Như bông hoa tươi đẹp, có sắc nhưng không hương. Cũng vậy, lời khéo nói, không làm, không kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 51)
Người thực hành ít ham muốn thì lòng được thản nhiên, không phải lo sợ chi cả, cho dù gặp việc thế nào cũng tự thấy đầy đủ.Kinh Lời dạy cuối cùng
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê.Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hèn.Kính Pháp Cú (Kệ số 29)
Không trên trời, giữa biển, không lánh vào động núi, không chỗ nào trên đời, trốn được quả ác nghiệp.Kinh Pháp cú (Kệ số 127)
Nay vui, đời sau vui, làm phước, hai đời vui.Kinh Pháp Cú (Kệ số 16)
Người hiền lìa bỏ không bàn đến những điều tham dục.Kẻ trí không còn niệm mừng lo, nên chẳng bị lay động vì sự khổ hay vui.Kinh Pháp cú (Kệ số 83)
Ai dùng các hạnh lành, làm xóa mờ nghiệp ác, chói sáng rực đời này, như trăng thoát mây che.Kinh Pháp cú (Kệ số 173)
Kẻ làm điều ác là tự chuốc lấy việc dữ cho mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Những người hay khuyên dạy, ngăn người khác làm ác, được người hiền kính yêu, bị kẻ ác không thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 77)
Với kẻ kiên trì thì không có gì là khó, như dòng nước chảy mãi cũng làm mòn tảng đá.Kinh Lời dạy cuối cùng

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Niệm Phật Tam Muội Bảo Vương Luận [念佛三昧寶王論] »» Bản Việt dịch quyển số 3 »»

Niệm Phật Tam Muội Bảo Vương Luận [念佛三昧寶王論] »» Bản Việt dịch quyển số 3


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Việt dịch (2) » Việt dịch (3) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Niệm Phật Tam Muội Bảo Vương Luận

Kinh này có 3 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | 2 | Quyển cuối
Việt dịch: Định Huệ

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

MÔN THỨ XIV
NIỆM PHẬT QUÁ KHỨ NHÂN QUẢ TƯƠNG ĐỒNG

Hỏi: Ý nghĩa uyên áo của sự niệm Phật hiện tại chuyên chú một cảnh đã được nghe Ngài dạy rồi. Đức Phật được niệm là bậc đã đạt đến chỗ tột của đạo nên được tôn xưng là Như Lai, còn người niệm Phật là kẻ mới phát tâm vào đạo, hãy còn ở địa vị phàm phu, đâu được trộm nói là đồng Chánh Giác.
Đáp: Kinh Tam-muội Hải nói: Đức Phật được niệm như sư tử vương đã ra khỏi thai, dụ cho quả Phật, còn người niệm Phật như sư tử vương còn ở trong thai, dụ cho Phật tử. Nhân quả tuy sai khác nhưng oai thần liên hệ với nhau, vì luận về tánh Phật thì đâu có chi sai khác. Muốn sư tử vương còn ở trong thai gầm rống làm cho chim chóc sợ hãi rơi xuống, muông thú trốn chạy thì chưa thể được. sau khi ra khỏi thai, có thể kiểng chân mà chờ, đâu có lỗi gì? Song cái nghĩa nhân quả tương đồng là một vậy.
Kinh Pháp Cổ nói: “Vua Ba-tư-nặc cùng nước địch giao chiến, vua bị trúng tên độc đau đớn không chịu được. Vua nghe nói có thứ thuốc hay tên là tiêu độc vương dùng bôi lên mặt trống, rồi đánh trống lên khiến cho tên độc theo tiếng trống vọt ra ngoài. Nhà vua làm theo và được bình phục. Nếu người nào nghe được danh hiệu đức Phật Thích-ca Mâu-ni và danh hiệu bậc tỳ-kheo thâm tín kinh Phương Quảng thì đủ khiến cho mũi tên ba độc trong thân vọt ra ngoài, vì thế kinh này được gọi là Đại Pháp Cổ”. Đức Thích-ca là Phật quá khứ tức là quả. Bậc tỳ-kheo thâm tín kinh Phương Quảng là nhân, mà sự diệt trừ tội chướng đồng nhau, ý nghĩa chỉ là một vậy.
Hai kinh này nói tuy chưa đến bậc cực quả mà người khác nghe danh hiệu còn được sự lợi ích đồng như nghe danh hiệu chư Phật không khác. Do đó trong quyển thứ năm của bộ Pháp Hoa Tam-muội Sư Tư Truyện có ghi: Đời Tùy, đại thiền sư Huệ Tư ở núi Nam Nhạc có người đệ tử là thiền sư Đại Thiện đắc được Từ bi Tam-muội. Bấy giờ, ở Hoành Dương có quan nội sử Trịnh Tăng Kiểu vốn không phải là người tin Phật sâu, mở hội đi săn, ông vây bắt được vài mươi con nai và bảo Trần Chánh Nghiệp rằng: “Ngài thường nói thiền sư Đại Thiện có sức từ bi, ông ta làm thế nào đối với bầy nai này?” Chánh Nghiệp đốc xuất những người bên cạnh mình đồng xưng một tiếng “Nam-mô Đại Thiện Thiền sư”, lúc đó bầy nai liền bay lên không mà thoát, xem thế, có khác nào thần lực của Quán Thế Âm. Đại Thiện cùng với ngài Trí Giả là hai người nổi tiếng đương thời. Nếu không khinh thường lời Thánh nhân thì niệm Phật tam-muội sẽ trừ được ma, dứt được họa, cũng như kim loại được tinh luyện trong lò, sự chuyển biến ngày đêm không ngừng vậy.
MÔN THỨ XV
VÔ TÂM NIỆM PHẬT, LÝ SỰ SONG TU

