Chớ khinh tội nhỏ, cho rằng không hại;
giọt nước tuy nhỏ, dần đầy hồ to!
(Do not belittle any small evil and say that no ill comes about therefrom. Small is a drop of water, yet it fills a big vessel.)Kinh Đại Bát Niết-bàn
Người biết xấu hổ thì mới làm được điều lành. Kẻ không biết xấu hổ chẳng khác chi loài cầm thú.Kinh Lời dạy cuối cùng
Sống chạy theo vẻ đẹp, không hộ trì các căn, ăn uống thiếu tiết độ, biếng nhác, chẳng tinh cần; ma uy hiếp kẻ ấy, như cây yếu trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 7)
Mặc áo cà sa mà không rời bỏ cấu uế, không thành thật khắc kỷ, thà chẳng mặc còn hơn.Kinh Pháp cú (Kệ số 9)
Nếu người nói nhiều kinh, không hành trì, phóng dật; như kẻ chăn bò người, không phần Sa-môn hạnh.Kinh Pháp cú (Kệ số 19)
Người ngu nghĩ mình ngu, nhờ vậy thành có trí. Người ngu tưởng có trí, thật xứng gọi chí ngu.Kinh Pháp cú (Kệ số 63)
Ai bác bỏ đời sau, không ác nào không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 176)
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 8)
Lời nói được thận trọng, tâm tư khéo hộ phòng, thân chớ làm điều ác, hãy giữ ba nghiệp tịnh, chứng đạo thánh nhân dạyKinh Pháp Cú (Kệ số 281)
Những người hay khuyên dạy, ngăn người khác làm ác, được người hiền kính yêu, bị kẻ ác không thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 77)
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
4.1. Đàn truyền giới Sa-di
Trước tiên sai tịnh nhân quét dọn pháp đường, đặt một chiếc ghế ở chính giữa, bên trái, bên phải đặt hai chiếc ghế phụ và bày biện hương, hoa, thắp đèn. Đến giờ, đánh kiền chùy, tập chúng. Các thầy dẫn lễ dẫn những người mới cầu giới và mỗi giới tử mang theo y năm điều, y bảy điều, đeo bát, cầm tọa cụ đến pháp đường. Đem những vật ấy đặt lên chiếc bàn bên cạnh, đến trước thầy dẫn lễ đỉnh lễ ba lễ. Hai thầy dẫn lễ, mỗi thầy dẫn theo hai người đến thỉnh hai thầy yết-ma và giáo thụ. Hai thầy đến pháp đường rồi, tất cả giới tử cùng đỉnh lễ ba lễ.
Tiếp theo, giới tử cùng hai thầy đến thỉnh hòa thượng. Chỉ cần dẫn theo chín người, một người cầm hương, lễ nghi như thường lệ, thỉnh hòa thượng đến pháp đường. Thầy duy-na tác phạn cử kệ tập hợp chúng. Nếu số người cầu giới ít, hoặc gặp điều kiện khác, thì không cần phụ thuộc vào việc xướng kệ, mà chỉ cần xướng “Vân lai tập Bồ-tát” ba lần cũng được.
Khi hòa thượng bước lên tòa, niêm hương thì xướng bài tán hương. Hai thầy đến trước hòa thượng thực hiện đủ mọi nghi thức và đỉnh lễ ba lễ. Đỉnh lễ rồi đứng lên, trở về chỗ cũ và đứng chờ. Đợi chúng thỉnh ba lần xong, mới ngồi vào vị trí của mình.
Thầy dẫn lễ nói:
Cắm hương lên, trở về vị trí.
Các thiện nam tử, cùng tiến lên phía trước xếp hàng, nghe tiếng khánh, chí thành đỉnh lễ ba lễ, quì gối, chắp tay.
4.1.1. Thỉnh sư
Thầy dẫn lễ chắp tay, thưa:
Luyện vàng, đúc vật dụng thì có hình tượng, vốn là nhờ có khuôn chuẩn xác. Những hành động của con người mà trở thành lễ, đều là nhờ sự nghiêm nghị của thầy. Nếu không khiến họ sinh tâm tha thiết, làm sao có thể cảm phát đàn thượng giới? Vì thế, cần phải có bậc thầy sáng suốt để phán quyết cho những kẻ ngu. Nay tôi thỉnh đường thượng tên.. luật sư tên.. làm hòa thượng mười giới sa-di cho các ông. Lời thỉnh sư đáng lẽ các ông phải cùng nhau tự trình bày, nhưng vì sợ các ông không làm được, nên nay tôi chỉ dạy các ông. Các ông hãy tự nói pháp danh của mình, còn những lời khác các ông nói theo tôi.
4.1.2. Chính thức thỉnh sư
Thầy dẫn lễ xướng:
Đại đức, một lòng nghĩ, chúng con tên… nay thỉnh Đại đức làm hòa thượng mười giới sa-di, xin Đại đức làm hòa thường mười giới sa-di cho chúng con. Chúng con nương theo Đại đức nên được thụ giới sa-di, xin thương xót cho!
Thỉnh như thế ba lần. Cúi đầu ba lần là đúng. Hoặc thỉnh ba lần rồi, cúi đầu một lần cũng được.
Hòa thượng nói:
Thiện nam tử, các người đã tha thiết ba lần thỉnh tôi làm hòa thượng mười giới sa-di, các người phải vâng lời làm theo. Cẩn thận chớ buông lung.
Chúng trả lời: Xin vâng làm.
Thầy dẫn lễ nói:
Các người cùng đứng dậy, nghe tiếng khánh, chí thành đỉnh lễ ba lễ, quì gối, chắp tay.
Nay tôi thay các người cung thỉnh hai thầy có mặt ở đây làm a-xà-lê mười giới sa-di. Lẽ ra, văn thỉnh sư các người phải hợp nhau tự trình thưa, nhưng sợ các người không làm được, nên nay tôi chỉ dạy các người. Các người tự nói pháp danh của mình, những lời khác, các người nói theo tôi.
Đại đức, một lòng nhớ nghĩ, chúng con tên... nay thỉnh Đại đức làm a-xà-lê mười giới sa-di, cúi xin Đại đức làm a-xà-lê mười giới sa-di cho chúng con. Chúng con nương theo Đại đức được thụ giới sa-di, xin thương xót cho! Giống như trước đỉnh lễ tạ xong. Thầy a-xà-lê nói:
Các thiện nam tử, các người đã tha thiết cầu thỉnh, nay tôi có thể làm a-xà-lê mười giới sa-di cho các người. Các người phải siêng năng chớ buông lung.
Chúng trả lời: Xin vâng làm.
Thầy dẫn lễ nói: Các người cùng đứng dậy, nghe tiếng khánh, đỉnh lễ ba lễ, quì gối, chắp tay.
4.1.3. Khai đạo
Hòa thượng vỗ thủ xích, nói:
Các thiện nam tử, nay tôi đã nhận lời cầu thỉnh của các người làm hòa thượng mười giới sa-di. Nay tôi có một vài lời chỉ dạy, các người phải lắng nghe kĩ.
Kinh Niết-bàn ghi: “Đời sống tại gia chật hẹp, giống như ngục tù; tất cả phiền nào sinh ra từ đây. Đời sống xuất gia rộng rãi, giống như hư không; tất cả pháp thiện lớn lên từ đây.” Mặc dù như thế, nhưng nếu không có tịnh giới thì không thể nào sinh ra các công đức thiện. Cho nên phải giữ tịnh giới. Vì thế mới nói: “Cạo tóc, nhuộm y là tướng, thụ trì cấm giới là tính”.
Luận Tát-bà-đa ghi: “Người mới thụ giới ngang bằng với Phật.” Từ đây suy ra, tăng-ni xuất gia đích thực là nhóm họp các pháp thiện. Các ông đã xuất gia, gọi là sa-di, nhưng sa-di có hai loại: 1. Sa-di Hình Đồng, 2. Sa-di Pháp Đồng.
Tiếng Phạn đọc là Sa-di. Trung Quốc dịch là Cần sách. Nghĩa là siêng năng tu các điều thiện; sách tấn tâm hành. Nếu chỉ cạo tóc, nhuộm y mà chưa thấm nhuần giới phẩm, gọi là sa-di Hình Đồng. Nếu có thể thụ trì mười giới, mới gọi là sa-di Pháp Đồng. Nay các ông sắp lên bảo đàn thụ đại giới cụ túc, theo lí phải thụ mười giới sa-di trước. Nhưng nếu muốn thụ mười giới sa-di thanh tịnh thì trước phải cầu Tam bảo, làm bậc tôn kính để nương tựa; tiếp theo là khuất phục vạn linh làm giáo chủ để noi theo.
Tất cả cùng đứng dậy, nghe tiếng khánh, chí thành quán sát, nhất tâm thưa thỉnh và mỗi người tự nói pháp danh của mình.
Hòa thượng rời chỗ ngồi, niêm hương, xướng kệ. Hai thầy dẫn lễ, đồng thanh hòa theo, vận tưởng Tam bảo, tất cả cung kính.
4.1.4. Thỉnh thánh
Hương hoa thỉnh, hương hoa thỉnh! Đệ tử chúng con tên.. nhất tâm phụng thỉnh giáo chủ cõi Ta-bà Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật. Tây phương tiếp dẫn A-di-đà Phật. Đương lai hạ sinh Di-lặc Tôn Phật. Cùng tận hư không, trùm khắp pháp giới, tất cả các Đức Phật. Cúi xin, các Ngài không trái với thệ xưa, từ quang chiếu soi, chứng minh thụ giới.
Thỉnh như thế rồi, mọi người cùng lễ một lễ. Đứng lên, chắp tay, quán sát và đứng đợi. Cho đến, thỉnh ba lần, đỉnh lễ ba lễ (Các lần thỉnh sau cũng căn cứ theo đây).
Hương hoa thỉnh, hương hoa thỉnh! Đệ tử chúng con tên.. nhất tâm phụng thỉnh, năm thiên, ba tụ luật tạng tì-ni, mộc-xa giải thoát, mười hai phần kinh, giáo điển quyền-thật, chân tịnh lìa dục, pháp bảo sâu kín của hai thừa Đại-Tiểu, kính cận nhất tâm, qui mạng đỉnh lễ.
Hương hoa thỉnh, hương hoa thỉnh! Đệ tử chúng con tên.. nhất tâm phụng thỉnh, Quan Âm, Thế Chí, Văn-thù, Phổ Hiền chư đại Bồ-tát trong hải chúng thanh tịnh, tôn giả Ưu-ba-li trên hội luật tạng, các vị tổ sư nhiều đời ở Ấn Độ và Trung Quốc, các luật sư lớn truyền thừa tôn Nam Sơn, tổ sư trùng hưng luật đại hòa thượng Tuệ Vân Hinh. Cúi xin các ngài không trái thệ xưa, từ quang chiếu soi, chứng minh thụ giới.
Hương hoa thỉnh, hương hoa thỉnh! Chúng con tên.. nhất tâm phụng thỉnh.
Trong lời thỉnh này, chỉ nói hai chữ ‘pháp danh’ thôi, không giống như thỉnh Tam bảo trên xưng ‘đệ tử’. Tuy trong các loài trời, rồng, quỉ, thần, đều có đại Bồ-tát quyền hiện trong đó, nhưng nay để luận về hình tướng, không kể nguồn gốc của các vị ấy.
Trên hội Quang Minh, các hàng trời, Phạm, Thích, Tứ Thiên, trời, rồng, bát bộ, già-lam thổ địa, hộ giới thần vương, lực sĩ kim cang, u hiện li kì, xin nguyện đều nương thệ xưa, đồng xuống pháp diên, đến đàn hộ giới.
Thỉnh như thế một lần, hai lần, ba lần rồi. Hòa thượng và hai thầy mỗi người trở về chỗ ngồi của mình. Thầy dẫn lễ hô: “Những người thụ giới kia, đỉnh lễ một lễ, quì gối, chắp tay, nhất tâm lắng nghe”.
4.1.5. Sám hối
Hòa thượng vỗ thủ xích và nói:
Thiện nam tử, vừa rồi tôi thay các ông cung thỉnh Tam bảo, giáng lâm đạo tràng, chứng minh thụ giới. Nay trong pháp đường này ánh sáng của Tam bảo rực rỡ. Trong đời này, dù các ông chỉ tạo nghiệp một lần, mỗi người đều biết, đều nhớ. Đêm hôm qua, trong pháp đường yết-ma, các ông đã sám hối rồi. Giả sử từ vô thỉ cho đến đời này, gây ra lỗi lầm nhỏ nhặt, tâm trí mù mờ, không tự hay, không tự biết, chỉ có chư Phật, Bồ-tát mới biết hết, thấy hết. Các ông phải năm vóc thiết tha, ân cần, một lòng chuyên nhất, cầu ai sám hối. Đáng lẽ văn sám hối các ông phải tự trình bày, nhưng sợ các ông chưa làm được, nên nay tôi chỉ dạy các ông. Tất cả lời văn, các ông nên theo tôi.
Bài kệ dưới, hòa thượng đọc hai câu. Thầy dẫn lễ dạy những người kia đọc hai câu. Mỗi lần đọc hai câu cúi đầu một lần. Phải đọc rõ ràng, ba lần, tỏ bày cầu sám hối.
Đệ tử tên là..
Kể từ vô thỉ
Cho đến đời nay
Hủy hoại Tam bảo.
Tạo nhất-xiển-đề
Chê kinh Đại thừa
Không học bát-nhã
Giết hại mẹ-cha.
Làm Phật chảy máu
Làm dơ chùa chiền
Phá phạm hạnh người
Đốt hủy chùa tháp.
Trộm, dùng Tăng vật
Khởi các tà kiến
Bác không nhân-quả
Gần gũi bạn xấu.
Chống đối thầy lành
Tự làm, dạy người
Thấy nghe, vui theo
Những tội như thế.
Vô lượng vô biên
Nên ngày hôm nay
Sinh hổ thẹn lớn
Chí thành phơi bày.
Cầu xin sám hối
Cúi xin Tam bảo
Từ bi tiếp nhận
Phóng ánh sáng sạch.
Chiếu đến thân con
Các ác tiêu diệt
Ba chương tiêu trừ
Trở lại nguồn tâm
Rốt ráo thanh tịnh.
Nam Mô Phổ Hiền Vương Bồ-tát ma-ha-tát (3 lần).
Vừa rồi mới tỏ bày sám hối. Nếu thời gian gấp rút thì nên dùng bốn câu của đại kinh. Nếu có tâm hổ thẹn thì chỉ bốn câu cũng có thể tiêu diệt; nếu không có tâm hổ thẹn thì dù phân trần mấy cũng không ích lợi gì.
Nghiệp ác đã tạo từ xa xưa
Do tham, sân, si đời quá khứ
Đều từ thân, miệng, ý phát sinh
Sám hối tất cả các tội chướng.
Nghiệp ác đã tạo từ xa xưa
Do tham, sân, si đời quá khứ
Đều từ thân, miệng, ý phát sinh
Nay ở trước Phật xin sám hối.
Nghiệp ác đã tạo từ xa xưa
Do tham, sân si đời quá khứ
Đều từ thân, miệng, ý phát sinh
Sám hối tất cả các tội căn.
Nam Mô Phổ Hiền Vương Bồ-tát ma-ha-tát (3 lần).
Hòa thượng vỗ thủ xích, nói:
Các thiện nam tử, nay tôi đã làm pháp sám hối cho các ông rồi, tiếp theo đây thầy a-xà-lê sẽ hỏi già nạn và làm pháp yết-ma cho các ông.
4.1.6. Vấn nạn
Thầy yết-ma vỗ thủ xích và nói:
Thiện nam tử, già nạn ấy theo luật qui định, có mười ba nạn nặng, mười sáu già nhẹ. Nếu không mắc già nạn thì mới gọi là tịnh khí vẹn toàn, có thể thụ đại giới tì-kheo. Bây giờ, không cần hỏi kĩ, mà đợi đến khi lên đàn thụ giới viên cụ tự nhiên sẽ có thầy giáo thụ ở chỗ khuất lần lượt hỏi các ông. Các ông cũng theo thứ tự trả lời như thật. Nếu không trả lời đúng sự thật thì không đắc giới. Nay tôi hỏi chung các ông trước, để tiện cho việc thụ giới sa-di; đồng thời, cũng để làm nền móng cho việc thụ giới cụ túc tì-kheo.
Hỏi: Thiện nam tử, trong đời này các ông có từng phạm già và nạn không?
Trả lời: Không.
4.1.7. Qui y
Thầy yết-ma vỗ thủ xích, nói:
Các thiện nam tử, các ông đã không phạm già nạn và vừa rồi ở trước Tam bảo đã sám hối rồi, có thể thụ giới được. Nay tôi chịu trách nhiệm tuyên tam qui yết-ma cho các ông, để giúp các ông cảm phát giới thể. Các ông phải tự nói pháp danh của mình. Những lời lẽ khác các ông đều nói theo tôi.
Con tên.. suốt đời qui y Phật, suốt đời qui y Pháp, suốt đời qui y Tăng. Nay con theo Phật xuất gia, thầy tên.. làm hòa thượng.
Đức Như Lai Chí Chân Đẳng Chính Giác là Thế Tôn của con, xin thương xót cho.
Ghi chú:
Mọi người nói theo thầy yết-ma như thế ba lần, mỗi lần cúi đầu một lần.
4.1.8. Kết qui
Thầy yết-ma vỗ thủ xích và nói:
Pháp tam qui vừa làm ở trên chính là kết nạp giới thể vào tâm. Giờ lại thêm tam kết đắc pháp tròn đủ. Tam kết ấy còn gọi là ba lần yết-ma. Các ông nói lại pháp danh của mình, rồi sau đó nói theo tôi.
Con tên.. qui y Phật rồi, con qui y Pháp rồi, con qui y Tăng rồi. Nay con theo Phật xuất gia rồi, thầy tên.. làm hòa thượng.
Đức Như Lai Chí Chân Đẳng Chính Giác là Thế Tôn của con, xin thương xót cho.
Ghi chú:
Mọi người nói theo thầy yết-ma ba lần tam kết như thế và cúi đầu ba lần.
4.1.9. Nói giới tướng
Hòa thượng vỗ thủ xích và nói:
Các thiện nam tử, nay thầy a-xà-lê đã xướng tam qui yết-ma cho các ông rồi, các ông cũng đã đắc giới thể sa-di thanh tịnh rồi. Nay tôi sẽ nói tướng của mười giới cho các ông nghe, giúp các ông biết tướng mà giữ gìn, để bảo vệ giới thể ấy. Các ông tự nói pháp danh của mình.
1. Suốt đời không giết hại sinh mạng là giới sa-di, nay các ông có giữ được không?
Trả lời: Giữ được.
