự xao lãng nữa! 
  Bạn lại kéo mình ra khỏi nó và trở về với hơi thở, nhưng có điều là khi  bạn chưa kịp làm việc ấy thì đã có một giọng nói nhỏ trong đầu: “Ái chà,  nhức mỏi lưng quá! Chịu không nổi!” Và rồi cứ tiếp tục mãi, hết xao lãng  này đến xao lãng khác, dường như là bất tận...
  Thật là bực mình! Nhưng thật ra thiền tập là chỉ có vậy thôi. Những sự  xao lãng đó là vấn đề chính. Chủ yếu là làm sao để đối trị được chúng,  học cách ghi nhận chúng mà không để bị dính mắc. Đó là lý do chúng ta  ngồi thiền. Những sự xao lãng, lo nghĩ vu vơ ấy rất là phiền toái, nhưng  cái tâm bình thường của ta hoạt động như vậy đó. Đừng bao giờ cho nó là  kẻ thù. Nó chỉ đơn giản là một thực tại của ta. Và nếu như bạn muốn thay  đổi bất cứ một điều gì, trước hết bạn phải thấy được thực chất của nó.
  Lần đầu tiên, khi bạn mới ngồi xuống tập trung sự chú ý vào hơi thở, bạn  sẽ nhận thấy rằng tâm ý của mình lung tung vô cùng. Nó như một con ngựa  bất kham, chạy nhảy khắp nơi. Nó húc đầu này, đá vó đầu kia. Nó rượt  đuổi chính nó, chạy theo một vòng tròn bất tận. Nó nói chuyện không  ngừng. Nó suy nghĩ. Nó tưởng tượng và mơ mộng viển vông. Nhưng bạn đừng  bao giờ bực tức vì những chuyện ấy. Đó cũng là tự nhiên thôi. Mỗi khi  tâm ta xao lãng, không còn chú tâm vào đề mục thiền quán, ta chỉ cần  quán sát sự xao lãng ấy trong chính niệm.
  Trong thiền quán, khi chúng ta nói đến sự xao lãng là nói đến bất kỳ một  vấn đề nào lôi kéo sự chú ý rời xa hơi thở. Điều này khiến ta có thêm  một quy luật mới rất quan trọng trong sự hành thiền. Đó là, mỗi khi có  một trạng thái tâm thức nào khởi lên, đủ mạnh để kéo ta ra khỏi đề mục  thiền quán, hãy tạm thời chú tâm vào chính sự xao lãng ấy. Tạm thời dùng  sự xao lãng ấy làm đối tượng thiền quán trong lúc đó. Xin bạn nhớ rõ là  chỉ tạm thời. Điều đó rất quan trọng. Tôi không bao giờ khuyên bạn giữa  đường đổi ngựa. Và tôi cũng không khuyên bạn cứ vài ba giây lại đổi đề  mục thiền quán của mình một lần. Hơi thở lúc nào cũng là đối tượng tập  trung chủ yếu của ta. Bạn chuyển sự chú ý của mình sang sự xao lãng chỉ  trong thời gian vừa đủ để có thể nhận diện được những đặc tính của nó.  Nó là gì? Nó mạnh đến đâu? Và nó kéo dài đến bao lâu?
  Vừa khi bạn có được câu trả lời cho những câu hỏi ấy, không cần bằng  lời, là bạn đã xong việc với nó và có thể đem sự chú ý trở về với hơi  thở. Ở đây cũng vậy, xin bạn để ý đến cụm từ không cần bằng lời. Những  câu hỏi ấy không phải là sự mời gọi chúng ta “nhiều chuyện” thêm. Vì làm  như thế là chúng ta đang đi ngược chiều về phía gia tăng sự suy nghĩ.  Chúng ta muốn mình bớt lại sự suy nghĩ. Chúng ta muốn trở về với một  kinh nghiệm thuần túy của hơi thở, không cần ngôn từ, không cần ý niệm.  Những câu hỏi ấy là để giúp bạn thoát ra được sự xao lãng, thấy được tự  tính của nó, chứ không phải để bạn trở nên bị dính mắc hơn. Chúng có mục  đích, chỉ trong một bước, giúp bạn nhận diện được cái gì làm mình xao  lãng và rồi buông bỏ nó - một công mà hai chuyện!
  Vấn đề là thế này: Khi một sự xao lãng, hay bất cứ một trạng thái tâm  thức nào khác khởi lên trong tâm, nó xuất hiện trước trong phần tiềm  thức của ta. Và ngay sau đó, nó mới hiển lộ lên trên phần ý thức. Cái  khoảnh khắc sai biệt ấy rất là quan trọng. Vì chính ngay trong khoảng  thời gian tích tắc ấy, sự dính mắc xảy ra. Sự dính mắc ấy có mặt gần như  là tức thì, và nó xảy ra ngay trong phần tiềm thức của mình. Khi sự dính  mắc ấy khởi lên trên phần ý thức, khi ta bắt đầu nhận diện được, là ta  đã bị nó kiềm chế mất rồi! Và chừng ấy, mỗi lúc ta quán sát nó, ta lại  càng bị nó trói chặt vào thêm. Lúc này, thật ra ta không còn có khả năng  quán sát bằng một sự nhận diện đơn thuần nữa, ta chỉ suy nghĩ về nó mà  thôi. Những việc ấy diễn ra trong một chớp mắt. Và vấn đề nằm ngay ở chỗ  đó. Khi ta có ý thức về một sự xao lãng nào, thì ta đã bị sự xao lãng ấy  kiềm chế mình rồi!
