Những vị đạo đồ trong khoa huyền môn thời cổ phải long trọng tuyên thệ là không bao giờ tiết lộ những gì xảy ra bên trong thánh điện thâm nghiêm huyền bí. Ta nên nhớ rằng, dù sao thì lễ điểm đạo cũng chỉ được cử hành mỗi năm cho một số rất ít môn đồ. Sự hiểu biết giáo lý mật truyền không bao giờ được ban bố cho nhiều người cùng một lúc. Bởi lẽ đó mà không một nhà văn thời cổ nào đã đưa ra được một tường trình đầy đủ và mạch lạc về những gì được gọi là giáo lý huyền môn, vì các vị môn đồ luôn giữ đúng lời cam kết một cách chặt chẽ.
Tuy thế, người ta đã khám phá ra vài lời ngụ ý ngắn ngủi, những lời bình luận của các tác giả cổ điển, những câu nói đầy ẩn ý và những chữ khắc trên đá có thể hé mở cho ta thấy vài điều về những sinh hoạt huyền bí của thời cổ xưa.
Khoa huyền môn thời cổ nêu ra một mục đích cao cả, hay nói đúng hơn là nêu ra một phối hợp các mục đích tôn giáo, luân lý và triết lý. Mỗi người đều được phép gõ cửa các đền thờ để xin làm lễ điểm đạo, nhưng người ấy có được nhận hay không lại là việc khác. Người ta vẫn nhớ đến những lời của Pythagore khi ông từ chối không nhận những thí sinh không đủ tư cách xin nhập môn vào đạo viện Krotona:
– Không phải mọi thứ gỗ đều dùng được cho công trình của thần Mercure.
Cấp bậc điểm đạo đầu tiên, với mục đích chứng minh sự tồn tại của linh hồn, mang lại cho người môn đồ một kinh nghiệm rùng rợn khủng khiếp trước khi được thoát lên một cảnh giới thanh cao huyền diệu hơn.
Trong một vài cuộc điểm dạo sơ cấp, chứ không phải tất cả, có khi người ta dùng những phương tiện máy móc để làm cho người môn đồ có cảm giác rằng đang bị rơi xuống một vực thẳm nguy hiểm hoặc bị nhận chìm giữa giòng nước xoáy, hoặc bị thú dữ phân thây... để thử thách lòng can đảm của người ấy. Nhưng có điều đáng sợ hơn nữa là trong một cấp đẳng cao hơn, người môn đồ sẽ thấy xuất hiện những quái vật hình thù ghê rợn khủng khiếp, những loài yêu ma quỷ quái cõi âm ty, khi năng khiếu thần nhãn được tạm thời phát triển.
“Linh hồn bị dày vò, loạn động trong lúc chết, cũng như trong cuộc điểm đạo huyền môn. Giai đoạn đầu chỉ gồm có những lầm lạc và bối rối, những cố gắng phất phơ vô định và tối tăm u ám. Kế đó, đến ngưỡng cửa sự chết và lễ điểm đạo, tất cả đều là kinh sợ, khủng khiếp, rùng rợn. Nhưng, một khi giai đoạn đó đã vượt qua thì khắp nơi sẽ tràn đầy một ánh sáng thiêng liêng, huyền diệu... Người đạo đồ đã chịu phép mầu từ nay sẽ trở nên toàn thiện và giải thoát, bước vào cảnh giới bất tử.”
Đoạn trên đây do Stobée trích lục trong một áng văn cổ xưa, xác nhận kinh nghiệm của tất cả những vị đạo đồ khác. Những bản văn viết tay trên lá chỉ thảo (papyrus) thời cổ mô tả người thí sinh được đưa đến giai đoạn đó do sự hướng dẫn của thần Anubis, vị chủ tể khoa huyền môn. Chính Anubis đã đưa người môn đồ vượt qua cõi vô hình để nhìn thấy những loài yêu quái hình thù ghê rợn.
Những chân lý được truyền dạy trong các đạo viện huyền môn là do sự tiết lộ mà các đấng thánh nhân dành cho nhân loại từ lúc phát sinh những nền văn minh cổ xưa nhất, và nay giáo lý huyền môn cần được giữ gìn nguyên vẹn để duy trì sự tinh khiết của nó. Như thế, người ta hiểu tại sao khoa huyền môn được ẩn giấu cẩn mật và giữ gìn chặt chẽ ngoài tầm tay của kẻ thế nhân phàm tục.
Ta không nên nhầm lẫn giữa giấc ngủ thông thường với trạng thái xuất thần của người môn đồ trong lễ điểm đạo. Đó là một cơn đồng thiếp, một trạng thái hôn mê, xuất thần, trong khi đó tinh thần vẫn tỉnh táo ở một cảnh giới khác.