2. Suốt đời không trộm cướp (như trên).
3. Suốt đời không dâm dục (như trên).
4. Suốt đời không nói dối (như trên).
5. Suốt đời không uống rượu (như trên).
6. Suốt đời không mang vòng hoa, không thoa nước hoa vào thân (như trên).
7. Suốt đời không nhảy múa, ca hát và không cố đi xem, nghe (như trên).
8. Suốt đời không ngồi giường cao, rộng, lớn (như trên).
9. Suốt đời không ăn phi thời (như trên).
10. Suốt đời không cầm giữ, sinh tượng, vàng, bạc, bảo vật (như trên).
Nói giới tướng ba lần như thế xong.
Thầy dẫn lễ bảo các sa-di, cúi đầu, đứng dậy, chia làm hai hàng. Thầy dẫn lễ dạy tất cả trì chú, đắp y năm điều trước, rồi mới đắp y bảy điều, trải tọa cụ, chắp tay, đỉnh lễ ba lễ. Nếu chúng đông không trải tọa cụ cũng được. Thầy dẫn lễ xướng:
Nam Mô Bảo Đàn Hoa Bồ-tát ma-ha-tát (3 lần).
Chúng cùng hòa theo. Đỉnh lễ ba lễ rồi, tiếp tục quì gối, chắp tay và lắng nghe.
4.1.10. Nghe chỉ dạy và dặn dò
Hòa thượng vỗ thủ xích và nói:
Các sa-di, tôi đã truyền tướng của mười giới cho các ông rồi. Tất cả nghi thức thụ giới cụ túc là cội gốc mà người xuất gia phải học, còn các môn hành tướng, oai nghi, tự có thầy giáo thụ a-xà-lê sẽ phân biệt rõ ràng. Nay tôi sẽ chỉ dạy thêm cho các ông về năm đức, mười số để càng lớn mạnh chí đạo, y theo và vâng làm, trí tuệ lớn thêm, thành tựu biện tài, giáo hóa chúng sinh, giúp chúng vào Phật đạo.
Năm đức là: kinh Phúc điền ghi: “1. Phát tâm xuất gia vì mến mộ đạo. 2. Hủy hoại thân tướng tốt đẹp này vì thích áo pháp. 3. Cắt đứt tình thân vì không luyến tiếc. 4. Vứt bỏ thân mạng, vì tôn sùng đạo. 5. Chí cầu Đại thừa vì độ người.”
Mười số là: luật Tăng-kì ghi: “1. Tất cả chúng sinh đều nhờ vào ăn, uống; 2. Danh và sắc; 3. Ba thụ; 4. Bốn đế; 5. Năm uẩn; 6. Sáu nhập; 7. Bảy giác chi; 8. Bát chính đạo; 9. Cửu hữu; 10. Tất cả nhập.”
Đây là mười pháp của sa-di, phải làm như thế. Đã nghe, biết rồi, phải luôn luôn ghi nhớ đừng quên, tương lai sẽ lên bảo đàn, ở trước mặt các thầy, bạch tứ yết-ma thụ đại tì-kheo giới, dự vào hàng Tam bảo, tiếp nối giống thánh, lợi mình, lợi người, công đức không thể nghĩ bàn. Các ông từ đây siêng năng tu giới, định, tuệ; tập học kinh, luật, luận; làm cho Phật pháp tồn tại lâu ở thế gian; khiến chúng sinh chính tín không đoạn, chớ biếng trễ, buông thả thân tâm.
Hỏi: Các ông có thể thực hành theo lời dạy được không?
Đại chúng đồng thanh niệm Phật. Các sa-di đỉnh lễ ba lễ, xếp tọa cụ, chia làm hai hàng. Hai thầy rời chỗ ngồi, đỉnh lễ hòa thượng ba lễ. Hòa thượng rời chỗ ngồi, đỉnh lễ Phật ba lễ.
Thầy duy-na xướng kệ hồi hướng và chúng hòa theo:
Thụ giới công đức thật tuyệt vời
Bao nhiêu phúc lành đều hồi hướng
Nguyện cho chúng sinh bị chìm đắm
Chóng sinh cõi Phật Vô Lượng Quang
Mười phương ba đời tất cả Phật
Tất cả Bồ-tát ma-ha-tát
Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật.
4.2. Nghi thức truyền thụ giới tì-kheo
Người lên đàn thụ giới phải biết nguồn gốc phát khởi của hai nước; ý nghĩa giống và khác của việc dựng đàn. Trong bộ Yếu lãm ghi : “Bấy giờ, đức Thế Tôn đang ngụ ở Kì Viên. Khi ấy, tì-kheo Lâu Chí xin Phật lập đàn để cho tì-kheo thụ giới. Phật chỉ dạy các tì-kheo xây một giới đàn ở phía đông nam bên ngoài tu viện Kì Viên làm nơi thụ giới cụ túc cho Tăng.”
Khi pháp luật đã ban hành thì trong các chùa ở mười sáu nước lớn đều tuân theo và xây dựng đàn. Từ đó về sau, mỗi khi lên đàn thụ giới cụ túc đều có đủ ba yếu tố Tăng, giới và pháp; tất cả đều phải theo qui định. Nếu có sự sai lệch hoặc trái ngược thì người thụ giới không đắc giới, lâm đàn thì Tăng phạm tội. Những lời này do chính đức Phật nói. Phép tắc được chép trong ba tạng, phàm-thánh đều có cùng khuôn phép chứ không có sai biệt.
Vào đời vua Đường Cao Tông, niên hiệu Lân Đức thứ 2 (665) ở Trung Quốc, tổ Nam Sơn Đạo Tuyên là người đầu tiên xây dựng giới đàn bằng đá ở chùa Tịnh Nghiệp và y theo giới luật truyền thụ giới. Thời bấy giờ, các sư hành luật đều xem trọng phép tắc, nên tất cả đều quí trọng và thực hành. Vào thời bấy giờ, Nam sơn luật tông có ảnh hưởng rất lớn. Tông này được tiếp nối nhiều đời, vì có nguồn gốc. Nay ở các chùa, Chiêu Khánh, Tiên Lâm ở Lâm An chùa Khai Nguyên ở Cô Tô, v.v.. vẫn còn những dấu vết xưa.
Vào đời Đường, niên hiệu Bảo Lịch thứ nhất (825) và Đại Trung thứ 2 (848) cũng từng xây dựng nhiều giới đàn Phương Đẳng. Vào đời Tống, niên hiệu Tường Phù thứ 2 (1009), xây dựng giới đàn Cam Lộ ở bảy mươi hai nơi.
Phương Đẳng ý chỉ cho sự rộng lớn, bình đẳng và trùm khắp. Cam Lộ là dụ cho niết-bàn. Vì nhờ giới mà được vào niết-bàn. Đây là căn cứ vào quả mà đặt tên. Nhưng đàn của giới đàn thì cũng giống như tì-kheo, nhưng giới được truyền chỉ là giới Đại thừa. Vì thế, giữa đàn cúng dường năm vị thánh sư Phật, Bồ-tát; khi nhiễu cùng hòa thượng truyền giới và hai vị a-xà-lê từ đàn dưới đi lên đàn giữa, từ đàn giữa đi lên đàn trên.
Hàng tam sư kia đỉnh lễ Phật, Bồ-tát xong, từ phía tây đi vào phía sau tượng Phật. Rồi từ phía nam tượng Phật đi ra và sắp ghế một bên. Hòa thượng truyền giới ngồi, hai vị a-xà-lê đứng hai bên. Nghi thức truyền giới sa-di khác xa với nghi thức truyền giới cụ túc tì-kheo. Túc số Tăng phải đủ mười vị, nạn và già. Đại thừa thì không câu nệ căn khuyết và duyên thiếu, chỉ cần phát tâm lớn lãnh nạp là đắc giới. Vì thế, mới gọi là đàn Phương Đẳng, đàn Cam Lộ.
Than ôi! Việc học luật bị bỏ bê, việc lên đàn dứt hẳn đã từ lâu. Nay ở Hoa Sơn, Kim Lăng thiết lập giới đàn, chỉ bày phép tắc như luật định; phần tác trì thì chủ yếu là nối tiếp tông Nam Sơn. Không giống như những người bắt chước theo Đại thừa soạn ra các nghi thức, bàn suông, không thật. Cho nên, trước phải trình bày rõ sự giống và khác của giới đàn là việc đứng đầu. Cốt để biết rằng, cương giới thụ giới cụ túc của Tăng không thể không có giới đàn mà có nơi nương tựa.
Vị trí của giới đàn ấy, không cùng một thể với đại giới. Vì giới đàn là một ranh giới riêng biệt. Luật ghi, bấy giờ, các tì-kheo có việc cần chúng bốn tì-kheo để làm pháp yết-ma; hoặc chúng gồm năm tì-kheo, chúng mười tì-kheo, chúng hai mươi tì-kheo để cử hành pháp yết-ma. Những người có mặt ở đó sinh mỗi mệt, vì thế, Phật chế và cho phép kết giới trường.
Luận Tì-ni Mẫu ghi: “Bên ngoài không được kết đại giới, chỉ kết tiểu giới, cũng không được thụ giới cụ túc”. Luật Ngũ phần và các bộ luật khác cũng vậy. Nơi nào có tì-kheo như lời Phật dạy trì giới, ắt phải kết giới trường trước, kế tiếp mới kết đại giới. Ở trong giới trường xây dựng một giới đàn; ở trên đặt chỗ ngồi cho hàng thập sư; không có việc cần thì rào chắn lại; khi cần tác pháp thì tùy thời mở ra. Nhưng giới đàn ấy nếu không phải thầy thì không được tham dự.
Đúng ngày thụ giới cụ túc, phải quét dọn sạch, xung quanh đàn phải treo cờ, lọng, xâu chuỗi. Ở chính giữa đàn dưới đặt một cái bàn hương, đốt nến, cúng hoa. Người chưa thụ giới cụ túc không được phép nghe chung. Lại phải đặt một chỗ ngồi ở nơi khuất để vấn nạn.
4.2.1. Cách thỉnh sư trong Tăng
Luật ghi: “Đệ tử không có thầy giáo thụ, nên làm những việc trái pháp. Phật dạy: ‘Nên nhận hòa thượng. Đệ tử phải xem hòa thượng như cha-mẹ, luôn kính trọng và thăm hỏi’. Có tì-kheo bị bệnh mà không có người chăm sóc nên bị chết oan. Phật dạy: ‘Phải nhận đệ tử. Thầy trò phải kính trọng và chăm sóc nhau’. Có như vậy, thì chính pháp mới tồn tại lâu dài, làm cho lợi ích rộng lớn thêm. Hòa thượng xem đệ tử như con”.
Luật Thiện kiến ghi: “Vì ban đầu không thỉnh, nên sau đó liền làm trái lời dạy, nên Phật qui định phải thỉnh”. Luật Thập tụng và luật Tăng-kì ghi: “Bảo người thụ giới vào trong Tăng trước, theo thứ tự tất cả đầu, mặt đỉnh lễ dưới chân Tăng, sau đó mới thỉnh Tăng”.
Luận Tì-ni Mẫu ghi: “Phật dạy: ‘1. Hòa thượng như pháp; 2. Hai thầy như pháp; 3. Bảy vị tăng thanh tịnh; 4. Yết-ma thành tựu; 5. Chúng Tăng hòa hợp và gửi dục. Đó gọi là Mãn túc thụ cụ’”.
Ở đây căn cứ theo các bộ luật, tập hợp các nghĩa mà soạn thành các nghi thức.
Đến giờ chính thức thụ giới, trước đánh kiền chùy, tập hợp tì-kheo Tăng ở chung và trong một cương giới lại một nơi. Các thầy dẫn lễ bảo những sa-di cầu thụ giới cụ túc đều mang bát, đắp y năm điều và bảy điều, cầm tọa cụ, ôm tăng-già-lê từng tự đi đến pháp đường. Các đại đức dẫn lễ đem đại y của những người đang ôm kia đặt lên trên bàn, hai bên trái và phải. Trước tiên đỉnh lễ đại Tăng đang hiện diện ở trong giới trường ba lễ, rồi đứng dậy, xếp hàng.
Tiếp theo, thầy dẫn lễ dẫn hai vị cầu thụ giới cụ túc đến thỉnh bảy vị thầy đến pháp đường. Những người cầu thụ giới cụ túc đỉnh lễ ba lễ, đứng dậy, xếp thành hai hàng. Rồi hai thầy dẫn lễ, mỗi vị dẫn theo hai giới tử đến thỉnh hai thầy yết-ma và giáo thụ đến pháp đường. Đợi chín thầy gặp nhau, lễ bái xong, tất cả giới tử đỉnh lễ hai thầy ba lễ, đứng dậy, xếp hàng. Hai thầy dẫn lễ cùng đánh khánh đi trước, dẫn tám người mới cầu thụ giới cụ túc đến phương trượng tiếp đón vị luật sư thứ nhất đến pháp đường. Chín vị luật sư được thỉnh trước rời chỗ ngồi, hướng lên trên đỉnh lễ ba lễ .
Thập sư đỉnh lễ rồi, mỗi người cũng đã ngồi kiết già rồi, những sa-di cầu thụ giới cụ túc, mới đỉnh lễ vị luật sư thứ nhất.
Thầy dẫn lễ nói:
Các sa-di, tiến lên phía trên xếp hàng, trải tọa cụ, nghe tiếng khánh, chí thành đỉnh lễ ba lễ, vén y, ôm bát, quì gối, chắp tay.
Thầy dẫn lễ hàng bên trái nói:
Gương sáng đặt ở trên đài, gặp hình thì soi; chuông lớn treo trên giá, có đánh thì mới kêu. Để thành tựu tam tụ thì phải nhờ vào tam sư; để kiểm xét hết thất phi thì phải nhờ vào bảy vị thầy tôn chứng. Nay tôi ở trong đại Tăng này cung thỉnh thập sư cho các ông, để được lên đàn thụ giới cụ túc. Các ông mỗi người phải nhớ hòa thượng, hình dáng và tên gọi của các thầy đang ở đây không được quên.
Vị luật sư thứ nhất tên.. làm hòa thượng giới cụ túc cho các ông.
Thầy dẫn lễ hàng bên phải nói:
Vị luật sư thứ hai tên.. làm thầy yết-ma a-xà-lê cho các ông.
Thầy dẫn lễ bên trái nói:
Vị luật sư thứ ba tên.. làm giáo thụ a-xà-lê cho các ông.
Thầy dẫn lễ bên phải nói:
Vị luật sư thứ tư tên.. làm tôn chứng a-xà-lê cho các ông.
Cho đến, vị thứ mười, hai thầy dẫn lễ bên trái, bên phải cũng nêu tên, chỉ tướng như thế, để những người cầu thụ giới cụ túc, mỗi người đều ghi nhớ, phân biệt rõ ràng.
Các sa-di, hãy cùng tiến lên, nghe tiếng khánh, đỉnh lễ ba lễ, vén y, ôm bát, quì gối, chắp tay.
4.2.2. Chính thức thỉnh sư
Thầy dẫn lễ hàng bên trái nói:
Các sa-di, nay tôi đã cung thỉnh đường thượng tên... luật sư, làm hòa thượng cụ túc giới cho các ông. Đáng lẽ, văn thỉnh sư các ông tự trình bày, nhưng sợ không thể thỉnh được, nên nay tôi chỉ dạy các ông. Mỗi người hãy nói pháp danh của mình, những lời thỉnh khác các ông đều nói theo tôi.
Đại đức, một lòng nghĩ, chúng con sa-di tên.. nay thỉnh đại đức làm hòa thượng đắc giới, xin đại đức làm hòa thượng đắc giới cho chúng con. Chúng con nương theo đại đức được thụ giới cụ túc. Xin thương xót cho!
Vị hòa thượng thứ nhất nói:
Các sa-di, các ông đã ba lần tha thiết thỉnh, tôi chấp nhận làm hòa thượng đắc giới cho các ông. Các ông giữ tâm thanh tịnh chớ buông lung!
Trả lời: Kính vâng thực hành.
Các sa-di, đồng đứng dậy, nghe tiếng khánh, đỉnh lễ ba lễ, vén y, ôm bát, quì gối, chắp tay.
Thầy dẫn lễ hàng bên phải nói với các sa-di, nay tôi thay các ông cung thỉnh các thầy đang có mặt đây làm yết-ma a-xà-lê, giáo thụ a-xà-lê, tôn chứng a-xà-lê. Đáng lẽ văn thỉnh sư các ông phải tự trình bày, nhưng sợ không làm được, nên nay tôi dạy các ông. Mỗi người tự nói pháp danh của mình, còn những lời thỉnh khác các ông đều nói theo tôi.
Đại đức, một lòng nghĩ, con sa-di tên... nay thỉnh đại đức làm yết-ma, giáo thụ, tôn chứng a-xà-lê, xin đại đức làm yết-ma, giáo thụ, tôn chứng a-xà-lê cho chúng con. Chúng con nương theo đại đức mới được thụ giới cụ túc. Xin thương xót cho!
Vị yết-ma sư thứ hai nói:
Các sa-di, các ông đã ba lần tha thiết thỉnh tôi và các thầy có mặt ở đây làm yết-ma a-xà-lê, giáo thụ a-xà-lê, tôn chứng a-xà-lê. Được rồi! Các ông phải giữ tâm thanh tịnh, chớ buông lung!
Trả lời: Kính vâng thực hành.
Các sa-di, đồng đứng dậy, nghe tiếng khánh, đỉnh lễ ba lễ, vén y, ôm bát, xếp tọa cụ, xếp hàng.
Các thầy dẫn lễ, lại lấy đại y của mỗi người thứ tự đưa lại và bảo họ tự giữ lấy. Hàng thập sư đứng dậy, vị sư thứ nhất xướng:
Nam Mô Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật.
Danh hiệu Phật vừa xướng lên, trống cũng được đánh lớn, mọi người đồng thanh xướng tụng. Hai thầy dẫn lễ đánh khánh đi trước. Các tì-kheo tăng đi liền theo sau, sa-di mới cầu thụ giới cụ túc đi tiếp sau. Ba sa-di cầu thụ giới cụ túc cầm hương. Một người cầm hương đi trước vị sư thứ mười, một người cầm hương đi trước vị sư thứ ba và một vị đi trước vị sư thứ nhất. Hai vị thầy dẫn lễ dẫn đường đi trước, đến giới đàn đứng hai bên trái-phải đối diện nhau. Còn những người khác cứ tiếp tục đi tới. Mỗi người theo thứ tự hàng ngũ nhiễu quanh ba mặt trái, phải và phía sau đàn.
Ba người cầm hương, đứng thành một hàng, một bên phía trước đàn. Chín thầy đến trước bàn hương xếp thành hai hàng. Thầy thứ nhất đến đứng ở giữa hướng lên trên. Đến lúc này tiếng trống, tiếng niệm Phật dừng lại.
Theo nghi thức của đàn xưa, khi mới bắt đầu lên đàn có một khoa nghi chúc trường thọ. Bởi vì, Tăng hoằng truyền Phật pháp ắt phải nhờ vào sự ủng hộ bên ngoài. Cho nên, trên hội Linh Sơn, đức Thế Tôn từng căn dặn. Nếu trái lời Phật dạy, phụ ơn đất nước thì e rằng việc giáo hóa khó phát triển. Nay vẫn tuân theo phép tắc của đàn xưa. Thầy duy-na tác phạn, cử hương tán để chúc trường thọ và mọi người cùng hòa theo.