  Ba câu hỏi: “Nó là gì? Nó mạnh đến đâu? Và, nó kéo dài bao lâu?” là một  phương thuốc thần diệu để chữa trị cho chứng bệnh này. Muốn trả lời được  ba câu hỏi đó, ta bắt buộc phải hiểu được tính chất của sự xao lãng ấy  một cách sâu sắc. Và muốn làm được việc ấy, ta phải tách rời ra khỏi nó,  bước lùi lại một bước, và nhìn một cách khách quan. Chúng ta phải thôi  không suy nghĩ cái tư tưởng ấy, hoặc cảm nhận cái cảm thụ ấy, thì mới có  thể quán sát nó một cách khách quan được. Tiến trình đó chính là một bài  thực tập về chính niệm, một ý thức và sự nhận diện đơn thuần. Năng lực  kiềm hãm của sự xao lãng sẽ bị phá vỡ và chính niệm sẽ được thiết lập  trở lại. Và từ đó, chính niệm sẽ nhẹ nhàng trở về với đối tượng chính  của nó là hơi thở. 
  Khi bạn mới bắt đầu thực tập phương pháp này, có lẽ bạn sẽ phải nhờ đến  ngôn từ. Bạn đặt câu hỏi thành lời và bạn có câu đáp lại cũng bằng lời.  Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, bạn sẽ không phải cần đến chúng nữa.  Một khi bạn thực tập quen rồi, bạn chỉ cần đơn giản ghi nhận sự xao  lãng, nhận diện những đặc tính của nó, và trở về với hơi thở. Đó là một  quá trình không cần ý niệm và rất nhanh. Sự xao lãng tự nó có thể là bất  cứ một điều gì: một tiếng động, một cảm giác, một cảm thụ, một mơ tưởng,  bất cứ là một điều gì... Nhưng cho dù là gì đi chăng nữa, ta cũng đừng  bao giờ đàn áp nó, đừng cố xua đuổi nó ra khỏi tâm mình. Việc ấy hoàn  toàn không cần thiết. Chỉ cần quán sát nó trong chính niệm, bằng một sự  nhận diện đơn thuần. Lặng lẽ khảo sát sự xao lãng ấy, rồi tự nó sẽ biến  mất. Và tự nhiên bạn sẽ thấy sự chú ý tự nhiên nhẹ nhàng trở về với hơi  thở. Cũng đừng bao giờ tự trách mình vì đã có những xao lãng ấy. Sự xao  lãng là tự nhiên. Chúng đến và chúng đi.
  Nhưng cho dù đã có những lời khuyên, rồi bạn vẫn sẽ tự trách mình sau  mỗi lần xao lãng. Và điều đó là tự nhiên. Hãy quán sát cảm giác hối  trách ấy như là một sự xao lãng khác, và rồi trở lại với hơi thở của  mình.
  Hãy theo dõi chuỗi tiến trình ấy: Thở. Thở. Một tư tưởng vu vơ khởi lên.  Sự bực mình khởi lên vì thấy mình suy nghĩ. Tiếp đó, một sự tự trách  mình. Bạn trở về với hơi thở. Thở. Thở. Nó là một chu kỳ rất tự nhiên và  nhịp nhàng, nếu bạn biết thực hành cho đúng. Dĩ nhiên, chìa khóa của vấn  đề là sự kiên trì. Nếu bạn có thể nhận diện những xao lãng này mà không  bị dính mắc, mọi việc sẽ trở nên rất dễ dàng. Bạn sẽ nhẹ nhàng lướt  xuyên qua những xao lãng ấy, và trở về với hơi thở. 
  Lẽ dĩ nhiên, cũng cùng một sự xao lãng ấy có thể sẽ khởi lên trong giây  phút kế tiếp. Nhưng ta chỉ cần nhận diện nó bằng chính niệm. Nếu đó là  một tư tưởng xao lãng có gốc rễ lâu đời, nó có thể sẽ còn tiếp tục trong  một thời gian dài, nhiều khi là hàng năm. Nhưng đừng bao giờ bực mình.  Đó cũng là chuyện tự nhiên. Hãy nhận diện sự xao lãng ấy và trở về với  hơi thở. Đừng chống cự lại chúng, chỉ tốn công vô ích mà thôi. Mỗi năng  lượng bạn đưa vào sự chống cự sẽ nuôi dưỡng cho những tư tưởng ấy, và  làm cho chúng mạnh thêm. Vì vậy, đừng bao giờ cố gắng xua đuổi những tư  tưởng ấy ra khỏi tâm mình. Bạn sẽ không bao giờ thắng được trận chiến  đó. Chỉ cần quán sát nó bằng chính niệm, và tự nó cuối cùng sẽ đi mất.  Thật kỳ lạ, nhưng bạn càng đơn thuần nhận diện nó bao nhiêu thì nó sẽ  càng trở nên yếu đi bấy nhiêu. Nếu bạn quán sát đủ lâu, và đủ năng lực  của chính niệm, nó sẽ biến mất vĩnh viễn. Còn khi bị chống cự lại, nó sẽ  càng mạnh thêm. Hãy quán sát nó một cách khách quan, nó sẽ héo hon và  tàn tạ đi.
  Chính niệm là một chức năng có thể tháo gỡ và hoá giải sự xao lãng.  Những xao lãng nho nhỏ có thể được giải trừ chỉ bằng một cái nhìn thoáng  qua thôi. Đem ánh sáng chính niệm chiếu lên nó, và lập tức nó tan biến  ngay, không bao giờ trở lại nữa. Còn những ý tưởng có gốc rễ sâu xa, đã  trở thành tập quán thói quen, đòi hỏi ta phải có nhiều kiên trì, dùng  chính niệm tinh chuyên quán chiếu cho đến khi nào sợi dây trói buộc bị  đứt tung. Thật ra, sự xao lãng cũng giống như một con cọp giấy! Tự nó  không có một quyền lực nào hết. Nó phải được nuôi dưỡng thường xuyên,  nếu không nó sẽ chết. Và khi ta từ chối không nuôi dưỡng nó bằng sự sợ  hãi, sân hận và lòng ham muốn của mình nữa, nó sẽ bị tiêu diệt.
