Người ta trói buộc với vợ con, nhà cửa còn hơn cả sự giam cầm nơi lao ngục. Lao ngục còn có hạn kỳ được thả ra, vợ con chẳng thể có lấy một chốc lát xa lìa.Kinh Bốn mươi hai chương
Nếu người có lỗi mà tự biết sai lầm, bỏ dữ làm lành thì tội tự tiêu diệt, như bệnh toát ra mồ hôi, dần dần được thuyên giảm.Kinh Bốn mươi hai chương
Nếu chuyên cần tinh tấn thì không có việc chi là khó. Ví như dòng nước nhỏ mà chảy mãi thì cũng làm mòn được hòn đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Cỏ làm hại ruộng vườn, sân làm hại người đời. Bố thí người ly sân, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 357)
Cỏ làm hại ruộng vườn, tham làm hại người đời. Bố thí người ly tham, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 356)
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc nhưng không hương. Cũng vậy, lời khéo nói, không làm, không kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 51)
Hãy tự mình làm những điều mình khuyên dạy người khác.
Kinh Pháp cú
Giặc phiền não thường luôn rình rập giết hại người, độc hại hơn kẻ oán thù. Sao còn ham ngủ mà chẳng chịu tỉnh thức?Kinh Lời dạy cuối cùng
Sống chạy theo vẻ đẹp, không hộ trì các căn, ăn uống thiếu tiết độ, biếng nhác, chẳng tinh cần; ma uy hiếp kẻ ấy, như cây yếu trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 7)
Người ta thuận theo sự mong ước tầm thường, cầu lấy danh tiếng. Khi được danh tiếng thì thân không còn nữa.Kinh Bốn mươi hai chương
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
b/3) NÓI VỀ QUÁN [Lại chia làm 2 phần b/3/1) Kết thúc cảnh giới thế âm, b/3/2) Nói rõ về cái trí năng quán]
Thứ hai, phải hiểu về quán. Cái quán này lại được chia làm hai. Thứ nhất kết thúc cảnh giới thế âm. Thứ hai nói rõ về cái trí năng quán.
b/3/1) KẾT THÚC CẢNH GIỚI THẾ ÂM
Kết thúc [cảnh giới thế âm] lại có 6 loại cảnh :
1)Thứ nhất là cảnh nhân duyên trong mười pháp giới. 2) Thứ hai cảnh tứ đế(---). 3) Thứ ba cảnh tam đế(---). 4) Thứ tư, cảnh nhị đế(---). 5) Thứ năm, cảnh nhất thật đế(---). 6) Thứ sáu, cảnh vô đế (---). Tất cả cảnh giới này đều xuất phát từ huyền nghĩa của kinh Vô Lượng Thọ.
b/3/2)NÓI RÕ VỀ CÁI TRÍ NĂNG QUÁN [chia làm 2 loại b/3/2/1) Thứ đệ tam quán, b/3/2/2) Nhất tâm tam quán]
Thứ hai, dựa vào cảnh để hiểu trí là năm lần quán trí. Dựa vào nhân duyên [để hiểu về trí] thì có bốn lần nhân duyên luận quán [trí]. [Dựa vào] tứ đế [để hiểu về trí thì] thì có bốn lần luận quán [trí]. [Dựa vào] Tam đế [để hiểu về trí thì] có hai lần luận quán [trí]. [Dựa vào] Nhị đế [hiểu về trí thì] có bảy lần luận quán[trí]. [Dựa vào] Nhất thực đế [để hiểu về trí thì] có một lần luận[quán trí]. [Dựa vào] Vô đế [để hiểu về trí thì] không có luận quán[trí]. Tất cả những ý nghĩa này đều có đầy đủ trong kinh Vô Lượng Thọ.
Nay dựa vào tam đế hiểu về cái quán. Nói chung trong mười pháp giới thì pháp là do nhân duyên sinh. Nhân duyên này tức Không tức Giả tức Trung. Tức Không là chân đế, tức Giả là tục đế, tức Trung là trung đạo đệ nhất nghĩa đế. Nếu luận riêng trong lục đạo thì pháp là do nhân duyên sinh. Nhị thừa giới là Không. Bồ tát giới là Giả. Phật giới là Trung.
Luận về cảnh thì có hai ý.
Nay dưa vào cảnh để hiểu về quán cũng có hai ý: Thứ nhất là thứ đệ tam quán(---). Thứ hai nhất tâm tam quán(---).
b/3/2/1) THỨ ĐỆ TAM QUÁN [gồm 3 điểm: b/3/2/1/1) Nghĩa của Quán Thế Âm trong Tam Tạng giáo, b/3/2/1/2) Nghĩa của Quán Thế Âm trong Thông giáo, b/3/2/1/3) Nghĩa của Quán Thế Âm trong Biệt giáo]
Về thứ đệ tam quán như kinh Anh Lạc nói: Từ Giả vào Không gọi là nhị đế quán(---). Từ không vào giả là bình đẳng quán(---).
Nhị quán này chỉ là phương tiện để vào đệ nhất nghĩa đế quán của trung đạo.
Ba cái quán này đúng là tam trí (---) của kinh Đại Bát Nhã.
1) Thứ nhất là nhất thiết trí (---). Biết tất cả những gì có thể biết, có thể giải trong nhất thiết nội pháp thì gọi là nội. Biết tất cả có thể biết, có thể giải của nhất thiết ngoại pháp thì gọi là ngoại nhưng không thể dùng để khởi nên tất cả các đạo, tất cả chủng tử, đó là nhất thiết trí.
2) Thứ hai, đạo chủng trí có thể biết tất cả khác biệt giữa đạo chủng tức phân biệt được giả danh không sai lầm thì gọi là đạo chủng trí.
3) Thứ ba, nhất thiết chủng trí, có thể dựa vào nhất chủng trí, mà biết tất cả các đạo, biết tất cả các chủng, [Có thể dựa vào một tướng] biết tịch diệt tướng, biết tất cả loại hạnh, năng tri năng giải, thì gọi là nhất thiết chủng trí. Nói chung dưới một tên khác là quán trí. Nói riêng dựa vào mục đích, khi nói về nhân thì gọi là quán, khi nói về quả thì gọi là trí.
Cái quán của ba cái trí này kinh Vô Lượng Thọ nói trong cái quán về tứ chủng thập nhị nhân duyên (---), đó là hạ, trung, thượng, và thượng thượng. Kinh Niết Bàn dùng cách tích pháp (…) để hiểu bốn loại quán này.
Kinh Đại Bát Nhã và kinh Anh Lạc dùng Đại thừa để hiểu tam quán và tam trí. Nay hợp lại hai kinh này và kinh Niết Bàn mở ra pháp tùng giả nhập không (---) mà quán tất cả trí sinh diệt. Nếu hợp lại hai kinh này với kinh Niết Bàn, đưa vào hai quán hạ và trung thì đó cũng là nhất thiết trí.
Nếu lấy [ý của] cả ba kinh một cách riêng biệt hay họp chung lai để đối chiếu với ngũ nhãn(…) thì thiên nhãn và nhục nhãn chiếu soi những chuyện thô và tế, đó đều là thế trí. Nó cũng là cái căn bản của quán cảnh. Thuận theo tam quán và tam trí từ đó vào thể pháp của nhất thiết trí.
Như vậy nhục nhãn và thiên nhãn là căn bản để dùng tứ quán và tứ trí để đi vào Tích Pháp(---) nhất thiết trí. Nay lấy nhất thiết trí đối tuệ nhãn, lấy đạo chủng trí đối pháp nhãn, lấy nhất thiết chủng trí đối Phật nhãn. Trung luận nói [bốn câu] kệ (---) rằng các pháp do nhân duyên sinh, câu này lấy quán trí làm căn bản. Ba câu sau đối tam trí.
Nếu lấy tam quán trí để đối chiếu với tứ giáo thì cũng phải khai triển cuộc bàn luận như trên. Nếu lấy Niết Bàn tứ quán đối Tứ giáo thì hạ trí là sinh diệt nhất thiết trí, là [trí của] Tạng giáo. Trung trí là thể pháp nhất thiết trí, [là trí của] Thông giáo. Thượng trí là đạo chủng trí, [là trí của] Biệt giáo. Thượng thượng trí là nhất thiết chủng trí, [là trí của] của Viên giáo. Vì vậy phải hiểu tam quán để có thể đối chiếu với tứ giáo. Nếu không có giáo thì không có quán. Dựa vào giáo để tu quán và thành tựu trí. Vì vậy phải hiểu giáo. Giáo thì có giáo chủ, chủ đây tức là Phật. Có thể một Phật nói cả tứ giáo. Có thể dùng bốn tướng khác nhau để thị hiện thành bốn Phật(---). Tứ giáo có bốn giáo chủ tức có bốn bổ xứ, như vậy có bốn loại Bồ tát để phụ giúp Phật hoằng dương tứ giáo.
Hỏi: Như nói tất cả các pháp là tịch diệt không thể diễn tả bằng ngôn từ.
Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Sinh sinh (---) không thể nói được cho đến bất, sinh bất sinh(---) cũng không thể nói được. Một giáo đã không thể nói được thì nói chi đến bốn giáo?”
Đáp: “Lý luận là như thế, đều không thể nói được nhưng khi dùng duyên làm lợi cho người và vật, vì có nhân duyên nên có thể nói được. Sanh sanh không những nói được mà cho đến bất sanh, bất sanh cũng nói được”.
b/3/2/1/1) NGHĨA CỦA QUÁN THẾ ÂM TRONG TAM TẠNG GIÁO
Phật giáo là pháp môn thoát khổ sinh tử. Với Tam tạng giáo như Đại Trí Độ Luận dẫn chứng, Ca Chiên Diên(---) hiểu nghĩa của Bồ tát. Lúc đầu Đức Thích Ca là người thợ gốm vì trước đây Phật Thích Ca có phát nguyện, cứ như thế mà phát tâm Bồ tát. Đó là pháp của những người tu hành cầu Bồ đề, rất chán ghét khổ và tập, cầu mong diệt và đạo nên khởi tâm từ bi nguyện độ tất cả chúng sinh, tu hành lục độ(---). Hạnh và nguyện tương trợ cứu khổ ban vui. Như thế là sao? Tham danh là tập (---), vào đạo quỷ đói là khổ. Tu hành bố thí gọi là đạo, dừng lòng tham gọi là diệt. Bồ tát là người có thể hàng phục được lòng tham muốn, có tâm bi ban cho muôn vật. Chúng sinh xưng danh thì được cứu khổ. Tự tu hành bố thí, lấy từ tâm ban cho muôn vật. Muôn vật [được lòng từ tâm đó đáp ứng nên ] được cứu độ, [bô tát] liền thị hiện và ban an lạc. Vì vậy nên biết rằng Bồ tát làm trọn lời nguyện để tu bố thí, cho đến ngu si gọi là tập, sanh vào cõi trời gọi là khổ. Tu tuệ gọi là đạo, điều phục sự ngu si gọi là diệt. Tu tuệ đến lúc có thể tự phá khổ và tập, thành tâm bi đối với chúng sinh. Chúng sinh xưng danh tức được giải thoát.Tự chứng đạo và diệt thành tâm từ làm lợi cho chúng sinh. Chúng sinh có cảm thì có ứng để được cứu độ. Nên biết rằng việc làm đầy đủ như thề nguyện.