Người ta sẽ càng lầm lạc hơn nữa nếu họ lẫn lộn một kinh nghiệm siêu linh như thế với giấc ngủ thôi miên. Trong trường hợp sau này, nhà thôi miên đặt đối tượng của ông ta vào một trạng thái lạ lùng không có sự nhận biết rõ ràng. Ngược lại, vị đạo trưởng huyền môn có một tầm hiểu biết truyền thống về các hiện tượng huyền bí, do đó có thể sử dụng quyền năng của mình một cách hoàn toàn ý thức và làm chủ được tình hình. Nhà thôi miên đưa tâm trí và ý thức của đối tượng đến một trạng thái mà chính bản thân ông ta không tham dự vào sự thay đổi này. Ngược lại, vị đạo trưởng huyền môn trông nom và kiểm soát mọi sự thay đổi ý thức của người môn đồ, bởi vì vị ấy có khả năng nhìn thấy sự biến đổi đó. Sau cùng, nhà thôi miên chỉ có thể làm cho đối tượng của mình được soi sáng về một vài vấn đề liên hệ đến cõi trần tục và sự sống vật chất, hoặc thực hiện những việc bất bình thường bằng thể xác vật chất. Còn vị đạo trưởng có khả năng hành động một cách thâm sâu hơn, có thể tuần tự đưa người môn đồ trải qua những kinh nghiệm thuộc về các cảnh giới tâm linh. Điều này thì không một nhà thôi miên nào có thể làm được.
Tôi đã quan sát tất cả mọi hiện tượng thôi miên được thực hiện ở các xứ Đông phương và Tây phương. Tuy rằng có vài loại hiện tượng đó rất lạ lùng, nhưng chúng vẫn còn ở trình độ thấp kém chứ không phải những hiện tượng siêu linh. Những hiện tượng đó có một ý nghĩa về khoa học, nhưng không có giá trị tâm linh sâu sắc. Lẽ tất nhiên các hiện tượng đó có thể giúp chúng ta thoát ra khỏi sự u ám nặng nề của vật chất, vì nó chứng tỏ rằng trong con người có những sức mạnh tiềm ẩn của tâm thức, nhưng chúng không thể đưa ta lên cao để khám phá một cách có ý thức sự hiệu hữu của cảnh giới tâm linh vốn là một thực thể sống động, bất tử và độc lập.
Nhờ kinh nghiệm đã trải qua trong Kim Tự Tháp và ý nghĩa của những hình chạm trổ trên vách các đền thờ, tôi đã có thể hình dung được cuộc lễ điểm đạo huyền môn Osiris, là nghi lễ thâm diệu và huyền bí nhất. Cuộc hành lễ này không gì khác hơn là một sự phối hợp giữa những mãnh lực thôi miên, phù phép và tâm linh nhằm giải thoát tâm hồn người môn đồ khỏi sự trói buộc của cái thể xác nặng nề trong vài giờ, có khi là vài ngày, để cho người ấy có thể ghi nhớ trong suốt cuộc đời còn lại những kinh nghiệm độc đáo ghi dấu một ngày quyết định trong đời, và nhờ đó đạt đến những cách hành xử thích đáng để tự hoàn thiện tâm hồn mình.
Sự tồn tại của linh hồn sau khi chết mà phần đông mọi người chỉ nhìn nhận như một tín ngưỡng tôn giáo, nhưng đối với người đạo đồ đã được điểm đạo thì từ nay có thể giảng dạy với một đức tin đã được tăng cường bởi bằng chứng cụ thể do kinh nghiệm bản thân. Điều mà người đạo đồ kinh nghiệm được, chỉ có những người nào bước vào con đường ấy mới có thể nhận thức được tầm quan trọng của nó. Thậm chí ở vào thời kỳ hiện đại, có vài người vô tình đã trải qua một phần của kinh nghiệm đó một cách bất ngờ.
Tôi có biết trường hợp của một viên sĩ quan không quân Anh, được chụp thuốc mê để chuẩn bị cho một cuộc phẫu thuật trong thời chiến. Kết quả thật lạ lùng là mọi cảm giác đau đớn của xác thân đã biến mất nhưng bệnh nhân không ngủ mê. Anh ta cảm thấy nhẹ bỗng như được nâng lên trên không, lơ lửng bên trên bàn mổ và nhìn xem cuộc giải phẫu thể xác của mình một cách điềm nhiên như nhìn cái xác của người khác. Kể từ khi đó, tâm tính anh ta thay đổi một cách lạ thường. Anh ta tuyên bố tin tưởng ở sự hiện hữu của linh hồn, tự mình phát triển một niềm hy vọng mới và chuyển hướng sang một nếp sống hoàn toàn khác hẳn, thật tốt bụng và vị tha.