Hỏi: Viên niệm chư Phật ba đời hoặc chuyên day mặt về một hướng, tôi đã được nghe ý nghĩa u huyền, song đều có niệm, có nhớ, có sanh, có diệt thì đâu thể đồng với ý chỉ “Dùng tâm vô sở niệm mà tu niệm Phật” của kinh Thắng Thiên Vương Sở Vấn.
Đáp: Lời nói vô niệm, như nhiều người vì không xét xem kỹ lưỡng nên dễ bị lầm. Nay chúng ta thử đem lý sự biện luận. Nói lý môn là nói chân vô niệm. Giải thích rằng: Có cùng với không, chính là cái niệm này mà nó vốn là không. Vì sao? Vì Phật từ tâm sanh, tâm tức là Phật. Như dao không tự cắt dao, ngón tay không tự sờ lấy nó, Phật đã không tự là Phật, tâm cũng chẳng tự là tâm thì đâu có thể ngoài Phật lập tâm, ngoài tâm lập Phật, Phật đã không có, há tâm lại có sao? Ý nghĩa của vô tâm niệm Phật được giải rõ ràng rồi.
Nhiều người nói niệm Phật là hữu niệm, còn tôi cho rằng niệm Phật là vô niệm. Niệm chính là “không” đâu được cho là “hữu”, chẳng phải niệm diệt mới thành không, đâu được cho là “vô”. Tánh của niệm tự không, đâu được cho là “sanh diệt”. Lại “tâm vô sở niệm” đó là “ưng vô sở trụ”, “mà tu niệm Phật” đó là “nhi sanh kỳ tâm”. Lại “tâm vô sở trụ” đó là “tòng vô trụ bổn”, “mà tu niệm Phật” đó là “lập nhất thiết pháp”. Lại “tâm vô sở niệm” đó là “niệm tức thị không”, “mà tu niệm Phật” đó là “không tức thị niệm”([20]), ý chỉ chẳng khác, đây là thuyết minh trung đạo vậy.
Song tịch là chỉ, song chiếu là quán. Định huệ không đồng đều thì chẳng chánh thọ, làm sao có thể gọi là tam-muội. Chiếu mà thường tịch tức là “tâm vô sở niệm”, tịch mà thường chiếu tức là “mà tu niệm Phật”. Đức Như Lai chứng chánh định tịch chiếu là vị cứu cánh của niệm Phật tam-muội. Do đó, tam-muội này có thể làm phát sanh Thủ-lăng-nghiêm Vương Sư Tử Hống Định. Như bài kệ phá tướng trong kinh Bồ-tát Niệm Phật Tam-muội nói:
Niệm Phật thân sắc vàng
An trụ tâm vô trước
Ngẫm pháp gì là Phật?
Nhiếp tâm quán sát luôn
Sắc vàng không phải Phật
Bốn ấm sau cũng vậy.
Lìa sắc chẳng phải Phật
Người quán sắc nên biết
Đây là chỗ tối thắng
Tịch tịnh của Như Lai.
Khéo hay diệt tất cả
Tà kiến của ngoại đạo
Như Long Vương giáng mưa
Nhuần thấm khắp tất cả.
Kinh này nói lục độ, vạn hạnh chưa có một hạnh nào chẳng phải là niệm Phật tam-muội.
Hỏi: Lý môn đã giải thích xong, xin Ngài chỉ dạy sự môn để người học được chân vô niệm hợp với Bát-nhã ba-la-mật hầu mở rộng thiền định sâu xa Đại thừa vô tướng.
Đáp: Lý cùng với sự cách nhau là bao! Đoạn trước thuyết minh lý tức sự, đoạn này nói sự tức lý. Kinh Đại Phẩm Bát-nhã nói: “Phật vì kẻ độn căn mà nói các pháp là không tịch, vì hạng người này hay chấp trước. Phật vì người lợi căn mà nói tướng hảo của chư Phật vì biết họ như hoa sen không nhiễm trần”. Vì thế. Ngài Tu-bồ-đề trong hàng Tiểu thừa là người Giải Không đệ nhất, không danh không tướng, mà đến khi được thọ ký thì hiệu là Danh Tướng Như Lai. Nếu ngài Tu-bồ-đề không phải là bậc Đại thừa thì còn sợ bị sắc, thanh, hương, vị, xúc khuấy nhiễu, trốn tránh chưa xong, thì đâu dám dạo chơi trong vườn danh tướng. Nhưng vì Ngài đã đạt danh tướng nên mới được Phật thọ ký.