Khi hành lục độ còn tùy hoàn cảnh như chuyện Thi Tì Ni Vương(…) bố thí thịt mình cho bồ câu, đó là bố thí viên mãn. Cũng như Tu Ma Đề Vương(…)vì giữ giới không vọng ngữ nên gọi là trì giới viên mãn. Dù bị Ca Lợi Vương(…)cắt thân nhưng vẫn bất động, đó là nhẩn nhục viên mãn. Câu chuyện Đại Thí thái tử(---) vào biển [tìm châu] gọi là tinh tấn viên mãn. Xà lê(…) tọa thiền định viên mãn. Cù Tấn (…)đại thần chia đất được bát nhã viên mãn. [Đức Phật] Tu hành như vậy cho đến sơ a tăng kỳ kiếp cũng không biết thành Phật hay không thành Phật. Đến a tăng kỳ kiếp thứ hai trong tâm đã biết sẽ thành Phật nhưng miệng không nói ra. Đến a tăng kỳ kiếp thứ ba, tâm biết, miệng nói sẽ thành Phật. Qua ba a tăng kỳ kiếp và trải qua hàng trăm kiếp, tu một trăm phúc mới thành một tướng, phải tu thành ba ngàn hai trăm phước, mới thành 32 tướng đại nhân, gọi là Bồ tát ma ha tát nhưng chỉ điều phục được mê hoặc mà chưa đoạn được mê hoặc như con dê chưa hẳn là mập. Lấy thể trí làm bát nhã là như vậy. Dùng quả vị Bồ tát hạnh để so sánh với quả vị Thanh văn thì sơ tăng kỳ có thể đối với tổng biệt niệm xứ (…). A tăng kỳ thứ hai đối với noãn pháp(---). A tăng kỳ thứ ba đối với đỉnh pháp(…)Trăm kiếp các tướng đối với nhẫn pháp. Khi ngồi đạo tràng đắc đạo thì tương đương với thế đệ nhất vị. Đoạn kiết sử ba mươi bốn tâm (90) thành Phật, tức sánh với 16 chân phát tâm cho đến chín giải thoát quả vị và dạt đến vô học quả vị. Lúc ngồi đạo tràng cho đến đoạn hoặc 34 tâm, chánh [sử và kiến tư] tập [khí] đã diệt tận thì gọi là Tam tạng Phật.
Các môn đồ thuần thục theo sự tinh tiến của Đức Thích Ca, vì Ngài tinh tiến nên qua chín kiếp, vượt tám tướng thành Phật. Đây chính là giáo thuyết của tam tạng giáo đưa ra. Trong quả vị bổ xứ, trải qua bao nhiêu các tướng ở hàng trăm kiếp, đã điều phục được hoặc ở thân sau cùng, hạnh lục độ hoàn thành, thệ nguyện viên mãn, từ bi cứu khổ ban vui cho chúng sinh. Dựa vào đây mà nói thì pháp do nhân duyên sinh vẫn rõ ràng là trí thế gian, đó là nghĩa Quán Thế Âm của Tam Tạng giáo.
Hỏi: “Theo Tam Tạng giáo thì Đức Thích Ca và Bồ tát Di Lặc phát tâm cùng một lúc, trải qua chín kiếp, tại sao hai vị không đều thành Phật trong hiền kiếp?”
Đáp: “Đức Phật Thích Ca đã cung dưỡng đầy đủ Đức Phật Phất Sa (…) một trăm kiếp. Vì Đức Di Lạc cung dường chư Phật chưa đủ chỉ có chin mươi mốt kiếp thôi?
Hỏi: Nếu như vậy thì chưa có đúng cái nghĩa trăm kiếp?
Xin trả lời: Dựa vào pháp môn này là có đủ trăm kiếp vì có sức tinh tiến siêu việt.
b/3/2/1/2) NGHĨA CỦA QUÁN THẾ ÂM TRONG THÔNG GIÁO
Thông giáo là, như kinh Đại Bát Nha nói: Người trong tam thừa cùng lấy đệ nhất nghĩa đế thuyết đạo vô ngôn, đoạn phiền não nhập Niết bàn, cũng là dùng một lý mà quán đoạn hoặc, thông (với Tạng giáo) cũng gọi là giáo lý bát nhã nhưng thật ra khác với Tam Tạng giáo. Đại Trí Độ Luận nói: Lấy tâm bất tịnh tu hạnh bồ tát thì cũng như lấy cái bát có chất độc để đựng thức ăn, ăn vào thì chết. Bố thí thì có thượng trung hạ [đẳng cấp]. như xả bỏ tiền tài thân mạng. Dũng sĩ và liệt nữ cũng có thể xả thân được. Đã được gọi là bố thí cấp trung chưa? Đó là viên mãn bố thí cấp trung nhưng không phải là bố thí ba la mật., Không thấy năng sở [kẻ cho, người nhận], tài vật, cả ba thứ đều không, không tham, không thí. Đây thật là bố thí ba la mật. Cho đến không ngu không trí, không vướng mắc, không trí tuệ gọi là bát nhã chân thật không có cái trí thế gian. Đại Trí Độ Luận nói: Nếu không tin vào Không, tất cả đều hỏng hết. Vì tất cả những điều tu hành đều không đúng với lý. Nếu tin tất cả pháp là Không, thì tất cả điều tạo tác đều dựa vào [pháp] không nên có thể thành tựu tất cả các pháp. Nên biết là khi đã hiểu được cái tuệ của Không thì sẽ được tất cả các pháp. Hơn nữa chư bồ tát phải qua vô lượng kiếp tu hành đâu phải chỉ ba a tăng kỳ, như vậy là đã phá bao nhiêu thứ mà tam tạng giáo thiếu sót, làm hiển dương Thông giáo của Đại thừa. Kinh Đại Bát Nhã nói: Bồ tát phát tâm nếu tương ứng với nhất thiết chủng trí thì đây là quán chân đoạn kiết sử tương ưng với lý. Từ khi phát tâm liền quán tâm đoạn kiết sử nên gọi là bồ tát, đó chỉ là giả nhân. Cái gọi là quán chân tức là pháp, thường cùng từ bi phát khởi, tự đoạn khổ tập và tu đạo diệt, cũng là lấy lòng từ bi nguyện đưa chúng sinh ra khỏi khổ tập mà đến đạo diệt. Biết được chư pháp như huyễn như hóa, bất sanh bất diệt thì tam sự(…) đều tiêu tán trong hạnh bố thí, cho đến không chấp trước tất cả các pháp, nên gọi là bát nhã. Lấy những hạnh để làm đầy đủ thệ nguyện tức có thể phá tứ trụ hoặc(91) thấy được đệ nhất nghĩa, tức tam thừa gồm có thập địa, đó cũng là kiền tuệ địa(…)cho đến Phật địa. Nếu đem thập địa so sánh với Thanh văn thừa, thì kiền tuệ địa tương ứng với tổng biệt niệm xứ(…). Tánh địa tương ứng với tứ thiện căn vị (92), bát nhân địa(---) tương ứng với bát nhẫn vị (…), kiến địa (94) tương ứng với sơ quả, bạc địa(95) tương ứng với nhị quả, ly dục địa(---) tương ứng với tam quả, dĩ biện địa(---) tương ứng với tứ quả, Bích chi Phật địa tương ứng với Bích chi Phật vị. Bồ tát địa ra ngoài giả phương tiện quán và đạo đi song song để đoạn trừ chánh sử và hơi hám tập khí đến Phật địa thì dứt hẳn [tập khí]. Vì vậy Đại Trí Độ Luận nói: Người dù đã tận phiền não nhưng tập khí chưa tận. Vì vậy các bồ tát nguyện giữ tập khí để trở lại tam giới làm lợi ích chúng sinh, thanh tịnh Phật độ, không như Bồ tát của tam tạng giáo chỉ điều phục được mê hoặc và tu hành lục độ hạnh mà thôi. Các bồ tát này tu hành đoạn mê hoặc nhưng các dư tàn chưa tận như một làn khói nhỏ, lại lấy từ bi ngũ đạo(---) thị hiện độ muôn vật. Nếu chúng sinh xưng danh thì thấy cảm ứng, tức có thể cứu khổ ban vui, và được cứu độ. Đó là Thông giáo tùng giả nhập không (..), cũng gọi là nhất thiết trí. Đó cũng là nghĩa của Quán Thế Âm Thông giáo.
b/3/2/1/3) NGHĨA CỦA QUÁN THẾ ÂM TRONG BIỆT GIÁO.
Biệt giáo thì khác với Thông giáo. Biệt giáo hiểu bát nhã không giống như Thông giáo nên gọi là Biệt. Biệt giáo này tuy hiểu về Trung đạo nhưng là cái hiểu do cách giảng phương tiện dành cho những người độn căn, hiểu lý theo thứ lớp qua nhiều kiếp tu hành. Nên kinh Đại Bát Nhã nói: “Có Bồ tát từ sơ phát tâm, thần thông chu du thanh tịnh Phật độ, tuần tự tu tập hằng hà sa số pháp môn giúp cho việc hiểu được lý Trung đạo. Trước hết phá tứ trụ, sau phá trần sa hoặc, sau cùng là phá vô minh.” Thập tín vị (---) nói chung có thể điều phục các hoặc, nhưng việc chính là điều phục được tứ trụ. Thập trụ vị (---) nói chung điều phục được các hoặc nhưng việc chính cũng là đoạn trừ tứ trụ thành tựu nhất thiết trí. Thập hạnh vị (---) ra khỏi Giả, đoạn được vô tri (---) thành tựu đạo chủng trí và điều phục được giới ngoại trần sa hoặc (---). Thập hồi hướng (…) vị đoạn giới ngoại trần sa hoặc, thành đạo chủng trí chánh tu trung đạo, điều phục vô minh. Thập Địa(…)vị đoạn vô minh, thấy Phật tánh, Thành tựu nhất thiết chủng trí. Thí dụ như nấu vàng thì trước tiên lọc cặn bã sau đó mới chảy ra vàng. Đoạn kiết sử lần lượt cũng như vậy. Bồ tát phát tâm, trì pháp, từ bi tu hành, tự đoạn vô minh, thành tựu chân ứng, phát đại thề nguyện, lấy từ bi xông ướp pháp giới.
Chúng sinh cơ cảm tức thì được cứu khổ ban vui. Đây là từ Không quán ra Giả quán, thuộc đạo chủng trí, đó là nghĩa Quán Thế Âm của Biệt giáo.