Như vậy, những vị đạo trưởng huyền môn là ai mà có được quyền năng gây ra nơi con người một sự biến đổi huyền diệu như thế? Những vị trưởng thượng đáng kính gìn giữ kho tàng minh triết thâm sâu đó, lẽ tất nhiên chỉ có rất ít. Có một thời gian, tất cả những vị tăng lữ và vài vị tư tế cao cấp ở các đền thờ cổ Ai Cập đều là những sư trưởng hay đạo trưởng. Sự hiểu biết của họ được giữ gìn hoàn toàn bí mật, do đó mà ở những thời kỳ cổ điển, chính cái tên Ai Cập cũng được hiểu đồng nghĩa với chữ huyền bí. Trong những gian phòng Ai Cập của Bảo tàng viện Louvre, ngôi mộ của Ptah Mer, đại tư tế thành Memphis, có tấm bia đá khắc dòng chữ sau đây:
“Ngài thấu triệt mọi điều huyền bí của mỗi đền thờ, không có gì là ẩn giấu đối với Ngài. Ngài bao trùm tất cả những gì Ngài đã thấy bằng một tấm màn bí mật.”
Tại sao những vị đạo trưởng lại có một sự dè dặt vô cùng chặt chẽ như thế? Đó là vì những lý do mà chỉ có các ngài mới có thể biết được. Dù sao, các ngài hẳn là thấy cần phải loại những kẻ hoài nghi và bỡn cợt ra ngoài những kinh nghiệm thần bí dẫy đầy nguy hiểm cho tánh mạng của người thí sinh. Người ta không trao những viên ngọc quý cho kẻ tầm thường.
Ngoài ra, rất có thể là có nhiều người, vì không đủ sự chuẩn bị sẵn sàng cho một kinh nghiệm như thế, sẽ trở nên điên cuồng hoặc thiệt mạng sau cuộc thử thách. Bởi đó, lễ điểm đạo luôn luôn chỉ là đặc ân dành cho một số ít người xứng đáng. Nhiều người đã gõ cửa cầu xin điều đó ở các đền huyền môn nhưng vô ích. Những người khác, bị đặt dưới hàng loạt những cuộc thử thách sơ đẳng mỗi lúc một khó khăn hơn, không có đủ sự gan góc cần thiết để tiến xa hơn nữa, hoặc cảm thấy lòng ước muốn điểm đạo nguội bớt dần.
Như vậy, bằng cách đưa ra những cuộc thử thách chọn lọc nghiêm khắc, người ta làm cho những đạo viện huyền môn thời cổ trở thành những cơ quan độc đáo. Những điều bí ẩn giấu sau những cánh cửa khóa chặt của thánh điện thâm nghiêm, không bao giờ được truyền dạy cho những vị đạo đồ, trừ phi với sự long trọng thề nguyền rằng họ sẽ không bao giờ tiết lộ ra ngoài.
Vị môn đồ được điểm đạo bước ra khỏi đền được xem như suốt đời sẽ trung thành với những mục đích cao cả. Và với một tầm kiến thức sâu xa thâm trầm, từ nay người ấy sẽ sống lẫn lộn trong đám người bình dân để làm việc giúp đời.
Diodore de Sicile, sau khi thăm viếng xứ Ai Cập trở về, có viết rằng:
“Người ta nói rằng những người đã tham dự những cuộc điểm đạo huyền môn trở nên đạo đức hơn, công bình hơn, và tốt lành hơn về tất cả mọi phương diện.”
Thật ra, những đạo viện huyền môn không chỉ thịnh hành ở Ai Cập. Những nền văn minh cổ đều có tìm thấy khoa huyền môn trong cái di sản để lại từ một thời quá khứ xa xăm, do sự tiết lộ của các đấng thánh nhân của nhân loại từ thời sơ khai. Hầu hết các dân tộc, trước kỷ nguyên Thiên Chúa đều có những truyền thống và tổ chức huyền môn của họ, như dân tộc La Mã, Celtes, Hy Lạp, đảo Crète, Syrie, Ấn Độ, Ba Tư, Mayas, thổ dân da đỏ ở châu Mỹ và nhiều dân tộc khác nữa, cũng đều có những đền thờ và nghi lễ dành cho những hoạt động tâm linh đưa đến trình độ điểm đạo.
Aristotle không do dự mà tuyên bố rằng sự thịnh vượng của xứ Hy Lạp sở dĩ có được là nhờ đạo viện huyền môn Eleusis.
Socrate cũng nói rằng:
– Những môn đồ phái huyền môn tự tạo cho mình những triển vọng rất tốt đẹp vào giờ chết.
Trong số những người xưa đã nhìn nhận hoặc ngụ ý rằng họ đã từng được điểm đạo huyền môn, có nhà hùng biện Aristotle, Ménippe de Babylone, kịch gia Sophocles, thi hào Eschyle, luật gia Solon, Cicero, Heraclitus, Pindar và Pythagoras.
Khoa Tam điểm (Franc-Maconnerie) ngày nay vẫn còn giữ gìn một dấu vết của khoa Huyền Môn thời cổ, mà nguồn gốc là ở Ai Cập. Người hội viên Tam điểm nêu ra trường hợp của Pythagore như một thí dụ điểm đạo của thời xưa. Phải chăng họ nhớ rằng Pythagore đã từng được điểm đạo bên Ai Cập? Những người đặt ra các cấp bậc của khoa Tam điểm đã áp dụng vài biểu tượng đầy ý nghĩa của khoa huyền môn Ai Cập.