Lò báu đốt hương quí
Ngào ngạt khắp mười phương
Chí thành dâng lên Pháp trung vương
Mong cầu cho vua trường thọ
Sống mãi muôn đời
Mong cầu cho vua trường thọ
Sống mãi muôn đời.
Nam Mô Hương Vân Cái Bồ-tát ma-ha-tát (3 lần)
Thầy thứ nhất cung kính niêm hương, đỉnh lễ ba lễ, thầm chúc thánh rồi. Tiếp theo chín thầy rời chỗ ngồi, cùng với vị thầy thứ nhất tiến lên trên, xếp hàng, trải tọa cụ, tán lễ Tam bảo. Vị thầy thứ nhất xướng trước, chín vị thầy còn lại đồng tán theo.
Cúi đầu lễ chư Phật
Pháp và hiền thánh Tăng
Nay diễn pháp tì-ni
Nối mạng mạch tăng-già.
Chính pháp được trụ lâu
Quả tam thừa không dứt
Sắp lên đàn thanh tịnh
Nguyện chứng tri lời thệ.
Hàng thập sư tán lễ, đỉnh lễ ba lễ xong, thầy duy-na tụng chú Đại bi. Mọi người đồng thanh cùng tụng. Vị thầy thứ mười bắt đầu từ đông nam đi sang hướng tây nhiễu quanh đàn. Tiếp theo thầy thứ chín, thầy thứ tám cho đến thầy thứ nhất đi cuối cùng. Hàng thập sư đi nhiễu ba vòng rồi, cởi giày từ phía tây bước lên bậc thứ hai đi về phía tây bắc nhiễu quanh một vòng. Đến phía nam bước lên bậc thứ ba, vị thầy thứ nhất đứng xoay mặt về phía nam, chín vị thầy kia đứng xoay mặt về phía tây bắc. Chín vị thầy hướng về vị thầy thứ nhất đỉnh lễ ba lễ. Vị thầy thứ nhất xướng trước, chín vị kia hòa theo, còn những người khác giữ im lặng.
Giữ giới thanh tịnh như trăng tròn
Thân, miệng sáng sạch không tì vết
Đại chúng hòa hợp không tranh cãi
Như thế mới được cùng truyền giới.
Hàng thập sư hòa hợp đỉnh lễ ba lễ và xướng kệ rồi. Thầy thứ nhất ngồi vào ghế giữa. Thầy yết-ma ngồi ở ghế đầu bên trái. Thầy giáo thụ ngồi ở ghế đầu bên phải. Bảy thầy theo thứ tự ngồi hai bên trái-phải.
4.2.3. Vị đàn chủ thưa
Pháp âm hiếm gặp, giới đức khó nghĩ; có thể thoát khỏi bọn phàm phu kém xấu, có thể dự vào ngôi báu hiền thánh; muốn thành thầy, thành thợ thật dễ, cũng thật khó; cửa lò mở rộng, căn người phải luyện; thụ trì cấm giới, y-bát phải nghiêm. Nếu không có y, bát chớ cho phép được thiếu hoặc mượn. Trước nói trọng nạn, sau nêu khinh già. Hỏi nếu không hiểu, không biết thì chỉ cần khổ mà thiết lập suông. Nếu tin đó là lời thật, đáp thật thì khổ dụ mới được. Khiến cho phát lòng chân thật thượng phẩm, cốt mong trần cảnh; làm cho thiện pháp mười phương rốt vào thân-tâm, là nền móng để thành tựu năm phần. Thể của ba thân đầy đủ cần phải có cùng chí hướng, xin chớ có duyên nơi khác. Chúng con tên.. kính thưa!
Thầy dẫn lễ nói:
Các sa-di, mỗi người xem lại vị trí của mình và theo thứ tự xếp hàng.
Những sa-di đứng đầu hàng bên phải, bên trái từ trên đi xuống. Những người khác theo thứ tự đi theo nhau. Đến trước đàn, chia hàng, theo thứ tự đứng yên. Các thầy dẫn lễ cầm giúp đại y mà những người kia đang cầm để cho họ tiện lễ lạy.
Cắm hương lên. Trở về vị trí cũ, tiến lên phía trên xếp hàng, hỏi thăm, trải tọa cụ, nghe tiếng khánh, đỉnh lễ ba lễ, vén y, ôm bát, quì gối, chắp tay.
Đàn chủ vỗ thủ xích và nói:
Chúng sa-di, nay tập Tăng lên đàn, tác pháp đúng như luật, đáng lẽ trước phải cầu Tam bảo, từ quang chiếu soi, tiếp theo xin vạn linh, oai thần bảo vệ. Mỗi người tự nói pháp danh của mình, đồng đứng dậy, nghe tôi xướng, quán sát và thỉnh ba lần.
Hàng thập sư cùng đứng dậy, chí thành vận tưởng tác phạn. Vị đàn chủ niêm hương, thỉnh Phật và chư thiên ba lần. Những sa-di cầu thụ giới cụ túc theo lời thỉnh ấy đồng đỉnh lễ ba lễ. Phải biết năng-sở đều lặng không, cảm ứng đạo giao.
Hương hoa thỉnh, hương hoa thỉnh! Các sa-di tên.. nhất tâm phụng thỉnh Ta-bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật. Tây phương tiếp dẫn A-di-đà Phật. Đương lai hạ sinh Di-lặc tôn Phật. Khắp hư không, trùm pháp giới tất cả chư Phật. Cúi xin không trái thệ xưa, từ quang chiếu soi, chứng minh thụ giới.
Thỉnh như thế xong, mọi người đồng lễ một lễ. Lại đứng lên, chắp tay, quán tưởng và đứng đợi.
Hương hoa thỉnh, hương hoa thỉnh! Các sa-di tên.. nhất tâm phụng thỉnh hai thừa Đại-Tiểu, luật tạng tì-ni, năm thiên, ba tụ, giải thoát mộc-xoa, mười hai phần kinh, giáo điển quyền-thật, lìa dục chân tịnh, pháp bảo sâu kín, xin nguyện nhất tâm, qui mệnh đỉnh lễ.
Hương hoa thỉnh, hương hoa thỉnh! Các sa-di tên... nhất tâm phụng thỉnh Quan Âm, Thế Chí, Văn-thù, Phổ Hiền, các đại Bồ-tát trong biển chúng thanh tịnh, tôn giả Ưu-ba-li trong hội luật tạng; Tổ sư nhiều đời ở Ấn Độ và Trung Quốc; các đại luật sư truyền của Nam Sơn luật tông; các tổ trùng hưng luật, như đại hòa thượng Tuệ Vân Hinh, xin nguyện không trái thệ xưa, từ quang chiếu soi, chứng minh thụ giới.
Hương hoa thỉnh, hương hoa thỉnh! Các sa-di tên.. nhất tâm phụng thỉnh, trên hội quang minh, các vị chư thiên, Phạm vương Đế Thích, tứ vương, trời, rồng, tám bộ, thổ địa già-lam, thần vương hộ giới, lực sĩ kim cang, linh kì u hiển, xin nguyện không trái thệ xưa, giữ đàn, hộ giới.
Thưa thỉnh như thế rồi, hàng thập sư mới tiến đến chỗ ngồi, ngồi kiết-già. Các sa-di lại quì gối, chắp tay.
4.2.4. Sắp đặt vị trí cho người thụ giới
Phật dạy: “Người thụ giới không được ở chỗ trống rỗng, cũng không được ở chỗ kín mà phải ở chỗ cách sự thấy, nghe”. Nếu ở ngoài cương giới thì hòa thượng và túc số Tăng cũng như vậy. Nên sắp đặt người thụ giới ngồi ở chỗ mắt thấy mà tai không nghe.
Đàn chủ vỗ thủ xích và nói:
Đã thưa chung với Tam bảo rồi, các thầy dẫn lễ dẫn những sa-di cầu thụ giới cụ túc kia, cho họ đứng ở chỗ mắt thấy tai không nghe.
Thầy dẫn lễ nói:
Các sa-di lễ một lễ, xếp tọa cụ, chia hàng. Các ông nghe tiếng niệm Phật của tôi, niệm theo và rời khỏi đàn.
Các tì-kheo ở đàn dưới đi ra trước. Hai thầy dẫn lễ đi song song đánh khánh, niệm Phật đi trước. Các sa-di tay ôm đại y, đồng thanh cùng niệm, hai hàng trái-phải song song đi theo sau. Ra ngoài đàn rồi, bảo họ đứng ở chỗ đã chọn.
4.2.5. Sai giáo thụ
Bấy giờ, có người dẫn những người thụ giới, thì họ đến bên ngoài cương giới, cởi y đứng để xem, làm gián đoạn việc thụ giới. Phật dạy: “Không nên làm như vậy. Từ này về sau phải hỏi mười ba nạn sự trước, sau đó mới thụ giới.”
Đàn chủ vỗ thủ xích và nói:
Hòa thượng hỏi: Tăng nhóm chưa?
Thầy duy-na đáp: Tăng đã nhóm.
Hỏi: Hòa hợp không?
Đáp: Hòa hợp.
Hỏi: Người chưa thụ giới tì-kheo đã ra chưa?
Đáp: Đã ra.
Hỏi: Nay Tăng hòa hợp để làm việc gì?
Đáp: Yết-ma thụ giới cụ túc.
Đàn chủ vỗ thủ xích nói: Những người đã thụ giới cụ túc, trong chúng đây người nào có thể làm giáo thụ sư? Đến chỗ khuất vấn nạn các sa-di.
Vị thầy thứ ba, ngồi tại chỗ chắp tay trả lời: Tôi tên.. có thể làm việc đó.
Vị đàn chủ nói: Trưởng lão đã nói có thể làm việc đó. Thầy yết-ma ra giữa chúng làm pháp đơn bạch yết-ma sai giáo thụ sư xuống đàn vấn nạn.
Thầy yết-ma ngồi tại chỗ chắp tay nói:
Đại đức Tăng lắng nghe, các sa-di kia tên.. theo hòa thượng tên.. cầu thụ giới cụ túc, nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng bằng lòng cho tôi tên.. làm giáo thụ sư, bạch như thế, tác bạch thành không?
Hàng thất chứng sư ngồi tại chỗ, chắp tay đồng thanh đáp: Thành.
Thất sư đồng đáp ‘thành’: nghĩa là ba điều kiện ‘nhân, pháp, sự’ đều như luật, như pháp, như lời Phật dạy. Đây gọi là đúng lượng, hợp phép tắc, việc chuẩn bị đã xong. Nếu có một yếu tố không như luật, thì dù đáp ‘thành’ thì ‘sự’ cũng không thành tựu và hàng thất chứng phạm tội. Công dụng của một chữ phải tin là thật chứ chẳng nên xem thường.
Nay yết-ma đã thành, thầy giáo thụ lập tức rời chỗ ngồi, đỉnh lễ đàn chủ ba lễ, xoay người từ phía nam đi xuống cấp thứ hai, quay về phía tây nam đi vòng đến phía đông bắc xuống cấp thứ ba, mang giày đi vòng đến phía chính nam, hướng lên trên đàn chắp tay, hỏi thăm. Rồi từ phía tây nam đi ra, đến chỗ khuất đã sắp xếp để vấn nạn.
4.2.6. Thầy giáo thụ ra chúng vấn nạn
Thầy giáo thụ đến chỗ khuất, ngồi vào ghế rồi, vỗ thủ xích một cái. Một vị đại đức dẫn lễ, dẫn ba sa-di cầu thụ giới cụ túc đến trước thầy giáo thụ và cầm lấy đại y của họ đang ôm và bảo họ đỉnh lễ ba lễ, quì gối. Sau đó, trao y lại cho họ. Thầy dẫn lễ cũng đi khỏi chỗ thấy, nghe.
Thầy giáo thụ vỗ thủ xích và nói:
Các sa-di, trên đàn các thầy tác pháp sai tôi xuống đây hỏi ba người các ông về già nạn, các ông chớ sợ. Lát nữa đây, tôi sẽ bảo ba người các ông lên bảo đàn, thụ giới cụ túc, thành đại tì-kheo, dự vào hàng Tam bảo. Đây chẳng phải là duyên nhỏ, là điều may mắn trong đời này.
Giới là gốc rễ của bồ-đề, là nền móng của thánh đạo. Khi Đức Phật còn ở đời, hàng có căn cơ lanh lợi vừa tiếp xúc liền cảm. Vào đời mạt pháp thì giáo pháp suy vi, nên những điều Phật chế phải tùy duyên. Duyên tập thì tác pháp thành tựu; duyên tan thì giới đức không lập và công đức của giới thể vô tác cũng không thể hiện. Nhờ vào duyên thì việc ấy có thể có, có thể không. Ba y, một bát là duyên chính đắc giới của ba người các ông. Nay trước khi chưa hỏi già nạn, tôi nói tên gọi, hình dáng của y, bát cho các ông biết.
Đây là a-đà-hội. Đây là uất-đa-la-tăng. Đây là tăng-già-lê. Đây là bát-đa-la. Nhưng y, bát này là vật tiêu biểu của hằng hà chư Phật, là phép tắc của thánh hiền, sa-môn. Chín mươi sáu thứ ngoại đạo ở Ấn Độ còn không biết tên gọi của hai vật này. Chỉ có đức Phật là người chỉ dạy pháp chưa từng có này thôi. Nay các ông có được và thụ trì, thì phải biết quí trọng, giữ gìn.
Hỏi: Y, bát này là của các ông phải không?
Trả lời: Phải.
Thầy giáo thụ nói: “Các ông đã có y, bát thì tốt lắm, nên thụ trì và sử dụng”.
Trong các bộ luật cũng có thêm phần pháp thụ. Trong đó, hai y năm điều và bảy điều khi thụ giới sa-di từng nhận và đắp tạm. Nay chỉ còn đại y là chưa thụ. Một thầy dẫn lễ bảo ba người kia lạy một lạy, đứng sang một bên. Một sa-di đứng gần phía trước, ôm y đến trước thầy giáo thụ và thưa thế này:
Đại đức, một lòng nhớ, con tên.. y tăng-già-lê hai mươi lăm điều sẽ thụ, có bốn ô dài một ô ngắn, cắt may thành y và thụ trì. Nói ba lần như vậy. Thầy giáo thụ nói: Thiện.
Người thụ y rồi, đứng qua một bên, miệng tụng kệ chú và đắp y ngay ngắn. Những người chưa thụ y, từng người một đến trước thầy giáo thụ, cũng thụ như thế. Khi tất cả đều đắp y xong, cùng đến trước thầy giáo thụ, đỉnh lễ một lễ, quì gối, chắp tay.
Thầy giáo thụ vỗ thủ xích và nói:
Các sa-di lắng nghe, từ vô thỉ đến nay, các ông khởi tâm hư vọng, lừa dối hiền thánh, chìm đắm trong sinh tử, không cầu mong giải thoát. Nay các ông đã theo Phật xuất gia, trở thành đệ tử Phật, thụ giới cấm của Phật, thoát khỏi bến sinh tử, cốt là phải đoạn trừ các căn hư vọng, thực hành đạo chân thật. Nay chính là giờ phút cần phải chí thành, là lúc cần phải nói lời chân thật, tôi hỏi các ông trọng nạn và khinh già.
Các ông phải tự xét lại mình, có thì nói có, không thì nói không.
Hỏi: Ba người các ông có phạm biên tội không?
Trả lời: Không.
Thầy giáo thụ nói: Tôi nghĩ ba người các ông vừa mới vào cửa đạo, không biết tên gọi của tội này. Nghĩa là đối với các giới của Phật đã từng thụ, cụ thể trong bốn giới trọng như dâm dục, giết, trộm, nói dối; nếu phạm mỗi một giới thì bị đẩy ra bên ngoài biển Phật pháp, cho nên gọi là biên tội.
Hỏi: Các ông có phạm tội ấy không?
Trả lời: Không.
Việc vấn nạn phạm hay không phạm, quan trọng là phải hiểu lời già nạn. Cho nên, dù ở trong hay ở ngoài mà không hiểu lời già nạn thì không thể thành xả giới. Tuy nay tôi hỏi mà các ông không hiểu thì cũng giống như không hỏi vậy. Luật ghi: “Không thành thụ giới”. Vì thế, những trường hợp dưới đều giống như trường hợp này; có thể theo đó mà biết.
Hỏi: Khi còn làm bạch y, khi làm sa-di, ông có làm nhiễm ô hạnh thanh tịnh của tì-kheo-ni không?
Trả lời: Không.
Hỏi: Ông không phải là bạch y, không phải là sa-di, ông đã từng nghe trộm chúng Tăng thuyết giới, dối xưng tì-kheo, nhận sự cung kính, lợi dưỡng, lễ bái của người. Đó gọi là tặc trụ. Người bị gọi là tặc trụ, Phật không cho phép độ xuất gia. Các ông có phải loại người này không?
Trả lời: Không phải.
Hỏi: Ông không phải là ngoại đạo, theo Phật xuất gia, thụ giới rồi trở về lại với ngoại đạo. Nay lại quay trở lại thụ giới. Người này chí tính không định, gọi là phá nội-ngoại đạo, chẳng phải là pháp khí của Phật. Phật không cho phép độ xuất gia. Các ông có phải loại người này không?
Trả lời: Không phải.
Hỏi: Ông có phải là năm loại người sinh , kiền , đố , biến , bán này không?
Trả lời: Không.
Hỏi: Ông có giết cha không?
Trả lời: Không.
Hỏi: Ông có giết mẹ không?
Trả lời: Không.
Hỏi: Ông có giết A-la-hán không?
Trả lời: Không.
Hỏi: Ông có phá hòa hợp Tăng không?
Trả lời: Không.
Hỏi: Ông có ác tâm làm thân Phật chảy máu không?
Trả lời: Không.
Hỏi: Ông có phải là trời, rồng, quỉ, thần v.v.. biến làm hình người đến thụ giới không?
Trả lời: Không.
Hỏi: Ông có phải là rồng, súc sinh, v.v.. có khả năng biến hóa, hóa thành người đến thụ giới không?
Trả lời: Không.
Hỏi: Trong thân ba người các ông đều không mang hai hình nam-nữ. Đây chính là điều trái với đạo khí. Nay các ông có điều đó không?
Trả lời: Không.
Các sa-di, các ông đã không phạm mười ba trọng nạn này, nay tôi hỏi các ông tiếp mười sáu khinh già, các ông phải trả lời đúng sự thật như trước.