b/3/2/2) Nhất tâm tam quán [ chia làm hai điểm: b/3/2/2/1) Nghĩa của Quán Thế Âm trong Viên giáo, b/3/2/2/2) Quán tâm]
b/3/2/2/1) NGHĨA CỦA QUÁN THẾ ÂM TRONG VIÊN GIÁO
Viên giáo hiểu rõ trung đạo không vướng vào hai bên, phi không, phi giả, phi nội, phi ngoại, mà quán chúng sinh khắp mười pháp giới như hình trong gương, trăng trong nước, không ở trong, không ở ngoài, không thể nói là có, không thể nói là không có, rốt ráo phi thực nhưng lý tam đế thì có đầy đủ, không trước không sau mà trong một tâm, là một mà nói thành ba, lấy ba để nói một. Cái quán trí là như vậy, lý của các đế cũng như vậy. Một đế là ba đế ba đế là một đế (…). Kinh Đại Bát Nhã nói: Có Bồ tát từ sơ phát tâm tọa đạo tràng, chuyển pháp luân, độ chúng sinh, tức là lúc sơ phát tâm đã quán đầy đủ tam đế và tất cả Phật pháp,
tâm đầy đủ vô duyên từ bi, tu vạn hạnh ba la mật, vào quả vị thập tín thiết luân mà có thể vĩnh viễn ra khỏi biển khổ luân hồi. Các hoặc của tứ trụ tận diệt, sáu căn được thanh tịnh (104), gọi là tự giải(…), vào thập trụ đồng luân (..), sơ tâm tức phá được vô minh, khai phát thực tướng, tam trí xuất hiện, một thân biến hóa vô lượng thân Như Lai cảm ứng được tất cả tức là khai, thị, ngộ, nhập tất cả tri kiến Phật. Kinh văn nói: “Bỏ hẳn pháp phương tiện chỉ thuyết vô thượng đạo”. Kinh lại nói rằng: “Nay vì ngươi mà nói việc chân thật nhất, tức là Viên giáo, đó là chân lý đúng nhất, tam quán tại nhất tâm”. Kinh Đại Bát Nhã nói: “Nếu nghe môn quán chữ A (…) tức hiểu tất cả nghĩa”. Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Cả hai sơ phát tâm và phát tâm sau cuối không khác nhau”. Như vậy với hai tâm này thì cái phát tâm trước là khó nên phải kính lễ việc sơ phát tâm, nghĩa là như vậy. Tri kiến này gọi là Phật tri và Phật kiến, tức là biết nhất thiết chủng trí, là cái biết của Phật nhãn. Cái thấy của Phật nhãn và cái trí của Phật trí, chiếu sáng tất cả các pháp, từ nghĩa thù thắng mà gọi tên. Thí dụ như tất cả nước các sông ngòi chảy vào biển cả thì mất tên cũ. Đại Trí Độ Luận nói rằng: “Mười trí vào trí như thật, không còn giữ tên cũ mà chỉ gọi là trí như thật”. Nhãn cũng như vậy, ngũ nhãn đầy đủ tức khi thành Bồ đề, nên chỉ gọi là Phật nhãn mà thôi. Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Người học Đại thừa tuy có nhục nhãn nhưng đó là Phật nhãn. Nhưng nếu nói về Tiểu thừa thì tuy rằng có tuệ nhãn nhưng chỉ là mắt trần mà thôi. Nếu có thể hiểu như vậy, cái gọi là nhân pháp của Viên giáo. theo vô tác tứ đế mà sinh khởi vô duyên từ bi, tu định tuệ không hai (bất nhị) thành chân ứng hai thân. Chân thân đi cùng khắp pháp giới, như dược châu cung ứng cho tất cả. Ngang dọc ứng phó với các cơ duyên, mang lại ẩn hiện cả hai lợi ích, lấy cái bảo tạng kim cương bát nhã không khiếm khuyết, nhổ tận gốc [vô minh để] đưa đến giải thoát, lấy tướng uy nghiêm của pháp giới Thủ Lăng Nghiêm(…),đưa đến cái an lạc tự tại ba điểm của Niết Bàn(105) gọi là quán nhất thiết chủng trí Trung đạo đệ nhất nghĩa đế. Đó là ý nghĩa của Quán Thế Âm của Viên giáo.
Hỏi: “Cái quán chúng sinh phi không, phi hữu này đâu là hạnh từ bi?”.
Đáp: “Như kinh Duy Ma Cật nói” (,,,).
Lại hỏi: “Nếu quán mười pháp giới phi không, phi giả thì có phải rằng đã phá tất cả [luật] nhân quả?”
Đáp: “Nếu không hiểu Trung Đạo tức không biết cái phi quyền và phi thực, cũng không biết vô quyền và vô thực tức, không biết bốn loại nhân quả(…).”
Nếu hiểu Trung đạo thì hiểu rằng quyền thật soi sáng lẫn nhau, đạt được ba loại khổ tập nhân quả và ba loại đạo diệt nhân quả của quyền tứ đế cho đến nhất thật vô tác tứ đế, thế và xuất thế nhân quả, hiển nhiên đầy đủ trong một niệm tâm. Vì sao vậy? Vì lấy thực tướng của tuệ giác để hiểu rằng tất cả pháp đều phi không, phi hữu nên gọi là Phật bảo, cho nên hiểu được cái lý của pháp tánh là đầy đủ tam đế, đó là Pháp bảo. Lấy cái giác tuệ và lý sự(106), hợp lại thì có tên là Tăng bảo. Sự hòa tức là sự hòa hợp của tất cả thánh hiền tăng trong tam giáo. Lý hòa tức có thánh tăng(---) của 42 quả vị thuộc Viên giáo.Nên kinh Vô Lượng Thọ nói về ánh trăng lúc sáng lúc mờ mà đưa ra hai thí dụ: Trước ngày rằm ánh trăng lớn dần và sáng hơn. Sau ngày rằm ánh trăng lu mờ và nhỏ đi, nhưng tánh thật của trăng không méo không tròn nhưng khi nhìn ngắm thì trước sau quả là có tròn có khuyết. Tánh của trăng tròn tỉ dụ như thật tướng. Ánh sáng [của trăng] khi tăng khi giảm tỉ dụ như trí đoạn. Ánh sáng trí quang tăng gia thì các pháp không sinh, đó là lúc bát nhã sinh. Khi đoạn quang giảm chư pháp không diệt nhưng phiền não diệt. Kinh Vô Lượng Thọ cũng nói: “Vô minh là minh”, nên biết rằng đó là dùng thí dụ để nói lên cái tà quang đang bị diệt trừ. Cái sáng tối này là việc xảy ra hằng ngày. Vì vậy [42 địa] địa nào cũng có trí đoạn đầy đủ. Như trăng tròn sáng trong ngày rằm tức cái tròn và cái sáng của trăng đã đầy đủ. Nghĩa là mặt trăng không thể tròn và sáng hơn nữa. Chỗ này thí dụ cho lý Trung đạo viên mãn, trí Bồ đề đã đến cực độ nên nói là bất sinh, bất sinh chính là đại Niết Bàn. Đến ngày thứ 30 hình dáng trăng và ánh sáng thu nhỏ đến tận cùng không còn thu nhỏ được hơn nữa, đây thí dụ cho vô minh đã được trừ khử đến chỗ tận cùng, không còn cái mê hoặc nào có thể đoạn được nữa nên nói là bất diệt, bất diệt đó chính là đại Niết Bàn. Ngày mùng ba của tháng thí dụ cho ba mươi tâm trí đoạn, ngày thứ 10 thí dụ cho Thập Địa trí đoạn, ngày thứ 14 thí dụ cho Đẳng giác trí đoạn, ngày 15 thí dụ cho Diệu giác trí đoạn. Kinh Nhân Vương, kinh Thiên Vương và các kinh Bát Nhã thì lây ngày thứ 14 thí dụ là bát nhã, cũng trong ý này. Nếu hiểu rằng tất cả trí đoạn của tăng bảo đều dựa vào pháp nhất thực tướng của Trung đạo thì tất cả nhân quả không thể bị phá mất. Nếu không hiểu rõ Trung đạo là phi không phi giả mà chỉ dựa vào cái kiến đoạn thường(…) thì tức là phá sinh diệt tứ đế, phá cái nhân quả tại thế và xuất thế, phá tam tạng tam bảo. Nếu chỉ thuyết về vô thường sinh diệt thì tức là phá vô sinh tứ đế, đó là Thông giáo tam bảo. Nếu chỉ thuyết thể pháp [nhập không], [tức phá] bất sinh bất diệt chân đế, tức phá vô lượng tứ đế của tam bảo thuộc Biệt giáo. Nếu chỉ thuyết cái thứ đệ để hiển rõ cái phi không, phi giả. Đây là phá vô tác tứ đế nhất thể tam bảo thuộc Viên giáo.
Nếu lần lượt xem xét những cái phá [từ Tạng giáo đến Viên giáo] thì những cái phá ở phần đầu vẫn còn thiếu sót rất nhiều, những cái phá về sau thì ít khiếm khuyết và có thể vừa ý hơn.
Hỏi: “Nếu Viên giáo tu thật tướng, nhất pháp tam đế(..), nhất tâm tam quán(---) đầy đủ tất cả các pháp thích ứng với việc bốn giáo lý vào một giáo lý, thì nên nói Viên giáo là đã đủ. Đâu cần chia ra tứ giáo như trên làm chi?”
Đáp: “Chương mở đầu nói: “Thứ đệ tam quán(---), nhất tâm tam quán hiểu rõ giáo pháp cũng có hai cách hiểu. Nếu một giáo có đủ tất cả các pháp thì giúp cho người lợi căn. Nếu chia làm tứ giáo khác biệt nhau thì có lợi cho kẻ độn căn. Nếu chúng ta không mượn cách phân biệt tiệm thứ và viên đốn thì làm sao mà giải thích được. Dùng Biệt giáo để làm sáng tỏ Viên giáo thì trước hết phải nói rõ tứ giáo. Tuy rằng thuyết đạo này đạo kia nhưng thật ra chỉ có một thừa mà thôi. Những pháp thâm sâu khác của Như Lai là những pháp mang lại lợi ích và làm chúng sinh hoan hỷ. Những pháp đó là ba phương tiện pháp để dẫn đường và mở đường vào đạo viên không. Nếu nhập Phật tuệ thì phương tiện đều trở nên vô dụng, nên nói rằng chỉ một sự thật(…), nếu nói hai thì là dư thừa, không phải thật.
Nên biết chỉ có một giáo pháp viên đốn, nhất thiết chủng trí, trung đạo chánh quán mà thôi. Đây mới thật là Quán Thế Âm, còn tất cả những cái còn lại chỉ là pháp phương tiện.
Hơn nữa, nếu nói quyền nói thực cũng là dùng phương tiện mà nói. Phi quyền, phi thực, ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt, không thể thuyết giảng. [Quyền] Bất sanh và [thực cũng] bất sanh, diệu ngộ khế hợp với lý, nên gọi là chân. Đây cũng là vô thật mà cũng là thật.
b/3/2/2/2) QUÁN TÂM
Sau đây thì nói rõ về quán tâm. Nguồn tâm vốn thanh tịnh, vô vi và vô số, không một không hai, không sắc không tướng, không méo không tròn. Tuy giác tri mà cũng là vô giác tri, Khi khởi niệm, khi chưa khởi niệm, bốn lần kiểm tâm (…), sau cùng không thể được thì làm sao có thể theo thứ đệ hay là không theo thứ đệ, tròn đầy hay là không tròn đầy để mà quán tâm đâu? Vì chẳng khác gì như hư không, cái tâm tánh này sau cùng là vô tâm. Nếu có nhân duyên thì tất nhiên minh tâm, cái luận bàn về tâm này chẳng qua chỉ là phương tiện quán xét mà thôi. Thí dụ như hư không có hai thời âm dương, tâm cũng như vậy. Tuy không tròn không méo nhưng khi luận về nó thì cũng có tiệm, có đốn. Nếu muốn quán tâm theo thứ đệ thì đó là phương tiện tiệm thứ (…) để hiểu [về tâm]. Nếu quán tâm, đầy đủ tam đế tánh đức và tam quán tánh đức và tất cả pháp, không có trước, không có sau, không có thứ đệ, tất cả đầy đủ trong một niệm. Trong thập pháp giới, có ngàn loại tánh tướng và có nhân duyên sinh ra pháp. Tức Không, tức Giả tức Trung. Ngàn loại tam đế, vô lượng vô biên pháp đầy đủ trong một tâm. Đây là lối quán không theo thứ đệ. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Trong tất cả thế gian không có gì mà không từ tâm tạo ra”. Tâm như một người thợ vẽ tạo ra nhiều loại ngũ ấm.. Nếu quán tâm-không(110) thì tất cả những gì do tâm tạo đều là không. Nếu quán tâm-hữu(…)thì tất cả những gì do tâm tạo đều là có. Nếu tâm nhất định là có thì không thể nói là không. Nếu tâm nhất định là không thì không thể nói là có. Với cái bất định không (…) này thì không tức phi không. Với bất định hữu(…) này thì hữu tức phi hữu. Phi không, phi hữu mà không rơi vào hai bên thì gọi là trung đạo. Nếu quán tâm phi không, phi hữu tức tất cả pháp đều từ tâm sinh ra thì pháp cũng là phi không, phi hữu. Như vậy tất cả pháp đều tại tâm. Nếu có thể quán tâm như vậy thì gọi là thượng thượng quán, đắc được Bồ đề của chư Phật. Kinh Tịnh Danh nói: “Quán thật tướng của thân, quán Phật cũng như vậy”. Nếu quán thân tướng như là quán Phật. Quán tâm tướng cũng như là quán Phật. Kinh Hoa Nghiêm nói rằng: “Tâm, Phật, và chúng sinh cả ba không sai khác”. Nên phải biết rằng quán nguồn tâm này tương đương với Như Lai. Nếu quán tâm cách khác thì tất cả cách quán đó cũng chỉ là phương tiện, gọi là tà quán. Nếu quán một cách viên mãn như trên thì mới là chân thật chánh quán tức khai Phật tri kiến, ngồi tòa Như Lai. Từ Bi như vậy tức vào được nhà Như Lai. An tâm học theo pháp này thì tức là mặc áo Như Lai. Tu cách tuệ quán này thì đó là trang nghiêm Như Lai. Người này khi đi đứng ngồi nằm đều xứng đáng xây tháp mà thờ. Sống như Như Lai, cách quán tâm này gọi là quán Phật tâm.