Về sau, sự sa đọa vật chất của con người đã làm cho các vị đạo trưởng chân chính của thời xưa dần dần biệt tích hoặc rút lui ra ngoài vòng thế tục, và thay chân các ngài là những kẻ phàm phu mê muội, làm hoen ố và hạ thấp khoa huyền môn cao cả. Những kẻ bất chính, có tham vọng đạt được những phép thần thông của bàng môn tả đạo, sau cùng đã chiếm ưu thế để giành quyền kiểm soát các đạo viện huyền môn ở Ai Cập và những nơi khác.
Những gì từ lúc nguyên thủy vốn là thiêng liêng, chỉ dành cho những người chọn lọc nhằm mục đích duy trì ngọn lửa thiêng tinh khiết của sự sống tâm linh cho được trường cửu trong nhân loại, đã lọt vào tay những kẻ tà tâm, buôn thần bán thánh. Đó là những sự kiện lịch sử, làm cho cái kho tàng tâm linh quí báu của nhân loại thời cổ xưa đã trở nên suy tàn.
Nhưng nếu khoa huyền môn của các vị đạo trưởng thời xưa ngày nay đã mất theo các ngài, thì cái nền minh triết mà các ngài đã từng ban cho người thế gian từ thuở sinh tiền vẫn còn được chứng minh bởi sự lưu truyền bất diệt của những vị đạo đồ đã từng dấn thân trên đường tầm đạo. Những kinh sách bút tự viết trên lá chỉ thảo và những hàng chữ khắc trên vách đá của các đền thờ cổ đã chứng minh rằng người cổ Ai Cập tôn sùng lễ điểm đạo huyền môn Osiris một cách nồng nhiệt như thế nào, và chứng tỏ cái uy tín đối với quần chúng của những người đã từng được phép bước vào các thánh điện uy nghiêm hoặc các hang động ẩn giấu để được làm phép điểm đạo thiêng liêng.
Có một cấp bậc điểm đạo tối cao siêu đẳng mà người môn đồ khi đã đạt tới trình độ đó không chỉ được tạm thời giải thoát khỏi thể xác vật chất để chứng minh sự tồn tại của linh hồn, mà còn được đưa lên những cảnh giới thanh cao nhất, hòa nhập hoàn toàn với đại thể của vũ trụ. Kinh nghiệm huyền diệu đó giúp phá vỡ sự cố chấp hữu hạn của con người và do đó mới có thể tiếp xúc với sự hiện hữu chân thật trường cửu của hết thảy mọi sinh thể. Trong một thời gian ngắn, người môn đồ được cảm thông trong im lặng và một cách thần diệu với thực thể của muôn loài; sự tiếp xúc tuy ngắn ngủi, nhưng giây phút cảm thông huyền diệu đó cũng đủ làm cho người ta thay đổi hoàn toàn quan điểm đối với cuộc đời. Người môn đồ ấy đã chia sẻ một phần cái ân huệ thiêng liêng nhất mà con người có thể nhận được. Người ấy xem như đã khám phá được cái ánh sáng huyền diệu thiêng liêng, là cái tinh hoa rốt ráo vi diệu của bản thể, mà so với nó thì thể xác vật chất này chỉ là giả tạm và vô nghĩa. Vì thế, người môn đồ sau khi được điểm đạo đã thật sự được hồi sinh trở lại, theo đúng ý nghĩa cao cả nhất của danh từ này.
Người nào nhận được sự điểm đạo tối cao đó sẽ được xem như một vị đã hoàn toàn giải thoát khỏi cuộc sống thế tục. Những bản văn bằng ám tự có đề cập đến vị ấy như một người đã nhận được ân huệ của thần minh trong khi còn sống, và sau khi chết sẽ vĩnh viễn về cõi Thiên đàng.
Trạng thái xuất thần kèm theo với cuộc điểm đạo đó, tuy bề ngoài giống như những cơn đồng thiếp bằng phép thôi miên trong những cuộc điểm đạo sơ cấp, nhưng nếu xét về bên trong thì hoàn toàn khác hẳn. Không một quyền năng thôi miên nào có thể gây nên trạng thái đó, không một phù phép nào có thể gợi ra được nó. Chỉ có những bậc đạo trưởng tối cao, đã hòa hợp ý chí tâm linh với các đấng thần minh mới có cái thần lực siêu đẳng phi phàm để làm cho người môn đồ ý thức được bản thể thiêng liêng của mình. Đó là sự tiết lộ cao quí nhất và huyền diệu nhất dành cho những vị cao đồ của thời cổ Ai Cập. Đó cũng là sự tiết lộ bí mật mà người thời nay có thể ước vọng có được bằng những phương pháp khác.
lll
Bài học kinh nghiệm của sự điểm đạo là một bài học thu ngắn của sự kinh nghiệm tâm linh được dành cho số phận của mỗi người trong nỗ lực vươn lên hoàn thiện chính mình của nhân loại. Chỉ có một sự khác biệt là cuộc điểm đạo, ví như một sự vun trồng gượng ép, được thực hiện một cách giả tạo bằng cách xuất thần, còn kinh nghiệm kia sẽ đến một cách tự nhiên do sự phát triển tâm linh và khai mở những quyền năng quyền bí. Như vậy, kinh nghiệm đó tái lập trong linh hồn con người sự diễn biến của toàn thể nhân loại, là phương hướng tất nhiên của tất cả mọi người.