Nói sự môn là nói Phật sanh nơi tâm, Bát-chu không niệm mà đã đến; muôn cảnh đều từ tâm mình sanh, Pháp Hoa không bao lâu sẽ tự đạt. “Tâm vô sở niệm” tức là dứt các loạn tưởng, “mà tu niệm Phật” tức là khéo tưởng một đức Phật. Kinh Văn-thù Sở Thuyết Ma-ha Bát-nhã nói: “Như người học bắn tên, luyện tập lâu ngày sẽ giỏi, sau đó tuy vô tâm mà bắn vẫn trúng. Nếu người nào muốn nhập Nhất Hạnh Tam-muội, nên tùy theo phương của đức Phật, day mặt về hướng ấy mà xưng danh hiệu, niệm niệm nối nhau tức thì trong một niệm được thấy chư Phật ba đời, như người tập bắn kia sau khi đã tập thuần thục, vô tâm vẫn bắn trúng”. Chẳng phải vô niệm hay sao? Thế nên kinh Phương Đẳng nói: “Khăng khăng niệm không ngừng thì Phật sẽ hiện ra”. Kinh Anh Lạc nói: “Đạo là nhất tâm, nhiều tưởng không phải là Đạo”. Kinh Tọa Thiền Tam-muội nói: “Bồ-tát tọa thiền không tưởng niệm tất cả pháp khác, chỉ niệm một đức Phật như núi Tu-di vàng ở giữa biển rộng trong mát, nhẫn đến các công đức pháp thân cũng niệm như vậy”.
Hỏi: Nếu bảo vô niệm là tam-muội, sao không đi thẳng vào vô niệm, mà phải quanh co dùng đến niệm?
Đáp: Kinh Lăng-già nói: “Dùng chốt để tháo chốt”. Ngạn ngữ nói: “Sai giặc đi bắt giặc”. Nay dùng niệm để dừng niệm, không được hay sao? Huống chi khi niệm thuần thục rồi, không lo vô niệm mà vô niệm vẫn tự thành, chẳng cần phải phí sức. Như kiếm khách múa kiếm, đang múa bổng tra kiếm vào vỏ sau lưng mà vẫn không chút trở ngại. Như tên đầu bếp nhà nghề vung dao mổ trâu mà tiếng dao hòa cùng tiếng múa của rừng dâu. Đó rõ ràng đều là do sự thuần thục. Cho nên Luận Khởi Tín nói: “Nếu biết tuy thuyết mà không có năng thuyết khả thuyết, tuy niệm mà không có năng niệm khả niệm thì được gọi là tùy thuận. Nếu ly nơi niệm, được gọi là đắc nhập”. Đắc nhập tức là Chân như tam-muội. Huống chi ngôi vị Vô niệm ở bậc Diệu giác, vì bậc ấy liễu ngộ cái tướng của tâm mới bắt đầu sanh, nên nói rằng sơ tướng là chỗ vô niệm, không phải là chỗ hiểu biết của hàng Bồ-tát Thập Địa. Nay người chưa đến địa vị Thập Tín mà không y theo Đại sĩ Mã Minh dạy từ thuyết nhập vào vô thuyết, từ niệm nhập vào vô niệm thì nào có khác chi sùng mộ cái đài cao mà khinh chê sự nhóm đất đắp nền, cầm ngược chiếc áo để tìm bâu, có thể được ư?
Kinh Thủ-lăng-nghiêm chép: “Ngài Đại Thế Chí pháp vương tử cùng 52 vị Bồ-tát đồng hạnh từ chỗ ngồi đứng dậy lễ chân Phật, rồi bạch Phật rằng: Con nhớ lại hằng hà sa số kiếp về trước có Phật xuất hiện hiệu là Vô Lượng Quang, mười hai đấng Như Lai tiếp nối, vị Phật cuối cùng là Siêu Nhật Nguyệt Quang. Đức Phật ấy dạy con môn niệm Phật tam-muội. Ví như có người luôn luôn nhớ, còn một người luôn luôn quên, hai người ấy dù gặp nhau hay không gặp cũng chẳng thấy biết nhau. Nếu hai người cùng nghĩ đến nhau, sự nghĩ nhớ càng sâu xa, như vậy từ đời này cho đến đời khác sẽ gần nhau như hình với bóng. Các đức Như Lai trong khắp mười phương thương xót, nghĩ nhớ chúng sanh như mẹ nhớ con. Nếu con bỏ đi, mẹ tuy có nhớ cũng không làm gì được. Nếu con nhớ mẹ như khi mẹ nhớ con thì mẹ con cả đời chẳng hề xa nhau. Nếu tâm chúng sanh luôn luôn nhớ Phật, niệm Phật thì hiện tiền, đương lai quyết định thấy Phật, cách Phật không xa, không cần phương tiện tự được tâm khai như người dùng hương thơm xoa thân, thân có mùi thơm, đó gọi là “Hương quang trang nghiêm”. Bổn nhân địa của con là dùng tâm niệm Phật nhập Vô sanh nhẫn. Nay con ở cõi này nhiếp người niệm Phật hướng về Tịnh Độ. Phật hỏi viên thông, con không lựa chọn, thu nhiếp sáu căn tịnh niệm nối luôn đắc Tam-ma-địa, đây là bậc nhất”.
MÔN THỨ XVI
LIỄU ĐẠT TÂM VÀ CẢNH THÌ VỌNG TƯỞNG KHÔNG SANH