2B) BIỆT THÍCH DANH VỀ PHỔ MÔN: [chia làm 2 phần a) NÓI VỀ ĐƯỜNG LỐI VÀ GIÁO MÔN, b) BIỆT THÍCH DANH VỀ PHỔ MÔN ĐỐI CHIẾU VỚI THẬP NGHĨA] :
a)Nói rõ về những đường lối và giáo môn. b) Nói về những đường lối và môn phái qua thập nghĩa.
a)NÓI RÕ VỀ ĐƯỜNG LỐI CỦA CÁC MÔN PHÁI [lại chia là 6 điểm: a/1)Liệt tên giáo môn, a/2) Nói về giáo tướng, a/3), nói rõ quyền và thực. a/4) nói rõ phổ quát hay không phổ quát. a/5) Hiểu rõ tứ tùy. a/6) hiểu rõ quán tâm.]
Lại được chia làm 6 điểm: a/1)Liệt tên giáo môn, a/2) Nói về giáo tướng, a/3) Nói về quyền thật, a/4)Nói về phổ và bất phổ, a/5) Nói về tứ tùy a/6)Nói về quán tâm.
Đường lối và môn phái lại có 6 điểm 1) Liệt kê tên của các môn phái, 2) Nói về tướng của các môn phái. 3) nói rõ quyền và thực. 4) nói rõ phổ quát hay không phổ quát. 5) hiểu rõ tứ tùy. 6) hiểu rõ quán tâm.
a/1) LIỆT TÊN CÁC GIÁO MÔN
Liệt kê tên môn phái. Theo nghĩa của thế gian thì thông có nghĩa như một cửa ngõ đưa đến nơi cư ngụ của người quý phái hay đê tiện. Người phàm lấy thập ác ngũ nghịch làm cửa ngỏ đưa đường về tam đồ. Người thánh thiện thì lấy ngũ giới, thập thiện, tứ thiền, tứ định làm cửa ngõ đưa đường vào cõi nhân thiên. Ngoại đạo lấy đoạn thường làm cửa ngõ đưa đến mê hoặc và đau khổ. Tham ái thì lấy bốn loại điên đảo làm cửa ngõ. Kiến [hoặc] lấy tứ cú làm cửa ngỏ. Thiện ác tuy dựa vào ngôn ngữ khác nhau nhưng cũng đều là pháp môn hữu lậu, thuộc thế gian, đưa đến sinh tử.
Nói về pháp môn trong Phật pháp thì cũng có rất nhiều. Tam Tạng tứ môn(…) đưa đến hữu dư, vô dư Niết Bàn. Thông giáo tứ môn(…) gần thì đến hóa thành, xa thì đến thường trụ. Biệt giáo tứ môn(…) tiệm thì đến thường trụ. Viên giáo tứ môn(…) đốn thì đến thường trụ. Như vậy bốn loại 46 giáo môn (…)này cũng có 16 quán môn(…), hợp lại là 32 môn(…). Có thể thông qua nghĩa [của các giáo môn] để phân biệt tướng môn.
a/2) NÓI VỀ TƯỚNG MÔN
Nói về tướng môn.
Tam Tang giáo lây A tỳ đàm làm hữu môn (..), lây Thành Thật Luận làm không môn (..), lây Côn lặc làm diệc hưu diẹc không môn. Lấy Xa nặc (..) làm phi không phi hữu môn (..). Nó rõ từng điểm một về hành pháp, phan định rõ các quả vị: hiền vị, thánh vị.
Do pháp môn đưa đến ly [của giáo môn đó]. Thông giáo tứ môn nói đến huyển hữu, huyển không, cũng không, cũng hữu, phi không, phi hữu. Nói rõ từng điểm một về hành tướng, phân định các hiền vị, thánh vị.
Do pháp môn mà thông lý. Biệt giáo tứ môn quán Phật tánh như bình chậu (…) trong phòng tối tức hữu môn. Quán Phật tánh như thành Ca-tỳ-la trống (…) không tức vô môn. Nếu quán Phật tánh như vàng trong đá thì người có phúc như được báu vật, nhưng với người có tội thì chỉ xem như cục đá. Đó là diệc hữu diệc vô môn. Nếu quán Phật tánh lìa hai bên thì đó là Trung đạo, tức phi hữu, phi vô môn.. Từng điều một từ hành tướng phân định quả vị.
Do pháp môn mà thông lý. Viên giáo tứ môn không phân biệt tên. Một môn là ba. Ba môn là một. Không một, không bốn, không có gì khác biệt nhau, viên dung tuy không phải bốn nhưng là bốn. Phán xét từng cái một tướng hành vị bất tư nghi này, từ môn mà thông đạt lý, nghĩa này cũng có nơi kinh Vô Lượng Thọ.
a/3) NÓI VỀ QUYỀN VÀ THỰC
Sau đây luận về quyền và thực của các môn. Giáo quán của Tam tạng và Thông giáo có 16 môn năng thông và sở thông đều là quyền. Giáo quán Biệt giáo năng thông là quyền, sở thông là thật. Tám môn quán giáo của Viên giáo năng thông và sở thông đều là thật. Tất cả đều dựa vào huyền nghĩa.
a/4) NÓI VỀ PHỔ QUÁT VÀ BẤT PHỔ QUÁT.
Sau đó nói rõ về phổ qrát và không phổ quát.
Nếu phàm phu ngọai đạo theo tất cả các lối nhìn về kiến hoặc và ái thủ thì tam giới còn chưa ra khỏi được, làm sao mà nói là phổ quát.
Tam tạng giáo và Thông giáo tuy có thể đến được hóa thành nhưng cũng chưa có thể đúng nghĩa là phổ cập. Biệt giáo tiệm thông cũng chưa phải là phổ.
Chỉ có giáo quán của Viên giáo về pháp môn thật tướng có thể khắp mười pháp giới, hàng ngàn tánh tướng, tam đế nhất thời viên thông, Trung đạo viên thông, song chiếu nhị đế, thì được gọi là phổ môn.
Hơn nữa như kinh Tịnh Danh nói: “Nhập bất nhị môn, tuy sinh tử và Niết Bàn là hai mà không dựa vào sinh tử và Niết bàn, thì gọi là bất nhị nhưng cũng không phải là một (bất nhất).
Hỏi: “Tại sao vậy?”
Đáp: “Đã ra khỏi cái hai thì là ở trong cái một. Khi không phải một thì là hai. Như thế không phải là bất nhị sao? Nay không ở tại hai nên gọi là không một cũng không hai, cũng gọi là bất hữu bất vô. Bất hữu phá cái Giả. Bất vô phá cái Không. Bất hữu là phá cái hai, bất vô phá cái một. Nếu như vậy, ứng hợp với trung đạo, trung đạo cũng là Không. Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Minh và vô minh tánh của nó không hai”. Cái tánh bất nhị chính là Trung đạo. Trung đạo là Không, ở hai bên thì cái không này cũng là không. Nên gọi là không không không, nên gọi là bất khả đắc không, đó là nhập bất nhị pháp môn, đó chính là Viên giáo dựa vào không môn chỉ rõ ý nghĩa của Phổ môn.
Những Bồ tát ở địa thứ 31 thuyết bất nhị môn. Ngài Văn Thù thuyết cái không thuyết (..) là bất nhị môn. Kinh Tịnh Danh: Im lặng đó là bất nhị môn. Nếu xem kỹ những đoạn kinh văn đó đều có nghĩa tứ môn. [Tăng] Triệu(---) pháp sư nói rằng: “Các Bồ tát từng nói pháp tướng đó tức là hữu môn. Ngài Văn Thù nói trong cái không nói, đó tức là không môn.” Kinh Tư Ích Phạm Thiên(---) nói rằng: “Tất cả pháp đều là chánh, tất cả các pháp đều là tà”, đó cũng là ý nghĩa Phổ môn. Đi khắp pháp giới như vào cõi hư không, đó cũng là không môn và hữu môn. Kinh Tịnh Danh nói cái không nói tức pháp môn phi không, phi hữu môn.
Phẩm Tứ Thập Nhị Tự trong kinh Đại Bát Nhã từ chữ A đứng đầu, chữ Trà đứng cuối, ở giữa có 40 chữ, chữ nào cũng đều đầy đủ công đức của chữ ấy. Đây cũng là bất nhị Phổ môn.
Phẩm Phương Tiện nói: “Môn trí tuệ khó hiểu và khó vào”. Phẩm Thí Dụ nói: “Chỉ có một môn hẹp và nhỏ”. Nhiều kinh nói rõ pháp môn thật lý chính là ý nghĩa Phổ môn.
a/5) NÓI VỀ TỨ TÙY và a/6) NÓI VỀ QUÁN TÂM.
Tứ Tùy và Quán tâm đều có nói trong kinh Vô Lượng Thọ [Nên không tường thuật ở đây].
b) BIỆT THÍCH DANH VỀ PHỔ MÔN ĐỐI CHIẾU VỚI THẬP NGHĨA [b/1) Thập nghĩa đối chiếu với tự hành và hóa tha, b/2) Thập nghĩa đối chiếu với phổ môn]
b/1)THẬP NGHĨA ĐỐI CHIẾU VỚI TỰ HÀNH VÀ HÓA THA [b/1/1) Tự hành, b/1/2) Hóa tha, b/1/3) Có cả hai nghĩa tự hành và hóa tha]
Thứ hai, giải thích riêng biệt về Phổ môn.
Cái lý rốt ráo không phải là số lượng mà là theo duyên để làm lợi ích cho muôn vật, có khi gọi là số một, số hai hoặc đến vô lượng số. Nhiều hay ít vẫn thích nghi trong mười nghĩa, đó là :
b/1)Thứ nhất là từ bi phổ, b/2) Thứ hai, hoằng thệ phổ. b/3) Thứ ba, tu hành phổ, b/4) Thứ tư, đoạn hoặc phổ, 5) Thứ năm, nhập pháp môn phổ, 6) Thứ sáu, thần thông phổ, 7) Thứ bảy, phương tiện phổ, 8) Thứ tám, thuyết pháp phổ, 9) Thứ chín, cúng dường chư Phật phổ, 10) Thứ mười, thành tựu chúng sinh phổ.
Đi qua các phổ môn này tức là hoàn tất các pháp. Mười phổ môn này đều là pháp tu hành phước đức trang nghiêm. Năm chương đầu nói về tự hành. Ba chương kế tiếp nói về hóa tha. Hai chương sau cùng đúc kết hai ý kể trên. Trong tự hành, bốn điều đầu là tu nhân, một điều sau là hiểu rõ về quả. Tu nhân lại chia làm hai phần: Hai điều đầu là nguyện. Hai điều sau là hành. Nói chung nó làm khởi sinh:
b/1/1) TỰ HÀNH [1) Từ bi phổ, 2) Hoằng thệ phổ. 3) Tu hành phổ, 4) Đoạn hoặc phổ, 5) Nhập pháp môn phổ,]
b/1/1/1) TỪ BI PHỔ:
Bồ tát thấy tất cả chúng sinh khổ não nên khởi sinh đại từ bi. Tâm này tuy chưa phải là tâm Bồ đề nhưng có thể làm cho Bồ đề tâm phát sinh.