Điều đó được căn cứ trên nguyên tắc này: Thể xác bằng xương thịt của một người có thể tạm thời bị tê liệt trong một cơn đồng thiếp mê man và thể chất tâm linh của người ấy, thường vẫn tiềm tàng ẩn giấu, có thể được đánh thức dậy bằng những phương pháp huyền diệu mà chỉ có những vị đạo trưởng mới biết được.
Người môn đồ nhận lễ điểm đạo được đặt vào một cơn đồng thiếp như thế, bề ngoài xem dường như đã chết thật. Theo ngôn ngữ tượng trưng của huyền môn, người ta nói rằng người ấy đã xuống mồ, hay được chôn dưới mồ. Sau khi nguồn sinh lực thể chất bị tạm thời gián đoạn, sức mạnh của dục tình và những dục vọng cá nhân cũng tạm thời lắng dịu, người thí sinh đã thật sự chết hẳn đối với những sự vật trần gian, trong khi đó tâm thức người ấy tạm thời tách ra khỏi thể xác.
Chỉ có trạng thái đó mới giúp cho con người tiếp xúc được với cảnh giới tâm linh, và khi đó mới có thể khơi dậy những linh ảnh của các đấng thần minh, say sưa niềm phúc lạc trong không gian vô tận, nhận thức được cái bản ngã chân thật của chính mình trong sự hòa hợp với sự sống của toàn vũ trụ; và sau cùng sẽ giao cảm được với sự hiện hữu của toàn thể thực tại.
Một người như thế mới có thể nói một cách chính xác là đã chết rồi sống lại, đã được chôn dưới mồ một cách tượng trưng và phục sinh một cách nhiệm mầu. Người ấy đã khám phá ra một ý niệm mới về sự chết và tiếp nhận được cho mình một sức sống thiêng liêng hơn. Người ấy sẽ mang trong người dấu vết của vị đạo trưởng đã thực hiện lễ điểm đạo, và từ đó về sau, một sợi dây nhân duyên vô cùng bền chặt và thâm sâu sẽ luôn nối liền giữa hai người.
Từ đó, giáo lý về sự bất tử của linh hồn không chỉ là một sự tin tưởng suông mà thôi, nó còn là một sự việc đã được thử thách và chứng minh đối với người đạo đồ. Khi người ấy thức tỉnh trong ánh sáng bình minh, anh ta có thể thật sự nói rằng đã trở lại thế gian, hoàn toàn biến đổi và được hồi sinh về mặt tâm linh. Người ấy đã biết được những điều bí mật không để lộ ra bên ngoài, nhưng từ nay người ấy sẽ đặt nền tảng cho trọn phần đời còn lại và cung cách ứng xử của mình trên căn bản sự hiện hữu thật sự của cảnh giới tâm linh. Từ nay, người ấy sẽ sống giữa nhân loại với một niềm tin chắc chắn và tuyệt đối về sự bất tử của tâm hồn. Tuy anh ta vẫn giữ bí mật cái nguồn gốc của sự tin tưởng chắc chắn đó, nhưng cũng không thể không chuyển giao, dẫu rằng một cách vô ý thức, cho những người chung quanh ít nhiều đức tin đó. Người ấy sẽ làm phấn khởi và tạo ra những niềm hy vọng, cũng như xác nhận sự tin tưởng của người khác qua sự giao cảm luôn hiện hữu giữa mọi con người.
Người đạo đồ sau khi nhận lễ điểm đạo sẽ không còn sợ sệt sự chết, mà chỉ tin vào sự sống, vì anh ta biết rằng sự sống là trường tồn và chỉ thực sự hiện hữu khi ta nhận thức được bản ngã chân thật. Người ấy tin tưởng những gì mà vị đạo trưởng đã tiết lộ trong thánh điện huyền bí: cảnh giới tâm linh là có thật và là một nguồn sáng thiêng liêng của sự sống.
Câu chuyện Osiris có hàm chứa một ý nghĩa liên quan đến mỗi cá nhân. Khi con người thấy mình được phục sinh trở lại, người ấy cũng thấy Osiris hiện hữu như cái chân ngã bất diệt của chính mình. Đó là chân giáo lý chứa đựng trong quyển thánh kinh cổ xưa nhất của Ai Cập, quyển Sách của người chết. Tuy rằng dưới hình thức mà người ta được biết hiện nay, quyển sách bằng lá chỉ thảo đó đề cập cả đến người chết thật lẫn người chết giả, tức là người được điểm đạo, do đó mà người đọc thường hay bị lầm lẫn ít nhiều.