Hỏi: Không liễu đạt tâm và duyên liền khởi hai thứ vọng tưởng, hiện nay còn Phật sở niệm và tâm năng niệm, há không phải là hai thứ vọng tưởng sao?
Đáp: Kinh Lăng-già nói: “Liễu đạt tâm cùng cảnh giới, thì vọng tưởng liền không sanh”. Không sanh tâm chính là xa lìa tướng năng sở. Tôi nay niệm các tướng như thiên bức luân hoặc chữ , mắt biếc, bạch hào v.v… đều là tự tâm của tôi, không thấy Phật có thể tìm được, duyên đã không có thì tâm há lại có sao! Như vậy, cái niệm năng tưởng và Phật sở tưởng đều tự xa lìa, đâu được nói là trụ nơi hai vọng tưởng. Theo chỗ giác ngộ của các bậc hiền thánh thuở xưa nối tiếp truyền trao cho nhau là “vọng tưởng vô tánh”, phải ngay nơi đó tỏ ngộ.
Lại, như quán thật tướng Phật, quán thân cũng vậy, gặp cảnh nào cũng vậy, gặp cảnh nào cũng đều chân, không tâm nào chẳng phải Phật, lý trung đạo trùm khắp, há còn đức Phật sở duyên ư? Thêm lời giải thích như sau: Như có người mũi dính một vết mực, lấy kính soi, không ưa vết mực nhưng chỉ một bề lo lau kính, như thế có được chăng? Đối với cảnh đẹp xấu, phải trái trước mắt nếu chẳng liễu đạt tự tâm, chỉ dẹp cảnh có thể được không? Chi bằng chúng ta rửa sạch sự phân biệt như lau vết mực trên mũi thì gương soi được tròn sáng, muôn cảnh toàn chân và ngay khi đó nắm đá thành vàng, chúng sanh tức là Phật. Do đó, Tục Cao Tăng Truyện có ghi: Nước Tề, có Hướng cư sĩ viết một bức thư cho thiền sư Huệ Khả, nội dung như sau:
“Bóng do hình hiện, âm vang theo tiếng. Bắt bóng nhọc hình, không biết hình là gốc của bóng. Phát ra tiếng mà muốn ngừng âm vang, không biết tiếng là gốc của âm vang. Người trừ phiền não để cầu Niết-bàn giống như kẻ tránh hình tìm bóng, còn người lìa chúng sanh mà cầu tánh Phật khác nào kẻ bặt tiếng mà tìm vang. Cho nên biết: Mê ngộ chỉ một đường, trí ngu không khác, không có danh mà đặt danh, do cái danh mà thị phi sanh, không có lý mà lập lý, do cái lý mà tranh luận khởi. Huyễn hóa chẳng phải chân thì cái gì đúng, cái gì sai? Hư vọng không thật thì cái gì không, cái gì có? Thế mới biết đắc cái vô sở đắc, thất cái vô sở thất. lời mạn đàm này xin trình lên Ngài, mong giải đáp cho!”
Thiền sư Huệ Khả tạm mượn bút mực đáp lời cư sĩ:
Bảo rằng chân pháp đều như thật
Khế hợp lẽ chân, lý không khác
Vốn mê ma-ni cho sỏi đá
Hoát nhiên tự ngộ biết chân châu
Vô minh, trí huệ đồng không khác
Cho nên phải biết vạn pháp Như
Mục đích nhằm phá bọn nhị kiến
Mượn lời thay ý viết thư này
Quán thân và Phật không sai khác
Cần gì phải kiếm ở đâu xa!
Hai vị thượng sĩ kể trên đều theo Xứng pháp hạnh của Đại sư Đạt-ma, lý quán dụng tâm đều là niệm pháp thân Phật trung đạo đệ nhất nghĩa đế. Như thế, quyết định không lìa niệm để gìn vô niệm, lìa sanh để lập vô sanh. Nếu lìa niệm cùng sanh mà lập vô niệm, vô sanh tức là chưa rõ lý “Phiền não tức Niết-bàn, chúng sanh tức chư Phật”, làm sao có thể ngộ được sỏi đá như chân châu. Đã lìa chẳng thể được thì chính niệm Phật mà thật là vô niệm, chính vãng sanh mà thật là vô sanh. Nghĩa này sáng tỏ như đêm thu trong lặng ánh trăng ra khỏi lùm mây, đâu giống như kẻ ngu si thấy ngón tay mà không thấy mặt trăng.
MÔN THỨ XVII
TRONG TÂM HÀNH CẦU SỰ GIẢI THOÁT CỦA CHƯ PHẬT