Thí dụ như đất và nước tuy không phải là hạt giống nhưng có thể làm hạt giống nẩy mầm. Nay vì đại bi mà tâm Bồ đề phát khởi thì cũng như vậy.
b/1/1/2) HOẰNG THỀ PHỔ
Sau nói đến thệ nguyện. Nếu chỉ vui với từ bi thì nhiều người sẽ thoái chuyển. Bồ tát lúc sơ phát tâm có ba điều như cá con, như hoa cây xoài, qua thời gian thì thành tựu rất ít vì lòng bất định. Vì vậy nên khởi thề nguyện để hy vọng cầm giữ tấm lòng đó chính là làm kiên cố bồ đề tâm.
b/1/1/3) TU HÀNH PHỔ
Nói về Tu Hành. Sau đây nói về tu hành. Nếu chỉ phát nguyện suông thì chẳng ích lợi gì như kẻ không tiền tài, không thế lực, không mưu cơ thì làm sao giúp người thoát khổ.
Bồ tát cũng như vậy phải có phúc đức, tiền tài, thần thông, trí tuệ, mưu cơ thì mới có thể hóa đạo. Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Trước nhất là phải an định, sau đó mới hành động, sau là dùng trí tuệ để cứu vớt người”. Tu hành làm trọn thệ nguyện, ý là như vậy.
b/1/1/4) ĐOẠN HOẶC PHỔ
Sau nói đến sự đoạn hoặc. Thành [Thật] luận nói rằng người phục đạo là vô ngại, đoạn đạo là giải thoát. Nói như trên thì tu hành chính là lấy sự vâng phục đạo làm nhân. Lấy sự đoạn mê hoặc làm quả của giải thoát đạo, như Tỳ Đàm nói rõ về vô ngại đạo trong một niệm tức đoạn. Làm thế nào dung hòa với thất giác (---) mà nói nghĩa điều phục được [mê] hoặc?. Lấy đường lối phương tiện điều phục vô ngại, đạo đoạn, chứng đạo giải thoát, dẫn chứng và giải thích theo Đại Trí Độ Luận: “Trong cái đang thực hành vô ngại đạo đó gọi là Bồ tát. Người đang thực hành đạo giải thoát đạo thì gọi là Phật”. Đây là dựa vào cứu cánh mà nói. Phật chứng tam-Bồ-đề, thì gọi là đạo giải thoát. Nếu như vậy tu hành là đường lối phương tiện, đoạn hoặc là đạo vô ngại, nhập pháp môn là đạo giải thoát. Theo đó mà lần lượt đi.
b/1/2) HÓA THA [ 6) Thần thông phổ, 7) Phương tiện phổ, 8) Thuyết pháp phổ ]
b/1/2/5) THẦN THÔNG PHỔ.
Tiếp theo, nói về thần thông. Nếu muốn hóa tha thì phải cần đến tam mật thần thông (…) để hiển thị sắc thân. Phương tiện là để hiển thị cái ý. Đồng tình thuyết pháp là để hiển thị miệng, tùy theo loại mà dùng âm thanh của loại đó. Đó là những thứ tự của sự hóa tha.
b/1/3) CÓ CẢ HAI NGHĨA TỰ HÀNH VÀ HÓA THA [9) Cúng dường chư Phật phổ, 10) Thành tựu chúng sinh phổ]
b/1/3/6) CÚNG DƯỜNG PHỔ
Cung dường Phật để đến kết quả tự hành. Cúng dường không phải chỉ là cúng dường hoa hương tứ sự, mà tùy thuận sự tu hành mới là pháp cúng dường tối thượng. Vì vậy, kinh Vô Lượng Thọ nói: “Nếu theo lời Ta tức là đã cúng dường Phật. Y theo giáo mà làm là đưa đến kết quả tự tu hành. “
b/1/3/7) THÀNH TỰU CHÚNG SINH PHỔ
Thành tựu chúng sinh thì đưa đến kết quả hóa tha. Trong tứ oai nghi của Bồ tát không quên chúng sinh hà huống vào các pháp môn thanh tịnh Phật độ thì tất cả đều vì làm lợi ích cho chúng sinh, nói tóm lại là hóa tha.
[nhập pháp môn phổ, phương tiện phổ, thuyết pháp phổ, ba điểm này không thấy nói trong đoạn nay ]
b/2) THẬP NGHĨA ĐỐI CHIẾU VỚI PHỔ MÔN [b/2/1) TỪ BI PHỔ, b/2/2) HOÀNG THỀ PHỔ , b/2/3) TU HÀNH PHỔ, b/2/4) ĐOẠN HOẶC PHỔ, b/2/5) NHẬP PHÁP MÔN PHỔ, b/2/6) THẦN THÔNG PHỔ, b/2/7) PHƯƠNG TIỆN PHỔ, b/2/8) THUYẾT PHÁP PHỔ, b/2/9) CÚNG DƯỜNG CHU PHẬT PHỔ, b/2/10) THÀNH TỰU CHÚNG SINH PHỔ]
b/2/1) TỪ BI [b/2/1/1)CHÚNG SANH TỪ PHỔ, b/2/1/2) PHÁP DUYÊN TƯ PHỔ, b/2/1/3) VÔ DUYÊN TƯ BI]
Giải thích tiếp theo trước hết từ nhân thiên cho đến quả vị thượng địa đều có từ bi. Lời này không ra khỏi chuyện có pháp duyên hoặc vô pháp duyên với chúng sinh. Nếu theo cái duyên với chúng sinh thì chúng sanh khác nhau và mang nhiều giả danh khác nhau. Nhân quả khổ lạc cũng khác nhau, chưa có thể vào được pháp duyên của từ thì làm sao gọi là phổ. Nếu pháp duyên không có người, không có ta, không có chúng sinh. Theo Giả vào Không thì cũng chưa đến được chỗ Giả danh huống chi là phổ. Nếu dùng lòng từ vô duyên, không dựa vào giả danh của 25 cõi, không dựa vào pháp của Niết Bàn nhị thừa, không dựa vào nhị biên. Tuy không nương vào gì cả nhưng có thể soi sáng cả hai Không và Giả. Nếu từ đó khởi tâm từ, đó là vô duyên từ. Tâm thông với tam đế mới gọi là phổ.
b/2/1/1)CHÚNG SANH TỪ PHỔ
Giải thích riêng biệt thì nếu tu theo chúng sanh duyên từ, quán pháp giới thấy chúng sinh chỉ là giả danh thì đó không gọi là phổ sao? Nay quán chúng sinh giả danh trong mười pháp giới, mỗi pháp giới đều có mười chủng tánh, tướng, và những bản mạt cứu cánh.
Mười pháp giới giao thoa với nhau thì có 100 pháp giới, 1000 loại tánh tướng ẩn trong tâm tuy không hiện tiền nhưng rõ ràng đầy đủ ở đó. Thí dụ như trên mặt một người có nét bình thản hay là lo âu, kẻ ngu không biết nhưng người thầy tướng nhìn thì biết ngay. Nay tánh tướng chúng sinh trong một tâm có đủ thì cũng như vậy.
Người phàm phần đông là điên đảo. Rất ít người không điên đảo, tuy có đầy đủ lý nhưng tình lại u mê. Thánh nhân có tri giác như cái biết của ông thầy tướng, biết ngàn loại tánh tướng này tất cả đều là pháp do nhân duyên sinh ra. Nếu là pháp do nhân duyên ác sinh ra thì là tánh tướng khổ cho đến khổ từ đầu đến cuối vì chưa giải thoát, nay quán cái khổ này mà khởi đại bi. Nếu quán pháp do nhân duyên thiện sinh ra, đó là tánh tướng lạc, cái lạc từ đầu đến cuối. Quán như vậy mà khởi đại từ. Như trong kinh Vô Lượng Thọ giảng vậy.
Nay dựa vào hai cảnh giới đầu và cuối [địa ngục và Niết Bàn] để hiẻu về tánh tướng. Tánh trong cảnh giới địa ngục cũng như thế, tánh đó không thay đổi, như tánh của cây tre có thể sanh ra lửa. Nếu nó không có tánh này, thì không thể tìm lửa trong tre, tìm nước trong đất, tìm gió trong quạt. Tâm có tánh của cảnh giới địa ngục thì cũng như vậy. Đó là tướng địa ngục.
Thấy thì biết được sự khác biệt thì đó gọi là tướng. Người biết quán tâm thì biết ngay tướng địa ngục, như ông thầy tướng giỏi biết tướng không hề sai nên gọi là tướng.
Thể là lấy tâm làm thể. Tâm hiểu rõ khổ lạc vì ngay trong thể. Ví như chiếc thoa, bông tai hay vòng xuyến có khác nhau, nhưng thể chất đều là bạc. Sắc của lục đạo do tâm mà khác nhau nên tâm chính là thể. Tất cả việc di động vận chuyển đều do sức lực, cho đến [trong địa nguc] đi núi dao vào hỏa ngục cũng đều do lực. Tất cả những hành động đều gọi là tác. Vì có lực nên có [hành động và] tạo tác, hoặc làm thiện hoặc làm ác.
Nhân là nhân của các nghiệp. Duyên là cái nương vào tạm thời, như từ nhân duyên hợp lại nên cái ái và nghiệp thành hình. Quả đó là tập quả(…) như người sống trong địa ngục vì kiếp trước là kẻ đa dâm, nên vẫn còn nhớ đến cái đa dâm khi thấy cảnh liền sinh tâm ái, đưa thân vào đó thì gọi là tập quả. Báo là quả báo như trước đây có tội dâm nay đọa địa ngục thọ cái khổ thiêu đốt, đó là quả báo.
Bản là đức tánh của pháp. Mạt là tu nên đắc pháp. Các cứu cánh là do tu hành được tất cả đức tánh.
Khi có đức tánh đầy đủ và chứng đắc từ sự tu hành. Tướng có trước có sau nên gọi là nhiều tướng. Cảnh giới địa ngục có mười tướng tánh như vậy, còn lại chín cái kia cũng như vậy.
Hỏi:“Trong thế giới này cũng có mười tánh tướng phải không? Giao nhau như thế nào mà có, các cảnh giới khác cũng nói là giao nhau thì khó tin. Vì sao nói địa ngục có tánh tướng bản mạt của Phật tánh?”.
Đáp: “Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Có tâm thì tất nhiên có tam bồ đề, như vua Tiên Dự (114) giết [500] Bà-la-môn nhưng những người này vẫn còn có tam niệm. Lại như Bà Tẩu(115) đọa địa ngục đều có các nghĩa cao thấp nặng nhẹ khác nhau. Tuy tại địa ngục nhưng lý cứu cánh của Phật tánh không mất. Nên biết rằng cảnh giới địa ngục cũng có Phật tánh. Phật tướng chính là tướng của tánh đức. Kinh Tịnh Danh nói: “Tất cả chúng sinh là tướng Bồ đề”. Thánh nhân nhìn như vậy mà có thể phân biệt.
Thể là cái tâm của địa ngục giới, cái lý của thực tướng. Lực là thập lực của pháp tánh, có thể biến hóa đại dụng. Tác là theo bản tánh vô trụ mà lập ra tất cả pháp. ví như gân và sửa của sư tử.