  Chính niệm là khía cạnh quan trọng nhất của thiền quán. Nó là yếu tố chủ  yếu mà ta đang cố gắng trau giồi. Vì vậy, ta không cần phải chống lại sự  xao lãng. Điều quan trọng là có chính niệm về việc gì đang xảy ra chứ  không phải kiểm soát những gì đang xảy ra. Bạn nên nhớ, định lực chỉ là  một phương tiện. Nó là thứ yếu so với sự nhận diện đơn thuần. Dưới cái  nhìn của chính niệm thì không có một cái gì là xao lãng hết. Bất cứ điều  gì khởi lên trong tâm cũng đều được xem như một cơ hội để giúp ta thực  tập chính niệm. Hơi thở được chọn làm đối tượng cơ bản giúp ta tập trung  tâm ý. Và sự xao lãng là đối tượng thứ hai để giúp ta chú tâm. Nó cũng  có thật và là một phần của thực tại, cũng như hơi thở. Thật ra, đối  tượng chính niệm của ta là gì, việc ấy không quan trọng. Bạn có thể có  chính niệm về hơi thở, hoặc có chính niệm về sự xao lãng của mình. Bạn  có thể có ý thức rõ rằng tâm mình đang an tĩnh và có định lực mạnh mẽ,  hoặc thấy rõ rằng tâm mình đang hỗn độn, rối ren và định lực hoàn toàn  suy sụp. Tất cả đều là chính niệm. Ta chỉ cần tiếp tục duy trì sự chính  niệm đó, và cuối cùng định lực sẽ được phục hồi.
  Mục đích của thiền quán không phải là để chú tâm vào hơi thở mãi mãi và  không bị gián đoạn. Đó là một mục tiêu vô cùng vô ích. Mục đích của  thiền quán cũng không phải để đạt được một tâm hoàn toàn bất động và an  tĩnh. Mặc dù đó là một trạng thái rất tốt đẹp, nhưng tự nó không thể nào  đưa ta đến giải thoát được. Mục tiêu của thiền quán là để có được một  chính niệm liên tục, không gián đoạn. Chính niệm, và chỉ có chính niệm,  mới có thể đưa ta tới giác ngộ.
  Sự xao lãng có đủ mọi hình tướng, mức độ, và mùi vị. Tâm lý học Phật  giáo phân chia chúng ra thành nhiều loại. Một trong những loại đó là  chướng ngại. Chúng được xem như là chướng ngại vì chúng ngăn trở hai yếu  tố thiền quán của ta: chính niệm và định lực. Ta cũng nên thận trọng chỗ  này: Chữ “chướng ngại” có vẻ mang một ý niệm hơi tiêu cực, mà thật ra  chúng là những trạng thái tâm thức mà ta muốn loại trừ. Nhưng điều ấy  không có nghĩa là ta phải đàn áp chúng, trốn tránh hoặc ghét bỏ chúng.
  Chúng ta hãy lấy lòng ham muốn làm một ví dụ. Ta muốn tránh không kéo  dài bất cứ một trạng thái ham muốn nào khi nó khởi lên, vì nó sẽ dẫn đến  sự ràng buộc và phiền não. Nhưng điều đó không có nghĩa là mỗi khi có  những tư tưởng ham muốn khởi lên, ta phải xua đuổi nó ra khỏi tâm mình.  Chúng ta chỉ cần đừng khuyến khích và nuôi dưỡng nó ở lại mà thôi. Ta để  cho nó đến, và ta để cho nó đi. 
  Khi ta nhận diện lòng ham muốn một cách đơn thuần, sẽ không có sự phê  phán, khen chê nào hết. Chúng ta chỉ đơn giản bước lùi lại và nhìn nó  khởi lên. Cả quá trình sinh động của sự ham muốn, từ đầu cho đến cuối,  cần được quán sát với cùng một thái độ ấy. Chúng ta không giúp thêm,  cũng không ngăn chận, và cũng không xen vào một chút nào hết. Nó ở bao  lâu thì nó sẽ ở bấy lâu. Và trong khi nó có mặt, ta sẽ học hỏi hết những  gì mình có thể học được. Chúng ta quán sát tác dụng của sự ham muốn. Ta  nhận thức việc nó gây phiền não cho ta và là gánh nặng cho kẻ khác như  thế nào. Ta ý thức rằng nó khiến ta lúc nào cũng cảm thấy không thoả  mãn, luôn ở trong một trạng thái thèm khát và thiếu thốn. Từ kinh nghiệm  trực tiếp đó, ta hiểu được sâu sắc sự ham muốn là một chướng ngại cho  ta. Và sự hiểu biết đó không phải là lý thuyết, mà là một thực nghiệm.
  Tất cả những chướng ngại khác cũng được đối trị cùng bằng một phương  thức ấy, và ở đây chúng ta sẽ xem xét chúng từng cái một. 
  Ham muốn
  Giả sử như trong lúc ngồi thiền có một kinh nghiệm dễ chịu nào đó khởi  lên khiến bạn bị xao lãng. Nó có thể là một mơ tưởng thú vị hoặc một ý  nghĩ tự hào. Nó có thể là một cảm giác hãnh diện. Nó có thể là một ý  tưởng thương yêu hoặc một cảm giác an vui do thiền quán mang lại. Cho  dầu đó là gì đi nữa, chắc chắn theo sau sẽ là một trạng thái ham muốn -  ta muốn có được những gì mình đang mơ tưởng, hoặc muốn kéo dài cảm giác  thú vị, dễ chịu ấy. Và cho dầu bất cứ nó là gì, bạn cần đối trị những sự  ham muốn ấy như sau. 