Hỏi: Niệm Phật gọi là chân vô niệm, vãng sanh được gọi là chân vô sanh. Tôi đã tin rồi. Kinh Duy-ma nói: “Làm thế nào để cầu sự giải thoát của chư Phật? Phải ở trong tất cả tâm hành của chúng sanh mà cầu”. Đã nói ở trong tất cả tâm hành mà cầu, sao không cầu ngay tự tâm mà lại cầu Phật bên ngoài?
Đáp: Ông nói pháp Niệm Phật Tam-muội vô thượng diệu thiền chẳng phải là cầu ở trong tâm hành. Điều đó chẳng đúng. Tôi sẽ nói rõ cho ông nghe. Tâm hành là hành nơi ba cảnh: Thứ nhất là hành nơi cảnh thiện, chính pháp Niệm Phật Tam-muội là pháp thiện trong cái thiện, như trời trong các vị trời; thứ hai là hành cảnh bất thiện là những cảnh giới xấu ác như tham, sân, si v.v… thứ ba là hành cảnh vô ký nghĩa là tâm không trụ, không duyên thiện ác. Nếu luận về lý tánh thì lý bao hàm cả ba, còn nói về thuận lý thì chỉ để lại cảnh thiện. Kinh nói: “Chấp ngã là cấu, không chấp ngã là tịnh” có nghĩa là không rõ pháp tánh thể không xan tham, trái pháp tánh mà không hành thí. Dẫu có bố thí mà trụ bố thí, chẳng thể buông xả được ý niệm bố thí, chẳng phải cấu thì là gì! Nếu có thể liễu tri tùy thuận pháp tánh thực hành Đàn ba-la-mật (Bố thí ba-la-mật) không thấy có tướng lẫn tiếc và bố thí, khéo tùy thuận lý, không phải tịnh thì là gì! Bất thiện, vô ký trái với pháp tánh không dính dáng gì đến thiện. Do đó Thắng Thiên Vương hỏi Phật:
- Thế nào là Bồ-tát thông đạt thiền ba-la-mật?
Phật đáp:
- Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật, hành Thiền ba-la-mật nên quán tâm này hành trong những cảnh nào hoặc thiện hoặc bất thiện hay vô ký. Nếu hành cảnh thiện thì nên siêng năng tu tập ví như hoa sen không dính nước, đến một pháp bất thiện cũng không cho dính.
Căn cứ lời Phật dạy như thế há có cái bất thiện và vô ký mà chẳng chịu từ bỏ sao! Vậy thì thiện tâm thuận lý hành trong thiện cảnh hăng hái niệm Phật giải thoát ở trong tâm hành. Nếu cho rằng tâm hành niệm Phật không phải là giải thoát thì hai tâm hành bất thiện và vô ký há có được sự giải thoát ư? Nếu mê nơi sự giải thoát này thì bị chìm đắm cho đến cùng kiếp, còn trực ngộ thì ngay đó liền chứng mau như trở bàn tay. Trông lại các gương của những bậc thiền đức cũng đều như thế. Như Lai là bậc Thế Hùng, trong pháp thiền định của ngài, vẫn lấy pháp niệm Phật tam-muội làm tối thượng, các tam-muội khác còn có đối đãi thuộc những món định của phàm phu. Vậy Bảo vương tam-muội không trụ nơi tướng cao, tướng thấp, tướng tà, tướng chánh, tướng sanh tử, tướng Niết-bàn, tướng phiền não, tướng Bồ-đề, tướng tịnh, tướng loạn, tướng thành chánh giác, tướng độ chúng sanh, tướng tọa đạo tràng, tướng vô sở đắc, đối với các tướng này đều không trụ cũng như từ mộng tỉnh thức không có đến đi, cho nên Đại Phẩm nói: “Không đến, không đi là Phật” và như thế phù hợp với lý trung đạo rồi, đâu còn trụ nơi biên tế nào. Như bài kệ trong kinh Chư Pháp Vô Hành nói:
Ví như người ở trong mộng
Đắc Phật đạo, độ chúng sanh
Đây không đạo, không chúng sanh
Pháp tánh Phật cũng như thế.
Ngồi đạo tràng vô sở đắc
Nếu chẳng đắc ắt chẳng có
Minh, vô minh đồng nhất tướng
Biết như thế là Thế Tôn.
Tánh chúng sanh tức Bồ-đề
Tánh Bồ-đề tức chúng sanh
Chúng Bồ-tát cũng không hai
Biết như thế là Thế Tôn.
MÔN THỨ XVIII
BA NGHIỆP CÚNG DƯỜNG CHÂN THẬT BIỂU KÍNH