Các sa-di, từ khi ba người các ông xuất gia đến nay, mỗi người đều được dạy bảo. Pháp danh đó là gì? (Mỗi người nói pháp danh của mình.) Đây là pháp danh vào đạo của ba người các ông. Là tên gọi của đời này. Từ nay thụ giới đến mãi về sau, hễ gặp hòa thượng a-xà-lê, đồng đàn tôn chứng, thượng, trung, hạ tọa và tể quan, trưởng giả, bạn bè, tri thức, cha mẹ, sư trưởng đều phải xưng hai chữ pháp danh này, không được nói xưng tên do cha mẹ đặt.
Hỏi: Hôm nay trên đàn ai là hòa thượng đắc giới của ba người các ông?
Trả lời: Đại hòa thượng tên..
Thầy giáo thụ nói: Đây là luật sư tên.. ở chùa.. Đó là hòa thượng đắc giới của ba người các ông. Hòa thượng là tiếng Phạn, Trung Quốc dịch là Lực sinh. Đạo lực của ba thừa, ngũ phần pháp thân đều nhờ oai lực của hòa thượng ấy mà sinh ra, cho nên gọi là Lực sinh. Còn gọi là Y học. Vì nương theo hòa thượng ấy học pháp xuất thế nên gọi là Y học.
Ngày nay thụ giới nếu không có hòa thượng ấy thì giới không phát sinh. Các ông phải ghi nhớ tên gọi và vóc dáng hiền từ của hòa thượng. Nếu không nhớ tên gọi, hình dáng của hòa thượng thì thụ giới không đắc giới. Từ nay về sau, hễ đến mùa hạ, kết hạ, giải hạ đều phải dâng hương, lễ bái hòa thượng đắc giới. Nếu vì đường xá xa xôi không thể đến thăm thì phải đốt hương hướng lên trên không, xưng tên và chí kính, không được có ý xem thường.
Hỏi: Ba người các ông đã đủ hai mươi tuổi chưa?
Trả lời: Đã đủ.
Hỏi: Y, bát, tọa cụ đủ không?
Trả lời: Đã đủ.
Hỏi: Cha, mẹ có cho phép ông xuất gia không?
Trả lời: Đã cho phép.
Hỏi: Có phải ông mắc nợ người, không muốn trả đến đây thụ giới phải không?
Trả lời: Không.
Hỏi: Ông có phải là nô bộc nhà người không?
Trả lời: Không phải.
Hỏi: Ông có phải là quan chức có tiếng tăm, có bổng lộc của triều đình không?
Trả lời: Không phải.
Hỏi: Ông có phải nam không?
Trả lời: Phải.
Luật Bản ghi:“Người đủ hai mươi tuổi, có thể chịu lạnh, nóng, gió, mưa, đói, khát, giữ giới, ăn ngày một bữa, nhẫn nhịn những lời mắng nhiếc và trùng độc. Đó gọi là trượng phu”.
Ngoài việc, ông đã là trượng phu, còn phải là người không mắc những chứng bệnh: bệnh hủi, ung thư, bệnh hắc lào, bệnh cùi, bệnh tiểu đường, điên cuồng.
Hỏi: Ông có năm chứng bệnh này không?
Trả lời: Thật không có.
Bấy giờ, có người mắc năm chứng bệnh này, nhờ Kì-bà chữa trị, Kì-bà nói: “Tôi chỉ trị bệnh cho vua và đệ tử Phật”. Người bệnh kia suy nghĩ rồi, liền xuất gia thụ cụ túc giới. Sau đó, người ấy đến nhờ Kì-bà trị bệnh. Người kia được lành bệnh, bỏ đạo trở về nhà. Trên đường về nhà, người kia gặp lại Kì-bà. Kì-bà hỏi người ấy mới biết được sự thật, nên thưa với Phật. Nhân đó, Đức Phật chế không cho phép người bị năm thứ bệnh kia xuất gia. Nếu căn cứ theo trong luật định, hễ người nào thân tướng không đầy đủ, gây ảnh hưởng cho đại Tăng thì đều không cho phép xuất gia. Ở đây chỉ hỏi điều cấm chế cuối cùng vì nhiếp thâu tất cả già nạn.
Các sa-di, nay những điều tôi hỏi các ông đây, lát nữa, trên đàn, ở trước các thầy, các ông cũng sẽ được hỏi như thế. Các ông trả lời với tôi thế nào, lát nữa đây, trên đàn, ở trước các thầy, các ông cũng trả lời như thế. Giờ, các ông hãy đi theo thôi; đợi tôi vào trong Tăng trình thưa trước, nếu Tăng im lặng cho phép thì tôi vẫy tay gọi, các ông phải lập tức tiến lên đàn.
Thầy dẫn lễ gọi ba sa-di, đỉnh lễ một lễ, đứng sang một bên. Thầy giáo thụ rời chỗ ngồi, đi trước. Ba sa-di theo thứ tự đi theo sau. Khi đến gần bên đàn, bảo các sa-di đứng lại, nhìn lên trên đàn.
4.2.7. Thưa và gọi sa-di vào trong chúng
Thầy giáo thụ đến trước đàn, đứng ở giữa đàn, chắp tay, hướng lên trên hỏi thăm và tác bạch như thế này:
Đại đức Tăng lắng nghe, các sa-di tên.. kia theo hòa thượng tên.. cầu xin thụ giới cụ túc. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng bằng lòng, tôi tên.. đã hỏi xong, cho phép đến đây, bạch như thế. (Thầy giáo thụ bạch rồi, quay mặt về các sa-di vẫy tay gọi họ: ..) Các sa-di, các ông hãy đến đây.
Các sa-di nghe gọi, chỉnh đốn oai nghi đầy đủ, bước lên đàn. Thầy giáo thụ bước đến, đứng bên trái hương án và nói:
Các ông cùng tiến đến trước gần hương án. Đến rồi hỏi thăm, quì gối. Người đứng giữa niêm một nén hương cúng dường các thầy trên đàn. Niêm hương rồi, đỉnh lễ một lễ, đứng dậy, theo tôi lên đàn xin giới.
4.2.8. Xin giới
Thầy giáo thụ đi trước, sa-di đi theo sau, đi vòng đến phía tây của giới đàn, cởi giày bước lên cấp thứ hai. Từ phía tây bắc đi vòng đến phía nam bước lên cấp thứ ba. Bấy giờ, thầy giáo thụ trở lại trước chỗ ngồi cũ, đứng chắp tay. Sa-di đứng thành một hàng xoay mặt về bắc, cách thầy giáo thụ một cánh tay. Thầy giáo thụ nói:
Trải tọa cụ, đỉnh lễ ba lễ, vén y, quì gối, chắp tay.
Các thiện nam tử, tha thiết, chí thành, hướng về chúng thanh tịnh cầu xin giới. Văn xin giới, đáng lẽ các ông phải tự trình bày, nhưng sợ các ông không làm được, nên nay tôi dạy các ông. Mỗi người tự nói pháp danh của mình; còn những lời văn khác các ông đều nói theo tôi.
Đại đức Tăng lắng nghe, chúng con tên.. cầu thụ giới cụ túc với hòa thượng tên.. Nay chúng con tên.. xin với Tăng được thụ giới cụ túc. Đại đức tên.. làm hòa thượng, xin Tăng thương xót, cứu giúp chúng con.
Xin như thế ba lần, cúi đầu một lần. Thầy giáo thụ trở về ngồi lại chỗ cũ.
4.2.9. Pháp yết-ma đơn bạch
Thầy yết-ma ngồi yên tại chỗ, chắp tay, tác đơn bạch yết-ma trước, sau đó mới vấn nạn. Thầy yết-ma thưa như thế này:
Đại đức Tăng lắng nghe, những sa-di tên.. nay cầu thụ giới cụ túc với hòa thượng. Những sa-di tên.. nay xin thụ giới cụ túc với chúng Tăng. Đại đức tên.. làm hòa thượng. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng bằng lòng, tôi hỏi các nạn sự, bạch như thế, tác bạch có thành không? Hàng thất chứng ngồi tại chỗ chắp tay đáp: Thành.
4.2.10. Chính thức vấn nạn
Thầy yết-ma hỏi:
Hỏi: An-đà-hội, uất-đa-la-tăng, tăng-già-lê, bát-đa-la này, ba người các ông có những y, bát này không?
Trả lời: Có.
Thiện nam tử lắng nghe, đây là giờ phút chí thành, là lúc cần phải nói lời chân thật, vì thế tôi hỏi điều gì, các ông phải thành thật trả lời. Luật Tăng-kì ghi: “Nếu không thành thật trả lời, tức là lừa dối các trời, ma, phạm, sa-môn, bà-la-môn, người đời, Như Lai và chúng Tăng, tự mắc tội lớn”.
Hỏi: Ba người các ông có phạm biên tội không?
Trả lời: Không.
Hỏi: Khi còn làm bạch y, khi làm sa-di, các ông có làm nhiễm ô tịnh hạnh tì-kheo-ni không?
Trả lời: Không.
Hỏi: Ông không phải là bạch y, không phải là sa-di, đã từng nghe trộm chúng Tăng thuyết giới, dối xưng tì-kheo, nhận sự cung kính, lợi dưỡng, lễ bái của người. Đó gọi là tặc trụ. Người bị gọi là tặc trụ, Phật không cho phép độ xuất gia. Các ông có phải là những hạng người này không?
Trả lời: Không phải.
Hỏi: Ông không phải là ngoại đạo, theo Phật xuất gia, thụ giới rồi trở về lại với ngoại đạo. Nay lại quay trở lại thụ giới. Người này chí tính không định, gọi là phá nội-ngoại đạo, chẳng phải là pháp khí của Phật. Phật không cho phép độ xuất gia. Các ông có phải là hạng người này không?
Trả lời: Không phải.
Hỏi: Ông có phải là năm loại người sinh, kiền, đố, biến, bán này không?
Trả lời: Không.
Hỏi: Ông có giết cha không?
Trả lời: Không.
Hỏi: Ông có giết mẹ không?
Trả lời: Không.
Hỏi: Ông có giết A-la-hán không?
Trả lời: Không.
Hỏi: Ông có phá hòa hợp Tăng không?
Trả lời: Không.
Hỏi: Ông có ác tâm làm thân Phật chảy máu không?
Trả lời: Không.
Hỏi: Có phải ông là trời, rồng, quỉ, thần v.v.. biến làm hình người đến thụ giới không?
Trả lời: Không.
Hỏi: Có phải ông là rồng, súc sinh, v.v.. có khả năng biến hóa, hóa thành người đến thụ giới không?
Trả lời: Không.
Hỏi: Trong thân ba người các ông đều không mang hai hình nam-nữ. Đây chính là điều trái với đạo khí. Nay các ông có điều đó không?
Trả lời: Không.
Thiện nam tử, mười ba trọng nạn này các ông đã không phạm, nay tôi lại hỏi mười sáu khinh già.
Hỏi: Ba người các ông từ khi xuất gia đến nay mỗi người đều được dạy dỗ, vậy pháp danh đó là gì? Hôm nay hòa thượng đắc giới của ba người các ông là ai?
Trả lời: Đó là đại hòa thượng tên.. .
Hỏi: Ba người các ông đã đủ hai mươi tuổi chưa?
Trả lời: Đã đủ.
Hỏi: Y, bát, tọa cụ đủ không?
Trả lời: Đã đủ.
Hỏi: Cha, mẹ ông có cho phép ông xuất gia không?
Trả lời: Đã cho phép.
Hỏi: Ông có phải vì trốn nợ không muốn trả mà đến thụ giới phải không?
Trả lời: Không.
Hỏi: Ông có phải là nô bộc nhà người không?
Trả lời: Không.
Hỏi: Ông có phải là quan lại đang có tiếng tăm, có bổng lộc của triều đình không?
Trả lời: Không phải.
Hỏi: Có phải ông là trượng phu không?
Trả lời: Là trượng phu.
Ngoài việc, ông đã là trượng phu, còn phải là người không có năm thứ bệnh bệnh hủi, ung thư, bạch lại, càn tiêu, điên cuồng.
Hỏi: Ông thật không có năm thứ bệnh như thế không?
Trả lời: Không.
4.2.11. Truyền giới thể
Hòa thượng vỗ thủ xích và nói:
Thiện nam tử, trước không phạm trọng nạn, sau không phạm khinh già, các ông đúng là bậc pháp khí thanh tịnh, chúng Tăng đều vui mừng và sẽ truyền giới cho các ông. Nhưng giới sâu xa, thiện cao tột, rộng khắp pháp giới, lượng bằng hư không, nay muốn tiến thụ, cần phải nương vào cảnh mà phát tâm; tâm cảnh dung hợp mới phát sinh vô tác.
Luật Tát-bà-đa ghi: “Muốn thụ giới, thì phải nói pháp, dạy dỗ, giảng giải cho họ biết trước.” Ba người các ông từ vô thỉ đến nay, bám vào cảnh mà tạo các nghiệp ác, nghiệp ác trùm khắp pháp giới. Nay muốn thụ giới phải đoạn trừ cảnh ác trước và phát khởi thiện tâm. Đó là nguyên nhân làm cho giới pháp trùm khắp pháp giới. Cho nên, đức Như Lai của chúng ta tùy theo tâm chúng sinh tạo vô biên nghiệp mà chế vô biên giới.
Vì giới tùy theo tình huống mà chế, nên phải nương vào cảnh. Lượng của cảnh tuy nhiều nhưng cốt yếu không ngoài hai loại: 1. cảnh hữu tình; 2. cảnh vô tình.
- Cảnh hữu tình: trên đến chư Phật, dưới đến chúng sinh, chính báo trong mười giới và hữu tình thuộc trung ấm. Hễ có tâm thì đều gọi là tình cảnh.
- Cảnh vô tình: y báo trong mười giới, tất cả núi, sông, đại địa, cỏ, cây, thuyền, xe, nhà cửa, trân báu, ruộng vườn, đất, nước, lửa, gió cho đến hư không, thánh giáo do Đức Phật nói, văn tự của các nhà Nho, hình tượng, tháp miếu v.v. trong tất cả thế gian đều gọi là Vô tình cảnh.
Thiện nam tử, đã biết lượng của cảnh rộng lớn như thế, nên phải dựa vào cảnh mà phát tâm. Tâm thì có ba phẩm. Hai phẩm trung và hạ, là tâm yếu kém chẳng phải tâm vượt bậc; chỉ có thể độ mình, chứ không thể độ người. Nay tôi dạy các ông phát tâm thượng phẩm để cầu giới thượng phẩm. Tâm thượng phẩm là gì? Nay ở trước các vị thầy của ta lập ba thệ nguyện: 1. Thệ đoạn tất cả điều ác, không phải điều ác thì không đoạn. 2. Thệ thực hành tất cả điều thiện; không phải điều thiện thì không thực hành. 3. Thệ độ tất cả chúng sinh; không một chúng sinh nào không độ.
Phát ba đại thệ nguyện ấy rồi, sau khi bạch tứ yết-ma tiến hành thụ giới đại tì-kheo, không vì cầu tiểu quả Thanh văn, mà chỉ muốn thành tựu tam tụ tịnh giới, hướng thẳng đến ba môn giải thoát, chính cầu quả Phật, cầu đại niết-bàn, làm cho chính pháp trụ lâu. Phát tâm thượng phẩm như thế, mới thụ được giới thượng phẩm.
Tiếp theo phải mở rộng tâm lượng của các ông. Bởi vì, thể của giới pháp trùm khắp pháp giới, lượng bằng với trần sa, không thể dùng thân hiện tại do cha mẹ sinh ra của ba người các ông và cũng không thể dùng thân tâm xấu kém có được do y báo mà có thể dung nạp, tiếp nhận. Vì thế, phải dùng thân có dung lượng như hư không mới có thể lãnh nạp giới pháp nhiều như cát bụi. Cho nên, luận ghi: “Nếu giới pháp ấy có hình sắc thì khi nạp vào thân của ông sẽ tạo ra tiếng kêu long trời lở đất. Vì giới pháp ấy không phải là sắc pháp, nên làm cho ông không hay không biết.”
Vì thế, các ông phải khởi ý thiết tha, phát tâm thượng phẩm sâu nặng lãnh nạp diệu giới thanh tịnh của Như Lai (vỗ thủ xích một cái). Bây giờ, tôi làm pháp bạch tứ yết-ma truyền giới đại tì-kheo cho các ông. Các ông phải xem xét các nghi thức trên đàn, tai nghe yết-ma, nhất tâm lãnh thụ, chớ nghĩ việc khác, chớ để ý việc khác. Trước tiên, là bạch một lần, kế đó là ba lần yết-ma, để lượng định sự việc có thành hay không?
Trong bản văn đầy đủ của đàn xưa này, sau đoạn “vỗ thủ xích” có thêm một hai điều. Luật Thập tụng ghi: “Khi yết-ma thụ giới, phải nhất tâm lắng nghe, chớ suy nghĩ gì khác; chỉ biết kính trọng, nên chính tư duy, tâm tâm luôn nhớ nghĩ và phải nhận biết rõ việc thụ giới. Người nào làm trái lại thì phạm tội đột-kiết-la”.
Nếu số lượng người thụ giới trên đàn quá đông thì có thể sử dụng bản văn tóm lược trong ‘Tùy cơ yết-ma’. Bản văn đầy đủ và tóm lược này đều do ngài Nam Sơn soạn ra. Như khi khai đạo vắn tắt nên nói với những người thụ giới kia.
Chúng sinh trong sáu đường phần nhiều là giới chướng, riêng người được thụ giới mà còn bị vướng già nạn thì không hẳn đều được thụ giới. Các ông không phạm các già nạn thì chắc chắn được thụ giới. Các ông nên y cứ theo văn luận phát tâm tăng thượng. Đó là cứu vớt tất cả chúng sinh, dùng pháp độ chúng. Lại nữa, giới là cội gốc của các điều thiện, có thể làm chính nhân cho tam thừa. Giới là của báu trong Phật pháp, mà các đạo khác không có. Giới có công năng bảo vệ cho chính pháp của Phật tồn tại dài lâu. Lại nữa, nhờ uy lực của yết-ma, sức mạnh của chúng Tăng có thể đem thắng pháp khắp pháp giới đặt vào thân tâm ông. Ông phải dùng mắt theo dõi các oai nghi trên đàn, dùng tai lắng nghe yết-ma v.v.. Như trong trong bản văn đầy đủ đã trình bày ở trên có thể biết được.
4.2.12. Chính thức thụ giới thể
Thầy yết-ma chắp tay và nói:
Cúi xin hòa thượng, đại chúng không tiếc từ bi, bố thí giới cho những người ấy, đồng tâm cùng giữ, cẩn thận với những duyên khác, làm cho ba người ấy cảm phát giới thể của viên tông. Sắp làm pháp yết-ma, lắng nghe nói lời tác bạch.
Đại đức Tăng lắng nghe, những sa-di tên.. này theo hòa thượng tên.. cầu xin thụ giới cụ túc. Những sa-di tên.. này theo chúng Tăng xin thụ giới cụ túc. Đại đức tên.. làm hòa thượng. Các sa-di tên.. tự nói thanh tịnh, không phạm các già nạn, đủ hai mươi tuổi, ba y, bình bát đầy đủ; nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng bằng lòng, Tăng truyền giới cụ túc cho các sa-di tên.. Đại đức tên.. làm hòa thượng, bạch như thế, tác bạch có thành không?