  Ghi nhận tư tưởng hoặc cảm xúc dễ chịu ấy khi nó khởi lên. Ghi nhận  trạng thái ham muốn đi kèm theo nó như là một cái gì riêng biệt. Ghi  nhận chính xác cường độ và tầm mức của sự ham muốn ấy. Và rồi, ghi nhận  xem nó kéo dài bao lâu và khi nào nó biến mất. Sau khi làm xong những  việc ấy, bạn đem sự chú ý trở về với hơi thở của mình. 
  Ghét bỏ
  Giả sử như trong lúc ngồi thiền có một kinh nghiệm khó chịu nào đó khởi  lên khiến bạn bị xao lãng. Nó có thể là một cái gì làm bạn sợ hãi hoặc  một sự lo âu, phiền toái nào đó. Nó có thể là một mặc cảm tội lỗi, buồn  chán hoặc một cái đau. Cho dù ý nghĩ hoặc cảm thụ đó là gì đi nữa, bạn  sẽ thấy mình tìm cách xua đuổi hoặc đàn áp nó - cố gắng trốn tránh,  chống cự hoặc chối bỏ nó. Và phương cách đối trị của ta ở đây cũng tương  tự. Hãy theo dõi sự phát sinh của tư tưởng hoặc cảm thụ khó chịu ấy. Ghi  nhận trạng thái ghét bỏ đi kèm theo nó. Quán sát xem nó kéo dài bao lâu  và khi nào thì qua mất. Và rồi đem sự chú ý trở về với hơi thở. 
  Hôn trầm
  Hôn trầm có nhiều cấp bậc và cường độ khác nhau, nó bao gồm từ một chút  uể oải cho đến một trạng thái hôn mê, không còn biết gì hết. Ở đây,  chúng ta nói về một trạng thái của tâm thức, chứ không phải là của cơ  thể. Buồn ngủ hoặc sự mệt mỏi của cơ thể là những điều hoàn toàn khác  hẳn và trong hệ thống phân loại của Phật học thường được xếp vào những  cảm thụ vật lý. Hôn trầm rất gần gũi với sự ghét bỏ, vì nó là một cách  khéo léo để tâm ta trốn tránh những vấn đề nào nó cảm thấy khó chịu. Hôn  trầm cũng giống như là ta tắt đi bộ máy tâm thức của mình, làm lu mờ đi  những tri giác và nhận thức của ta. Nó là một sự giả vờ ngu ngốc như  mình đang ngủ. 
  
Kích động
  Những trạng thái bất an và lo lắng là những biểu hiện của sự kích động  trong tâm. Tâm ta phóng nhảy khắp nơi, không chịu ở yên một chỗ. Bạn có  thể cứ suy đi, nghĩ lại loanh quanh chỉ có một vài vấn đề. Cái mạnh nhất  ở đây là một cảm thụ không an ổn. Tâm ta từ chối không chịu dừng yên ở  bất cứ nơi nào. Nó chạy nhảy không ngừng. Và phương thuốc cho tình trạng  này cũng tương tự. Sự bất an truyền đạt một cảm thụ đặc biệt đến tâm  thức ta. Bạn có thể cho nó là có một mùi vị hoặc một kết cấu đặc biệt  nào đó. Gọi đó là gì đi chăng nữa, cảm giác bất an ấy vẫn có những đặc  tính riêng biệt mà ta có thể nhận diện được. Hãy tìm nó. Khi bạn đã thấy  nó, hãy ghi nhận sự có mặt của nó. Ghi nhận khi nào nó khởi lên. Theo  dõi xem nó kéo dài bao lâu, và khi nào chấm dứt. Và rồi trở lại với hơi  thở. 
  Nghi ngờ
  Nghi ngờ cũng có một cảm giác cá biệt của nó trong tâm thức. Kinh điển  Pali diễn tả tâm trạng nghi ngờ rất hay. Nó cũng giống như cảm giác của  một người bị lạc lối hoang mang trong sa mạc, và anh ta đến một ngã tư  đường không có bảng chỉ dẫn. Nên đi theo lối nào đây? Không làm sao biết  được. Và anh ta cứ đứng đó phân vân mãi. 
  Một trong những hình thức nghi ngờ có mặt trong lúc ngồi thiền là những  câu độc thoại trong đầu, tương tự như thế này: “Tại sao mình lại cứ ngồi  yên như thế này để làm gì? Có thật sự ích lợi gì không chứ? Ồ! Nhất định  là có rồi. Nó giúp ích cho mình nhiều lắm. Trong sách nói như vậy mà.  Không đâu, việc này thật là điên rồ. Mất công sức, mất thì giờ thôi, chứ  chẳng có ích lợi gì hết. Nhưng không, mình sẽ không bao giờ bỏ cuộc.  Mình nói mình cố gắng học thiền, và mình sẽ nhất định học thiền. Mà mình  có cứng đầu quá không? Chẳng biết nữa. Mình chẳng biết gì hết...” Đừng  để bị rơi vào chiếc bẫy này. Nó cũng chỉ là một chướng ngại mà thôi. Một  làn hỏa mù của tâm thức, với mục đích không cho ta nhìn thấy được những  gì đang xảy ra trong giờ phút hiện tại. Muốn đối trị tâm ngờ vực, ta chỉ  cần ý thức được trạng thái thay đổi không yên này của tâm, như là một  đối tượng thiền quán. Đừng để bị kẹt trong chiếc bẫy ấy. Bước lùi lại và  nhìn nó cho rõ. Xem nó mạnh đến đâu. Xem khi nào nó đến và kéo dài bao  lâu. Rồi xem nó từ từ qua đi, và ta lại trở về với hơi thở. 