Nhân là chánh nhân. Duyên là đức tánh duyên liễu. Quả là quả lớn của Bồ đề bát nhã. Báo là quả của quả Đại Níết Bàn. Bổn là đức tánh. Mạt là cái tu chứng. Đẳng là tướng mạo của [người] tu đạt được trong đức tính. Trong đức tính chính nó cũng có đầy đủ cái tướng mạo của [người] tu khi đạt được. Cho nên nói là cứu cánh đẳng. Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Trên đỉnh núi tuyết có cây diệu dược vương mà cũng có các loại cỏ độc”. Trong cảnh giới địa ngục có đầy đủ Phật quả, tánh tướng của mười pháp huống chi là các cảnh giới khác. Địa ngục có chín cảnh giới hỗ tương. Các cảnh giới khác cũng có sự hỗ tương như thế. Bồ tát quán sát thâm sâu chúng sinh trong mười pháp giới, ngàn loại tánh tướng đầy đủ trong nhất tâm. Tìm sâu căn nguyên chiếu soi đức tánh ác hoặc thiện còn phải mặc nhiên công nhận, huống chi không chiếu theo mà tu được thiện ác chăng. Như thấy [thí dụ] cây dược vương và cỏ độc trong núi tuyết. Vì quán đức tánh ác độc mà khởi lòng thương xót, khởi tâm đại bi muốn cứu khổ. Vì quán đức tánh thiện mà vui mừng hoan hỷ, khởi tâm đại từ muốn ban vui. Trong mười pháp giới này gom tất cả chúng sinh không sót một ai. Dựa vào cái giả danh của chúng sinh [mà tu] Từ, há chẳng phải là cái Từ phổ cập cho tất cả chúng sinh khắp nơi sao.
Hỏi: “Trong cảnh giới địa ngục có cái khổ trầm trọng chưa được thoát ra thì cớ sao nói đến việc ban vui?”.
Đáp: “Chúng sinh lúc vào địa ngục khởi ba niệm. Bồ tát thừa cơ hội này liền đưa nhân an lạc cho, chính vì vậy mà gọi là ban vui.”
Lại có Bồ tát có thể lấy tâm đại bi thế vào sự thọ khổ để chúng sinh được nghỉ ngơi. Trong các cảnh giới khác thì cái khổ nhẹ hơn nên việc ban vui dễ giải thích hơn.
b/2/1/2) PHÁP DUYÊN TƯ PHỔ
Thứ hai, pháp duyên từ là quán tánh tướng trong mười pháp giới tất cả thiện ác đều như hư không, mười pháp giới cũng chỉ là giả danh, giả danh đó cũng là không. Cái hành thức trong sắc thọ tưởng hành thức của mười pháp giới cũng là không. Cái xứ sở trong mười pháp giới, xứ sở đó cũng là không. Vô ngã và vô ngã sở đều bất khả đắc, như huyễn như hóa, không có thật. Tướng thường tịch diệt chung quy là không. Vì sao chúng sinh cứ cho là thật? Cũng vì chúng sinh bất giác bất tri nên bị khổ não, nên không được cái vui của tịch diệt vô vi. Vì cứu khổ mà khởi đại bi muốn ban vui nên khởi đại từ. Kinh Tịnh Danh nói: “Nếu có thể vì chúng sinh mà thuyết pháp này đó chính là từ tâm chân thật”. Nếu theo duyên của pháp trong một pháp giới mà khởi từ tâm thì đó không phải là phổ. Nay dựa vào pháp của mười pháp giới [để khởi từ tâm] thì còn không phải là phổ sao? Vì vậy nên gọi là pháp duyên từ Phổ..
b/2/1/3) VÔ DUYÊN TƯ
Thứ ba, vô duyên từ. Nếu dựa vào cái giả danh khác biệt của tánh tương của thập pháp giới thì cái giả này tức phi giả. Mười pháp giới như huyễn như hóa, không tức phi không. Phi giả nên không duyên cái tánh tướng của mười pháp giới. Phi không nên không duyên cái chân của mười pháp giới. Vì vậy nên không vướng vào hai bên, không trụ, không trước gọi là Trung đạo. Cũng không thể duyên vào Trung nên cứu cánh là thanh tịnh. Quán sát như vậy tuy không duyên vào Không hay vào Giả, tự tại chiếu soi cả hai bên, phát khởi vô duyên từ bi, cứu người thoát khổ từ hai cái khổ [của sinh tử] (---), ban cái lạc của trung đạo như nam châm hút sắt, dù là người không thọ giáo cũng tự nhiên tương ưng. Vô duyên từ bi hấp thụ căn cơ từ tam đế không sai lạc, Không cần khởi niệm nên gọi là vô duyên từ bi. Hành giả hãy tu từ bi này ngay ở những quả vị phàm (…), thì sẽ được nhập vào ngũ phẩm đệ tử vị(---). Quán hạnh vô duyên từ bi tiến vào vị thập tín vị (…), tương tự vô duyên từ bi vào thập trụ vị(…), lúc đó mới gọi là phần chứng (…)vô duyên từ bi, cho đến đẳng giác(118) gần đến từ bi cùng tột, hun đúc chúng sinh, bất động như gương sáng, vô niệm như nam châm tự nhiên hút được sắt nên gọi là vô duyên từ bi.
1)PHỔ MÔN
Đầy đủ tam đế nên gọi là phổ, thông suốt trung đạo nên gọi là môn.
b/2/2) HOÀNG THỀ PHỔ
Thứ hai hoằng thề phổ là gì?. Hoằng có nghĩa là quảng đại. Thệ nghĩa là [khống] chế. Nguyện có nghĩa là cầu.
Có nghĩa là chế ngự tâm để cầu pháp thù thắng nên gọi là hoằng thệ. Căn bổn của hoằng thệ là từ bi mà từ bi dính liền với khổ lạc. Hoằng thệ đi đôi với tứ đế.
Nếu thấy khổ đế bức bách khổ sở nên theo duyên phát khởi lời thệ ai chưa được độ thì sẽ được độ hết.
Nếu thấy cái điên đảo của tập đế khiến luân chuyển trong mê hoặc trói buộc sinh tử mênh mông không bờ bến thật là đáng thương nên khởi lời thề ai chưa được giải thoát sẽ được giải thoát.
Đạo thanh tịnh mà chúng sinh không biết. Người đi trên đường này có thể ra khỏi sinh tử đến nơi an lạc. Vì muốn chỉ cho chúng sinh đi vào con đường này nên nguyện rằng ai chưa được an thì sẽ được an, nơi diệt phiền não chính là Niết bàn. Những quả báo do các chủng tử sinh ra đã được đoạn trừ nên được hại loại Niết Bàn (…). Dựa vào điều này mà khởi lời thề rằng ai chưa được Niết Bàn thì sẽ được Niết Bàn.
Cái nhân của sinh tử thì khó biết, cái quả khổ thì đễ biết nên nói quả trước, nói nhân sau. Cái diệu lý của Niết bàn là thiện phương tiện nên nói nhân trước quả sau.
Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Không hiểu cách biến chế sữa thì khó có nước hồ, nói chi đến sinh tô và đề hồ”. Bốn ý nầy cũng một đường mà thôi. Chỉ vì tâm mê mà khởi nghiệp, nghiệp liền đưa đến quả. Nếu muốn biết nguồn gốc quả thì phải biết nhân tập của quả.
Chế ngự tâm dừng nghiệp tức vòng luân hồi của sinh tử sẽ bị hoại, điều phục được phiền não thì đó là đạo. Tu hành không giải đãi, chịu khổ và nhẫn nại thì cái sáng sẽ phát ra. Quả đều đoạn tận, chứng được vô sinh đó gọi là diệt. Tuy có bốn cái khác nhau nhưng thực ra chỉ là một niệm, nào phải pháp gì khác đâu. Tứ đế là vậy thì hoằng nguyện cũng như vậy.
Tiếp theo nói về phổ và bất phổ. Nếu phàm phu không thích những điều thấp, chỉ thích với những điều cao, nếu theo như vậy để lập thề nguyện thì không thể gọi là phổ. Nhị thừa thấy tam giới như nhà lửa nên sợ mà tu đạo, lối nhìn này là phần đoạn tứ đế thì cũng không phải là phổ. Trong Biệt giáo trước là phần đọan, sau là biến dịch thì cũng không phải là phổ. Trong Viên giáo, Bồ tát có thể chiếu tất cả khổ tập diệt đạo trong một tâm, biết tất cả kiến ái của phàm phu tức là cái tập đế của hữu tác [tứ đế] (…). Nhị thừa chấp không tức là cái tập đế của vô tác [tứ đế] (…). Vì vậy nên kinh Tịnh Danh nói: “Pháp gọi là vô nhiễm, nếu pháp nhiễm thì gọi là nhiễm pháp thì đó không phải là cầu pháp”. Kinh lại nói rằng: “Vì kết tập chưa hết nên hoa còn vướng vào thân”, tức là cái mê hoặc biến dịch(…) chưa được tẩy trừ. Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Các tỳ khiêu tại Đại thừa chưa vì chánh pháp mà trừ phiền não, đó là tập của vô tác [tứ đế]”. Cho đến cái ái thuận theo đạo pháp mà sinh ra thì cũng còn là cái tập của vô tác [tứ đế], cái tập này gọi là tập biến tri(…).
Cái khổ biến tri là gì? (…). Vì có tập nên kéo theo khổ báo. Cái tập hữu tác [tứ đế] thì kéo theo phần đoạn khổ.
Cái tập vô tác [tứ đế] kéo theo biến dịch khổ tức cái biết về khổ đế. Biến tri là đạo diệt dùng để đối trị khổ tập. Theo ngũ giới thập thiện không động không xuất. Tứ đế thập nhị nhân duyên trong nhị thừa thông đến hữu dư và vô dư Niết bàn.
Thông giáo cũng như vậy. Biệt giáo trải quả từng bước một thì mới đến chỗ thường trụ, không thể tại một đạo mà có được vô lượng đạo nên không gọi là phổ đạo.
Viên giáo trung đạo tức là thật tướng. Kinh Quán Phổ Hiền nói: “Cái nhân của Đại thừa là thực tướng của chư pháp”. Nếu tu như vậy tức là tu theo viên nhân nên gọi là phổ đạo, đắc được Niết bàn, đó mới là cứu cánh thường trụ. Tất cả phiền não vĩnh viễn không còn, ví như một tai kiếp về hỏa hoạn thiêu không còn di tích gì cả nên gọi là phổ diệt. Quán tứ đế như vậy thì chu toàn. Vì vậy dựa vào cái tứ đế mà phát thệ nguyện thì sao lại không đi khắp nơi nơi, vì vậy nên gọi là hoằng thệ phổ. Nếu dùng cách quán đức tánh của mười pháp giới để tu thiện ác thì lời nguyện đó có thể nói là phổ hoặc bất phổ, từ đó trở thành một bàn luận rất rộng. Nói về tứ đế thì có khác, nhưng nếu dùng ở đây thì cũng đúng thôi.
b/2/3) TU HÀNH PHỔ
Thứ ba, nói rõ về tu hành phổ. Trước hết nói rõ tu hành theo thứ đệ, sau nói rõ về tu hành không theo thứ đệ. Tất cả đều giảng đầy đủ trong kinh Vô Lượng Thọ.
b/2/4) ĐOẠN HOẶC PHỔ
Thứ tư, đoạn hoặc phổ là gì?.
Nếu tùng Giả nhập Không thì dừng lại ở chỗ tứ trụ đoạn hoặc, vì vậy nên hoa vẫn vướng trên thân, chánh pháp nay chưa trừ các phiền não, chỉ lìa hư vọng chưa được hoàn toàn giải thoát.
Nếu tùng Không nhập Giả dừng lại ở chỗ trừ trần sa hoặc, không nương căn bản mà đoạn thì cũng không phải là phổ.
Nếu thấy Không và Giả bất nhị chánh quán trung đạo, khi đã bứng gốc thì cành tự úa tàn như lật ngược đại địa thì cây cỏ phải chết hểt nên gọi là đoạn hoặc phổ.
b/2/5) NHẬP PHÁP MÔN PHỔ
Thứ năm, nhập pháp môn phổ. Nhị thừa chỉ vào được một pháp môn, không thể vào hai pháp môn, huống chi là vào được nhiều pháp môn.