Hàng thất chứng chắp tay đồng thanh đáp: Thành.
Đại đức Tăng lắng nghe, các sa-di tên.. này cầu xin thụ giới cụ túc với hòa thượng tên.. . Các sa-di tên.. này nay xin thụ giới cụ túc với Tăng, đại đức tên.. làm hòa thượng. Các sa-di tên.. tự nói thanh tịnh, không có các già nạn, đủ hai mươi tuổi, ba y, một bát có đủ. Nay Tăng truyền giới cụ túc cho các sa-di tên.. đại đức tên.. làm hòa thượng. Trưởng lão nào bằng lòng cho phép Tăng truyền giới cụ túc cho các sa-di tên.. đại đức tên.. làm hòa thượng thì im lặng, ai không bằng lòng thì nói. Đây là yết-ma lần thứ nhất thành không?
Trả lời: Thành.
Đại đức Tăng lắng nghe, những sa-di tên.. này xin thụ giới cụ túc với hòa thượng tên.. . Nay những sa-di tên.. này xin thụ giới cụ túc với chúng Tăng, đại đức tên.. làm hòa thượng. Những sa-di tên.. tự nói thanh tịnh, không có các nạn sự, đủ hai mươi tuổi, ba y, một bát có đủ. Nay Tăng truyền giới cụ túc cho những sa-di tên.. đại đức tên.. làm hòa thượng. Trưởng lão nào bằng lòng cho phép Tăng truyền giới cụ túc cho những sa-di tên.. đại đức tên.. làm hòa thượng thì im lặng. Ai không bằng lòng thì nói. Đây là yết-ma lần thứ hai thành không?
Trả lời: Thành.
Đại đức Tăng lắng nghe, các sa-di tên.. này xin thụ giới cụ túc với hòa thượng tên.. . Những sa-di tên.. này từ nay xin thụ giới cụ túc với Tăng, đại đức tên.. làm hòa thượng. Những sa-di tên.. này tự nói thanh tịnh, không có các nạn sự, đủ hai mươi tuổi, ba y, một bát có đủ. Nay Tăng truyền giới cụ túc cho những sa-di tên.. đại đức tên.. làm hòa thượng. Trưởng lão nào bằng lòng cho phép Tăng truyền giới cụ túc cho những sa-di tên.. này, đại đức tên.. làm hòa thường thì im lặng. Ai không bằng lòng thì nói. Đây là yết-ma lần thứ ba thành không?
Trả lời: Thành.
Tăng đã bằng lòng truyền giới cụ túc cho những sa-di tên... rồi, đại đức tên.. làm hòa thượng. Tăng bằng lòng vì im lặng. Việc ấy xin ghi nhận như vậy.
Luật Thiện kiến và các bộ luật đều ghi: “Thụ giới cụ túc rồi, hòa thượng a-xà-lê v.v.. phải nhắc cho người thụ giới ghi nhớ thời gian họ đã thụ giới cụ túc vào lúc mấy giờ, ngày mấy, tháng mấy, mùa xuân, mùa hạ, mùa đông. Nếu không nhắc cho người thụ giới nhớ thì hàng thập sư trên đàn mắc tội”.
Đây là để nói số hạ lạp của Tăng, để khi tới-lui, ngồi-đứng, biết thượng, trung, hạ tọa, thứ tự, lễ phép.
4.2.13. Nói bốn pháp đọa
Bấy giờ, có vị tì-kheo, sau khi thụ giới xong, chúng Tăng bỏ đi hết. Vị tì-kheo ấy vốn không biết thế nào là phạm, nên gây ra tội nặng. Phật dạy: “Từ nay về sau, khi tác pháp yết-ma xong, phải nói cho những người mới thụ giới cụ túc biết bốn pháp ba-la-di trước”.
Hòa thượng giới sư vỗ thủ xích và nói:
Thiện nam tử lắng nghe, Như Lai Chí Chân Đẳng Chính Giác nói bốn pháp ba-la-di, tì-kheo nào phạm mỗi một pháp thì chẳng phải là sa-môn, chẳng phải là Thích tử.
Các ông nhất định không được phạm dâm, làm việc bất tịnh hạnh. Tì-kheo nào phạm bất tịnh hạnh, nhận pháp dâm dục, cho đến cùng với súc sinh thì không phải sa-môn, không phải Thích tử.
Bấy giờ, đức Thế Tôn nói thí dụ: “Giống như có người đã bị chặt đầu thì không bao giờ sống lại được. Tì-kheo cũng giống như vậy, đã phạm bốn pháp ba-la-di rồi thì hạnh tì-kheo không thể phục hồi lại được”.
Hỏi: Trong giới này suốt đời không được làm, các ông có thể giữ được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
Các ông nhất định không được trộm cướp, dưới đến lá cây, cọng cỏ. Tì-kheo nào trộm của người năm tiền, hoặc hơn năm tiền, hoặc tự mình lấy, sai người lấy; hoặc phá, sai người phá; hoặc tự mình đốt, sai người đốt; hoặc chôn, hoặc hủy hoại sắc. Những người ấy không phải sa-môn, không phải Thích tử. Giống như chặt đứt lỗi cây đa-la thì không bao giờ nó sống trở lại. Tì-kheo phạm pháp ba-la-di cũng như thế, khi đã phạm pháp ba-la-di thì hạnh tì-kheo phục hồi lại được.
Hỏi: Trong giới này suốt đời không được làm, các ông có thể giữ được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
Các ông nhất định không được đoạn mạng chúng sinh, dù chỉ là con kiến. Tì-kheo nào cố ý tự tay mình đoạn mạng người, cầm dao đưa người, dạy người chết, khen người chết, cho người bệnh không đúng thuốc, hoặc phá thai, hoặc giết bằng cách yểm đảo. Tự mình tìm cách, hoặc sai người làm, những người ấy không phải sa-môn, không phải Thích tử. Có thí dụ nói, giống như cây kim bị thiếu mũi thì không thể dùng lại được. Tì-kheo cũng như thế, người nào đã phạm pháp ba-la-di thì hạnh tì-kheo không thể phục hồi lại được.
Hỏi: Trong giới này suốt đời không được làm, các ông có giữ được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
Các ông nhất định không được nói dối, dù chỉ là giỡn cười. Tì-kheo nào chẳng phải chân thật, chẳng phải mình có, tự nói tôi được pháp thượng nhân, được thiền, được giải thoát, được định, được bốn không định, được quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán, trời, rồng, quỉ, thần đến cúng dường tôi. Những người ấy không phải sa-môn, không phải Thích tử. Giống như tảng đá lớn đã vỡ thành hai mảnh thì không bao giờ liền lại được. Tì-kheo cũng như thế, khi đã phạm bốn pháp ba-la-di thì hạnh tì-kheo không thể phục hồi lại được.
Hỏi: Trong giới này suốt đời không được làm, các ông có thể giữ được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
Tì-kheo có 250 giới tướng, nhưng chỉ có bốn pháp này gọi là tội căn bản phú tàng; nếu phạm không cho phép sám hối, còn bị đuổi đi. Cho nên, phải giảng nói gấp. Những giới khác gọi là tội cành ngọn hữu tàng, nếu phạm cho phép sám hối. Cho nên, có thể giảng nói sau. Đợi sau khi xuống đàn rồi mới chỉ dạy họ đọc học, nên nay không giảng nói.
4.2.14. Truyền bốn y
Bấy giờ, gặp lúc đói kém, khất thực khó được, có ngoại đạo tự ý xuất gia, thụ giới. Sau đó, người này thấy Tăng không có thức ăn nên bỏ đạo. Phật dạy: “Phải trao cho tứ y trước, rồi sau đó mới thụ giới.” Lại có ngoại đạo xin Tăng xuất gia, Tăng nói bốn y trước, người kia nói lại: “Tôi chỉ giữ được hai y. Tôi không mặc y vá và uống thuốc xấu được.” Người ấy liền bỏ đạo. Phật dạy: “Người ngoại đạo ấy mắc sai lầm lớn. Từ nay về sau, khi truyền bốn y phải truyền như thế.”
Hòa thượng vỗ thủ thích và nói:
Thiện nam tử, Như Lai Chí Chân Đẳng Chính Giác nói pháp bốn y, tì-kheo nương vào bốn pháp này mà được xuất gia, thụ giới cụ túc, thành tựu pháp tì-kheo.
Tì-kheo nương vào y phấn tảo mà được xuất gia, thụ giới cụ túc, thành tựu pháp tì-kheo.
Hỏi: Các ông suốt đời có giữ được việc này không?
Trả lời: Có thể giữ được.
Nếu được nhiều lợi dưỡng, đàn việt cúng vải, cắt thành mảnh vải nhỏ thì được nhận.
Tì-kheo sống nhờ khất thực. Tì-kheo nhờ việc này mà được xuất gia, thụ giới cụ túc, thành tựu pháp tì-kheo.
Hỏi: Các ông suốt đời có giữ được việc này không?
Trả lời: Có thể giữ được.
Hoặc được nhiều lợi dưỡng, hoặc Tăng sai khất thực, đàn việt dâng cúng thức ăn, hoặc thức ăn vào ngày mùng tám mỗi tháng, thức ăn vào ngày mười lăm, thức ăn vào ngày mùng một mỗi tháng, hoặc thức ăn thường dùng hàng ngày của Tăng, đàn việt mời thì được phép nhận.
Tì-kheo ở bên gốc cây. Tì-kheo nhờ việc này mà được xuất gia, thụ giới cụ túc, thành tựu pháp tì-kheo.
Hỏi: Các ông suốt đời có thể giữ việc này được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
Được lợi dưỡng dư, hoặc phòng riêng, hoặc phòng có mái nhọn, phòng nhỏ, phòng bằng đá, hai phòng chung một cửa thì được nhận.
Tì-kheo chữa bệnh bằng thuốc xấu. Tì-kheo nhờ việc này mà được xuất gia, thụ giới cụ túc, thành tựu pháp tì-kheo.
Hỏi: Các ông suốt đời có thể giữ việc này được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
Được lợi dưỡng dư, như bơ, dầu, sữa đặc, mật, đường phèn thì được phép nhận.
Nội dung được nói trong y pháp thứ tư, là các loại thuốc ở Ấn Độ. Thuốc ở Trung Quốc được làm từ cỏ, rễ cây, vỏ cây v.v.. . Tuy nhiên, luật được chế định ở Ấn Độ, nhưng khi giáo pháp đã truyền qua Trung Quốc, ắt tùy theo đất đai mà sinh ra cây thuốc và thuốc cũng được sử dụng theo bác sĩ mỗi thời.
Thông thường thuốc phải đúng với bệnh của tì-kheo. Những loại thuốc dư, bỏ đều gọi là thuốc mục xấu. Tất cả những thuốc, thức ăn do đàn việt phát tâm cúng dường đều gọi là lợi dưỡng dư thừa. Nếu không tùy thuận theo địa phương của mỗi nước thì y pháp này chỉ thụ cho có thôi mà không có lợi ích gì.
4.2.15. Khuyến khích và hồi hướng
Hòa thượng vỗ thủ xích và nói:
Các ông đã thụ giới rồi, bạch tứ yết-ma như pháp, thành tựu, đắc xứ sở; hòa thượng như pháp, a-xà-lê như pháp, chúng Tăng đủ túc số. Các ông phải khéo thụ giáo pháp, phải khuyến hóa làm phúc, sửa tháp, cúng dường Phật, Pháp, chúng Tăng. Nếu hòa thượng a-xà-lê dạy dỗ đúng như pháp thì không được chống lại, phải học, hỏi, tụng kinh; siêng năng tìm cầu phương tiện để tu tập, ở trong Phật pháp được quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán. Các ông mới phát tâm xuất gia, công không luống uổng, quả báo không mất; những gì chưa biết nên hỏi hòa thượng a-xà-lê. Các ông đỉnh lễ rồi xuống đàn.
Nếu số người trên đàn nhiều thì cứ ba người thụ giới rồi cho xuống đàn, bảo họ lên điện lễ Phật phát nguyện, giữ vững giới phẩm. Những đại đức làm giáo thụ sư chỉ ở trên đàn đủ số mười người, cho phép làm pháp bạch tứ yết-ma và công nhận ‘thành’ rồi, thì những sa-di kia đều được thụ giới cụ túc. Sau đó, thầy giáo thụ xuống đàn, đến chỗ khuất hỏi nạn các sa-di thụ giới đàn thứ hai. Hỏi xong, cũng bạch như trước và cho gọi họ vào trong chúng. Các đàn tiếp theo cũng đều làm như thế.
Nếu trong lúc bạch tứ yết-ma mà trên đàn không đủ mười tì-kheo, giả sử yết-ma có thành thì những sa-di kia cũng không đắc giới cụ túc. Cho đến, khi đàn cuối cùng thụ giới xong, thầy dẫn lễ gọi những người thụ giới trước, cùng tập hợp trước đàn, xếp thành hai hàng, đợi người sâu cùng thụ giới xuống đàn. Hòa thượng vỗ thủ xích, hàng thập sư rời chỗ ngồi và đứng.
Hòa thượng chắp tay, hồi hướng rằng:
Đem công đức thụ giới này, nguyện biển giới lắng trong, rửa nghiệp nhơ của chúng sinh, ruộng phúc của Tăng sáng sạch, làm cầu bến cho đại địa, bốn ân và ba hữu đều thấm nhuần lợi ích, mọi người đồng thanh, niệm Phật hồi hướng.
Đại chúng ở dưới đàn, đồng thanh niệm Phật. Chín thầy ở trên đàn quay về phía hòa thượng đỉnh lễ ba lễ và đứng thành hai hàng. Thầy dẫn lễ gọi những tì-kheo mới thụ giới cùng hướng lên trên đỉnh lễ ba lễ, đứng dậy, xếp hàng. Vị thầy thứ mười đi trước, cho đến hòa thượng đi sau cùng. Từ phía nam đi xuống bậc thứ hai, theo phía tây nam đi vòng đến phía đông rồi xuống bậc thứ ba. Mọi người đều cởi giày đi vòng đến trước đàn, xếp hàng và đỉnh lễ ba lễ.
Thầy duy-na xướng kệ hồi hướng và mọi người hòa theo:
Thụ giới công đức thật tuyệt vời
Vô biên phúc lành đều hồi hướng
Nguyện cho chúng sinh bị chìm đắm
Chóng sinh cõi Phật Vô Lượng Quang
Mười phương ba đời tất cả Phật
Tất cả Bồ-tát ma-ha-tát
Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật.
Hàng thập sư đỉnh lễ xong, tụng bài kệ hồi hướng vừa dứt thì hòa thượng đứng xoay mặt về phía nam và chín thầy xếp thành hai hàng. Hai thầy dẫn lễ đánh khánh song song nhau đi trước. Các tì-kheo mới theo thứ tự chia làm hai hàng trái phải đi theo sau. Đến trước phương trượng, xếp thành hai hàng chắp tay, quì đối mặt nhau, đợi hàng thập sư đi qua, rồi mới đứng lên đi song song nhau, đến trước mặt hàng thập sư xếp hàng, đỉnh lễ hàng thập sư. Đỉnh lễ xong, từ từ đi thẳng hàng, mỗi người trở về phòng của mình. Đợi các thầy dẫn lễ và những thầy tán lễ quay lại và theo như thường lệ lễ tạ họ. Sau đó, chín thầy đi xuống dưới, lễ tạ hòa thượng rồi lui ra.
Phật dạy: “Phải bảo những người thụ giới đi trước”. Mỗi ngày ba lần, đệ tử phải đến thăm hỏi hòa thượng. Một ngày ba lần sáng, giữa trưa, chiều phải làm hai việc cho hòa thượng, cực khổ không được từ chối. Một là sửa lại phòng ốc; hai là giặt giũ y phục. Hòa thượng phải dạy dỗ đúng pháp và hết sức phụng hành. Người nào làm trái lại sẽ trị đúng như pháp.
4.3. Chính thức truyền giới Bồ-tát
Mục 23 kiêu mạn tránh nói giới trong Kinh Phạm võng ghi: “Sau khi đức Phật diệt độ, bấy giờ, có người tâm tốt muốn thụ giới Bồ-tát, đến trước hình tượng của Phật, Bồ-tát tự thệ thụ giới. Người ấy phải ở trước Phật bảy ngày sám hối, cầu thấy được hảo tướng liền đắc giới. Nếu không thấy được hảo tướng thì phải ở trước Phật hai mươi mốt ngày, cho đến một năm để cầu cho thấy hảo tướng. Nếu không được hảo tướng thì dù ở trước tượng Phật thụ giới cũng không đắc giới. Nếu ở trước mặt những pháp sư đã thụ giới Bồ-tát trước, thụ giới thì không cần phải cầu thấy hảo tướng. Vì sao? Vì những vị pháp sư đó thầy truyền cho thầy nối tiếp nhau, nên không cần cầu thấy hảo tướng. Vì thế ở trước pháp sư thụ giới thì đắc giới. Vì sinh tâm rất kính trọng nên đắc giới liền. Nếu trong phạm vi một nghìn dặm mà không có giới sư có thể truyền giới thì được phép ở trước tượng Phật, Bồ-tát tự thệ thụ giới và phải cầu thấy được hảo tướng.”
Phẩm Đại chúng thụ học trong kinh Bồ-tát anh lạc bản nghiệp ghi: “Phật tử, có ba cách thụ giới: 1. Thụ giới ở trước các Đức Phật, Bồ-tát hiện tại, đắc giới bậc thượng chân thật. 2. Sau khi chư Phật, Bồ-tát diệt độ, trong phạm vi một nghìn dặm có người đã thụ giới Bồ-tát trước, thỉnh người ấy làm pháp sư giáo thụ. Đệ tử của vị pháp sư ấy đắc giới đúng pháp. Đó là đắc giới bậc trung. 3. Sau khi chư Phật, Bồ-tát diệt độ rồi, bấy giờ, trong phạm vi một nghìn dặm không có pháp sư, thì phải đối trước tượng Phật, Bồ-tát tự thệ thụ giới. Đó là đắc giới bậc hạ”.
Toàn bộ bộ Phạm võng ấy có 112 quyển, 61 phẩm, toàn văn chưa truyền đến Trung Quốc, mà chỉ có phẩm Tâm địa thứ mười được lưu thông, phụng trì. Vì thế, thiếu nghi thức ở trước thầy truyền giới. Kinh Bồ-tát anh lạc bản nghiệp, kinh Di-lặc Bồ-tát sở thuyết và trong văn Bồ-tát giới yết-ma đều trình bày: “Vì thế, nay tập hợp, thêm phần nghi thức, để mọi người có căn cứ thực hành theo.”