Hỏi: Tôi đã được nghe ý nghĩa huyền diệu của quán môn tam-muội, còn về việc ba nghiệp cúng dường sau khi Phật diệt độ rồi, được phước có nhiều hay chăng?
Đáp: Luận về cúng dường pháp giới hải thì ở trong muôn hạnh, thanh tịnh được ba nghiệp, đó gọi là cúng dường, huống chi tư duy chân cảnh mà chẳng phải cúng dường sao? Kinh Lý Thú Bát-nhã nói: “Tất cả pháp hoặc thường hoặc vô thường đều không thể được”. Lý rộng cúng dường các đức Như Lai chẳng rõ ràng ư!
Lúc Như Lai còn tại thế, dâng cúng để bày tỏ lòng thành kính đều nói biển hương, mây hoa xông rải khắp các cõi nước nhiều như vi trần, như vậy vẫn còn cho là ít. Đại sĩ nhập quán, tưởng Tu-di là ngọn đèn, biển cả là chén dầu cũng chưa thỏa lòng ân cần kính trọng. Cho nên ngài Hỷ Kiến Bồ-tát đốt cánh tay sắc vàng cúng dường tháp Phật Tịnh Minh, toàn thân rực lửa chiếu sáng mười phương. Còn người đời nay chỉ đề cao tự tâm chỉ đó là bông hoa, trái với nghi thức cúng dâng, thật là kiêu mạn biết bao!
Ông hỏi tôi: Phật diệt độ rồi, cúng dường có phước được nhiều chăng? Tôi cũng thử bàn luận xem! Như chuyện Đinh Lan tạc tượng cha mẹ bằng gỗ thờ ở nhà, cung phụng như lúc còn sống, danh thơm vẫn còn lưu lại sử xanh cho đến ngày nay ai cũng xưng tụng là người con hiếu. Nếu Như Lai còn tại thế, thân như hòn núi vàng sáng rực, nghiêm tướng rỡ ràng, ai trông thấy mà chẳng phát đạo tâm và có ý thành khẩn hiến cúng, thật dễ dàng. Bây giờ, bậc Thế Hùng đã ẩn mất, trăng đà khuất núi điệp trùng, chúng ta không được cung phụng chân nghi mà chỉ nhờ kinh điển, đối trước hình tượng phát ý vô thượng cúng dâng một cành hoa. Chí ấy, tâm ấy thật quý hoá thay! Như thế không phải là khó hơn sao?
Kinh Niết-bàn nói: “Cho đến dâng cúng một cánh hoa ắt được sanh về cõi Bất Động”. Do đó, một nén hương, một cành hoa, một ngọn đèn, cho đến một tiếng nhạc hoặc đồ ăn thức uống, tận tâm hoan hỉ cúng dường chư Phật ba đời đều là diệu nhân của Tịnh Độ, là cội nguồn của sự thành Thánh, đâu thể khinh thường những việc nhỏ nhặt đó mà chẳng vâng làm ư! Nếu bỏ những hạnh này mà nghe theo những lời không căn cứ như: Dâng tâm hoa, thắp tâm đăng, đốt tâm hương, lễ tâm Phật mà muốn cầu Chánh Giác, chẳng khác nào chạy theo cái khéo léo của khỉ vượn mà trông mong giữ cả rừng mai. Đến khi bảo họ hãy mặc cái áo tâm, ăn cơm tâm thì họ khốn khổ cự lại không thôi. Cho đến lục độ, vạn hạnh chẳng phải là để bày trừ cái tâm không-kiến đó sao! Lời nói theo kiểu “chỉ tâm vọng không”([21]) có sự lỗi lầm như thế, không thể nào không thận trọng được.
Song môn Chân Ngôn Du-già quán hạnh cũng dụng biểu tướng của sự môn, chứ không phải một bề chấp tâm, nên luôn luôn sáu thời cúng dường hương hoa không hề phế bỏ.
MÔN XIX
VÔ TƯỚNG HIẾN HOA, TIN VÀ HỦY BÁNG ĐỀU CÓ QUẢ BÁO