Nếu tu từng bước một từ dễ vào khó thì ta chỉ biết một pháp môn này, không thể biết các pháp khác còn lại thì không phải là phổ cập.
Nếu vào được vương tam muội (…) thì tất cả đều có ở trong đó. Thí dụ như khi vua đến thì các tùy tùng theo cùng. Những tùy tùng này lại mang theo tùy tùng của riêng họ. Vương tam muội cũng như vậy. Vào tam muội này, thì tất cả các tam muội khác đều ở trong đó. Đó là tam đế tam muội. Tam đế tam muội lại có rất nhiều pháp môn như là quyến thuộc cũng đều nhập vào trong vương tam muội nên gọi là vào pháp môn phổ cập.
b/2/6)Thần thông phổ
Lục thần thông phổ là gì?. Nếu đại la hán có thiên nhãn thấy được đại thiên [thế giới], Bích Chi Phật thấy trăm Phật độ, Bồ tát thấy hằng sa Phật độ, cái thấy này vẫn là cái thấy có hạn lượng, thần thông này chưa gọi là phổ. Tại sao vậy?
Vì duyên theo cảnh thì hẹp hòi nên phát ra thần thông cũng nhỏ. Nay Viên giáo Bồ Tát duyên theo cảnh trong mười pháp giới, phát thần thông có thể thấy được mười pháp giới vô hạn. [Người học theo] Tam thừa chưa biết được hết tên của các pháp giới này nói chi thấy được cảnh giới của nó. Tầm mắt thấy thì đã như vậy, có thể hiểu rằng các việc khác cũng sẽ như vậy. Diệu thần thông(---) phải được thuyết rộng.
b/2/7)PHƯƠNG TIỆN PHỔ
Thứ bảy, phương tiện phổ là gì?. Tiến hành phương tiện gọi là đạo tiền phương tiện. Khởi dụng phương tiện là đạo hậu phương tiện.
Nay nói về đạo hậu phương tiện. Nếu nhị thừa và các tiểu Bồ tát làm các phương tiện, chỉ vào một pháp môn. Nếu muốn hóa tha để [tha nhân cũng] được như mình, mà khởi được cái dụng hóa vật, đạo tiền đạo hậu cũng đều không phải là phổ.
Bồ Tát Viên giáo lấy nhị đế làm phương tiện, bao gồm tất cả phương tiện, nhập trung đạo song chiếu nhị đế. Nhị đế thần biến khắp mười pháp giới mà pháp thân không tổn giảm đạo tiền đạo hậu đều gọi là phổ.
b/2/8)THUYẾT PHÁP PHỔ
Thứ tám, thuyết pháp phổ là gì?. Khi Nhị thừa tiểu Bồ Tát thuyết pháp thì không thể cùng một lúc đối ứng với tất cả âm thanh, lại còn thêm nhiều phong tục khác nhau thì không thể khiến mọi người đều hiểu. Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Câu-hi-la tại pháp Thanh Văn có bốn biện tài vô ngại tối cao nhưng chưa phải là Bồ Tát”. Nay người tu theo Viên giáo dùng nhất âm(---) diễn pháp, tùy theo loại mà được giải và được hiểu. Một diệu âm thông khắp mười pháp giới, như cây đàn của A tu la(---) tùy ý người mà phát ra âm thanh nên gọi là thuyết pháp. Diệu thuyết pháp(---) là [đề mục] nói rộng.
b/2/9)CÚNG DƯỜNG CHU PHẬT PHỔ [lại chia làm hai: b/2/9/1) Sự giải, b/2/9/2)Lý giải]
Thứ chín, cúng dường chư Phật phổ thì chia làm hai phần. Một là sự, hai là lý.
b/2/9/1) SỰ GIẢI
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Không chỉ cúng dường một Phật, một Phật độ mà là cúng dường chư Phật nhiều như vi trần, cho đến cúng dường bất khả thuyết bất khả thuyết chư Phật.” Không thể khởi diệt định (…) mà hiện các uy nghi. Tọa thiền, chắp tay tán thán các pháp vương, lấy thân mạng và tài vật để cúng dường khắp cả mười phương ví như mây mưa cúng dường chư Phật.
b/2/9/2) LÝ GIẢI
Lý giải là: Cái tâm của chánh quán trong trí Viên giáo gọi là giác. Giác tức là Phật. Công đức từ vạn hạnh huân tập vào trí này gọi là nhất thiết trí. Tu công đức để nuôi dưỡng trí này tức là nuôi dưỡng nhất thiết trí. Kinh Tịnh Danh nói: “Lấy một miếng ăn bố thí cho tất cả nên nói là cúng dường tất cả chư Phật”.
b/2/10) THÀNH TỰU CHÚNG SINH PHỔ
Thứ mười, phổ thành tựu chúng sinh là gì? Thí dụ như ánh sáng con đom đóm, anh sáng đèn, ánh sáng trăng sao không soi sáng được bao nhiêu. Khi ánh mặt trời chiếu thế gian thì tất cả cây cỏ rừng núi sinh trưởng đơm hoa kết trái. Ngoại đạo ví như ánh sáng loài đom đóm, nhị thừa như ánh sáng ngọn đèn, Thông giáo như sao, Biệt giáo như trăng, sự thành tựu cũng như thế.
Nay thánh nhân của Viên giáo với trí tuệ từ bi có thể thấm nhuần lợi ích vô hạn lượng cả hai mặt ẩn và hiện. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Bồ tát không chỉ vì một chúng sinh, vì một quốc độ hoặc vì một nhóm chúng sinh mà phát bồ đề tâm mà vì bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật, và chúng sinh ở các quốc độ nhiều như vi trần mà phát bồ đề tâm”, cùng lúc đưa đến lợi ích bình đẳng khắp nơi ví như một cơn mưa lớn cùng lúc tưới tẩm bốn phương nên gọi là thành tựu chúng sinh phổ. Nghĩa Phổ Môn thì vô lượng, vô biên, không cùng tận sánh như những điều nói trong kinh Tịnh Danh không thể thọ trì tận cùng hết được. Nay đối với ba hiệu của Quán Thế Âm phổ môn, quán là giác, giác là Phật, thế là cảnh. Cảnh tức như thị. Phổ môn tức chánh biến tri. Ba nghĩa này không thể cùng tận. Nếu thấy được ý này thì đó là thuyết tự tại.
Nay dựa vào phẩm Phổ Môn này tìm đủ mười nghĩa của chữ Phổ, chứng được ở nơi đây.
Như Đức Quán Âm từ mẫn tứ chúng và ban cho chuỗi anh lạc, tất cả không cùng một tên gọi. Lòng mẫn có nghĩa xót thương, đây là từ bi phổ. Có từ bi mà vận dụng một cách rộng rãi thì có nghĩa hoằng thề khắp nơi. với nhiều hình tướng khác nhau, đi đến các cõi nước khác nhau để cứu độ chúng sinh, gọi là thanh tịnh Phật độ. Những việc trên nếu không là tu hành phổ thì là gì?. Tự mình không bị trói buộc nên có thể cởi bỏ trói buộc cho người. Tự mình không bị độc nên có thể giải độc cho người, chỉ cần xưng danh tức được giải thoát, đều là những lời đưa đến khắp nơi phải chăng là đoạn hoặc phổ. Phổ môn thị hiện tức là vào pháp môn phổ. Lực phương tiện là phương tiện phổ. Lực thần thông là thần thông phổ. Nếu thuyết pháp cho người thì gọi là thuyết pháp phổ. Giúp ích rất nhiều cho người tức thành tựu chúng sinh phổ. Chia làm hai phần(…) cúng dường hai Như Lai(…) tức cúng dường chư Phật phổ. Tất cả những ý nghĩa này đều có trong kinh văn nên tôi đưa ra dẫn chứng.
II) XUẤT THỂ
Thứ hai, giảng về thể. Lấy trí tuệ hợp với pháp thân thì là thể. Nhưng những kinh nói về ba thân thì chỉ lấy pháp thân là thể. Ở phẩm này thì lây hai thân, vì vậy dùng lý trí hợp với [pháp thân] để làm thể. Trí này là lý thật tướng. Tại sao vậy? Nếu trí này không có trí tuệ thật tướng thì nó ở [trong trạng thái] ẩn, gọi là Như Lai tạng. Nay biết quyền và thực, thật tướng và lý không phải là hai, chẳng qua chỉ như bên trái bên phải mà thôi. Cái nghĩa về thể của thực tướng nói rất nhiều về huyền nghĩa trong kinh Vô Lượng Thọ.
III) MINH TÔNG
Thứ ba, nói về minh tông, lấy cảm ứng làm tông. Cơ duyên trong mười pháp giới liên kết với nhau, đó là cái trí tịch chiếu cho nên có ích lợi cảm ứng trước sau. Nói về ích lợi thì rất rộng, nay chỉ nói thẳng về sự thu hoạch của cảm ứng như khi động đến các cương lĩnh thì làm di chuyển các đề mục của nó. Vì vậy dùng cảm ứng làm tông [yếu] nhưng phân này không làm như vậy.
Nhân quả là nói một cách chung, từ phàm phu ho đên [các thánh nhân] của thượng địa, tất cả đều có nhân quả, năng cảm và sở cảm đều do nhân quả mà ra. Lời kinh [của phẩm này] thì không nói rõ như thế. Trong cơ tuy có nhân quả nhưng gọi tên là cảm. Bậc thánh không lấy nhân quả chỉ lấy ứng mà gọi tên, tức dựa vào văn nghĩa như phương tiện mà thôi.
Cảm ứng có sáu nghĩa. A) Thứ nhất thích tên, B) Thứ hai giải thích về tướng, C) Thứ ba giải thích về sự dị đồng, D) Thứ tư, giảng về tương đối (…). E) Thứ năm, giảng về phổ hay không phổ. F) Thứ sáu, phân biện về quán tâm. Tất cả đều có trong kinh Vô Lượng Thọ.
Hỏi: “Nếu nói về cơ thì cơ do cái thiện vi tế sắp sinh. Cái ác vi tế sắp sinh thì có phải cũng là cơ không?”
Đáp: “Đương nhiên”.
Hỏi: “Cơ có thể là thiện mà cũng có thể là bất thiện. Nếu là thiện thì đâu cần cái cảm của thánh. Nếu chưa là thiện thì làm sao lại nói là cái thiện sắp sinh?”.
Đáp: “Tánh thiện ẩn kín như hoa sen trong bùn. Cái ứng của thánh nhân ví như mặt trời chiếu, [hoa sen] sẽ lộ diện.”
Lại hỏi: “Cơ là quán thì cái quán đó là thiện hay bất thiện?. Nếu là thiện thì đâu cần đến thánh nhân quán chiếu để thành thiện. Nếu không phải là thiện thì cớ sao cần thánh nhân quán chiếu để thành bất thiện. Phàm thánh rõ ràng có đâu liên hệ gì nhau?.”
Đáp: “Quán thiện là tại chỗ đại từ, quán ác thì tại chỗ đại bi nên gọi là tương quán”.
Hỏi: “Nếu nói một cách thích nghi thì cơ là người ứng quán cái dụng của cơ mà nói. Đó là giải thích cái nghĩa của cảm”.
Đáp: “Cái nắp tròn và cái đáy tròn phải hỗ tương một cách thích nghi”.
Hỏi: “Cái dụng của pháp thân phải ứng với cái dụng của ứng thân. Ứng thân thì vô thường tức là vô ứng. Pháp thân nếu có ứng thì tức là không phải là pháp thân?.
Đáp: “Pháp mà nói là thân thì tại sao không nói là ứng. Ứng thân mà đã gọi là ứng thì sao bảo là không ứng. Nên đều có đầy đủ ứng cả”.