4.3.1. Sắp đặt chỗ ngồi và kết đàn
Đến ngày thụ giới, treo cờ, lọng ở trước Phật điện, chính giữa điện Phật, đặt một tòa cao, để làm chỗ ngồi cho đắc giới bản Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật. Phía bên trái ở trên, đặt một tòa cao, để làm chỗ ngồi cho tôn chứng sư thập phương chư Phật, yết-ma sư Văn-thù Bồ-tát, giáo thụ sư Di-lặc Bồ-tát và các vị Bồ-tát đồng học ở mười phương. Phía bên phải ở trên, đặt một tòa cao, đợi tất các vị pháp sư Bồ-tát giới được thỉnh ngồi xong và hương, hoa cũng đều sắp đặt xong. Đến giờ, đánh kiền chùy, các thầy dẫn lễ bảo những người thụ giới, đều ôm bát, cầm tọa cụ, đắp ba y, đi vào bên trong điện Phật. Những người thụ giới kia hướng về thầy dẫn lễ, đỉnh lễ ba lễ và đứng thành hàng.
Thầy dẫn lễ nói:
Các Phật tử, nay thiết lập đàn tràng, sắp đặt pháp tòa, cử hành pháp thụ Bồ-tát diệu thiện giới cho các ông. Các ông phải tụng chú kết đàn theo tôi trước, rồi sau đó mới vào phòng thỉnh thầy.
Thầy dẫn lễ thưa rồi, đứng ở giữa điện hướng về chỗ ngồi, chắp tay hỏi thăm, xoay người sang bên phải tụng chú Đại bi. Những người thụ giới kia đồng thanh tụng theo và mỗi người theo thứ tự đi theo sau. Đi quanh ba vòng, tụng chú ba lần xong, thầy dẫn lễ trở về vị trí cũ. Những người đi theo sau cũng theo thứ tự hàng ngũ đứng yên và cùng xướng.
Nam Mô Cam Lộ Vương Bồ-tát ma-ha-tát (3 lần).
4.3.2. Thỉnh sư vào đàn
Tất cả đại Tăng ở chung trong một cương giới, khi nghe tiếng kiền chùy đều tập hợp ở phương trượng. Kết đàn xong, các thầy dẫn lễ xếp hàng ở hai bên phải-trái song song dẫn đường ra khỏi đàn. Những người cầu giới tất cả theo thứ tự xếp hàng song song nhau đi theo sau, cùng đến phương trượng. Xếp hàng như thường lệ, hai thầy dẫn lễ, mỗi người dẫn hai người cầu giới đến thỉnh hai thầy a-xà-lê đến rồi. Tất cả những người cầu giới đỉnh lễ ba lễ. Hai thầy a-xà-lê tự phân chia trách nhiệm và vị trí rồi đứng. Bốn thầy dẫn lễ bước ra khỏi hàng, thông báo cho vị thị giả biết trước, rồi mới vào phòng thỉnh sư. Sư ra khỏi phòng đến chỗ ngồi. Bấy giờ, hai thầy a-xà-lê xoay về pháp sư Bồ-tát đỉnh lễ ba lễ, rồi trở lại vị trí cũ.
Thầy dẫn lễ nói:
Các Phật tử, cùng hướng lên trên xếp hàng, nghe tiếng khánh, chí thành đỉnh lễ ba lễ, vén y, ôm bát, quì gối, chắp tay.
Giới Bồ-tát, việc ấy vượt khỏi thường tình, nhờ thầy mới phát, trước Phật tự thệ, hảo tướng khó mong, gặp được minh sư liền gọi là đắc giới.
Nay tôi cung thỉnh đường thượng tên.. luật sư tên.. làm pháp sư Bồ-tát giới cho các ông. Đáng lẽ, văn thỉnh sư do các ông tự cùng nhau trình bày, nhưng sợ các ông không làm được, nên nay tôi chỉ dạy. Mỗi người tự nói pháp danh của mình, những lời văn khác, đều nói theo tôi.
Kinh Bồ-tát giới yết-ma ghi: “Những Bồ-tát nào muốn học tam tụ tịnh giới của Bồ-tát, hoặc là tại gia, hoặc là xuất gia, trước tiên phải phát hoằng nguyện vô thượng chính đẳng bồ-đề, kế đến nên suy xét cầu một vị Bồ-tát đồng pháp đã phát nguyện rộng lớn, có trí tuệ, có năng lực, đối với ý nghĩa ngoài ngôn ngữ có thể truyền trao, khai mở cho người học.” Bồ-tát cầu thụ giới đến chỗ Bồ-tát cao quí, đầy đủ công đức này trước tiên đỉnh lễ hai chân, vén y lộ vái phải, quì gối, chắp tay, cung kính thỉnh như thế này:
Đại đức nhớ nghĩ, con tên.. nay xin thụ tất cả tịnh giới Bồ-tát với đại đức, cúi xin trong chốt lát, không từ lao nhọc, xót thương, bằng lòng truyền giới cho.
Lời văn thỉnh này trích ra trong kinh Di-lặc yết-ma. Thỉnh như thế ba lần và cúi đầu ba lần.
Pháp sư Bồ-tát giới nói:
Các Phật tử, các người đã ân cần thưa thỉnh, nay tôi có thể đến đàn, tuân theo kinh, luật Đại thừa, cử hành truyền giới.
Thầy dẫn lễ nói:
Các Phật tử, đồng đứng dậy, nghe tiếng khánh, đỉnh lễ ba lễ, vén y, ôm bát, xếp tọa cụ, xếp hàng.
Đợi mọi người đứng dậy xong, thầy dẫn lễ đưa hương cho một người đứng đầu hàng cầm. Bấy giờ, vị pháp sư Bồ-tát giới rời chỗ ngồi, chắp tay, xướng:
Nam Mô Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật.
Đại chúng đồng thanh niệm danh hiệu Phật. Trong đàn trổi chuông trống bát-nhã. Hai thầy dẫn lễ đứng hai bên song song nhau, cầm cờ đi trước. Tiếp theo là chúng hộ đàn. Tiếp theo sau nữa là người thụ giới. Tiếp theo là hai thầy dẫn lễ đánh khánh đi song song nhau. Người cầm hương đi liền ngay sau. Hai thầy a-xà-lê đi sau và pháp sư Bồ-tát đi sau cùng.
Hai vị thị giả, một người ôm bát, một người cầm gậy đi theo sau. Hai thầy dẫn lễ cầm cờ, dẫn đường tiến lên đàn. Lên đến trên đàn rồi, đứng hai bên trái-phải bên cạnh cái tòa cao. Đại chúng hộ đàn theo cờ phướn từ trên hai hàng theo thứ tự đi xuống dưới, xếp hàng. Những người thụ giới, như thường lệ theo cấp bậc xếp hàng đối diện nhau. Hai thầy dẫn lễ đánh khánh chia làm hai đi đến trước cột cờ. Hai thầy a-xà-lê đứng hai bên phải-trái song song nhau trước cái tòa cao. Pháp sư trải tọa cụ ở giữa điện, quán sát, đỉnh lễ mười phương ba đời Tam bảo chín lạy. Hai vị thị giả ôm bát, cầm gậy đứng sau vị ấy.
Thầy duy-na xướng kệ tập chúng rằng:
Hàng phục sức ma oán
Trừ hết kết không còn
Nghe âm hưởng diệu này
Sẽ tập hợp đầy đủ.
Nam Mô Vân Lai Tập Bồ-tát ma-ha-tát (3 lần).
Tiếng chuông vang vọng ba nghìn cõi
Phật pháp truyền sang vạn ức nước
Bồi công báo đáp ân đế chúa
Lợi ích đáp đền đức đàn-na.
Nay vì truyền trao tam tụ tịnh giới Bồ-tát mà nói.
Đỉnh lễ chín lễ và xướng kệ xong, pháp sư xếp tọa cụ, lên tòa niêm hương, chỉnh y và ngồi. Hai thầy a-xà-lê bước xuống cũng đỉnh lễ chín lễ như thế xong, bước lên trên chỗ ngồi của pháp sư và đứng hai bên phải-trái. Hai vị thị giả ôm bát, cầm gậy đứng sau thầy.
Thầy dẫn lễ nói:
Biển chúng hộ đàn, bước ra và lễ Phật.
Đại chúng đầy đủ oai nghi, bước vào bên trong, đỉnh lễ ba lễ xong, mỗi người theo thứ tự trở về xếp hàng như vị trí cũ.
Thầy dẫn lễ nói:
Cắm hương lên, trở về vị trí cũ.
Các đệ tử, tiến lên trên xếp hàng, trải tọa cụ, nghe tiếng khánh, đỉnh lễ ba lễ, vén y, ôm bát, quì gối, chắp tay.
4.3.3. Kính lễ Tam bảo
Kinh Phạm võng yết-ma ghi: “Đã chân thật thỉnh như thế rồi, vén y để lộ vai phải, cung kính lễ bái, cúng dường các đức Phật Thế Tôn trong mười phương, ba đời. Chúng Bồ-tát đã vào đại địa, đắc đại trí tuệ, đắc đại thần thông và buộc niệm hiện tiền các công đức kia, sinh tâm thanh tịnh.”
Kinh Anh lạc ghi: “Thiện nam tử, thiện nữ nhân, sắp đến giờ thụ giới, phải đỉnh lễ tất cả chư Phật đời quá khứ và tận cùng biên tế quá khứ; đỉnh lễ tất cả chư Phật đời vị lai và tận cùng biên tế đời vị lai; đỉnh lễ tất cả chư Phật đời hiện tại và tận cùng biên tế đời hiện tại. Đỉnh lễ như thế ba lần. Đối với Pháp và Tăng cũng đỉnh lễ như thế.”
Thầy dẫn lễ nói:
Các Phật tử, các người đã phát tâm thù thắng, cầu thụ tịnh giới Bồ-tát, cần phải vận tâm quán tưởng, nghe tôi xướng đỉnh lễ mười phương Tam bảo. Mỗi người tự nói pháp danh của mình, rồi đồng đứng dậy, chắp tay.
Hai thầy dẫn lễ bên trái, bên phải, hoặc tám người, sáu người, bốn người đi song song nhau vào bên trong, xếp thành một hàng, trải tọa cụ, quán tưởng, đỉnh lễ, chắp tay xướng kệ:
Nhất tâm đỉnh lễ, tất cả chư Phật đời quá khứ và cùng tận biên tế đời quá khứ.
Những người thụ giới, cần phải đồng thanh đỉnh lễ, tất cả kính cẩn, đừng để thân khẩu chuệch choạc, tâm ý tán loạn.
Nhất tâm đỉnh lễ, tất cả chư Phật đời vị lai và cùng tận biên tế đời vị lai.
Nhất tâm đỉnh lễ tất cả chư Phật đời hiện tại và cùng tận biên tế đời hiện tại.
Nhất tâm đỉnh lễ tất cả tôn Pháp đời quá khứ và cùng tận biên tế đời quá khứ.
Nhất tâm đỉnh lễ tất cả tôn Pháp đời vị lai và cùng tận biên tế đời vị lai.
Nhất tâm đỉnh lễ tất cả tôn Pháp đời hiện tại và cùng tận biên tế đời hiện tại.
Nhất tâm đỉnh lễ tất cả Hiền Thánh đời quá khứ và cùng tận biên tế đời quá khứ.
Nhất tâm đỉnh lễ tất cả Hiền Thánh đời vị lai và cùng tận biên tế đời vị lai.
Nhất tâm đỉnh lễ tất cả Hiền Thánh đời hiện tại và cùng tận biên tế đời hiện tại.
4.3.4. Chính thức thỉnh sư
Kinh Yết-ma ghi: “Người muốn thụ giới Bồ-tát phải biết khiêm nhường, cung kính với Bồ-tát có trí, có lực, quì gối và ở trước tượng Phật chắp tay thỉnh.” Vì thế, sau khi lễ Tam bảo xong, những người cầu giới đều quì gối, chắp tay. Các thầy dẫn lễ xếp tọa cụ, trở lại vị trí cũ. Chỉ một vị thầy dẫn lễ đứng trước Phật và dạy rằng:
Các Phật tử, nay ở trước tượng Phật, hãy nói theo tôi và chí thành chính thức thỉnh pháp sư Bồ-tát giới.
Cúi xin đại đức thương xót, truyền cho chúng con tên.. tịnh giới Bồ-tát.
Nói một lần rồi, mọi người đồng lạy một lạy. Thầy dẫn lễ trở lại vị trí cũ. Kinh Bồ-tát yết-ma ghi: “Thỉnh như thế rồi, buộc niệm vào một cảnh, nuôi lớn tịnh tâm: ‘Không lâu nữa, tôi sẽ đạt được vô tận, vô lượng, vô thượng đại công đức tạng.’ Đứng im lặng và tư duy liên tục sự nghĩa như thế.”
Bấy giờ, pháp sư Bồ-tát giới vỗ thủ xích và hỏi:
Các Phật tử lắng nghe!
Hỏi: Các người có phải là Bồ-tát không?
Trả lời: Là Bồ-tát.
Hỏi: Đã là Bồ-tát, các người phát tâm bồ-đề chưa?
Trả lời: Đã phát tâm bồ-đề rồi.
4.3.5. Khai đạo giới
Giới sư Bồ-tát vỗ thủ xích và nói:
Các Phật tử lắng nghe! Nay các người muốn thụ tất cả học xứ của Bồ-tát với tôi và thụ tất cả tịnh giới của chư Bồ-tát, đó là: nhiếp luật nghi giới, nhiếp thiện pháp giới, nhiêu ích hữu tình giới. Học xứ như thế, tịnh giới như thế.
Tất cả Bồ-tát quá khứ đã đủ, tất cả Bồ-tát vị lai sẽ đủ, tất cả Bồ-tát hiện tại ở khắp mười phương nay đủ, học xứ như thế, tịnh giới như thế.
Hỏi: Tất cả Bồ-tát quá khứ đã học, tất cả Bồ-tát vị lai sẽ học, tất cả Bồ-tát hiện tại ở khắp mười phương nay học, các người có thể thụ được không?
Trả lời: Có thể thụ được.
Hỏi, đáp như thế ba lần. Văn này được trích ra trong kinh Yết-ma.
4.3.6. Thỉnh thánh
Pháp sư Bồ-tát giới vỗ thủ xích và nói:
Các Phật tử, đã có thể thụ Bồ-tát tịnh giới, có thể học Bồ-tát học xứ, mỗi người hãy đứng dậy, chắp tay, nhất tâm, năm vóc sát đất, thỉnh chư Phật, Bồ-tát làm hòa thượng Bồ-tát giới và các thầy theo tôi. Mỗi người tự nói pháp danh của mình.
Thầy đứng lên niêm hương, quán tưởng và xướng. Hai thầy a-xà-lê đồng thanh thỉnh rằng:
Hương hoa thỉnh, hương hoa thỉnh! Các tì-kheo tên.. nhất tâm phụng thỉnh:
Đại đức Thích-ca Như Lai, một lòng nghĩ, chúng con tì-kheo tên... nay thỉnh Như Lai làm hòa thượng đắc giới cho chúng con. Cúi xin Như Lai làm hòa thượng đắc giới cho chúng con. Chúng con nương theo Như Lai mà được thụ ba tụ, mười vô tận thanh tịnh giới của Bồ-tát. Xin thương xót cho!
Phải thỉnh ba lần, đỉnh lễ ba lễ. Các lần thỉnh sau cũng giống như đây.
Hương hoa thỉnh, hương hoa thỉnh! Chúng con tì-kheo tên... nhất tâm phụng thỉnh:
Đại đức Văn-thù-sư lợi Bồ-tát một lòng nghĩ, chúng con tên.. nay thỉnh Bồ-tát làm yết-ma a-xà-lê cho chúng con. Cúi xin Bồ-tát làm yết-ma a-xà-lê cho chúng con. Chúng con nương theo Bồ-tát được thụ tam tụ, thập vô tận thanh tịnh giới của Bồ-tát. Xin thương xót cho!
Hương hoa thỉnh, hương hoa thỉnh! Tì-kheo chúng con tên.. nhất tâm phụng thỉnh:
Đại đức Di-lặc Bồ-tát một lòng nghĩ, chúng con tên.. nay thỉnh Bồ-tát làm giáo thụ a-xà-lê cho chúng con. Cúi xin Bồ-tát làm giáo thụ a-xà-lê cho chúng con. Chúng con nương theo Bồ-tát được thụ tam tụ, thập vô tận thanh tịnh giới của Bồ-tát. Xin thương xót cho!
Hương hoa thỉnh, hương hoa thỉnh! Tì-kheo chúng con tên.. nhất tâm phụng thỉnh:
Đại đức tất cả Như Lai trong mười phương một lòng nghĩ, chúng con tên.. nay thỉnh Như Lai làm tôn chứng sư cho chúng con. Cúi xin Như Lai làm tôn chứng sư cho chúng con. Chúng con nương theo Như Lai được thụ tam tụ, thập vô tận thanh tịnh giới của Bồ-tát. Xin thương xót cho!
Hương hoa thỉnh, hương hoa thỉnh! Tì-kheo chúng con tên.. nhất tâm phụng thỉnh:
Đại đức tất cả Bồ-tát ma-ha-tát trong mười phương một lòng nghĩ, chúng con tên.. nay thỉnh Bồ-tát làm bạn đồng học cho chúng con. Cúi xin Bồ-tát làm bạn đồng học cho chúng con. Chúng con nương theo Bồ-tát mà được thụ tam tụ, thập vô tận thanh tịnh giới của Bồ-tát. Xin thương xót cho!
Niêm hương như thế, mỗi người đỉnh lễ ba lễ xong. Pháp sư trở lại chỗ ngồi và ngồi. Thầy dẫn lễ bảo chúng: quì gối, chắp tay.
4.3.7. Thụ bốn bất hoại tín
Pháp sư Bồ-tát giới vỗ thủ xích và nói:
Kinh Anh lạc ghi: “Đỉnh lễ Tam bảo xong, lại dạy cách nhận ‘bốn bất hoại tín’ và nương tựa ‘bốn y pháp’”. Bốn niềm tin bất hoại là tin Phật, tin Pháp, tin Tăng, tin giới.
Bốn bất hoại tín: vì thể tính mà chúng ta nhận lãnh được đó là một, nhưng trong một thể ấy đạt được đầy đủ Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo và giới.
Tiếng Phạn đọc là Phật-đà, Trung Quốc dịch là Giác. Nghĩa là tính thể linh giác, hiểu rõ các pháp chẳng phải rỗng không, chẳng phải có. Đó gọi Phật bảo vốn đủ.
Pháp là ý nghĩa của hai chữ ‘quĩ và trì’. Nghĩa là pháp tính vắng lặng mà hằng sa tính đức đều có thể ‘quĩ và trì’. Đó gọi là Pháp bảo vốn đủ. Tăng, tiếng Phạn đọc đầy đủ là Tăng-già, Trung Quốc dịch là Hòa hợp chúng. Nghĩa là hằng sa diệu đức tính và tướng không hai; ‘lí và sự’ hòa hợp. Đó gọi là Tăng bảo vốn đủ.