Từ lúc sơ khởi, trước khi bị sửa chữa, soạn đi soạn lại nhiều lần, quyển sách ấy chỉ nói về giáo lý huyền môn; điều này được làm sáng tỏ một phần nhờ đoạn văn được trích sau đây:
“Đây là một quyển sách huyền môn vô cùng quí báu. Mắt kẻ phàm tục không được xem sách này, vì đó sẽ là một điều xúc phạm khôn lường. Sách này phải được cất giữ kỹ lưỡng. Nó được gọi là Quyển kinh của vị đạo trưởng trong ngôi đền bí mật.”
Bởi đó, trong quyển sách này, người chết (đúng ra là người đạo đồ) nhiều lần để tên Osiris đứng trước tên của mình. Trong những bản chính đầu tiên của quyển kinh ấy, người đạo đồ nói:
– Tôi là Osiris, tôi đã xuất hiện như Ngài, tôi sống như các đấng Thần Minh.
Câu ấy nói lên một cách hùng hồn sự diễn đạt cái chết của Osiris như là sự chết giả của người đạo đồ trong cơn xuất thần.
lll
Bây giờ chúng ta có thể hiểu tầm quan trọng thật sự của những tôn giáo cổ, bằng cách nhận thức rằng những nhân vật chính của các tôn giáo ấy là biểu tượng tâm thức con người và những cuộc phiêu lưu của những nhân vật ấy diễn tả những kinh nghiệm của tâm thức trong cảnh giới tâm linh thuần túy.
Osiris đã trở thành hình ảnh của yếu tố thiêng liêng trong con người. Câu chuyện Osiris là chuyện tượng trưng của yếu tố đó, sự xuất hiện của nó trong cõi vật chất và sự trở về của nó để đi vào cảnh giới tâm linh. Huyền thoại Osiris bị phân thây làm mười bốn hay bốn mươi hai mảnh là tượng trưng sự phân rẽ tâm linh của con người, làm cho sự điều hòa cổ xưa của người ấy nay đã bị gãy đổ. Lý trí đã bị tách rời khỏi tình cảm, cũng như sự tách rời giữa thể xác với tinh thần, sự lầm lẫn và những dục vọng trái ngược nhau lôi kéo con người về những đường hướng trái ngược nhau.
Cũng tương tự như thế, câu chuyện Isis thu nhặt, ráp nối những mảnh thi hài của Osiris và làm cho ông ta sống dậy là tượng trưng cho sự phục hồi, sự tái lập trạng thái điều hòa trong con người đang có sự xung đột bên trong nội tâm, bằng cuộc điểm đạo lúc đương thời và bằng sự tu dưỡng trong tương lai. Sự điều hòa đó được tái lập bởi sự hòa hợp giữa tinh thần và thể xác cùng làm việc chung với nhau, và bởi chiều hướng song song của lý trí và tình cảm kể từ lúc ấy. Đó là sự phục hưng của trạng thái hợp nhất nguyên thủy.
Giáo điều cao siêu nhất của người cổ Ai Cập, căn bản lý thuyết của những cấp bậc điểm đạo tối cao, dạy rằng con người phải trở về với đấng thiêng liêng là nguồn gốc ban sơ của mọi sự sống. Sự trở về đó được gọi là trở thành Osiris. Con người dẫu khi còn ở thế gian vẫn được xem như có cái tiềm năng để trở thành một Osiris.
Trong quyển Sách của người chết vừa nói trên, một quyển sách bí truyền về lễ điểm đạo, có nói rằng linh hồn một khi đã được giải thoát sẽ được che chở trong những chuyến hành trình lâu dài và nguy hiểm trong cảnh giới tâm linh, không những bằng cách sử dụng bùa phép hay chú thuật, mà còn bằng cách mạnh dạn tuyên bố: “Ta là Osiris.”
Quyển sách ấy cũng có đoạn viết:
“Hỡi linh hồn mù quáng! Hãy nắm lấy ngọn đuốc sáng của huyền môn và trong đêm tối của thế gian, ngươi sẽ khám phá ra chân ngã bất diệt. Hãy noi theo sự hướng dẫn thiêng liêng của nó, nó sẽ là vị thần hộ mạng của ngươi, vì nó nắm giữ cái chìa khóa sự sinh tồn trong dĩ vãng và tương lai của ngươi.”