  Đó là những phương cách chung bạn có thể sử dụng để hóa giải bất cứ một  sự xao lãng nào khởi lên. Tôi dùng chữ xao lãng để chỉ cho bất cứ một  trạng thái nào khởi lên và làm trở ngại cho sự thiền tập của ta. Có một  số chướng ngại rất là vi tế. Tôi nghĩ chúng ta cũng nên nêu ra một vài  ví dụ. Những trạng thái tiêu cực đa số thường rất dễ nhận diện, như là:  bất an, sợ hãi, nóng giận, bức rức, chán nản và thất vọng.
  Sự dính mắc và tham muốn thì hơi khó nhận diện hơn một chút, vì chúng có  thể được áp dụng vào những gì chúng ta cho là cao thượng hoặc đáng quý.  Ta có thể ham muốn cho mình được hoàn thiện hơn. Ta có thể đeo đuổi  những đức tính tốt lành. Ta có thể dính mắc vào những kinh nghiệm an  tĩnh, hạnh phúc trong lúc ngồi thiền. Buông bỏ những cảm giác cao quý ấy  không phải là dễ. Nhưng cuối cùng, chúng cũng chỉ làm tăng trưởng thêm  lòng tham của ta mà thôi. Thật ra, chúng chỉ là một sự mong muốn được  thoả mãn và một cách khéo léo để tránh né thực tại.
  Nhưng khó nhận diện hơn hết là những trạng thái tâm thức tích cực mà nhẹ  nhàng len lỏi vào trong sự thiền tập của ta. Hạnh phúc, an vui, hài  lòng, cảm thông, và từ bi đối với tất cả mọi người ở khắp mọi nơi. Những  trạng thái này rất là ngọt ngào và tốt lành, đến nỗi ta không có lòng dạ  nào mà tự tách mình ra khỏi chúng. Nó khiến ta cảm thấy như là mình đã  phản bội nhân loại. Nhưng bạn đâu cần phải cảm thấy như vậy? Tôi không  bao giờ khuyên bạn nên bác bỏ những trạng thái tâm thức ấy, hoặc biến  mình trở thành gỗ đá. Tôi chỉ muốn bạn hãy nhìn chúng như chúng thật sự  đang hiện hữu. Chúng chỉ là những trạng thái của tâm thức. Chúng đến và  chúng đi. Chúng sinh lên rồi chúng diệt đi. Khi bạn tiếp tục thiền tập,  những trạng thái này sẽ càng xảy ra thường xuyên hơn. Điều quan trọng là  đừng để bị dính mắc vào chúng. Chỉ cần quán sát từng cái một khi nó khởi  lên. Xem nó là gì, mạnh bao nhiêu, và kéo dài đến bao lâu. Rồi xem nó từ  từ trôi đi mất. Nó cũng chỉ là một vở tuồng nữa trên sân khấu tâm thức  của mình mà thôi.
  Cũng giống như hơi thở có từng giai đoạn, những trạng thái tâm thức cũng  thế. Mỗi hơi thở có phần bắt đầu, phần giữa và phần cuối. Mỗi trạng thái  tâm thức có các giai đoạn sinh khởi, tăng trưởng và hoại diệt. Bạn nên  cố gắng quán sát để thấy rõ được những giai đoạn này. Lẽ dĩ nhiên việc  ấy không phải dễ. Như chúng ta đã biết, mỗi tư tưởng và cảm giác đều  khởi lên bắt đầu trước hết từ trong phần tiềm thức của ta, rồi sau đó  mới khởi lên trên bề mặt của ý thức. Thường thì ta chỉ ý thức được chúng  sau khi chúng đã xuất hiện trên bình diện ý thức, và có mặt ở đó trong  một thời gian. Thật ra, chúng ta chỉ ý thức được sự xao lãng sau khi nó  đã thôi không còn quấy rầy ta nữa, và đang bắt đầu phai mờ đi. Cũng  chính ngay ở điểm này, ta đột nhiên ý thức tự nãy giờ mình đang lo nghĩ,  mơ tưởng xa xôi, viển vông, hoặc là gì đó. Rõ ràng, lúc đó mọi việc cũng  đã quá trễ rồi. Chúng ta có thể gọi hiện tượng này là bắt con sư tử bằng  đuôi, hành động đó không khôn ngoan chút nào hết. Cũng giống như khi đối  diện với một con thú dữ, ta cũng phải tiến đến ngay trước những trạng  thái tâm thức của mình. Và với sự kiên trì, ta sẽ nhận diện được những  xao lãng ấy, khi chúng vừa mới khởi lên từ phần tiềm thức sâu kín trong  tâm.
  Vì những trạng thái tâm thức khởi lên từ dưới tiềm thức, muốn bắt được  ngay khi nó vừa xuất hiện, ta phải nới rộng nhận thức của mình xuống  dưới phần tiềm thức ấy. Việc này cũng hơi khó, vì ta không thể thấy được  những gì có mặt ở nơi đó, ít nhất là cũng không được rõ ràng như ở trên  bình diện ý thức. Nó đòi hỏi một sự thực tập. Và một định lực thâm sâu  cũng có ảnh hưởng rất nhiều đến khả năng ấy. Định lực sẽ làm chậm lại sự  xuất hiện của những trạng thái tâm thức này. Nó cho ta thời gian để cảm  nhận từng cái một, khi chúng vừa mới khởi lên từ phía dưới tiềm thức,  ngay cả trước khi ta thấy được sự có mặt của chúng trên phần ý thức.  Định lực sẽ giúp ta nới rộng nhận thức của mình xuống phần tăm tối còn  nằm sâu ở phía dưới, nơi tư tưởng và cảm giác của ta bắt đầu phát khởi.
  Khi định lực của bạn thâm sâu, bạn sẽ có khả năng nhìn thấy được những  tư tưởng và cảm giác chầm chậm khởi lên, riêng rẽ như những bong bóng  nước, mỗi cái cá biệt và có những khoảng trống ở giữa nhau. Nó nổi lên  thật chậm rãi từ dưới tiềm thức. Nó ở lại trên bề mặt ý thức một đôi  chút, rồi từ từ trôi đi mất.