Hỏi: Hoa là sự, còn lý ở đâu? Tin và hủy báng có quả báo thế nào?
Đáp: Hoa tức là lý, sắc tức là không vậy. Quả báo của sự tin tưởng được nói trong kinh Bi Hoa: “Ngày xưa có vị vương tử tên là Vô Sở Úy tay cầm hoa sen dâng cúng Phật Bảo Tạng. Phật nói: “Ngươi đem hoa sen nầy ấn trên hư không, nay ta ban cho ngươi hiệu là Hư Không Ấn, đương lai thành Phật, thế giới tên là Liên Hoa, Phật hiệu là Liên Hoa Tôn, chính là ngươi vậy”. Quốc độ và Phật nầy đều do ngày xưa hiến hoa sen mà có danh hiệu, đó là để cho biết cái nghĩa “từ nhân cảm được quả”, đâu phải vì tuân theo ý chỉ vô tướng mà làm trở ngại cho sự cúng dường hương hoa!
Còn nói về quả báo của sự hủy báng, kinh Đại Phương Đẳng Tổng Trì có nói: “Xưa, có một vị tỳ-kheo tên Tịnh Mạng an trụ chánh kiến đem hoa cúng dường. Lại có một tỳ-kheo khác tên Pháp Hạnh có tà kiến, do đắc Tứ thiền nên thường nói không tông Bát-nhã là tối thắng, chê Pháp sư Tịnh Mạng rằng: “Tịnh Mạng nhận được hoa, chẳng đem cúng dường, mà tự thọ dụng”. Do lời nói nầy, bị quả báo sáu muôn đời không có lưỡi, cho đến khi thành Phật cũng vẫn ở trong ngũ trược. Tỳ-kheo đó là ai? Chính là Phật Thích-ca vậy.
Phật dạy: “Người không chịu học hiểu đạo lý, ở trong pháp ta, vọng chấp nhị biên, sau khi chết bị đọa địa ngục đến trăm ngàn kiếp. Nếu nhìn người phát tâm Bồ-đề bằng mắt độc ác sẽ bị quả báo đui mù, nếu nói lời ác hủy báng người phát tâm Bồ-đề sẽ bị quả báo không lưỡi. Nếu chỉ tu Bát-nhã ba-la-mật mà chứng đắc Bồ-đề, ngày xưa Ca-thi-ca Vương lúc thực hành hạnh Bồ-tát xả thân mạng đáng ưa thích như đầu, mắt, tủy, não, Vua ấy há chẳng phải là bậc trí tuệ hay sao? Do đó biết cần phải tu hành đầy đủ sáu pháp ba-la-mật, chỉ chấp trước vào một môn cũng đủ là nghiệp ma, đâu nên bỏ sự cúng dường hiến hoa mà đem cái “ác thủ không” xâm hại đến Bát-nhã chân vô tướng.
Nếu không có quả báo không lưỡi, làm sao tự biết được lỗi lầm mà chừa. Như Lai sở dĩ tự dẫn chứng lỗi lầm trước kia của mình là vì muốn chúng sanh không giẫm phải vết xe trước. Một cành hoa còn như thế, thì đối với tất cả hình tượng bằng đất, bằng gỗ, kinh sách bằng giấy, bằng lụa hay quý vị tăng ni tu hành trụ trì tam bảo, các môn học giới định huệ, bất luận là phước điền hay chẳng phải phước điền cũng đều đáng tôn kính. Tất cả đều nhập vào trong pháp giới hải ba nghiệp cúng dường chân thật, có gì không được mà muốn bỏ qua. Bài kệ Pháp Hoa như sau:
Nếu người nơi tháp miếu
Bảo tượng và tượng vẽ
Dùng hoa, hương, phan, lọng
Cung kính mà cúng dường
Dù một âm thanh nhỏ
Đều đã thành Phật đạo.
MÔN THỨ XX
VẠN THIỆN ĐỒNG QUY ĐỀU THÀNH TAM-MUỘI