Như thế, cuộc điểm đạo là sự đạt tới một viễn cảnh mới của cuộc đời, cái viễn cảnh tâm linh mà nhân loại đã đánh mất trong thời dĩ vãng xa xăm, khi rơi từ “Thiên đàng” xuống cõi vật chất. Khoa huyền môn giúp ta thực hiện sự trở về nguồn cội ngay từ bên trong, và đưa ta đi tuần tự từ bước một đến sự giác ngộ hoàn toàn. Khoa huyền môn hé mở cho ta thấy trước hết là những cảnh giới tâm linh huyền bí vượt ngoài giới hạn nhận biết trong cõi vật chất của trần gian, và sau đó tiết lộ cho ta những điều huyền diệu rốt ráo và tính chất thiêng liêng của tâm thức con người. Khoa huyền môn giúp cho người môn đồ nhìn thấy được những cảnh giới dường như địa ngục âm ty để thử thách tâm trí và lòng kiên quyết, cũng như để người ấy được có dịp học hỏi và mở rộng tầm nhận thức. Kế đó, người môn đồ được nhìn thấy những cảnh giới Thiên đàng tốt đẹp để khuyến khích và ban ân huệ. Nếu khoa huyền môn vẫn phải dùng đến phương tiện đồng thiếp thì điều đó không có nghĩa là không còn phương pháp nào khác. Đó chỉ là một phương tiện được áp dụng, nhưng cảnh giới tâm linh có thể được đạt tới bằng nhiều phương cách khác nữa, và không cần phải áp dụng phương pháp xuất thần.
Một vị đạo đồ La Mã có nói:
– Nơi nào có chúng ta thì không có sự chết, chỗ nào có sự chết thì không có chúng ta.
Sự chết phải được hiểu như là cái ân huệ tối thượng và quí báu nhất của tự nhiên. Như vậy, thái độ của chúng ta đối với sự chết cũng bao hàm một ý nghĩa về thái độ của ta đối với sự sống, và bởi đó cũng làm thay đổi quan niệm của ta đối với sự sống. Khoa huyền môn chứng minh rằng vấn đề sinh tử chẳng qua chỉ là hai mặt của một tờ giấy mà thôi.
Những cuộc sưu tầm, khảo cứu khoa học, tâm lý và tâm linh đang làm thay đổi quan niệm của thế giới phương Tây về các vấn đề mà từ trước người ta vẫn cho là điều hoang đường vô lý. Kết quả những cuộc nghiên cứu này làm tiêu tan những thành kiến sai lầm của người thời nay đối với những lý thuyết của cổ nhân, và làm phát triển những quan niệm mới trong thời gian gần đây.
Chúng ta bắt đầu biết phân biệt cái lý trí lành mạnh ẩn giấu sau cái hình thức vô lý bên ngoài, và nhận thấy rằng sự hiểu biết của cổ nhân về những quyền năng và tính chất của tâm thức vượt khỏi sự hiểu biết thông thường của chúng ta rất xa. Sự xuất hiện của những sức mạnh vô hình đã làm lung lay nền tảng của những người duy vật cực đoan. Những nhà bác học và triết gia ưu tú thời nay đã nhìn nhận rằng sự sống của nhân loại có một khía cạnh căn bản siêu hình. Những gì mà họ nhận biết ngày hôm nay thì ngày mai đa số quần chúng cũng sẽ nhận biết giống như vậy.
Chúng ta từ lúc đầu vẫn là những kẻ hoài nghi, và chúng ta có quyền hoài nghi như vậy. Nhưng rốt cuộc, chúng ta sẽ trở nên những kẻ hoàn toàn có đức tin. Bằng nhận thức của cá nhân mình, tôi dám quả quyết như vậy, và tôi tiên đoán điều đó một cách tích cực. Từ cái không khí hoài nghi lạnh lùng của thế giới hiện đại, chúng ta sẽ cảm thấy thiếu thốn, hụt hẫng và có nhu cầu bức thiết phải phát triển một đức tin vào tâm thức, vốn vô hình và không được nhiều người nhận biết.
Bức thông điệp đầu tiên của khoa huyền môn là “không có sự chết”. Tuy thông điệp ấy vẫn luôn được nhìn nhận qua kinh nghiệm bản thân của một số ít người, nhưng nó cũng hướng mục đích lan tràn đến những nơi tận cùng của thế giới. Ý niệm về sự phục sinh không nhất thiết có nghĩa là chúng ta sẽ chui lên khỏi mồ vào một ngày giờ nào đó trong tương lai. Sự nhầm lẫn bản ngã chân thật với cái vỏ bằng xác thịt bên ngoài là kết quả những hoạt động suy diễn và định danh của trí óc. Danh từ phục sinh vẫn thường bị diễn đạt sai lầm theo ý nghĩa vật chất, ở Âu Châu thời Trung Cổ và cả trong những người Ai Cập chưa nhập môn. Điều này làm cho ta phải cố gắng tìm lại những định luật cai quản sự cấu tạo phần thể chất và năng lực tâm thức tiềm ẩn của con người.