Lại hỏi: “Cảm ứng là một hay là khác nhau? Nếu là một lần cảm thì một lần ứng, như thế tức phàm thuận thánh. Nếu khác thì không tương quan với nhau”.
Đáp: “Luận về cảm ứng thì không một cũng không khác”.
Hỏi: “Cảm ứng là hư hay thật?. Nếu là thật thì phàm phu là thật. Nếu là thật thì làm sao có thể biến hóa được. Nếu là hư, thì cái hư hóa ra cái gì”?.
Đáp: “Cứ như vậy mà hóa”.
Hỏi: “Thánh nhân là người được cảm, phàm phu là người có thể cảm. Thánh nhân là người có thể ứng. Phàm phu là người được ứng. Sở cảm không phải là cảm, sở ứng không phải là ứng. Làm sao lại nói là cảm ứng đạo giao?”.
Đáp: “Sở cảm thật sự là vô cảm, chỉ theo cái cảm mà gọi là sở cảm. Nói thánh nhân là sở cảm, cái sở ứng thật sự là vô ứng, chỉ theo cái ứng đó mà gọi tên là sở ứng nên nói phàm phu là sở ứng, còn sở cảm là ứng năng, ứng năng là sở cảm.
Cũng như vậy ứng sở là cảm năng, cảm năng là ứng sở vì không có cảm ứng nào là thật, cũng không có cảm ứng nào khác nhau, tuy không khác mà khác. Thánh không có sở cảm nhưng mắt nhìn thấy thì có thể ứng. Phàm nhân thì không ứng nhưng mắt nhìn thì có cảm cho nên nói là cảm ứng đạo giao. Lời này nói riêng thì thật khó. Thật ra cảm ứng không có gì khác biệt. Nếu thánh mhân không có năng cảm, kẻ phàm không có năng ứng. Vì sao không nói là thánh nhân không có năng ứng và kẻ phàm không có năng cảm. Nếu như vậy thì phàm thánh không có gì khác nhau. Nếu không như vậy thì cảm ứng là khác nhau, cớ sao lại nói là không khác?
Lại cảm năng là cái thật của vô cảm năng, gọi tên là cảm năng, tại sao không gọi nó là ứng năng? Nếu ứng sở không thật thì tại sao không gọi là cảm sở? Nếu như trên thì không có cảm ứng giữa phàm và thánh. Nếu không phải như trên tức là có sự khác biệt thì tại sao lại nói là không có khác biệt. Lại khó hơn, nếu lấy cảm năng làm ứng sở, và lấy cảm sở làm ứng năng, thì tự nó sinh ra nghĩa rồi.
Nếu năng ứng chỉ là sở ứng, năng cảm chỉ là sở cảm, như thế còn là tự sinh nghĩa? Nếu ứng năng sinh ra ứng sở, cảm năng sinh ra cảm sở, năng cảm sinh ra sở cảm, sở cảm sinh ra năng cảm. Năng ứng sinh ra sở ứng, sở ứng sinh ra năng ứng, tất cả đều là từ chỗ khác mà sinh ra thì đâu phải là nghĩa của tha tánh. Nếu là cộng sinh tức là rơi vào hai cái sai lầm(..). Nếu rời hai cái sai lầm trên thì rơi vào cái vô nhân sai lầm(..)
Hỏi: “Nếu như thế thì không có cảm ứng ?”.
Đáp: “Thánh nhân lấy bình đẳng vô trụ pháp nên không trụ ở cảm, lấy tứ tất đàn tùy cơ mà ứng”.
Hỏi: “Cái thiện của vọng chấp có thể cảm được không?”.
Đáp: “Vọng chấp là ác cũng còn được cảm”.
Hỏi: “Vọng chấp không phải là một, ứng cũng là hai?”
Đáp: “Ứng vốn không hai vì duyên mà có tác dụng.
Hỏi: Phàm thì gọi là phàm phu. Thiện tức là đưa đến vui, ác tức là cảm nổi khổ. Thánh gọi là chánh.
Chánh tức là phi thiện, phi ác, phi khổ phi lạc. Thiện ác là như vậy, tại sao lại có thể cảm cái ở giữa phi thiện, phi ác?”.
Đáp: “Cái từ bi của bậc thánh chính là vượt ra ngoài thiện ác, và để đưa vào cái chánh của phi thiện phi ác, nên có cảm ứng.
IV) BIỆN DỤNG
Thứ tư, lấy từ bi lợi vật làm chỗ dụng công.
Hỏi: “Hai trí không đủ để dùng sao?”.
Đáp: “Hai trí được nói tổng quát ở đây, còn nói riêng thì ở phần phụ lục.
Để hiểu rõ sự ích lợi ẩn và hiện nên nói về cái dùng ở đây. Ổ chỗ khác có thể giải thích rằng cái ích lợi của pháp thân ẩn tàng là thường. Ứng thân tạm thời xuất hiện sau lại biến đi thì là vô thường. Nay giảng rõ Pháp Thân là thường tịch nhưng hằng chiếu, lý này là như thế.
Ứng thân lợi ích khắp nơi mà không bao giờ nhưng chỉ, cũng có nghĩa là thường. Nếu nói rằng có ứng hay không có ứng thì cũng là vô thường.
Pháp thân cũng là có ích cũng là vô ích nên phải biết cũng có thường và vô thường, có ẩn có hiển
như nhật nguyệt khi tròn khi khuyết. Như Lai luôn lấy thường, vô thường, cả hai pháp để hun đúc cho chúng sinh nên nói là hai con chim bay chung với nhau(…). Nên gọi là Thường và Vô thường là như vậy.
Ví như trồng trọt phải nhờ gió mưa, mặt trời bên ngoài, cần hơi đất sưỡi ấm bên trong nhờ vậy vạn vật tăng trưởng. Hai ích lợi cả ẩn lẫn hiện thì cũng như vậy. Trong đó ứng dụng vương tam muội mười lần phá bỏ 25 cõi.
Để biện biệt cái dụng của từ bi làm lợi vật có giảng đầy đủ trong huyền nghĩa kinh Vô Lượng Thọ.
Hỏi: “Đức Quán Âm lợi vật rộng lớn như vậy thì đã đủ để thành Phật. Tại sao cứ là Bồ Tát?”.
Đáp: “Ở đây thì khó hiểu nhưng trong kinh có hai thuyết. Kinh Quán Âm Thọ Ký nói rõ Đức Quán-Âm và Đức Thế Chí đắc như huyễn tam muội chu du mười phương để hóa độ vạn vật. Như Sư Tử Kim Quang xưa kia du hí tại cõi nước Như Lai Quốc Vương (…) tên Uy Đức, biến hóa và sinh ra hai người con.
Người bên trái tên là Bảo Ý, tức Đức Quán Âm. Người bên phải tên là Bảo Thượng tức Đức Đại Thế Chí. Chư vị đến hỏi Phật làm sao cúng dường thù thắng. Phật đáp rằng phải phát Bồ đề tâm. Chư vị liền theo Như Lai sơ phát bồ đề tâm. Sau khi Đức Phật A Di Đà thành Phật thì hai vị này cũng thành chánh giác. Ngài Quán Âm có danh hiệu là Phổ Quang Công Đức Sơn Vương. Ngài Thế Chí có hiệu là Thiện Trụ Công Đức Bảo Vương.
Lại trong kinh Như Lai Tạng có nói rằng chư vị Quán Âm, Văn Thù đều chưa thành Phật, nếu như kinh Quán Âm Tam Muội nói trước đã thành Phật hiệu Chánh Pháp Minh Như Lai.
Đức Thích Ca là đệ tử khổ hạnh của Phật ấy. Hai đoạn văn này nghịch nghĩa nhau thì phải giảng như thế nào? Phải biết đó chỉ là dùng Tứ Tất Đàn để hóa vật, đừng cho là thật mà tìm cầu.
V) GIÁO TƯỚNG
Thứ năm, nói rõ về giáo tướng.
Các bộ kinh thuyết về Đức Quán Âm thì rất nhiều như Thỉnh Quán Thế Âm, Quán-Âm Thọ Ký, Quán-Âm Tam Muội, Quán-Âm Sám Hối, hoặc là Đại Bi Hùng Mãnh Quán Thế Âm v.v.. các kinh không giống nhau. Nay bản lưu truyền đây là 1530 lời từ một phẩm của kinh Pháp Hoa tách riêng để lưu truyền do chính pháp sư Đàm Ma La Sấm (…) cũng có hiệu là Y Ba Lặc Bồ Tát du hóa ở Thông Lĩnh (…) rồi đến Hà Tây(…). Vua đất Hà Tây là Tự Cừ Mông Tốn quy mạng chánh pháp và có bệnh nên nhờ pháp sư cứu giúp. Sư nói: “Đức Quán Thế Âm có duyên với đất này. Hãy tụng niệm ngài thì khổ hoạn tiêu trừ”. Nhân đó phẩm này lấy riêng ra và lưu truyền bên ngoài. Phẩm này là phẩm trong phần lưu thông của kinh Pháp Hoa. Vì lưu truyền nên là giáo pháp khai quyền hiển thực, khiến hai sự ích lợi ẩn và hiện này làm lợi cho tương lai, lấy cái thân viên dung để ứng với tất cả mười pháp giới khiến được giải thoát.
Người tu theo Viên giáo nắm pháp viên toàn nên có thể lưu thông giáo pháp Viên giáo, tức là tướng lưu thông của Viên giáo. Nói về ngũ vị thì đây là lưu thông vị đề hồ (…).
Hỏi: “Kinh văn nói rằng cái lực của phương tiện mỗi mỗi khác nhau, nếu có nói thì cái ứng cũng khác nhau, làm sao được tướng của Viên giáo?”.
Đáp: “Người có thể tùy cơ của các pháp giới để diễn giảng một cach viên dung, rộng rãi đó là viên giáo. Cơ tuy khác nhau nhưng không thể ngăn cản người mang pháp tùy cơ ứng biến như Phật tuy tại nhất thừa lại phân biệt thuyết thành tam thừa. Đâu có thể nói là Phật chỉ là Thanh văn hay Duyên giác? Lại nói thêm rằng nếu có người tin sâu hiểu rộng mà vì thuyết kinh này.
Nếu người không tin vào pháp thâm sâu này, không tin vào cái lợi cái hỷ của pháp này hiển thị nhưng phụng trì yếu chỉ của Phật để viên dung ứng phó với vạn cơ duyên, tất cả các sự khác biệt này chỉ là [một hình thức của] viên giáo lưu thông”.
Lại hỏi: “Người có thể thuyết viên mãn thì giáo của họ cũng viên mãn. Căn cơ người tu hành có khác nhau như vậy họ thuộc giáo nào?”.
Đáp: “Nếu vốn là biên giáo [khác với viên] thì tức là giống như giáo pháp của Lộc Uyển. Nếu vốn là căn cơ viên giáo thì ứng cũng viên mãn. Thứ nhất, trong thời Lộc Uyển, Phật chưa lộ cái Bản ra để hiển cái Tích, không đưa ba thừa vào một thừa nên người và pháp chưa viên mãn. Phương tiện đó không thể nói là viên mãn. Nay kinh khai quyền hiển thực tuy có nhiều loại thân, bản tích không thể nói là không phải một. Tuy thuyết nhiều pháp để khai viên đạo, ý nghĩa không phạm lỗi.”
Hỏi: “Đoạn văn trên nói chánh trực xả bỏ phương tiện. Theo lời này đâu có nói đến phương tiện?”
Xin trả lời: Vì [đoạn văn trên đang nói về] hiển thực nên nói là xả bỏ [quyền]. Ở đây là vì dựa vào [thuyết của] “ Trung Luận” để thị hiện, thể và dụng bất tư nghị là một mà thôi
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.15.195.18 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.