  Nhận diện đơn thuần những trạng thái tâm thức là một công việc đòi hỏi  một sự chính xác đặc biệt. Nhất là đối với cảm thụ hoặc cảm xúc. Chúng  ta dễ đi quá đà đối với những cảm xúc của mình, có nghĩa là cộng thêm  vào đó những gì dư thừa. Và ta cũng rất dễ bị thiếu hụt, không tiếp xúc  hết, không nhận thức được hoàn toàn cảm xúc của mình. Mục tiêu mà ta  muốn đạt đến là kinh nghiệm được mỗi trạng thái tâm thức một cách thật  trọn vẹn, như nó thật sự đang hiện hữu, không thêm thắt vào và cũng  không bỏ sót bất cứ một điều gì hết. 
  Chúng ta hãy lấy một ví dụ về cái đau nơi chân của mình. Cái thật sự  đang có mặt ở đó chỉ là một dòng cảm giác thuần túy và biến chuyển. Nó  luôn luôn biến đổi, không bao giờ là cùng một cái, từ giây phút này sang  giây phút kế. Nó di chuyển từ chỗ này sang chỗ khác, và cường độ nó tăng  giảm khác nhau. Cái đau không phải là một vật. Nó là một sự kiện. Ta  không nên dán lên nó bất cứ một ý niệm nào, hoặc liên kết nó với bất cứ  một cái gì khác. Với một sự nhận diện đơn thuần, ta sẽ kinh nghiệm nó  đơn giản như là một dòng năng lượng có thứ tự trôi chảy, và ngoài ra  không là gì khác. Không có tư tưởng và không có sự bác bỏ. Chỉ là năng  lượng.
  Trên con đường thiền tập, chúng ta cần xét lại quan điểm của mình về vấn  đề hình thành khái niệm. Đối với đa số chúng ta, sự thành công trong học  đường và trong cuộc đời, là nhờ vào khả năng biết sử dụng, sắp xếp những  hiện tượng tâm thức một cách hợp lý. Đó là khả năng biết nhận định. Công  danh sự nghiệp, những thành công trong đời sống hằng ngày, những liên hệ  hạnh phúc... phần lớn những thành đạt ấy là nhờ vào khả năng biết nhận  định của mình. Nhưng trong thiền tập, chúng ta tạm gác bỏ qua một bên  tiến trình nhận định và sử dụng khái niệm ấy, và chú tâm trực tiếp đến  cái bản chất của những hiện tượng tâm thức. Trong thiền tập, chúng ta  muốn kinh nghiệm tâm thức mình một cách trực tiếp, khi mọi khái niệm  hoàn toàn chưa sinh khởi.
  Nhưng tâm bình thường của chúng ta lại nhận định cái hiện tượng ở chân  ấy là đau đớn. Ta nghĩ đến nó như là một “cái đau”. Nhưng đó chỉ là một  khái niệm. Nó là một nhãn hiệu ta dán lên trên cái cảm giác ấy. Rồi  chúng ta tạo nên một ảnh tượng trong đầu, hình ảnh của một cái đau, có  hình dạng rõ ràng. Bạn dường như thấy được một biểu đồ của cái chân đau,  và ngay chỗ bị đau được vẽ bằng những đường nét rõ ràng, và còn có màu  sắc nữa. Việc ấy rất sáng tạo và vô cùng thú vị, nhưng không phải là cái  ta muốn. Chúng chỉ là những khái niệm khô cứng được ta gắn kết vào thực  tại sinh động. Và thường thường ta sẽ tự cho rằng, “Chân tôi bị đau.”  “Tôi” là một khái niệm. Nó là một sự dư thừa cộng thêm vào cái kinh  nghiệm thuần túy của mình.
  Khi bạn thêm cái “tôi” vào là bạn tạo ra một khoảng cách giữa thực tại  và cái ý thức quán sát thực tại ấy. Những tư tưởng như là “tôi” hoặc  “của tôi” hoàn toàn không có chỗ đứng trong một kinh nghiệm trực tiếp.  Chúng không chỉ là những “phụ gia” vô ích, mà còn rất là thâm hiểm. Khi  ta mang cái “tôi” vào, tức là ta nhận cái đau là mình. Ta chỉ làm cho  cái đau ấy quan trọng thêm mà thôi. Và khi ta bỏ cái “tôi” ra ngoài, cái  đau sẽ không còn là đau đớn. Nó chỉ là một dòng năng lượng thuần túy có  cường độ cao. Nó còn có thể là kỳ diệu nữa kìa! Nếu bạn thấy cái “tôi”  ấy đang len lỏi vào trong kinh nghiệm của cái đau, hoặc bất cứ một cảm  giác nào khác, bạn hãy theo dõi nó trong chính niệm. Hãy nhận diện đơn  thuần cái hiện tượng nhận-cái-đau-làm-mình ấy của ta.