Giới là kim cang quang minh bảo giới. Đó là gốc của tất cả chư Phật, là gốc của tất cả Bồ-tát, là hạt giống Phật tính của tất cả chúng sinh. Đó gọi là tính giới vốn đủ.
Từ nay các ông phải tin chắc tâm mình là Phật, là Pháp, là Tăng, là giới, đến thân tận cùng biên tế vị lai không quên, không mất. Cho nên gọi là Bốn bất hoại tín.
Dù nói thể đầy đủ chân thường, nhưng không phải không có tu chứng. Đó gọi là ‘tâm này làm Phật, tâm này là Phật’; tức phải về theo trụ trì Tam bảo, lãnh nhận diệu giới thanh tịnh, y chỉ tu hành, mới đạt được quả Phật viên thành vô thượng.
Nay đối trước chư Phật, Bồ-tát chăm chú lãnh thụ. Đáng lẽ lời văn qui y các ông tự nói, nhưng vì sợ các ông không làm được, nên các ông hãy nói theo tôi.
Thân này của con từ giờ phút này cho đến tận cùng biên tế vị lai nương theo Phật.
Thân này của con từ giờ phút này cho đến tận cùng biên tế vị lai nương theo Pháp.
Thân này của con từ giờ phút này đến tận cùng biên tế vị lai nương theo Tăng.
Thân này của con từ giờ phút này cho đến tận cùng biên tế vị lai thân nương theo giới.
Mỗi người nói theo lời giới sư rồi, ba lần lãnh thụ, đỉnh lễ ba lần.
4.3.8. Sám hối lỗi lầm
Giới sư Bồ-tát vỗ thủ xích và nói:
Các Phật tử, kinh Phạm võng ghi: “Người nào đời này phạm bảy tội nghịch thì không được thụ giới. Đêm trước, thầy yết-ma đã xét kĩ, các ông đều không phạm, cho nên được thụ giới”.
Kinh Anh lạc ghi: “Thụ bốn bất hoại tín rồi, tiếp theo nên sám hối tội ba đời”. Nói tội của ba đời là chỉ cho chủng tử vô minh trong quá khứ, là nhân của tội nghiệp. Hiện hành đời này là duyên của tội nghiệp. Do hiện hành này huân tập hạt giống nghiệp quá khứ từ vô thỉ đến nay. Nhân duyên hòa hợp thì nghiệp được tạo thành. Lại là nhân ác của tội nghiệp đời sau. Xoay vần đắp đổi cho nhau như thế, cho nên luân hồi không dứt.
Nay mặc dù ở trước chư Phật, Bồ-tát hổ thẹn, sám hối, nhưng nếu có thể làm trái lại với hiện hành của đời này thì hạt giống nghiệp quá khứ bị khô héo; nghiệp nhân của đời vị lai tự diệt. Đáng lẽ văn sám hối, các ông tự hợp nhau nói, nhưng sợ các ông không nói được, nên các ông hãy nói theo tôi.
Chúng con tên.. mười tội ác thuộc thân, miệng, ý trong quá khứ, nguyện mãi mãi không khởi, cho đến tận cùng biên tế đời vị lai.
Chúng con tên.. mười tội ác thuộc thân, miệng, ý ở hiện tại, nguyện mãi mãi không khởi, cho đến tận cùng biên tế đời vị lai.
Chúng con tên.. mười tội ác thuộc thân, miệng, ý đời tương lai, nguyện mãi mãi không khởi, cho đến tận cùng biên tế đời vị lai.
Mỗi người tự nói theo giới sư Bồ-tát. Sám hối ba lần, đỉnh lễ ba lễ.
4.3.9. Phát nguyện
Kinh Anh lạc và Yết-ma ghi: “Thiếu phát nguyện, nay tranh thủ trong thời gian hành trì giới bổn phát mười bốn nguyện để bổ sung cho sự thiếu sót đó”.
Giới sư Bồ-tát vỗ thủ xích và nói:
Các Phật tử đã sám hối lỗi lầm rồi, ba nghiệp thanh tịnh, giống như lưu ly sạch thì bên trong, bên ngoài đều nhìn thấy thấu suốt. Tiếp theo nên phát mười bốn nguyện lớn và nương theo những nguyện ấy mà tu hành để công đức tròn đủ. Giả sử, có vòng sắt nóng quay quanh đỉnh đầu cũng không bao giờ lấy đó làm khổ mà từ bỏ những nguyện đã phát. Nay tôi ở trước chư Phật, Bồ-tát nói ba lần cho các ông nghe. Các ông phải ở trước chư Phật, Bồ-tát tâm nghĩ, miệng nói, mọi người tự nói pháp danh của mình.
Vỗ thủ xích:
1. Hỏi: Từ nay cho đến thân tận cùng biên tế đời vị lai, các ông có thể thường xuyên nhớ nghĩ Phật, gần gũi thiện tri thức được không?
Trả lời: Có thể gần gũi.
2. Hỏi: Từ nay cho đến thân tận cùng biên tế đời vị lai, các ông có thể thường lìa xa ác tri thức được không?
Trả lời: Có thể lìa xa.
3. Hỏi: Từ nay cho đến thân tận cùng biên tế đời vị lai, cho đến dù gặp hoàn cảnh phải mất mạng các ông cũng không phạm giới được không?
Trả lời: Không phạm.
4. Hỏi: Từ nay cho đến thân tận cùng biên tế đời vị lai, các ông có thể thường đọc tụng kinh, luật Đại thừa, hỏi nghĩa sâu xa được không?
Trả lời: Có thể hỏi.
5. Hỏi: Từ nay cho đến thân tận cùng biên tế đời vị lai, các ông có thể thường sinh tín tâm vô thượng bồ-đề được không?
Trả lời: Có thể sinh.
6. Hỏi: Từ nay cho đến thân tận cùng biên tế đời vị lai, khi thấy chúng sinh bị khổ não, các ông có thể cứu giúp, che chở được không?
Trả lời: Có thể cứu giúp, che chở.
7. Hỏi: Từ nay cho đến thân tận cùng biên tế đời vị lai, các ông có thể tùy theo khả năng của mình, cúng dường Tam bảo được không?
Trả lời: Có thể cúng dường.
8. Hỏi: Từ nay cho đến thân tận cùng biên tế đời vị lai, các ông có thể thường hiếu thảo với cha-mẹ, kính thờ sư trưởng được không?
Trả lời: Có thể hiếu, kính.
9. Hỏi: Từ nay cho đến thân tận cùng biên tế đời vị lai, các ông có thể chừa bỏ sự biếng lười, siêng năng cầu Phật đạo được không?
Trả lời: Có thể siêng năng cầu.
10. Hỏi: Từ nay cho đến thân tận cùng biên tế đời vị lai, khi các phiền não sinh ra trên năm trần, các ông có thể chế phục được tâm không?
Trả lời: Có thể chế phục được.
11. Hỏi: Từ nay cho đến thân tận cùng biên tế đời vị lai, chúng sinh vô biên thệ nguyện độ, các ông có thể độ được không?
Trả lời: Có thể độ.
12. Hỏi: Từ nay cho đến thân tận cùng biên tế đời vị lai, phiền não vô tận thể nguyện đoạn, các ông có thể đoạn được không?
Trả lời: Có thể đoạn.
13. Hỏi: Từ nay cho đến thân tận cùng biên tế đời vị lai, pháp môn vô lượng thệ nguyện học, các ông có thể học được không?
Trả lời: Có thể học.
14. Hỏi: Từ nay cho đến thân tận cùng biên tế đời vị lai, Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành, các ông có thể thành được không?
Trả lời: Có thể thành.
4.3.10. Phát giới thể
Giới sư Bồ-tát vỗ thủ xích và nói:
Các Phật tử, đã có thể phát mười bốn thệ nguyện sâu rộng này, tôi sẽ rời chỗ ngồi, thay các ông đỉnh lễ, trình thưa. Chư Phật và chư Bồ-tát hiện trụ ở mười phương cảm phát giới thể tròn đủ của các ông. Các ông phải nhất tâm khéo lắng nghe, suy nghĩ kĩ, phải biết khi tôi bạch lần thứ nhất xong, thì giới pháp diệu thiện ở mười phương thế giới, nghiệp lực của tâm đều lây động. Khi tôi bạch lần thứ hai xong, thì giới pháp diệu thiện như mây, như lọng che trên đỉnh đầu ông.
Khi tôi bạch lần thứ ba, thì giới pháp diệu thiện ở mười phương thế giới, từ trên đỉnh đầu của ông tuông chảy vào thân tâm, đầy đủ chính báo, đến tận cùng biên tế đời vị lai mãi mãi làm hạt giống Phật. Đây gọi là vô tác giới thể, vô lậu sắc pháp. Do tâm tăng thượng thiện của ông cảm vời mà đạt được. Vì thế, các ông phải chí thành đỉnh lễ, thụ trì.
4.3.10.1. Chính thức truyền giới thể
Kinh ghi: “Người thụ Bồ-tát giới không rời khỏi chỗ ngồi, mà vẫn quì gối như cũ. Người truyền Bồ-tát giới rời chỗ ngồi, đến trước tượng Phật, cung kính, cúng dường, đỉnh lễ dưới hai chân chư Phật, chư Bồ-tát hiện trụ ở mười phương và tác bạch”.
Ở đây, dựa vào ý nghĩa mà thêm vào nghi thức; tức hai thầy a-xà-lê xuống tòa, đi trước, giới sư Bồ-tát đi sau; đến trước tượng Phật, hai thầy a-xà-lê đứng hai bên trái-phải. Thầy giới sư đứng ở giữa niêm hương, quán tưởng, đỉnh lễ ba lễ, quì gối, chắp tay, thưa rằng:
Ngưỡng bạch chư Phật, Bồ-tát trong vô biên, vô tế các thế giới khắp mười phương, nay trong chùa… tỉnh… này hiện có Bồ-tát tên.. ở chỗ của con là Bồ-tát tên.. cho đến ba lần nói thụ giới Bồ-tát, con chứng minh cho những vị ấy thụ giới Bồ-tát. Cúi xin chư Phật, Bồ-tát trong vô biên, vô tế các thế giới ở mười phương; bậc đệ nhất Chân thánh hiện và không hiện; tất cả hữu tình đều bậc hiện giác, vào tất cả mọi lúc mọi nơi, làm tác chứng cho những người tên.. thụ giới Bồ-tát. Xin thương xót cho! Xin thương xót cho! Xin thương xót cho!
Theo văn của kinh này, bạch như thế ba lần xong, gọi là ba lần yết-ma. Yết-ma đúng như pháp thành tựu rồi, người thụ giới đắc giới. Giới sư và hai thầy yết-ma và giáo thụ rời chỗ ngồi. Không giống như pháp thụ giới cụ túc của tì-kheo, thì hàng thập sư đều ngồi, đến khi yết-ma thành thụ mà thôi.
4.3.11. Nói giới tướng
Ở trên căn cứ theo văn trong kinh Bồ-tát Yết-ma, bạch Phật ba lần rồi, tức đắc tam tụ diệu thiện giới thể của Bồ-tát. Ở đây căn cứ theo kinh Phạm võng, tiếp theo nói tướng mười giới trọng và bốn mươi tám giới khinh của Bồ-tát, để biết tướng mà thụ trì và để bảo vệ giới thể.
Giới sư Bồ-tát vỗ thủ xích và nói:
Các Phật tử, Bồ-tát có mười vô tận giới phải thụ trì. Mỗi người tự nói pháp danh của mình.
Ghi chú:
Nói pháp danh rồi. Nói mười vô tận giới ấy, theo kinh Anh lạc ghi: “Giới của tất cả Bồ-tát, phàm, thánh thì đều lấy tâm làm thể. Vì thế, tâm tận, giới cũng tận. Vì tâm không tận nên giới cũng không tận. Cho nên, nói Vô tận giới”.
Phật tử, từ thân này cho đến thân Phật, tận cùng biên tế đời vị lai, trong khoảng thời gian ấy:
1. Không được cố ý sát sinh, nếu phạm thì chẳng phải là hạnh Bồ-tát, mất bốn mươi hai pháp của hiền thánh.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không sát sinh được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
Phật tử, từ thân này đến thân Phật, tận cùng biên tế đời vị lai, trong khoảng thời gian ấy:
2. Không được trộm cướp, nếu phạm thì chẳng phải là hạnh Bồ-tát, mất bốn mươi hai pháp của hiền thánh.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không trộm cướp được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
Phật tử, từ thân này đến thân Phật, tận cùng biên tế đời vị lai, trong khoảng thời gian ấy:
3. Không được cố dâm dục, nếu phạm thì chẳng phải là hạnh Bồ-tát, mất bốn mươi hai pháp của hiền thánh.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không dâm dục được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
Phật tử, từ thân này đến thân Phật, tận cùng biên tế đời vị lai, trong khoảng thời gian ấy:
4. Không được cố nói dối, nếu phạm thì chẳng phải là hạnh Bồ-tát, mất bốn mươi hai pháp của hiền thánh.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không nói dối được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
Phật tử, từ thân này đến thân Phật, tận cùng biên tế đời vị lai, trong khoảng thời gian ấy:
5. Không được cố uống rượu, nếu phạm thì chẳng phải là hạnh Bồ-tát, mất bốn mươi hai pháp của hiền thánh.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không uống rượu được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
Phật tử, từ thân này đến thân Phật, tận cùng biên tế đời vị lai, trong khoảng thời gian ấy:
6. Không được cố nói lỗi lầm của Bồ-tát tại gia, Bồ-tát xuất gia, tì-kheo, tì-kheo-ni, nếu phạm thì chẳng phải là hạnh Bồ-tát, mất bốn mươi hai pháp của hiền thánh.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không nói bốn tội nặng được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
Phật tử, từ thân này đến thân Phật, tận cùng biên tế đời vị lai, trong khoảng thời gian ấy:
7. Không được khen mình, chê người, nếu phạm thì chẳng phải là hạnh Bồ-tát, mất bốn mươi hai pháp của hiền thánh.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không khen mình, chê người được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
Phật tử, từ thân này đến thân Phật, tận cùng biên tế đời vị lai, trong khoảng thời gian ấy:
8. Không được lận tiếc, phung phí, nếu phạm thì chẳng phải là hạnh Bồ-tát, mất bốn mươi hai pháp của hiền thánh.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không lận tiếc, phung phí được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
Phật tử, từ thân này đến thân Phật, tận cùng biên tế đời vị lai, trong khoảng thời gian ấy:
9. Không được giận dữ, không chịu sám hối, nếu phạm thì chẳng phải là hạnh Bồ-tát, mất bốn mươi hai pháp của hiền thánh.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không giận dữ, không chịu sám hối được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
Phật tử, từ thân này đến thân Phật, tận cùng biên tế đời vị lai, trong khoảng thời gian ấy:
10. Không được hủy báng Tam bảo, nếu phạm thì chẳng phải là hạnh Bồ-tát, mất bốn mươi hai pháp của hiền thánh.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không hủy báng Tam bảo được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
Các Phật tử, đã nói mười ba-la-đề-mộc-xa. Bốn mươi tám giới khinh nay sẽ nói:
Vỗ thủ xích và nói:
Các Phật tử, từ thân này đến thân Phật, tận cùng biên tế đời vị lai, trong khoảng thời gian ấy:
1. Không được không kính thầy, bạn, nếu phạm thì chẳng phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không kính thầy, bạn được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
2. Không được uống rượu, nếu phạm thì chẳng phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không uống rượu được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
3. Không được ăn thịt, nếu phạm thì chẳng phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không ăn thịt được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
4. Không được cố ăn ngũ tân, nếu phạm thì chẳng phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không ăn ngũ tân được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
5. Không được không dạy sám hối tội, nếu phạm thì chẳng phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không dạy sám hối tội được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
6. Không được không cung cấp thỉnh pháp, nếu phạm thì chẳng phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không cung cấp thỉnh pháp được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
7. Không được lười biếng, không nghe pháp, nếu phạm thì chẳng phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không lười biếng, không nghe pháp được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
8. Không được cố bỏ lớn hướng về nhỏ, nếu phạm thì chẳng phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không bỏ lớn hướng về nhỏ được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
9. Không được không chăm sóc bệnh, nếu phạm thì chẳng phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không chăm sóc bệnh được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
10. Không được cất chứa dụng cụ giết mổ, nếu phạm thì chẳng phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không cất chứa dụng cụ giết mổ được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
11. Không được làm đại sứ, nếu phạm thì chẳng phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không làm đại sứ được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
12. Không được buôn bán, nếu phạm thì chẳng phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không buôn bán được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
13. Không được hủy báng, nếu phạm thì chẳng phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không hủy báng được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
14. Không được phóng lửa, đốt hương, nếu phạm thì chẳng phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không phóng hỏa, đốt hương được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
15. Không được chỉ dạy tà bậy, nếu phạm thì chẳng phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không chỉ dạy tà bậy được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
16. Không được vì lợi mà nói ngược, nếu phạm thì chẳng phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không vì lợi mà nói ngược được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
17. Không được cậy thế khất thực, nếu phạm thì chẳng phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không cậy thế khất thực được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
18. Không được không hiểu biết mà làm thầy, nếu phạm thì chẳng phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không hiểu biết mà làm thầy được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
19. Không được nói hai lưỡi, nếu phạm thì chẳng phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không nói hai lưỡi được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
20. Không được không đi tìm cầu, nếu phạm thì chẳng phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không đi tìm cầu được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
21. Không được sân hận, đánh đập, trả thù, nếu phạm thì chẳng phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không sân hận, đánh đập, trả thù được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
22. Không được kiêu mạn, không thỉnh pháp, nếu phạm thì chẳng phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không kiêu mạn, không thỉnh pháp được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
23. Không được kiêu mạn, nói bậy, nếu phạm thì chẳng phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không kiêu mạn, không nói bậy được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
24. Không được không tập học Phật, nếu phạm thì chẳng phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không tập học Phật được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
25. Không được không khéo biết chúng, nếu phạm thì chẳng phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không khéo biết chúng được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
26. Không được nhận lợi dưỡng riêng, nếu phạm thì chẳng phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không nhận lợi dưỡng riêng được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
27. Không được nhận thỉnh riêng, nếu phạm thì chẳng phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không nhận thỉnh riêng được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
28. Không được thỉnh Tăng riêng, nếu phạm thì chẳng phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không thỉnh Tăng riêng được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
29. Không được nuôi sống bằng tà mạng, nếu phạm thì chẳng phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không nuôi sống bằng tà mạng được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
30. Không được không quí tiếc thời gian, nếu phạm thì chẳng phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không quí tiếc thời gian được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
31. Không được không cứu giúp, nếu phạm thì chẳng phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không cứu giúp được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
32. Không được làm tổn hại chúng sinh, nếu phạm thì chẳng phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không làm tổn hại chúng sinh được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
33. Không được tìm cầu, suy nghĩ nghiệp tà, nếu phạm thì chẳng phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không tìm cầu, suy nghĩ nghiệp tà được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
34. Không được tạm nghĩ về Tiểu thừa, nếu phạm thì chẳng phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không tạm nghĩ về Tiểu thừa được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
35. Không được không phát nguyện, nếu phạm thì chẳng phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không phát nguyện được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
36. Không được không phát thệ, nếu phạm thì chẳng phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không phát thệ được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
37. Không được mạo hiểm đi chơi, nếu phạm thì chẳng phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không được mạo hiểm đi chơi được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
38. Không được trái với tôn ti trật tự, nếu phạm thì chẳng phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không trái với tôn ti trật tự được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
39. Không được không tu phúc tuệ, nếu phạm thì chẳng phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không tu phúc tuệ được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
40. Không được chọn lựa truyền giới, nếu phạm thì chẳng phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không chọn lựa truyền giới được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
41. Không được làm thầy để kiếm lợi, nếu phạm thì chẳng phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không vì làm thầy để kiếm lợi được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
42. Không được nói giới cho người ác nghe, nếu phạm thì chẳng phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không nói giới cho người ác nghe được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
43. Không được nhận sự cúng dường không biết hổ thẹn, nếu phạm thì chẳng phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới nhận sự cúng dường phải biết hổ thẹn được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
44. Không được không cúng dường kinh điển, nếu phạm thì chẳng phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không cúng dường kinh điển được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
45. Không được không giáo hóa chúng sinh, nếu phạm thì chẳng phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không giáo hóa chúng sinh được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
46. Không được nói pháp mà không như pháp, nếu phạm thì chẳng phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không nói pháp mà không như pháp được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
47. Không được ngăn cản phi pháp, nếu phạm thì chẳng phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không ngăn cản phi pháp được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
48. Không được phá pháp, nếu phạm thì chẳng phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các ông có thể giữ giới không phá pháp được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
4.3.12. Đúc kết, khuyến khích và hồi hướng
Kinh Anh lạc ghi: “Phật tử đã thụ mười vô tận giới rồi. Người thụ giới vượt qua bốn ma, thoát khỏi khổ ba cõi; từ đời này qua đời khác không mất giới này; thường theo người tu hành cho đến thành Phật.” Kinh lại ghi: “Người thụ Bồ-tát giới, tức trong một niệm của thân này có đầy đủ tám công đức đặc thù:
Một là đến đạo tràng thù thắng. Thí như chim đại bằng, một lần tung cánh thì bay qua mười vạn dặm. Bồ-tát phát tâm thụ đại giới này, vượt qua sáu đường, ba thừa, thẳng đến bồ-đề.