Những phần tử ưu tú của thời đại cổ xưa, những vị đạo đồ của phái huyền môn, đã biết rõ những định luật này. Nhưng, tuy rằng miệng họ vẫn khóa chặt và những chân lý ấy vẫn bị chôn vùi trong những hang động tối tăm của các ngôi đền thời cổ, ngày nay chúng ta không bị trói buộc bởi một cam kết long trọng nào để phải giữ kín những bí mật đó.
lll
Đó là tổ chức huyền môn, một cơ quan huy hoàng cao cả nhất trong tất cả những tổ chức tinh thần của thời đại cổ xưa ngày nay đã biệt tích. Vì đã có những thời kỳ mà cũng như tất cả những xứ sở khác của thời xưa, Ai Cập đã bị suy tàn, đúng như lời tiên tri của đấng Giáo chủ Hermes:
“Hỡi Ai Cập! Xứ sở ngày xưa đã từng là nơi thánh địa thiêng liêng, sẽ có lúc mà sự hiện diện của thần minh sẽ không còn nữa. Nền tôn giáo cũ của ngươi chỉ còn là những huyền thoại và những chữ khắc trên đá, nhắc nhở đến sự tôn sùng của ngươi ngày nay đã mất. Một ngày kia sẽ đến, than ôi, khi mà những ám tự thiêng liêng sẽ chỉ còn là những thần tượng không hồn. Thế gian sẽ lầm tưởng những hình biểu tượng của minh triết là những vị thần, và sẽ lên án xứ Ai Cập đã thờ phượng những loài ma quái ở cõi âm ty!”
Đã có một thời kỳ sự cai quản các đạo viện huyền môn lọt vào tay của những kẻ lưu manh bất hảo, những kẻ ích kỷ hại người, đã từng lạm dụng ảnh hưởng của tổ chức huyền môn – một tổ chức có uy thế đến nỗi các vị Pharaoh kiêu dũng ngày xưa cũng phải kiêng nể – để mưu đồ lợi lộc riêng cho mình.
Có nhiều người trong hàng tăng lữ đã lạm dụng và truyền bá những loại phù phép, châm ngôn kinh dị, những tà thuật hắc ám, những cuộc tế lễ tà thần... Chính những vị đại tư tế của các đền thờ, được xem như những sứ giả của thần minh giữa nhân loại, cũng chỉ còn là những loài quỉ sống đội lốt người. Họ thường kêu gọi những loài âm binh ác quỷ ghê gớm nhất dưới cõi âm ty để dùng vào những mục đích bất chính, tà vạy.
Trong các đền thờ, khoa pháp môn phù thủy đã thay thế sự sinh hoạt tâm linh. Giữa những cảnh hắc ám, suy vong, hỗn độn như thế, khoa huyền môn đã mất đi tính cách chân thực và nguồn cảm hứng thiêng liêng. Những người môn đệ xứng đáng đã trở nên rất khó tìm, và với thời gian qua, họ lại càng trở nên hiếm có.
Đã có một thời mà những vị đạo trưởng tôn nghiêm đã hoàn toàn biến mất, không còn để lại vết tích, thậm chí cũng không có sự chuẩn bị đủ một số người thừa kế có uy tín để nối nghiệp các ngài. Thay vì các vị đạo trưởng có đạo hạnh tinh thâm, người ta chỉ thấy toàn những kẻ không xứng đáng. Một số ít những phần tử ưu tú còn sót lại, không thể thực hiện được lý tưởng của mình giữa một tình trạng suy đồi như thế, đành phải chịu cái số phận đau thương. Biết rằng đã đến lúc suy tàn, họ âm thầm xếp lại những bộ kinh sách huyền môn, rời bỏ những hang động thâm u và những ngôi thánh điện cổ kính, đưa mắt nhìn chốn đạo viện mến yêu lần một cuối cùng với tấm lòng luyến tiếc, và lặng lẽ cất bước ra đi.
Như thế, những cánh cửa nặng nề của các đạo viện huyền môn Ai Cập đã khép lại một lần cuối cùng. Từ đó trở đi, những môn đồ lòng đầy hy vọng không bao giờ còn bước lên chiếc cầu thang bí mật đưa đến thánh điện linh thiêng, không bao giờ họ còn bước xuống dưới hầm điểm đạo thâm u của các đền thờ cổ.
Tuy nhiên, lịch sử của nhân loại luôn luôn theo định luật chu kỳ, những gì đã từng xảy ra, sẽ tái diễn trở lại. Một lần nữa, con người đã trải qua một thời kỳ hỗn loạn và hắc ám, trong khi đó lại cảm thấy một sự băn khoăn bất mãn do nhu cầu tự nhiên của bản tính con người là muốn lặp lại sự giao tiếp với cảnh giới tâm linh huyền diệu huy hoàng. Bởi vậy, tôi hy vọng rằng những điều kiện sẽ có thể được tạo nên, những hoàn cảnh thuận tiện sẽ đến và những nhân vật đủ thẩm quyền và khả năng sẽ xuất hiện, để nhờ đó mà một lần nữa trên địa cầu này sẽ được tái lập tổ chức huyền môn, dưới những hình thức hoàn toàn mới mẻ tân kỳ, để cho được phù hợp, thích ứng với thời đại tân tiến hoàn toàn khác hẳn với thời đại cổ xưa.