  Mục tiêu chung của chúng ta thật ra rất đơn giản. Ta muốn thật sự nhìn  thấy được mỗi cảm giác của mình, cho dù đó là đau đớn, hỷ lạc hay là  chán chường. Ta muốn kinh nghiệm được nó một cách trọn vẹn và thuần túy,  dưới một hình thái tự nhiên nhất, chưa bị làm sai lạc. Và chỉ có một  phương cách duy nhất mà thôi. Thời điểm của bạn phải thật là chính xác.  Ý thức về mỗi cảm giác phải được phối hợp ngay cùng một lúc với sự sinh  khởi của cảm giác ấy. Nếu bạn nắm bắt trễ một chút, bạn sẽ hụt mất phần  đầu, và không thấy được tất cả. Và nếu bạn vẫn còn nắm giữ cảm giác ấy,  khi nó đã phai mờ rồi, thì cái mà bạn giữ đó chỉ là ký ức về nó mà thôi.  Nó đã đi qua mất. Và trong khi bạn lo nắm giữ ký ức ấy, bạn sẽ bỏ lỡ cơ  hội nhìn thấy sự sinh khởi của một cảm giác kế tiếp. Đây là một công  việc vô cùng tinh tế. Bạn lúc nào cũng phải có mặt trong giây phút hiện  tại, tiếp nhận và rồi buông bỏ, mà không được một chút chậm trễ. Nó đòi  hỏi một sự tiếp xúc rất nhẹ nhàng. Sự liên hệ của bạn với cảm giác,  không bao giờ có thể là của quá khứ hoặc tương lai, nhưng luôn đơn giản  là cái ngay trong lúc này.
  Tâm bình thường của chúng ta lúc nào cũng tìm cách đặt khái niệm lên  trên mọi hiện tượng, và nó làm một cách rất khéo léo. Mỗi cảm giác sẽ  khơi dậy một chuỗi những ý niệm. Lấy ví dụ về cái nghe chẳng hạn. Bạn  đang ngồi thiền, và có ai đó ở phòng cạnh bên đánh rơi một cái đĩa. Âm  thanh ấy chạm vào tai bạn. Ngay lập tức trong đầu bạn hiện lên hình ảnh  của căn phòng cạnh bên. Có lẽ bạn cũng thấy luôn được người đánh rơi cái  đĩa ấy. Nếu đây là một khung cảnh quen thuộc, như là trong nhà bạn chẳng  hạn, có thể bạn sẽ hình dung ra tất cả như trong một cuốn phim 3 chiều,  về ai làm rơi đĩa và chiếc đĩa nào bị đánh rơi. Và toàn bộ chuỗi sự kiện  ấy xảy ra trong một chớp mắt. Nó nhảy vọt lên từ tiềm thức với những chi  tiết thật rõ rệt, trong sáng, và hấp dẫn đến nỗi nó tống khứ hết mọi  chuyện khác ra khỏi tâm ta. Chuyện gì đã xảy ra cho cái cảm giác nguyên  sơ lúc ban đầu, và cái kinh nghiệm nghe thuần tuý ấy? Nó hoàn toàn bị  đàn áp và lạc mất đâu đó trong những sự lộn xộn và quên lãng. Ta bỏ lỡ  thực tại. Ta đi vào một thế giới mộng tưởng.
  Đây là một ví dụ khác: Bạn đang ngồi thiền và chợt có một âm thanh chạm  đến tai mình. Nó là một tiếng động không rõ rệt lắm, một tiếng lạo xạo  đâu đó, mà có thể do bất cứ một cái gì. Và những gì xảy ra kế tiếp có  thể là thế này: “Cái gì vậy? Ai thế? Âm thanh ấy xuất phát từ đâu vậy?  Có xa chỗ mình ngồi không? Có gì nguy hiểm không?...” Và cứ thế mà tiếp  tục, không có câu trả lời, chỉ toàn là những tưởng tượng và phỏng đoán  của ta mà thôi.
  Nhận định bằng ý niệm là một tiến trình rất xảo quyệt và khôn khéo. Nó  len lỏi vào trong kinh nghiệm của ta, và rồi hoàn toàn chiếm đoạt hết.  Trong thiền tập, nếu ta nghe một âm thanh, ta chỉ cần nhận diện đơn  thuần về cái kinh nghiệm nghe ấy. Nó và chỉ có riêng nó mà thôi! Thật  ra, những gì xảy ra rất là đơn giản, mà nhiều khi vì vậy chúng ta lại bỏ  qua và không chịu nhìn thấy. Làn sóng âm thanh chạm vào màng nhĩ của ta  theo một phương cách đặc biệt nào đó. Những làn sóng ấy được chuyển  thành những tín hiệu điện trong bộ não, và rồi những tín hiệu ấy biểu  hiện thành một dạng âm thanh trong tâm thức của ta. Và chỉ có vậy thôi.  Không có hình ảnh. Không có phim chiếu. Không có ý niệm. Không có sự độc  thoại, thắc mắc. Chỉ đơn giản là một tiếng động. Thực tại không trang  điểm và đơn sơ một cách kỳ diệu. Khi bạn nghe một tiếng động, hãy có  chính niệm về tiến trình nghe đó. Còn tất cả những cái khác chỉ là dư  thừa, được thêm thắt vào. Bỏ chúng đi. Và luật đó có thể áp dụng hết cho  tất cả mọi cảm giác, mọi cảm thụ, mọi kinh nghiệm của bạn. Hãy nhìn lại  kinh nghiệm của chính mình cho thật kỹ. Đào xuyên qua hết những tầng lớp  của mớ đồ cũ vụn vặt trong tâm thức, để xem cái gì thật sự có mặt. Bạn  sẽ vô cùng kinh ngạc khi khám phá ra rằng nó đơn giản và nhiệm mầu đến  như thế nào!
  Cũng có những lúc, sẽ có nhiều cảm giác cùng khởi lên một lượt. Bạn có  một tư tưởng sợ hãi, một cảm giác co thắt trong bụng, một cái lưng đau,  ngứa ở lỗ tai bên trái, tất cả cùng có mặt trong một lúc. Đừng ngồi đó  bối rối. Đừng thay đổi tới lui, hoặc phân vân không biết nên chọn cái  nào làm đối tượng. Sẽ có một cái là mạnh nhất. Chỉ cần bạn mở rộng ra,  và hiện tượng nào dai dẳng nhất, nổi bật nhất, tự nó sẽ bắt bạn phải chú  ý đến nó. Hãy chú tâm đến nó một đôi chút, chỉ lâu đủ để nhìn thấy nó  phai mờ đi. Rồi trở về với hơi thở của mình. Nếu có một cái nào khác nổi  bật lên, hãy cho nó vào. Và khi xong rồi, lại trở về với hơi thở.
  Nhưng bạn nên cẩn thận, quá trình này cũng rất có thể bị lạm dụng. Đừng  cứ ngồi đó và tìm kiếm một cái gì để làm đối tượng chính niệm. Hãy luôn  giữ chính niệm trên hơi thở, cho đến khi có một cái gì khác xen vào lôi  kéo sự chú ý của mình đi. Khi nào bạn cảm thấy việc ấy xảy ra, đừng  chống cự lại. Hãy để sự chú ý của bạn nhẹ nhàng chuyển sang đối tượng  xao lãng ấy một cách tự nhiên, và giữ chính niệm ở đó cho đến khi nào nó  phai nhạt đi. Rồi trở về với hơi thở của mình. Đừng tìm kiếm thêm bất cứ  một hiện tượng vật lý hoặc tâm lý nào khác. Chỉ trở về chú ý đến hơi thở  của mình. Hãy để cho những đối tượng tự động đến với ta. Lẽ dĩ nhiên,  cũng có những lúc bạn ngủ gật đi một chút. Cho dù bạn đã thực tập lâu,  có lúc bạn sẽ giật mình tỉnh dậy, ý thức rằng từ nãy giờ mình đang ở đâu  đó! Đừng nản lòng. Hãy ý thức rõ rằng mình đã mê ngủ khoảng bao lâu và  trở về với hơi thở. Ta không cần phải có một phản ứng tiêu cực nào.  Chính sự ý thức rằng mình đã xao lãng tự nó đã là một hành động chính  niệm. Tự nó chính là một bài tập về sự chính niệm thuần túy, về sự nhận  diện đơn thuần.
  Chính niệm sẽ được tăng trưởng theo sự thực tập chính niệm. Cũng giống  như khi ta tập thể dục cho các cơ bắp vậy. Mỗi khi bạn tập luyện, bắp  thịt của bạn sẽ nở nang thêm một chút. Bạn làm cho nó được mạnh thêm một  chút. Sự thật bạn có cảm giác giật mình tỉnh giấc ấy, cũng là một bằng  chứng rằng năng lượng chính niệm của bạn đã được tăng trưởng. Nó có  nghĩa là bạn đã thắng cuộc. Hãy trở về với chính niệm và không hối hận.  Mặc dù hối hận là một phản ứng tự nhiên, và nó thế nào cũng có mặt - chỉ  là một thói quen của tâm thức. Nếu bạn cảm thấy bực mình, chán nản, hoặc  tự trách móc mình, hãy quán sát chúng bằng chính niệm. Nó cũng chỉ là  một sự xao lãng khác mà thôi. Chú tâm đến nó một chút, quán sát nó phai  mờ đi, và trở về với hơi thở.
  Những quy tắc tôi vừa trình bày có thể và cần được áp dụng cho mọi trạng  thái tâm thức khác. Bạn sẽ khám phá ra rằng đây là một việc làm không  phải dễ. Đây sẽ là một công việc khó khăn nhất mà bạn đã từng thực hiện.  Bạn sẽ khám phá ra mình sẵn sàng áp dụng phương pháp ấy cho một số kinh  nghiệm này, và lại hoàn toàn không muốn áp dụng nó cho một số khác.
  Thiền tập cũng giống như một loại axít của tâm thức vậy. Nó sẽ từ từ xói  mòn bất cứ cái gì nó tiếp xúc. Loài người chúng ta rất kỳ lạ. Chúng ta  ưa thích mùi vị của một số chất độc, và ta cứ lì lợm tiêu thụ chúng mặc  dù biết chúng đang tiêu hủy mình. Những tư tưởng mà ta bị dính mắc là  những độc tố. Bạn sẽ thấy rằng, có một số tư tưởng chúng ta sẵn sàng đào  sâu và bứng nhổ tận gốc rễ, trong khi có một số khác chúng ta lại cưng  chiều, bảo vệ hết mình. Và đó là tình trạng của con người.
  Thiền quán không phải là một trò chơi. Chính niệm không phải chỉ là một  môn thực tập giải trí. Nó là con đường dẫn ta thoát ra khỏi một bãi lầy,  bãi lầy của sự thương yêu và ghét bỏ của chính ta! Áp dụng chính niệm để  hoá giải những vấn đề đau đớn, khó khăn trong cuộc sống, dầu sao thì  tương đối cũng vẫn dễ hơn. Khi ta nhận thấy rằng sự sợ hãi và tuyệt vọng  sẽ tiêu tan dưới ánh sáng quán chiếu của chính niệm, tự nhiên ta sẽ muốn  đem ra áp dụng mãi. Đó là những trạng thái tâm thức tiêu cực. Chúng làm  ta đau khổ. Ta muốn loại trừ chúng vì chúng mang cho ta phiền não. Nhưng  sẽ khó khăn gấp bội phần khi ta đem áp dụng cũng cùng quá trình đó cho  những trạng thái tâm thức mà ta trân quý, như là lòng yêu nước, tình mẫu  tử, hoặc một tình yêu chân thật. Nhưng việc ấy cũng vô cùng cần thiết.  Vì những dính mắc tích cực cũng sẽ giữ bạn lại trong bãi lầy, giống như  những dính mắc tiêu cực vậy. Bạn sẽ có thể ngoi lên và thoát được ra  khỏi bãi lầy ấy để có thể hít thở dễ dàng hơn, nếu bạn biết chuyên cần  thực tập thiền quán. Thiền quán là con đường dẫn đến Niết-bàn. Và từ  những gì được kể lại do những người đã đi trước trên con đường ấy, nó  rất xứng đáng cho sự cố gắng hết sức của ta.