Hai là phát tâm thù thắng. Người nào một niệm, phát khởi đại bi, đại trí thụ Bồ-tát giới, tức siêu việt nhị thừa. Ngày xưa, có một sa-di làm thị giả cho một vị A-la-hán. Một hôm, hai vị đang đi trên đường, vị sa-di bỗng phát tâm bồ-đề cầu thụ giới Bồ-tát. Vị A-la-hán ấy lại sinh tâm cung kính sa-di kia. Vị A-la-hán cầm y, ôm bát và nhường đường cho sa-di kia đi trước.
Ba là phúc điền thù thắng. Giả sử có người cúng dường cho tất cả A-la-hán đầy cả diêm-phù-đề cũng không bằng cúng dường cho một người thụ giới Bồ-tát. Vì người kia vận tâm rộng lớn.
Bốn là công đức thù thắng. Thụ giới Tiểu thừa, giống như lửa của con đom đóm, thụ giới Bồ-tát giống như ánh sáng của mặt trời, chiếu sáng khắp nơi.
Năm là diệt tội thù thắng. Thụ giới rồi khi phá hoặc phạm vẫn hơn ngoại đạo, vì oai lực của giới. Giả sử rơi vào đường ác, chịu tội cũng chỉ chịu tội nhẹ.
Sáu là thụ thai thù thắng. Người thụ giới Bồ-tát, khi còn ở trong bào thai thường được trời, rồng, thiện thần cùng bảo vệ.
Bảy là thần thông thù thắng. Người thụ giới Bồ-tát có thể khuấy nước sông thành bơ sữa; biến đại địa thành vàng ròng; trong một niệm siêu việt một nghìn đời; trong một ngày độ hết tất cả chúng sinh.
Tám là quả báo thù thắng. Người thụ giới Bồ-tát, đời sau thụ thân pháp tính, trong biển liên hoa tạng; một khi đã đạt được chân thường thì mãi mãi không bao giờ bị lui sụt.”
Các Phật tử, nay các ông đã thụ giới Bồ-tát, tức đã đạt được công đức thù thắng như thế. Cho nên, mỗi người phải khéo giữ gìn khi đi, đứng, ngồi, nằm; ngày đêm sáu thời đọc tụng giới ấy. Giống như kim cang; như khi muốn bơi qua biển lớn thì phải đeo phao; như cỏ dùng để trói buộc, tì-kheo thường sinh thiện tín Đại thừa. Tự biết mình là người chưa thành Phật, chư Phật là Phật đã thành; phát tâm bồ-đề, niệm niệm không rời tâm. Nếu người nào khởi một niệm tâm nhị thừa thì chẳng phải là Bồ-tát. Vì thế, phải biết quí kính, chớ có lười biếng, rút lui.
Đúc kết, khuyến khích như thế xong. Vỗ thủ xích một cái, mọi người lạy một lạy. Giới sư Bồ-tát rời chỗ ngồi, chắp tay, hồi hướng:
Đem công đức thụ giới này, trên báo bốn ân, dưới cứu các khổ, pháp giới chúng sinh chủng trí đều tròn, sa-môn trong hội đều chứng bồ-đề, hải chúng đồng thanh, niệm Phật hồi hướng.
Đại chúng đồng thanh niệm Phật. Thầy dẫn lễ bảo Bồ-tát mới đỉnh lễ ba lễ, xếp tọa cụ, chia hàng. Hai thầy a-xà-lê rời chỗ ngồi trước tiến vào chính giữa đỉnh lễ Phật ba lễ, rồi đứng hai bên trái-phải gần tượng Phật. Giới sư Bồ-tát rời chỗ ngồi đỉnh lễ Phật ba lễ.
Thầy duy-na xướng kệ hồi hướng, mọi người cùng đọc theo:
Thụ giới công đức thật tuyệt vời
Bao nhiêu phúc lành đều hồi hướng
Nguyện cho chúng sinh bị chìm đắm
Chóng sinh cõi Phật Vô Lượng Quang
Mười phương ba đời tất cả Phật
Tất cả Bồ-tát ma-ha-tát
Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật.
Những người thụ giới đưa giới sư Bồ-tát trở về phòng, lễ tạ hai thầy giáo thụ, yết-ma và các thầy dẫn lễ. Tất cả mọi người đều cùng thụ đầy đủ các oai nghi. Nay đều gia nhập vào bảy chúng Đại thừa giới. Nếu có tì-kheo-ni, thức-xoa-ma-na, sa-di, sa-di-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di cũng phải cùng đưa họ về. Nhưng phải chúng nào theo chúng nấy, không được lộn xộn. Dù lí tính và giới thể không hai, nhưng sự tướng và thế nghi cần phải phân chia rõ ràng và khéo đề phòng sự chê cười, thì mới gọi là trì giới.
Nếu truyền giới cho Bồ-tát ưu-bà-tắc tại gia thì có sáu giới trọng và hai mươi tám giới khinh. Cách thức truyền giới cũng giống như trên, chỉ có giới tướng là khác. Cho nên, mới trình bày thêm phần này.
- Giới tướng của sáu giới trọng
1. Không sát sinh. Đây là giới Bồ-tát của ưu-bà-tắc, nếu phạm thì chẳng phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các người có thể giữ giới không sát sinh được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
2. Không trộm cướp. Đây là giới Bồ-tát của ưu-bà-tắc, nếu phạm thì chẳng phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các người có thể giữ giới không trộm cướp được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
3. Nói dối. Đây là giới Bồ-tát của ưu-bà-tắc, nếu phạm thì chẳng phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các người có thể giữ giới không nói dối được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
4. Tà dâm. Đây là giới Bồ-tát của ưu-bà-tắc, nếu phạm thì chẳng phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các người có thể giữ giới không tà dâm được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
5. Rao nói tội lỗi của bốn chúng. Đây là giới Bồ-tát của ưu-bà-tắc, nếu phạm thì chẳng phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các người có thể giữ giới không rao nói tội lỗi của bốn chúng được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
6. Mua rượu. Đây là giới Bồ-tát của ưu-bà-tắc, nếu phạm thì chẳng phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các người có thể giữ giới không mua rượu được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
- Giới tướng của hai mươi tám giới khinh.
1. Không cung dưỡng cha mẹ, sư trưởng. Đây là giới Bồ-tát của ưu-bà-tắc, nếu phạm thì không phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các người có thể giữ giới không cung dưỡng, cha mẹ, sư trưởng được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
2. Ham thích uống rượu. Đây là giới Bồ-tát của ưu-bà-tắc, nếu phạm thì không phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các người có thể giữ giới không ham thích uống rượu được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
3. Tâm ác không chăm sóc bệnh khổ. Đây là giới Bồ-tát của ưu-bà-tắc, nếu phạm thì không phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các người có thể giữ giới không vì tâm ác không chăm sóc bệnh khổ được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
4. Có người xin ăn không chia cho nhiều, ít để người đó phải về không. Đây là giới Bồ-tát của ưu-bà-tắc, nếu phạm thì không phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các người có thể giữ giới không chia cho nhiều, ít để người đó phải về không được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
5. Thấy bốn chúng không tiếp đón, lễ bái, hỏi thăm. Đây là giới Bồ-tát của ưu-bà-tắc, nếu phạm thì không phải hạnh Bồ-tát.
Hỏi: Các người có thể giữ giới không tiếp đón, lễ bái, hỏi thăm được không?
Trả lời: Có thể giữ được.
6. Thấy bốn chúng hủy phạm giới đã thụ tâm sinh kiêu mạn (như trên).
7. Sáu ngày trai mỗi tháng không thụ Bát quan trai giới, không cúng dường Tam bảo (như trên).
8. Trong vòng tám mươi bốn dặm có nơi giảng pháp mà không đến nghe (như trên).
9. Nhận ngọa cụ, giường, tọa cụ của Tăng chiêu-đề (như trên).
10. Nghi nước có trùng mà vẫn uống, sử dụng (như trên).
11. Ở nơi hiểm nạn không có bạn đi một mình (như trên).
12. Ngủ một mình trong chùa ni (như trên).
13. Vì tài sản, tính mạng mà đánh, chửi, nô tì, đầy tớ và người ngoài (như trên).
14. Đem thức ăn dư cho bốn chúng (như trên).
15. Nuôi mèo, chồn (như trên).
16. Nuôi tất cả súc vật voi, ngựa, trâu, dê, lạc đà, lừa. (như trên)
17. Không cất chứa y, bát, gậy trong tăng già-lam (như trên).
18. Nếu phải làm ruộng không tìm nơi nước sạch và nơi đất bằng. (như trên)
19. Vật đã ra giá rồi, bỏ vật xấu thích vật tốt, đong, cân, đo không cân bằng (như trên).
20. Định đi đến phi xứ, phi thời (như trên).
21. Trốn thuế quan (như trên).
22. Phạm pháp (như trên).
23. Được thóc mới, trái cây, dưa, rau chưa dâng cúng Tam bảo mà tự dùng trước. (như trên).
24. Nếu Tăng không cho phép nói pháp, khen ngợi mà tự ý làm (như trên).
25. Đi trước tì-kheo, sa-di trên cùng một đường (như trên).
26. Trao thức ăn trong Tăng, hoặc vì thiên vị thầy này thầy kia mà chọn thức ăn ngon, nhiều trao cho họ. (như trên)
27. Nuôi tằm. (như trên)
28. Trên đường đi gặp người bệnh, không thể chăm sóc, tìm cách dặn dò người địa phương chăm sóc giúp (như trên).
Thiền Sư Giác Nguyên và lão hòa thượng bổn sư Tá Am bàn về bộ Truyền giới
No. 1128-B
Bộ Truyền giới, trong Luật gọi là Truyền giới yết-ma, được truyền sang Trung Quốc sau thời luật sư Đạo Tuyên. Từ khi bộ Truyền giới chính phạm ra đời ở núi Bảo Hoa, liền được mọi người tôn là chỉ nam và gọi là Luật chủ. Thật đủ để trang nghiêm cây Phật. Song, nếu suy xét kĩ thì trong ấy có một số phép tắc không nhất quán, như: 1. Phát tâm bồ-đề không nhất quán; 2. Sám-ma không nhất quán; 3. Vấn già nạn không nhất quán; 4. Bạch tứ yết-ma không nhất quán.
Người làm pháp yết-ma có thể không dùng bộ sách này, cũng có thể dùng bộ sách này.
Thế nào gọi là phát tâm bồ-đề không nhất quán? Người phát tâm bồ-đề có đầy đủ tất cả Phật pháp. Một là trực tâm . Đó chính là pháp chính niệm chân như. Hai là thâm tâm. Đó chính là đầy đủ mười ba-la-mật. Ba là tâm hồi hướng. Đó chính là dùng đại nguyện của chư Phật để hồi hướng cho ba cõi.
Hàng Tam hiền phần chứng ba tâm này. Hàng Thập địa hợp chứng ba tâm này. Hàng Đẳng giác đều có ba tâm này. Hàng Diệu giác viên mãn ba tâm này.
Trong Tạng có bộ Thụ bồ-đề tâm giới, một quyển, nói: “Thụ một giới này có thể đầy đủ tất cả giới.”
Nay trước khi thụ giới này, phải dạy cách sám-ma, đến lúc truyền giới Bồ-tát, chỉ hỏi người thụ giới đã phát tâm bồ-đề chưa, người thụ giới nên trả lời đã phát rồi. Người truyền giới và người thụ giới đều không biết tâm bồ-đề là vật gì, chỉ hỏi và trả lời mơ hồ mà thôi.
Kinh Hoa nghiêm ghi: “Quên lãng tâm bồ-đề, tu các thiện pháp, đó là việc ma.” Vì ở đây căn cứ theo kinh Hoa nghiêm, nên người làm pháp yết-ma khi chưa phát lộ, phải dạy người thụ giới ở trước mười phương chư Phật phát bốn thệ nguyện lớn. Vị làm giáo thụ, khi biết người thụ giới phạm tì-ni thì phải dạy họ theo phẩm Tịnh hạnh. Trong kinh Hoa nghiêm đến trước Bồ-tát Văn-thù phát một trăm bốn mươi nguyện lớn, mỗi nguyện lạy một lạy. Sau đó, đến khi nào hỏi xong và phát tâm bồ-đề liền có thể biết rõ trong lòng ngực. Nếu muốn đến không được phép đến đột ngột.
Thế nào gọi là sám-ma không nhất quán? Sám-ma gọi là phát lộ, thay đổi điều đã qua, tu điều chưa đến. Trong kinh Quyết định tì-ni ghi: “Thế Tôn dạy dùng pháp phát lộ để nói năm vô gián, nói mười bất thiện, nói trộm và dùng vật của Tăng, nói che giấu”. Đức Phật lại dạy, lấy hồi hướng, xưng niệm, đỉnh lễ hồng danh của ba mươi lăm Đức Phật, không nhiều không ít. Đây có thể gọi là cách thức để hành trì. Nhưng chỉ cần chuyên niệm danh hiệu của Phật Bổn Sư Thích-ca thôi. Tuy cũng có thể giảm tội, nhưng phát lộ không khắp. Việc này với việc che giấu có gì khác ư?
Thế nào gọi là vấn già nạn không nhất quán? Trong luật lấy một người một đàn làm chính. Nếu có nhiều người thì cũng không được hơn ba người thụ một đàn. Nay phải quyết định cho ba người thụ một đàn là chính, vì sợ phiền chứ không phải cẩu thả. Hỏi: “Y, bát này là ông tự có phải không? Trả lời: “Những vật đó con tự có, chứ chẳng phải mượn?” Nay đổi lại hỏi là ‘có’. Đó là ý muốn nói khai cho trường hợp mượn y, bát. Sau đó, hỏi: “Y, bát đủ không?” Trả lời: “Đã đầy đủ.” Vì sợ những người thụ giới không đủ. Như vậy, so với trước thì chữ này phân biệt hai việc rõ ràng. Hoặc ở trước đổi thành chữ ‘có’. Bất kể văn-nghĩa không trùng hợp nhau, nhưng trước dùng chữ ‘có’ sau dùng chữ ‘đủ’, vậy không trùng lặp ư?
Thế nào gọi là yết-ma không nhất quán? Pháp yết-ma trong bộ luật Tứ phần và Tùy cơ yết-ma tuy đều thuộc Luật tạng, nhưng bộ luật Tăng-kì mới là bản ý của Phật. Xem kinh Xá-lợi-phất vấn và những bộ khác giống như được thêm vị cam lộ. Đức Phật đã có dạy rõ. Ngày nay, bạch tứ yết-ma truyền giới chủ yếu là căn cứ theo bộ luật Tứ phần. Đó là không có trạch pháp nhãn. Vì sao Phật pháp lấy sự im lặng làm ấn chứng? Nơi nơi đều như thế. Nay trong pháp bạch tứ yết-ma thêm bốn lần hỏi ‘thành không’ và đều bốn lần trả lời chữ ‘thành’. Tức là Tăng đã không im lặng.
Như vậy, bất luận thế nào đều không phải Phật pháp. Tức sau khi kết giới rồi đều phải im lặng. Cho nên, câu trước, câu sau đã tự trái ngược nhau. Riêng trong bộ Tì-ni sự nghi yếu tập của đại sư Linh Phong không sử dụng bốn chữ ‘thành’. Đây đúng là mánh khóe chọn sữa của ngỗng chúa. Vì điều này có liên quan khắng khít đến việc đắc giới, nên không thể không giải thích. Còn có những điều hơn thế nữa. Luật là do Phật chế. Giống như luật lệ của vua không thể thêm, bớt.
Trong bộ Truyền giới chính phạm này trích bỏ phần yết-ma cầu người truyền giới cụ túc. Chính là tổn giảm những điều luật chế. Như những chế định ban chức tước của nhà Chu, các nước chư hầu ghét những điều có hại cho họ, nên đều bỏ những điều ấy khỏi sách. Trong nghi thức truyền giới mà trích bỏ pháp yết-ma ấy thì có khác gì các nước chư hầu thời Chiến quốc bỏ các chế định của nhà Chu?
May mắn là bản xưa vẫn còn, nên vẫn còn có thể khảo cứu được. Những người đảm nhiệm việc truyền giới nên vận dụng pháp ấy và loại bỏ những điều xấu ấy. Có như vậy, mới có thể truyền tâm ân Phật. Mong rằng, chớ bắt chước theo những việc sai lầm ấy.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 18.223.125.236 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.