Hỏi: Phàm cứ thắp đèn sáng mãi sẽ được sinh vào cung Nhật Nguyệt, hương hoa, tàng lọng cũng không khác với đèn nến, cũng đều được phước báo sanh cõi Trời, nhưng kinh Phật lại cho rằng: “Đã thành Phật đạo”, sự thù đáp quả báo như thế quá sâu xa chăng?
Đáp: Như Đế vương ra ngoài du lãm, muôn xe ngàn quan quân lính đều đến để hộ vệ, kẻ nào phạm vào lệnh vua thì chết ngay. Đến khi vua quày xe về hoàng cung, quân lính giải tán, ai nấy về doanh trại, nếu tự xưng là kẻ cận vệ cũng chết tức khắc. Quân lính ấy vẫn là một nhưng sống chết có khác, bởi vì duyên khởi khác biệt nên có sự quý chuộng và khinh nhục. Nếu chúng ta chỉ một bề dùng hương hoa, tàn lọng, đèn nến mà không gặp được ý nghĩa cứu cánh như vương mệnh của kinh Pháp Hoa thì quả thật chịu quả báo ở thiên cung. Ngày nay đã gặp được tam-muội bảo vương hỗ trợ thì cho đến dâng một cành hoa cũng đều đã thành Phật đạo. Duyên khởi của Phật chủng cũng phát xuất từ đó, lý giáo cũng thế, cũng như chim ở trong núi Tu-di đều cùng một màu với núi, muôn sông đổ ra biển rộng không có tên khác. Vì thế, trong kinh Đại Bảo Tích, hội Văn-thù Phổ Môn, hội tất cả thiên long, bát bộ, địa ngục, súc sanh, sắc, thanh, hương v.v… tất cả muôn pháp đều là tam-muội, cũng như một mảy lông hàm dung biển lớn, một hạt cải chứa cả Tu-di. Mảy lông và hạt cải thần diệu đến thế sao? Bởi vì thần diệu là thần diệu cái đó([22]) mà thôi. Cho nên biết giải cũng như mắt, hạnh cũng như chân, giải chánh tức là hạnh chánh, giải tà tức là hạnh tà, ma Phật cạn sâu đều căn cứ vào giải. Do đó kinh Niết-bàn nói: “Đối với giới mà hoãn, không gọi là hoãn, đối với thừa mà hoãn mới gọi là hoãn. Thừa là tên khác của huệ giải. Một hạnh đã thế, muôn hạnh cũng thế.
Pháp Hoa Tam-muội tức là niệm Phật tam-muội. Tam-muội này được Như Lai gọi là thắng định, là Bảo Vương tam-muội, là quang minh tạng, là hạt châu trừ tội, là ngọn đèn phá tà kiến, là kẻ hướng dẫn ra khỏi đường mê, là ấn vàng của vua, là kho báu của kẻ nghèo, là không tam-muội, Thánh tam-muội, Đà-la-ni, chân tư duy, tối thắng quán, như ý châu, Phật tánh, Pháp tánh, Tăng tánh, Vô tận tạng, là phương tiện thù thắng, là đại huệ quang minh, là Tiêu ác quán pháp tam-muội v.v…Vì thế, nên biết tất cả giáo lý hạnh quả, tám muôn bốn ngàn môn ba-la-mật đều là tên khác của niệm Phật tam-muội. Và như vậy, dâng cúng một cành hoa cũng là phụng cúng khắp tất cả cõi nước nhiều như số cát bụi trong ba thời gian. Niệm một đức Phật, thể thông tất cả các bậc Thế Hùng vị lai, như trên đất rộng bắn tên, thế nào mà không trúng được! Nếu không như thế, thật đáng chê trách, như trong kinh Tư Ích nói: Sợ không, xả không, hành không, tìm không.
Khách nói: Thầy thuốc đi để lại thuốc, khách buôn đi gởi lại vàng. Đạo lý mà các bậc tiền hiền gìn giữ duy trì nếu chẳng phải là người xứng đáng thì không thể đảm đang được. Đệ tử đạo lý chưa thông được hé nhìn cửa tam-muội, mong mõi vô sanh, hy vọng lẽ nhất thật được xương minh như sắc chỉ của nhà vua, và pháp được xem là bảo ấn. Động tịch song chiếu, lý sự viên dung, khởi tâm đều chân, gặp duyên đều làm tăng trưởng đạo. Xưng một tiếng “Nam-mô” đều thành Phật đạo, rải hoa, khảy móng tay, đều thẳng đến Bồ-đề. Cho nên kinh Pháp Hoa tự tôn là vua trong các kinh, là cây kim vàng lể màng che mờ mắt. Hai mươi môn huyền nghĩa chưa từng được nghe này đã làm tiêu tan cái tội khinh chúng sanh, được dạo chơi trên cõi đất trân bảo trang nghiêm. Thật hân hạnh thay!
Tôi xin nguyện chẳng đổi thân này, được diệu ký đề hồ, ngộ chư Phật đương ở ngay nơi chúng sanh. Sau đó, tôi xin cúi đầu đảnh lễ tháp Đa Bảo, xin đối diện trước Liên Hoa tăng cùng với tôi phổ quán mười phương chư Thế Tôn, viên niệm tam thế Phật, quỳ dài chắp tay đọc bài tụng:
Nhất tâm ức niệm Phật quá khứ
Ức niệm Thế Tôn đời vị lai
Các bậc Thế Hùng trong hiện tại
Cũng học đúng như lời thuyết pháp.
Chẳng có Phật nào thuộc quá khứ
Cũng không hiện tại và vị lai
Chỉ môn thanh tịnh vi diệu thiền
Không thể nói được, chứng năng thuyết.


Chú thích:
[20]“Tâm vô sở niệm” thuộc lý quán, “mà tu niệm Phật” thuộc sự tu. Đem câu“Tâm vô sở niệm mà tu niệm Phật” phối với câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” của kinh Kim Cang, câu “Tòng vô trụ bổn lập nhất thiết pháp” của kinh Duy-ma-cật, câu “Sắc tức thị không, không tức thị sắc” của Tâm kinh.
[21] Chỉ tâm vọng không: Chỉ tâm tánh mà bỏ sự tướng, nói lý không mà bác hình thức.
[22] Thần diệu cái đó: Thần diệu của bản tánh chân như của các pháp (chân pháp thật tướng)

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 3 quyển »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Bức Thành Biên Giới


Quy nguyên trực chỉ


Kinh Kim Cang


Tư tưởng Tịnh Độ Tông

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.





Quý vị đang truy cập từ IP 18.221.222.47 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập